Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tài liệu Chương mười bốn: Châu Âu chư hầu nổi dậy chống Na-pô-lê-ông pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.84 KB, 13 trang )

Chơng mời bốn Châu Âu ch hầu nổi dậy chống Na-pô-lê-ông "Trận các quốc gia" "Đại đế quốc" bắt
đầu suy vong 1813
I
Thoạt tiên đi bằng xe trợt tuyết, rồi xe ngựa, Na-pô-lê-ông đã vợt qua Ba Lan, Đức và Pháp trong 12 ngày,
và sáng 18 tháng 12 năm 1812 thì về đến điện Tuy-lơ-ri. Biết đợc những sự nguy hiểm có thể xảy tới trong
những ngày khốn đốn này, Na-pô-lê-ông đi rất bí mật: ông không ngộ nhận những tình cảm chân thật của
ngời Đức đối với mình. Cô-lanh-cua, ngời đi theo Na-pô-lê-ông, có kể lại sự tuyệt đối bình tĩnh, lòng can
đảm, nghị lực và ý chí tiếp tục chiến đấu của Na-pô-lê-ông. Khi bàn về cuộc chiến tranh vừa kết thúc, ông
hoàng đế đã nói với Cô-lanh-cua rằng nếu nh ông ta đã phạm sai lầm thì không phải sai lầm về mục đích,
cũng nh về thời cơ chính trị của cuộc chiến tranh, mà sai lầm về phơng pháp chỉ đạo chiến tranh. Na-pô-lê-
ông cho rằng nếu cứ ở lại Vi-tép thì bây giờ A-lếch-xan đã phải quy hàng dới gối. Tóm lại, trong khi trao
đổi, Na-pô-lê-ông đã nói bằng giọng của một nhà quán quân chỉ trích những thiếu sót của mình sau một ván
cờ bị thua, trớc khi mở đầu một ván khác mà ông ta quyết thắng: không mảy may ghê sợ dĩ vãng, không hề
nghĩ đến sự giảm sút uy tín khuynh đảo cả thiên hạ của bản thân, cũng không hề có dấu hiệu suy sụp tinh
thần nh ngời ta đã luôn luôn thấy rất rõ ở Na-pô-lê-ông vào những 1810 - 1811, thời kỳ Na-pô-lê-ông đang
có đầy dẫy uy quyền và danh vọng. Về mặt ấy thì chiến tranh là thế giới, là sự sống của Na-pô-lê-ông, chả
thế mà khi chuẩn bị hoặc khi tiến hành chiến tranh, lúc nào Na-pô-lê-ông cũng làm cho ngời ngoài cảm
thấy ông là một ngời tràn trề sức sống, thở đầy lồng ngực, và, kể từ khi lên xe ngồi với Cô-lanh-cua,vấn đề
duy nhất mà Na-pô-lê-ông quan tâm lo lắng là cuộc chiến tranh là sự chuẩn bị về mặt ngoại giao và quân sự
cho cuộc chiến tranh đó. Có phải rằng rồi đây sẽ chỉ chiến đấu với riêng ngời Nga nh vừa qua không? Châu
Âu có nổi dậy không và nớc nào sẽ giơng ngọn cờ khởi nghĩa trớc tiên; liệu có thể (và bằng cách nào) ngừa
trớc đợc cuộc nổi dậy đó không? Phải mất bao nhiêu tháng mới tổ chức đợc một đạo quân mới?
Dọc đờng, Na-pô-lê-ông dừng lại ở Vác-sa-va và cho gọi giáo sĩ Prát, đại sứ Pháp ở triều đình vua xứ Xắc-
xơ; chính Prát cũng phải sững sờ kinh ngạc trớc sự bình tĩnh của Na-pô-lê-ông. Chính trong cuộc gặp gỡ
này, Na-pô-lê-ông đã nói những lời nổi tiếng sau đây: "Từ chỗ tuyệt vời đến chỗ lố bịch, chỉ có một bớc mà
thôi", và hậu thế sẽ phê phán điều đó. Nhng Na-pô-lê-ông đã nói thêm rằng, chẳng bao lâu nữa ông sẽ quay
lại sông Vi-xtuyn với một đạo quân 30 vạn ngời và quân Nga sẽ phải trả thắng lợi của họ bằng một giá đắt,
những thắng lợi không phải thuộc về bản thân họ, mà thuộc về thiên nhiên. Ai chẳng có lúc nếm mùi thất
bại! Đơng nhiên là cha có ai đã phải chịu đựng những thất bại tơng tự. Na-pô-lê-ông thú nhận nh vậy, song
bao giờ thất bại cũng tơng xứng với cảnh ngộ, hơn nữa, rồi đây những thất bại ấy sẽ đợc đền bù.
Nh trên đã nói, Na-pô-lê-ông về đến Pa-ri ngày 18 tháng 12, và ông nhận ngay ra là tinh thần dân chúng sụt


xuống rất nhiều. Hai ngày trớc khi Na-pô-lê-ông về đến thủ đô, những tin chẳng lành, đồn đại từ lâu, đã đ-
ợc xác nhận bằng bản tin quan trọng số 29 trong đó hoàng đế đã nói một cách khá chân thật về chiến dịch
nớc Nga và sự kết thúc của nó. Tang tóc gieo xuống hàng chục vạn gia đình đã làm cho không khí cả nớc
Pháp trở nên đặc biệt nặng nề.
Những ngày tiếp theo, Na-pô-lê-ông tiếp kiến các bộ trởng, các uỷ viên Hội đồng chính phủ và Thợng nghị
viện. Bằng những lời lẽ nghiêm khắc và khinh bỉ, Na-pô-lê-ông phê phán các nhà cầm quyền thiếu nhanh
trí trong vụ tớng Ma-lê và yêu cầu họ phải báo cáo về các xử trí của họ, nhng ông ta chỉ nói phớt qua về
chiến dịch nớc Nga và cũng chẳng thèm trình bày chi tiết về vấn đề đó.
Các quan đại thần và các đình thần tiếp đón Na-pô-lê-ông bằng thái độ nịnh hót, khúm núm quen thuộc của
bọn họ. Với lòng sốt sắng vô hạn, chủ tịch Thợng nghị viện La-xê-pét đề nghị cho phép ông ta đợc chính
thức tiến hành tổ chức lễ đăng quang cho ngời thừa kế hoàng đế lúc đó mới một tuổi rỡi, để "tợng trng cho
sự kế tục của triều đại"; cả Thợng nghị viện khom lng cúi xuống dới chân ông hoàng đế đang ngồi trên
ngai. Trong bài diễn văn đọc trớc Thợng nghị viện, quan sát cái cách nhắc đến chiến dịch nớc Nga của Na-
pô-lê-ông, ngời ta thấy rõ ràng là ông ta lại nuôi các ảo mộng mà dờng nh ông ta đã hoàn toàn từ bỏ khi ra
lệnh cho thống chế Moóc-chi-ê phá hoại điện Crem-lin: ông ta cho rằng bây giờ cũng vẫn còn có khả năng
ký hòa ớc với A-lếch-xan bằng cách tuyên bố hai bên phân thắng bại.
"Cuộc chiến tranh mà tôi theo đuổi là một cuộc chiến tranh chính trị. Tôi đã tiến hành cuộc chiến tranh đó
với lòng căm thù, và tôi đã cố tránh cho nớc Nga những tai họa do chính nớc Nga tự gây ra. Lẽ ra tôi đã có
thể vũ trang cho một bộ phận nhân dân Nga chống lại nớc Nga bằng cách tuyên cáo cho nông dân đợc tự
do... Một số lớn làng mạc, thôn xóm đã yêu cầu tôi làm việc đó, nhng tôi phải từ chối cái biện pháp đa hàng
nghìn gia đình đến chỗ chết ấy...". Không đếm xỉa đến các nguyên lão nghị viện, thật ra Na-pô-lê-ông đã
nói với các lãnh chúa Nga và với hoàng đế của họ, với kẻ "đứng hàng đầu" trong bọn họ (sau này em hoàng
đế A-lếch-xan đệ nhất là Ni-cô-la Páp-lô-vích định nghĩa các Sa hoàng Nga nh vậy). Lúc này Na-pô-lê-ông
đòi Nga hoàng và các lãnh chúa phải biết ơn ông ta về việc đã tha cho bọn họ một cuộc nổi loạn của nông
dân chống quý tộc theo kiểu Pu-gát-sép, tuồng nh chẳng bao giờ Na-pô-lê-ông có ý định dùng đến thủ đoạn
ấy cả. Tất cả những sự quỵ luỵ ấy của bọn đại thần trong đế chế và của những ngời cầm quyền, cả tấn hài
kịch dối trá hèn hạ đó, mà từ trên ngai vàng ông hoàng đế đã đáp lại cũng bằng một sự dối trá ngạo mạn và
nóng nảy, chỉ là một thủ đoạn do tình thế bức bách và nhằm đánh lạc hớng chú ý của nớc Pháp và của châu
Âu. Hai mục tiêu quan trọng bậc nhất của Na-pô-lê-ông là trớc hết phải tổ chức đợc một đạo quân, sau nữa
là phải đảm bảo đợc một sự viện trợ, bằng không thì cũng phải tranh thủ đợc sự trung lập của nớc áo và hết

sức cố gắng để có thể của cả nớc Phổ nữa.
Mục tiêu thứ nhất đã đạt đợc dễ dàng, mau lẹ. Khi còn ở trên đất nớc Nga, Na-pô-lê-ông đã hạ lệnh cho gọi
trớc kỳ hạn lớp quân dịch năm 1813, và vào mùa xuân cùng năm đó việc huấn luyện tân binh căn bản cũng
đã hoàn thành. Ngời ta phải vất vả lắm mới gọi đợc 14 vạn tân binh. Ngay từ năm 1812, Na-pô-lê-ông đã
chỉ thị cho thành lập "những đoàn quân vệ quốc" để khi cần đến ông ta sẽ sáp nhập tất cả vào quân đội, coi
nh là làm theo nguyện vọng của họ, tuy rằng nhiệm vụ của đoàn vệ quốc đã đợc xác định rõ là giữ gìn an
ninh trong nội địa của đế chế. Việc ấy cũng đã đem lại cho Na-pô-lê-ông thêm 10 vạn ngời. Tháng 6 năm
1812, Na-pô-lê-ông để lại ở nớc Pháp và nớc Đức ch hầu 23 vạn 5 nghìn ngời, đó là lực lợng mà hiện Na-
pô-lê-ông có thể tin cậy đợc. Cuối cùng, còn lại vài nghìn ngời (sau này tính đúng thì vào khoảng 3 vạn ng-
ời) sống sót trong chiến dịch nớc Nga; thật ra, những quân đoàn đợc Na-pô-lê-ông tách ra cho về cánh bắc
(hớng Ri-ga và Pê-téc-bua) và cánh nam (Grốt-nô) bị thơng vong ít hơn rất nhiều so với những quân đoàn
đã chiến đấu ở Bô-rô-đi-nô, nhng sau này, trong hai tháng rút lui Mát-xcơ-va về sông Ni-ê-men, chúng đã
bị tan rã.
Nh vậy, ông hoàng đế đã có đủ lý do để hy vọng rằng vào mùa xuân năm 1813 sẽ có một đội quân từ 40
đến 45 vạn ngời, chứ không phải 30 vạn. Trong khi thừa nhận rằng con tính ấy có thể là quá lạc quan, Na-
pô-lê-ông cũng vẫn không hoài nghi gì về khả năng tập hợp một quân đội cực mạnh; trong một thời gian rất
ngắn cần phải tích cực xúc tiến việc cung cấp, tu bổ, bổ sung quân dụng, quân nhu, những xởng công binh,
pháo binh, nói tóm lại, tất cả các loại vật chất khí tài. Na-pô-lê-ông đã làm việc suốt ngày để tổ chức trang
bị và huấn luyện bộ đội.
Mùa xuân năm 1813, sau khi A-lếch-xan làm thinh trớc những ý kiến ngắn gọn mong muốn hòa bình của
Na-pô-lê-ông bộc lộ trong bài diễn văn đọc trớc Thợng nghị viện, hệt nh vào mùa thu năm 1812 đối với
những bức th chuyển qua tay Tu-ton-min, I-a-cốp-lép và Lô-rít-tông, thì giờ đây, Na-pô-lê-ông đã hoàn
toàn tin chắc rằng ông ta sẽ phải gặp quân Nga ở sông Vi-xtuyn và sẽ đánh cho nó tan tành. Na-pô-lê-ông
biết rõ rằng mùa đông năm 1812 đã làm cho Cu-tu-dốp thua thiệt nặng nề, mặc dù ông ta còn cha biết rằng
trong hai tháng trời truy kích từ Ta-ru-tơ-nô đến Ni-ê-men, Cu-tu-dốp đã mất hai phần ba số quân có lúc
đầu là 10 vạn, và hơn hai phần ba số pháo. Với tình hình đờng sá tồi tàn quá đỗi và bằng vào các phơng
pháp đợc dùng dới chế độ nông nô, Na-pô-lê-ông cho rằng Cu-tu-dốp không thể nhanh chóng lấp lỗ hổng
số quân có khả năng chiến đấu đã bị hao hụt và tổ chức lại pháo binh. Không nhắc lại những sai lầm của
cuộc xâm lợc, Na-pô-lê-ông yên lặng chờ đợi quân Nga trên sông Vi-xtuyn và Ni-ê-men để đánh bại ở đó.
Song một vấn đề đáng sợ khác đã tự đặt ra: quân Nga có đơn độc hay không? Từ tháng 12 năm 1812, tớng

Phổ Y-oóc, dới quyền chỉ huy của thống chế Mắc-đô-nan (nớc Phổ lúc này vẫn là "đồng minh" của Na-pô-
lê-ông) chẳng đã bỗng nhiên chạy sang hàng ngũ quân Nga rồi đó sao. Đúng là Phri-đrích Vin-hem quá
khiếp nhợc đã vội vàng không thừa nhận Y-oóc, nhng Na-pô-lê-ông cũng biết rằng nếu vua Phổ không
đứng về phía ngời Nga thì có thể sẽ bị ngời Nga lật đổ, vả chăng chỉ nội những lý do chủ quan của mình,
Phri-đrích Vin-hem cũng đã lâm vào nguy cơ bị ngời Nga lật đổ. Na-pô-lê-ông cũng biết rằng sẽ rất ngu
xuẩn nếu không tính đến việc nớc Phổ bị ông áp bức lại không tìm cách thoát khỏi sự đô hộ của ông ta, một
khi quân đội Nga tiến vào nớc Phổ.
Cu-tu-dốp phản đối việc kéo dài chiến tranh, không phải chỉ vì ông thấy không có lý gì để máu của ngời
Nga tiếp tục chảy để giải phóng nớc Phổ và các quốc gia Đức, mà còn vì một lý do đơn giản và hiển nhiên
nữa là Cu-tu-dốp đã nhìn thấy trớc những khó khăn ghê gớm do cuộc chiến tranh với Na-pô-lê-ông đẻ ra,
khi mà quân đội Nga yếu hơn về số quân và đã kiệt sức. Nhng A-lếch-xan khăng khăng không hòa giải.
Ông ta xuất phát từ nhận định rằng nếu để Na-pô-lê-ông đợc ngơi một thời gian thì cũng nh để toàn thể
châu Âu nằm dới quyền thống trị của Na-pô-lê-ông nh trớc đây và sẽ làm cho sự uy hiếp sông Ni-ê-men trở
thành thờng xuyên và không thể nào tránh đợc. Nhng nếu quân đội Nga, một khi đã ở lãnh thổ Phổ, đợc
tăng viện thêm thì rõ ràng là vua Phổ sẽ bị buộc phải xuất quân đánh hoàng đế Pháp.
Hành động của nớc áo cũng chẳng còn làm vừa lòng Na-pô-lê-ông nữa. Nớc áo (với t cách là "đồng minh"
của Na-pô-lê-ông) coi nh đã chiến tranh với Nga từ năm 1812, thì nay, bố vợ Na-pô-lê-ông. Hoàng đế
Phran-xơ và Mét-te-ních1,
ngời đang lãnh đạo đờng lối chính trị ở áo, đã ký một "hiệp định đình chiến" với nớc Nga, và tất nhiên là
bất chấp những mối quan hệ thân quyến mới đây, ông hoàng đế nớc áo đã coi hoàn cảnh mà chàng rể ông
ta đang lâm phải là một đặc ân không mong mà đến của vận mệnh và nh một bảo đảm cho sự giải phóng n-
ớc áo thoát khỏi cái ách khủng khiếp đã đè nặng lên mình từ trận Va-gram và hòa ớc Sơn-brun.
Trong những cảnh ngộ khó khăn nh vậy, hoàng đế Pháp đã nhớ đến cái việc xảy ra năm 1809: sau khi
chiếm đợc thành Rôm, Na-pô-lê-ông đã cho bắt và đa giáo hoàng đến Xa-von và năm 1812, trớc khi đi
Mát-xcơ-va, Na-pô-lê-ông lại ra lệnh dẫn giáo hoàng từ Xa-von đến Phông-ten-nơ-blô. Hơn nữa, ngời ta đã
tạo cho mọi ngời thấy rằng những cảnh binh đi vây quanh chiếc xe của giáo hoàng không có gì khác hơn là
một đội quân danh dự hộ tống, và trong thời gian giáo hoàng ngụ tại hoàng cung ở Phông-ten-nơ-blô thì
cũng không có gì để có thể nói đợc rằng giáo hoàng đã bị giam giữ ở đó: giáo hoàng là khách của hoàng đế.
Tuy nhiên, giáo hoàng đã không ngớt phản kháng việc ngời ta cớp mất thành Rôm (Na-pô-lê-ông đã giao
Rôm cho đứa con trai mới đẻ của mình, phong làm "Vua thành Rôm"), cũng nh phản kháng việc bị bắt giữ.

Trớc tình hình nh vậy, ngày 19 tháng 1 năm 1813, Na-pô-lê-ông đã bất thần đến thăm ngời tù của mình.
Thực tế là cần phải thỏa hiệp bằng cách này hay cách khác với những ngời công giáo là những ngời đã
ngấm ngầm chống lại hoàng đế từ năm 1809. Nhng cuộc trao đổi hữu hảo giữa Na-pô-lê-ông và giáo hoàng
đã không đem lại kết quả cụ thể gì.
Na-pô-lê-ông ép Pi VII ký một bản điều ớc mới, nhng cũng không vì thế mà giao trả thành Rôm cho giáo
hoàng (về đại thể, bản điều ớc mới sao chép lại nội dung bản điều ớc năm 1802). Đối với Na-pô-lê-ông,
những sự nhợng bộ không có tác dụng gì hết: Na-pô-lê-ông không a và cũng không biết nhợng bộ. Những
trò dụ dỗ hèn kém của Na-pô-lê-ông đối với giáo hoàng vào tháng 1 năm 1813 đã chấm dứt khi Na-pô-lê-
ông bất thần cho bắt hồng y giáo chủ Pi-ê-tơ-rô và đa đi khỏi Phông-ten-nơ-blô,
1. Mét-te-ních không phải là bố công chúa ma-ri Lu-i-dơ, nhng ở đây tác giả gọi chung là bố vợ vì Mét-te-
ních là ngời đã đứng ra làm môi giới cho cuộc hôn nhân giữa Ma-ri Lu-i-dơ và Na-pô-lê-ông- N.D.
vì Na-pô-lê-ông đã nghe phong thanh thấy Pi-ê-tơ-rô khuyên giáo hoàng Pi VII đối địch lại Na-pô-lê-ông.
Nói về mu toan thỏa hiệp không thành đó với giáo hoàng, hoàng đế đã thốt ra một câu đáng chú ý: thực là
hiện nay phải bỏ thành Rôm... Điều ớc ấy còn phải xếp vào tủ và sẽ chỉ đợc lôi ra sau khi đã đại thắng ở
sông En-bơ hay ở sông Vi-xtuyn. Thật vậy, trong suốt năm 1813 ấy và những năm sau, Na-pô-lê-ông
không ngừng tìm cách phá hoại các cuộc thơng lợng với đối phơng và luôn luôn mong mỏi một chiến thắng
lớn. Vận may đã ủng hộ Na-pô-lê-ông quá lâu. So sánh toàn bộ cuộc đời Na-pô-lê-ông dới ánh sáng của tất
cả những sự nghiệp vĩ đại cha từng có mà Na-pô-lê-ông đã hoàn thành, kể từ việc hạ thành Tu-lông năm
1793 đến việc sáng lập cái đế quốc rộng lớn ấy và rồi Na-pô-lê-ông đã dắt dẫn các lực lợng của đế quốc đó
đến bên kia sông Ni-ê-men, thì dẫu sao cuộc chiến tranh năm 1812 cũng chỉ làm một chấm đen trên cả một
tấm thảm mênh mông đầy thằng lợi.
Nớc Phổ đã sẵn sàng phản lại: vua Phổ đòi Na-pô-lê-ông rút quân ra khỏi một số vị trí, đòi 94 triệu phrăng
dùng vào việc nuôi dỡng quân đội Pháp mà ngân khố của hoàng đế còn nợ lại, nhng đã bị từ chối. Nớc Anh
không thể thừa nhận sự xâm lợc nớc Tây Ban Nha của ngời Pháp, và Na-pô-lê-ông, ngày 14 tháng 2, khai
mạc khoá họp Hội đồng lập pháp, đã dứt khoát tuyên bố rằng: "Triều đại Pháp đang trị vì và sẽ trị vì Tây
Ban Nha". Vào tháng 3, Mét-te-ních đã tỏ ý muốn biết những điều kiện mà Na-pô-lê-ông sẽ ng thuận để ký
một hòa ớc chung, nhng đã không đợc trả lời một cách rõ ràng. Đối với tất cả các vấn đề này, thái dộ của
Na-pô-lê-ông cũng giống nh đối với giáo hoàng: một trận thắng lớn ở sông Vi-xtuyn hay ở sông Ni-ê-men
sẽ quyết định hết thảy. Trong bài diễn văn ngày 14 tháng 2, Na-pô-lê-ông bảo đảm rằng toàn bộ đất đai của
đế chế sẽ không thể đụng chạm đến đợc và đại công quốc Vác-sa-va sẽ vẫn tồn tại trong biên giới hiện nay.

Lúc này, Mét-te-ních cha muốn cắt đứt quan hệ với Na-pô-lê-ông nên đã nói với ốt-tô, sứ thần Pháp ở Viên,
rằng với những lời tuyên bố nh vậy, Na-pô-lê- ông làm cho hòa bình với nớc Nga, cũng nh nớc Anh và với
nớc Phổ sẽ không thể nào có đợc.
Khi những phái viên áo ở Luân Đôn bên cạnh Cát-tun-rit, ở Ca-lích bên cạnh A-lếch-xan thăm dò d luận thì
ở đâu ngời ta cũng chỉ trả lời rằng: nếu Na-pô-lê-ông khăng khăng không chịu nhợng bộ thì chỉ có chiến
tranh mới có thể giải quyết đợc. Cuối cùng vua Phổ đã công nhiên đứng về phía A-lếch-xan và ký một hiệp
ớc liên minh với A-lếch-xan. Na-pô-lê-ông đáp lại bằng cách tuyển thêm tân binh. Xứ Xắc-xơ, Ba-vi-e,
Vua-tem-be, Bát-đơ vẫn còn chịu khuất phục.
II
Ngày 15 tháng 7 năm 1813, Na-pô-lê-ông trở lại với quân đội ở éc-phua và tiến quân đánh nớc Nga và nớc
Phổ. Đội quân mới này đợc trang bị rất hoàn chỉnh. Trong những tháng đầu năm đó, Na-pô-lê-ông đã miệt
mài làm việc để huấn luyện và tổ chức quân đội, dành nhiều đêm để chấn chỉnh lại nền tài chính đến mức
quân đội không còn thiếu thốn một thứ gì, và có thể mua tất cả những thứ gì cần thiết cho quân đội bằng
tiền vàng thật và đủ cân lợng, vì thật ra điều quan trọng là không nên phá hoại và làm cho nhân dân các
quốc gia Giéc-manh bất mãn, chừng nào họ còn là "đồng minh", ít ra thì cũng còn đang chịu khuất phục.
Na-pô-lê-ông có 20 vạn quân tại ngũ; quân dự bị, cũng tơng đơng nh vậy, đã đợc tập trung hoặc đang đợc
thành lập. Cu-tu-dốp chết đúng vào trớc khi chiến dịch mở màn, và khi chiến sự bắt đầu thì quân Nga và
quân Phổ đã không có tớng chỉ huy. Ngay lúc đầu, Na-pô-lê-ông đã giành đợc một số thắng lợi. Quân Nga
bị đánh đuổi khỏi Vai-xen-phen, sau đó đã diễn ra những trận đánh vào ngày 1 và ngày 2 tháng 5 ở gần
Vai-xen-phen và Lút-xen. Na-pô-lê-ông đã hoàn toàn chiến thắng. ở Vai-xen-phen, thống chế Bét-xi-e,
đứng cạnh hoàng đế, trớc đội cựu cận vệ mấy bớc, bị một mảnh đạn đại bác bắn trúng, vỡ ngực chết. "Thần
chết đang đến gần chúng ta", Na-pô-lê-ông nói nh vậy vừa nhìn ngời ta liệm thống chế trong tấm áo choàng
của hoàng đế để đa ra khỏi chiến trờng.
Trận Lút-xen đã diễn ra giằng đi giật lại và đẫm máu. Cỡi ngựa từ cánh này sang cánh kia, Na-pô-lê-ông
điều khiển mọi hành động tác chiến A-lếch-xan và Phri-đrích Vin-hem ở gần chiến trờng nhng không tham
gia gì. Quân Nga và quân phổ bị đánh lùi, mất chừng 2 vạn ngời, nhng số thiệt hại của quân Pháp cũng
không kém mấy. Vài ngày sau, Na-pô-lê-ông tiến vào Đre-xđen.
Sau trận Lút-xen, Mét-te-ních tìm cách lập lại hòa bình giữa Na-pô-lê-ông và quân liên minh bằng cách
đảm bảo rằng nớc áo sẽ liên minh với Na-pô-lê-ông theo những điều kiện sau đây: Na-pô-lê-ông sẽ bỏ đại
công quốc Vác-sa-va, bỏ nền bảo hộ Liên bang sông Ranh, bỏ các thành phố đồng minh thơng nghiệp ở

miền tây-bắc nớc Đức và I-ly-ri. Còn ngoài ra, Na-pô-lê-ông sẽ giữ lại tất cả; nớc Bỉ, toàn bộ nớc ý, nớc Hà
Lan, vơng quốc Vét-xpha-li vẫn nằm trong đế quốc của Na-pô-lê-ông. Na-pô-lê-ông từ chối. Ông ta nói với
tớng Búp-na, sứ thần của triều đình Viên: "Tôi không cần sự điều đình bằng vũ lực của các ông, các ông
muốn đục nớc béo cò...". Bằng một giọng châm biếm, Na-pô-lê-ông còn nói thêm: "Không phải cứ đổ nớc
hoa ra là chiếm đợc đất". Thoạt tiên, ngời áo đòi Na-pô-lê-ông trả I-ly-ri, nhng rồi họ sẽ còn đòi cả Vê-nê-
xi, Mi-lan, Tô-xcan, thì ra họ bức Na-pô-lê-ông phải đánh nhau với họ đến nớc ấy. Chi bằng đánh nhau
ngay. Nếu họ muốn lấy lại các tỉnh từ tay Na-pô-lê-ông thì họ cần phải rút gơm ra khỏi vỏ, họ kết luận nh
vậy. Ông quyết tâm tiếp tục chiến đấu và chiến đấu mãi mãi, không nhợng bộ chút gì cả. Một phong trào
chống Na-pô- lên ở Hăm-bua. Hoàng đế phái Đa-vu đến đó để trừng phạt những thành phố đồng minh th-
ơng nghiệp ở miền tây-bắc nớc Đức về tội chống lại cảnh sát và nhân viên hải quan Pháp đã phá hoại việc
buôn bán của họ bằng sự thực hiện nghiêm ngặt cuộc phong tỏa lục địa. Na-pô-lê-ông ra lệnh cho Đa-vu
bắn một số nghị sĩ của tỉnh những ngời cầm đầu phong trào chống Pháp, một số sĩ quan, bắt 500 công dân
có uy tín nhất, có tiếng là có t tởng chống đối và tịch thu toàn bộ tài sản của họ.
Sau khi ra những lệnh trên xong, Na-pô-lê-ông rời Đre-xđen, dẫn đầu đội cận vệ, đuổi theo bộ đội đang tiến
về phía đông, theo hớng Bau-xen (trên sông Spơ-rê). Trên đờng từ Đre-xđen đến Bre-xlau, cùng đi với Na-
pô-lê-ông có bốn quân đoàn: của Nây, của Mác-mông, của U-đi-nô và của Bét-tơ-răng. Quân Liên minh thì
đặt dới quyền chỉ huy của Vít-ghen-stai, Bác-clây-đơ Tô-li, Mi-lô-ra-đô-vích và Bluy-khe. Trận Bau-xen
bắt đầu ngày 20 đến tối ngày 21 thì kết thúc. Na-pô-lê-ông điều quân đoàn của Nây đánh vòng lên phía bắc
cánh phải của đối phơng, nhng vì Napo không chú ý đến những lời chỉ bảo của tham mu trởng Giô-mi-ni
nên đến chiến trờng quá chậm. Quân Liên minh đã rút lui có trật tự.
Trận đánh cũng đẫm máu gần nh ở Lút-xen. Cả hai bên đều mất chừng 3 vạn ngời vừa chết và bị thơng.
Thắng lợi lại thuộc về phía Na-pô-lê-ông và Na-pô-lê-ông dự định đẩy lùi quân Nga và quân Phổ đang rút
lui, tiến thẳng đến Béc-lin. Quân liên minh vừa đánh vừa lùi làm chậm bớc cuộc truy kích. ngày 22 tháng 5,
Na-pô-lê-ông đã xông tới và đánh tan đội hậu vệ của quân Liên minh ở Gớc-lít-xơ. Tối đến, lúc trận đánh
sắp sửa kết thúc, trong khi đối phơng đang rút lui thì Duy-rốc tới trao đổi với Na-pô-lê-ông một lát, rồi vừa
bỏ đi vừa buồn bã nói với Cô-lanh-cua: "Ông bạn, ông có để ý thấy gì ở hoàng đế không? Hoàng đế vừa
mới giành đợc những thắng lợi sau nhiều trận thất bại và lẽ ra đây phải là lúc áp dụng những bài học rút ra
đợc trong thất bại ... Nhng ông thấy đấy, hoàng đế không thay đổi gì cả ... vẫn ham chiến ... Tất cả những
điều ấy sẽ chẳng đa đến kết quả tốt đẹp gì ". Và giờ chót của thống chế Đuy-rốc đến. Một mảnh đại bác bắn
vào cây gần chỗ Na-pô-lê-ông đứng đã bật vào Đuy-rốc. Đuy-rốc còn đủ sức chúc ông hoàng đế thắng lợi

và ký đợc hòa ớc. Na-pô-lê-ông trả lời :"Xin vĩnh biệt bạn, có lẽ mấy chốc mà ... chúng ta sẽ lại gặp nhau".
Cái chết của Đuy-rốc, một trong số rất hiếm ngời đợc Na-pô-lê-ông yêu và tin cậy, đã làm cho Na-pô-lê-
ông bị xúc động mạnh. Na-pô-lê-ông bất giác ngồi xuống một gốc cây: những mảnh trái phá của quân hậu
vệ Phổ rơi quanh ngời , nhng Na-pô-lê-ông vẫn ngồi đó rất lâu, chìm đắm trong những ý nghĩ riêng. Trong
chiến dịch năm 1813 này, Na-pô-lê-ông thờng xông pha vào nơi nguy hiểm và nhất là trong những trờng
hợp không cần thiết một chút nào, điều đó trớc đây Na-pô-lê-ông không bao giờ làm và đã phản lại quan
niệm của Na-pô-lê-ông về vị trí của một ngời tớng tổng chỉ huy ở ngoài mặt trận. Những ngời ở gần Na-pô-
lê-ông cũng nghĩ rằng ông thầm tìm cái chết và cố che giấu mọi ngời. Hầu nh suốt trong thời gian quân
Pháp truy kích, quân nga và quân Phổ đã dùng pháo bắn lại rất mãnh liệt để yểm hộ cuộc rút lui của họ, nh-
ng Na-pô-lê-ông ngang nhiên đi với đội tiền vệ, ở chỗ nguy hiểm nhất, mặc dầu về mặt quân sự ông không
cần thiết phải có mặt ở đó.
Sau trận Bau-xen và sau vài ngày truy kích, hai bên tham chiến đã chấp nhận đề nghị hòa giải của nớc áo
do Mét-te-ních đề xớng và, ngày 4 tháng 6 năm 1813, ký hiệp nghị đình chiến Plai-dơ-vít.
Mặc dầu, theo đề nghị của Mét-te-ních, bên phe Liên minh cũng nh Na-pô-lê-ông đã thỏa thuận cử đại diện
toàn quyền của mình đến Pra-ha để đàm phán, nhng khi ký hiệp định đình chiến, cả hai bên đều không
muốn có hòa bình thật sự. Quân Liên minh biết rằng trớc trận Lút-xen và Bau-xen, Na-pô-lê-ông đã không
chịu nhợng bộ một chút nào thì bây giờ, sau khi đã chiến thắng hai trận, lại càng không chịu; còn về phía
mình, nếu nh A-lếch-xan đã bằng lòng ký hiệp định đình chiến thì đó chỉ vì Bác-clây đơ Tô-li đã tuyên bố
dứt khoát là sau những thất bại, quận đội cần phải đợc hồi phục, củng cố đội ngũ và tăng viện Na-pô-lê-ông
cũng vậy, ông ta thỏa thuận đình chiến cũng chỉ nhằm tăng cờng quân đội của mình để có thể đè bẹp quân
Liên minh một lần cho rồi. Đồng ý hoãn chiến, Na-pô-lê-ông đã phạm một sai lầm tai hại vì sự đình chiến
chỉ có lợi cho đối phơng, chứ không có lợi cho Na-pô-lê-ông, và vì nó cũng là một trong những nguyên
nhân làm cho nớc áo từ bỏ vai trò trung gian hoà giải của nó để nhảy sang hàng ngũ Liên minh.
Đáng lấy làm lạ khi ngời ta nhận thấy rằng quân Liên minh đã không nhận ra đợc sai lầm ấy của Na-pô-lê-
ông, tuy rằng, sau đó khá nhiều năm, các tớng lĩnh của họ (Nga và Phổ, cũng nh thái tử nớc Thuỵ Điển
Béc-na-đốt) đều quả quyết nói rằng họ đã rất khéo biết lợi dụng hiệp ớc đình chiến ngay từ buổi đầu và họ
rất lấy làm hài lòng về hiệp định ấy. Tuy nhiên, chúng ta có chứng cớ không thể chối cãi đợc sau đây của
trung tá Vla-đi-mia I-va-nô-vích Lơ-ven-xte, ngời đã có điều kiện quan sát tờng tận tình trạng t tởng đang
diễn ra trong các bộ tham mu của quân Liên minh: ông khẳng định rằng:" trong quân đội Liên minh, ở Phổ,
trong các quốc gia Giéc-manh, nơi đâu ngời ta nói tiếng Đức thì nơi đó ngời ta than thở rằng cái hiệp định

đình chiến ấy là một tai họa ghê gớm nhất". Và, với sự châm biếm đúng đắn, Lơ-ven-xte đã thốt lên:"Ôi, trí
tuệ của con ngời!". Những ghi chép ấy của Lơ-ven-xte (Denkwurdigkeiten eines Livlanders), một ngời
Đức, là một trong những tài liệu quý báu và vô t nhất về lịch sử năm 1813, trong khi ấy thì nhiều tác giả
Pháp, Nga, áo và Thuỵ Điển, khi ghi chép về nó, đã vô tình hay hữu ý đa ra nhiều điều dối trá.
Thế là hiệp ớc đình chiến đã đợc ký kết, nhng Na-pô-lê-ông không tin rằng việc đó đem lại cho ông ta
những cơ hội chắc chắn để đi đến một nền hòa bình mà ông ta hằng mong mỏi, và ông ta đã kiên quyết
không ký một hiệp ớc đình chiến nào khác nữa.
Đợc tất cả hoặc mất hết: đó là khẩu hiệu của Na-pô-lê-ông khi khởi cuộc chiến lớn năm 1813, và Na-pô-lê-
ông đã theo đuổi cuộc chiến cũng với khẩu hiệu ấy. Ngay khi ở đảo Thánh bà Hê-lên, sau khi đã mất hết,
kể cả sự tự do của mình, ông hoàng đế cũng không bao giờ tỏ ý mảy may tiếc rằng mình đã phạm phải sai
lầm ấy, bởi đối với ông điều đó tuyệt nhiên không phải là một sai lầm. Ông nói một cách mỉa mai rằng mặc
dầu ông hoàn toàn thất bại, ông vẫn có thể chiến bại trở về và ngồi vững trên ngai vàng, nếu không phải là
chính ông thì là cháu đích tôn ông. Ông còn xác định nhiều lần rằng giữa ông và các vị vua chúa thừa kế
tọa hởng kỳ thành có sự khác nhau rất lớn.
Sau những khủng khiếp của chiến dịch Mát-xcơ-va làm cho hầu hết nhân dân Pháp chìm đắm trong đau
khổ, Pa-ri đã đón tiếp Na-pô-lê-ông bằng một sự khuất phục, hoàn toàn. Vậy thì một sự đón tiếp nh vậy ắt
cũng sẽ diễn ra nếu nh sau chiến dịch rực rỡ mùa xuân năm 1813, Na-pô-lê-ông trở về vẫn giữ đợc tất cả
những miền đất đai rộng lớn của mình (trừ xứ I-ly-ri vô tác dụng nằm xa lắc xa lơ tít trong vùng Ban-căng)
mà chỉ hy sinh mất có đại công quốc Vác-sa-va và Liên bang sông Ranh, nơi Na-pô-lê-ông không trực tiếp
trị vì, chỉ thông qua các ch hầu, và các nớc ấy cũng chẳng phải là thành viên hợp thành đế quốc của Na-pô-
lê-ông. Nhng Na-pô-lê-ông hiểu rằng những sự nhợng bộ ấy, sự từ bỏ ý đồ hoàn thành việc xây dựng một
đế quốc quy mô toàn thế giới sẽ có nghĩa là sự thắng lợi của nớc Anh về mặt kinh tế và chính trị. Nhiệm vụ
mà Na-pô-lê-ông từ đặt ra sẽ bị bỏ dở, nền thơng nghiệp và công nghiệp Pháp sẽ không chống chọi đợc với
thơng nghiệp và công nghiệp Anh, cuộc khủng hoảng năm 1811 sẽ trở thành một hiện tợng mãn tính, nạn
thất nghiệp cũng vậy, cuộc "cách mạng của những cái bụng rỗng". một cuộc cách mạng không sợ gì súng
đạn, sẽ "định c" ở các khu trung tâm thợ thuyền, ở thủ đô và ở các tỉnh; còn đối với giai cấp t sản mà Na-
pô-lê-ông là ngời cầm đầu đầy thế lực và trung thành trong cuộc đấu tranh kinh tế chống nớc Anh thì rồi
Na-pô-lê-ông cũng sẽ chỉ là con ngời vô dụng. Vì cái gì mà giai cấp t sản Pháp cứ phải tiếp tục chịu đựng
sự chuyên chế cha từng thấy của Na-pô-lê-ông ? Và trị vì theo kiểu khác thì Na-pô-lê-ông không muốn mà
bản chất Na-pô-lê-ông cũng không cho phép. Những cái đó đã thúc đẩy Na-pô-lê-ông phái Đa-vu đến

Hăm-bua, Crôm, Lu-bếch, mang theo những lệnh nghiêm ngặt, để tiến hành những cuộc xử bắn và tịch thu
tài sản vào giữa lúc Mét-te-ních đang cố hết sức thuyết phục Na-pô-lê-ông từ bỏ những nơi đó. Những cái
đó đã làm cho Na-pô-lê-ông không những không nghĩ đến hòa bình và sự quay trở lại Pa-ri, mà lại nghĩ đến
một chiến dịch mới trên sông Vi-xtuyn và Ni-ê-men và đã làm cho cuộc thơng lợng ở Pra-ha trở thành một
màn hài kịch hão huyền. Ngời ta bàn với Na-pô-lê-ông nhợng lại Hăm-bua trong khi Na-pô-lê-ông nghĩ đến
Ni-ê-men, ngời ta đề nghị với Na-pô-lê-ông bỏ I-ly-ri trong khi Na-pô-lê còn cha triệu về những gián đ và
trinh sát viên do Na-pô-lê-ông phái đến Thổ, Ba t, Xi-ri, Ai cập trớc khi bớc vào chiến dịch nớc Nga. Sự
tranh chấp chỉ có thể giải quyết bằng súng đạn, không thể bằng những thủ đoạn ngoại giao tế nhị.

×