Bài tóm tắt: Bốn mươi năm nhìn lại Hiệp định Giơnevơ
về Việt Nam
Lưu Văn Lợi
Trước tiên, chúng ta nên tìm hiểu bối cảnh, tình hình diễn biến Đông Dương năm 1953,
1954.Vắn tắt như sau:
* Đông Dương 1953
− Tình hình Pháp:
Tướng Đờ Gôn tuyên bố: “Chúng ta nhất định thắng vì chúng ta mạnh hơn”
Nhưng: quân đội viễn chinh của Pháp ngày càng thất bại hơn (thất bại Biên Giới 1950),
đồn bốt bị tiêu diệt, nhiều vùng bị rơi vào tay quân Việt Nam…
Ngày 13/7/1953, Pháp tuyên bố lập trường của Pháp là muốn giải quyết vấn đề Đông
Dương như vấn đề Triều Tiên.
Ngày 27/7/1953, Trung Quốc, Hàn Quốc, CHDCND Triều Tiên và Mỹ đã ký Hiệp định
Bàn Môn Điếm kết thúc chiến tranh kéo dài 3 năm.
− Về phía Liên Xô: cũng muốn đi đến giải quyết vấn đề Đông Dương để ngăn Mỹ
mở rộng chiến tranh ở Đông Dương và củng cố hòa hoãn ở Viễn Đông.
− Về phía Mỹ: tiếp tục tăng cường viện trợ cho Pháp, tuyên bố với các sĩ quan Pháp
và Ngụy rằng: trong bất kỳ trường hợp nào cũng không thể đàm phám với
Việt Minh.
− Về phía Pháp: dư luận Pháp hoan nghênh cuộc đình chiến ở Triều Tiên và đòi
chấm dứt chiến tranh Đông Dương.
− Về phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa: sẵn sàng thương lượng và giải quyết vấn
đề Việt Nam theo lối hòa bình.
Ngày 18/2/1954, Hội Nghị Tứ Cường thỏa thuận họp hội nghị quốc tế tại Giơ-ne-vơ để
bàn về vấn đề Triều Tiên và vấn đề Đông Dương.
* Hội Nghị Giơnevơ về vấn đề Đông Dương :
Ngày 7/5/1954, Việt Nam dành chiến thắng Điện Biên Phủ và ngày 8/5 thì Hội nghị
Giơnevơ về vấn đề Đông Dương khai mạc.
Thành phần tham dự: Có 9 đoàn đại biểu tham gia: Anh, Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc, Pháp,
Lào, Campuchia, Đoàn của Việt Nam DCCH do Phạm Văn Đồng dẫn đầu và đoàn của
Quốc Gia Việt Nam do Nguyễn Quốc Định dẫn đầu.
Diễn biến:Trong bài phát biểu đầu tiên, Ngoại trưởng Phạm Văn Đồng đã đưa ra 8 điểm
trong đó điểm đầu tiên là: Pháp công nhận độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ cho
Việt Nam, Lào, và Campuchia, và phải rút quân đội khỏi 3 nước này.
− Giải pháp quân sự cho chiến tranh Việt Nam bao gồm: vấn đề ngừng bắn,
điều chỉnh khu vực, tập kết, trao trả tù binh và thường dân bị giam giữ…
− Giải pháp chính trị cho chiến tranh Việt Nam bao gồm: công nhận quyền
dân tộc cơ bản, vạch giới tuyến quân sự tạm thời, tổng tuyển cử tự do, đảm
bảo các quyền tự do dân chủ, không phân biệt đối xử với những người đã
cộng tác với đối phương trong thời gian chiến tranh…
Thời kỳ từ 8/5- 19/6/1954:
Các bên trình bày lập trường của mình về giải quyết vấn đề Việt Nam và Đông Dương.
Việt Nam DCCH đưa ra 8 quan điểm cho vấn đề Việt Nam, Pháp đưa ra 9 quan điểm.Hội
nghị nhất trí lấy 2 lập trường của 2 bên làm cơ sở dữ liệu.
Pháp nhân nhượng Mỹ, Ngô Đình Diệm lên làm Thủ tướng miền Nam
Chu Ân Lai gặp Eden, Bidault, Mendes-France khẳng định lại ý muốn đi tới 1 giải pháp về
vấn đề Đông Dương.Ngày 27/5, Pháp chấp nhận đề nghị của Việt Nam về việc gặp gỡ để
bàn về vấn đề phân chia vùng tập kết, thể thức ngừng bắn
Thời kỳ từ 20/6-10/7/1954:
Mỹ ngăn cản Anh, Pháp sớm đi đến kết thúc chiến tranh Đông Dương, đạt được 7 điều
kiện (7 điểm) mà giải pháp Đông Dương phải tuân theo. Pháp rất hài lòng về 7 điểm này.
Chu Ân Lai Gặp Hồ Chí Minh đề nghị ta lấy sông Bến Hải làm giơi tuyến quân sự tạm
thời, thời hạn tổng tuyển cử là 2 năm.
Thời kỳ từ 11-20/7, đoàn đại biểu Việt Nam chấp nhận vĩ tuyến 17 và thời hạn tổng
tuyển cử là 2 năm.Ngày 21, Hội nghị nhất trí thông qua bản tuyên bố cuối cùng,
đây là 1 văn kiện rất quan trọng.
* Lập lại hòa bình, đòi hiệp thương và tổng tuyển cử .
Tiếng súng ngừng nổ ở Bắc Bộ ngày: 27/7/1954, miền Trung ngày: 1/8, ở Nam Bộ ngày
11/8.Việt Nam và Pháp thỏa thuận chuyển Hội nghị Trung Giã thành Ủy ban liên hợp.
Lệnh ngừng bắn nói chung được thi hành nghiêm chỉnh, việc tập kết và chuyển quân về 2
miền được tiến hành đúng thời hạn.
Trong thời gian 300 ngày, ta trao trả sòng phẳng tù binh cho Pháp và ngụy. Nhưng vấn đề
phức tạp nhất là vấn đề công giáo di cư vào Nam. Từ cuối tháng 5/1954, Mỹ và Anh trao
cho Pháp đề án tối thiểu 7 điểm trong đó điểm thứ 6 về việc cho phép người từ miền này
di cư sang miền kia. Đấy là âm mưu cưỡng bức, dụ dỗ nửa triệu người công giáo theo 1
kế hoạch chuẩn bị từ trước.Bế mạc hội nghị Giơnevơ, Mỹ không chịu kí bản tuyên bố cuối
cùng của Hội nghị mà lại ra 1 bản tuyên bố riêng. Ngày 26/4/1956, Pháp hoàn toàn rút khỏi
miền Nam Việt Nam, chấm dứt 80 năm thống trị Việt Nam. Chính phủ Việt Nam DCCH
đề nghị đại biểu 2 miền mở hội nghị Hợp Thương. Chính quyền Ngô Đình Diệm khước từ
hiệp thương vấn đề thống nhất miền Bắc, tổ chức tổng tuyển cử riêng rẽ. Tổng thống Giôn
xơn của Mỹ đồng thời phát động 2 cuộc chiến tranh: chiến tranh phá hoại bằng không
quân trên miền Bắc và chiến tranh cục bộ ở miền Nam. Tại Pari, Mỹ chịu chấm dứt
không điều kiện việc ném bom miền Bắc, chế độ Sài Gòn miền Nam hoàn toàn sụp đổ,
miền Nam được hoàn toàn giải phóng.
* Chính nghĩa, niềm hy vọng
Sau hiệp định Giơnevơ năm 1962, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã đề
nghị với chính quyền Sài Gòn đưa miền nam vào con đường hòa bình trung lập như ở Lào.
Mỹ không chấp nhận, cố tình phá hoại, xé bỏ Hiệp định Giơnevơ, chấp nhận Hiệp định
Paris 1973 về Việt Nam. Trớ trêu thay, Hiệp định Paris 1973 chỉ là sự tái hiện các nguyên
tắc của Hiệp đinh Giơnevơ.
* Đánh giá của bản thân về Hiệp định Giơnevơ:
Hội nghị Giơnevơ kéo dài suốt 75 ngày, cuối cùng đã kết thúc với thắng lợi cơ bản thuộc
về nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào, nhân dân Campuchia. Âm mưu phá hoại Hội nghị để
kéo dài và mở rộng chiến tranh của đế quốc Mĩ và bọn hiếu chiến Pháp bị thất bại. Hòa
bình đã được lập lại trên bán đảo Đông Dương.
Nguyên nhân thắng lợi cơ bản là có đường lối chính trị, đường lối ngoại giao đúng đắn
của Đảng, đặc biệt là do quân dân ta đã đoàn kết nhất trí, chiến đấu anh dũng suốt 9 năm,
làm thất bại âm mưu xâm lược của kẻ thù, trực tiếp là thắng lợi của cuộc tổng tiến công
chiến lược Đông xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ.
Khối đoàn kết chiến đấu của 3 dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia ngày càng chặt chẽ.
Cuộc đấu tranh của nhân dân ta là chính nghĩa, được nhân dân Liên Xô, nhân dân Trung
Quốc và nhan dân các nước dân chủ nhân dân, các nước yêu chuộng hòa bình,kể cả nhân
dân Pháp đồng tình ủng hộ.Hiệp định Giơnevơ là văn bản pháp lý quốc tế ghi nhận quyền
dân tộc cơ bản của nhân dân các nước Đông Dương, được các cường quốc lớn nhất trên
thế giới tôn trọng, ghi nhận sự thất bại hoàn toàn thực dân Pháp trong cuộc chiến tranh xâm
lược. Cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ đã góp phần lập lại hòa
bình ở Đông Dương. Miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Nhân dân miền Bắc từ
đây có điều kiện để bắt tay vào công cuộc xây dựng hòa bình, khôi phục kinh tế, hoàn
thành cải cách ruộng đất, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở vững chắc cho
sự nghiệp giải phóng miền Nam.Hội nghị Giơnevơ cũng để lại nhiều bài học kinh nghiệm
cho cuộc đấu tranh ngoại giao, đàm phán thương lượng của ta trong các giai đoạn cách
mạng sau này.