Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

Luận văn tốt nghiệp vai trò quản lý của nhà nước trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế 1570427

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (547.62 KB, 44 trang )

LUẬN VĂN:
Kinh Tế Chính Trị - Vai trị quản
lý kinh tế của Nhà nước trong việc
thúc đẩy kinh tế


Lời nói đầu
Theo C.Mac va F.Anghen: Khơng thể cải biến kinh tế xã hội nếu thiếu vai trò kinh tế
của Nhà nước, lồi người đã và đang cịn sống lâu dài trong nền kinh tế thị trường,bên
cạnh mặt tích cực là chủ yếu, nền kinh tế thị trường không thể tránh khỏi mặt tiêu cực.
Phát huy mặt tích cực, chủ động hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường thơng qua
vai trị quản lý kinh tế của Nhà nước là một tất yếu khách quan.

Đề án Kinh Tế Chính Trị - Vai trị quản lý kinh tế của Nhà nước trong việc thúc
đẩy kinh tế

I.sự cần thiết khách quan của vai trị
quản lí kinh tế nhà nước
1.Nhà nước là gì ?
Trong tiến trình lịch sử phát triển, sự ra đời của Nhà nước chậm hơn sự ra đời của xã
hội vì Nhà nước chỉ được tạo ra từ xã hội có một trình độ phát triển nhất định
Nhà nước khơng phải là cái bẩm sinh vốn có mà nó xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện
chế độ tư hữu về Tư liệu sản xuất, sản xuất hàng hoá, giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nhà
nước là kiểu tổ chức xã hội của xã hội có giai cấp. Nó là một bộ máy, một hệ thống tổ
chức chặt chẽ, tác động vào mọi mặt của đời sống xã hội, do giai cấp thống trị lập ra
nhằm hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức của chúng đối với quần chúng lao động. Do
vậy bản chất Nhà nước theo ngun nghiã của nó là nền chun chính để thực hiện sự
thống trị của một giai cấp, là bộ máy áp bức của giai cấp thống trị đối với xã hội. Nhà
nước chỉ là một phạm trù lịch sử, nó khơng đồng nghĩa với xã hội, nó chỉ tồn tại trong
một giai đoạn lịch sử nhất định và sẽ tự tiêu vong khi các cơ sở ra đời và tồn tại của nó
khơng cịn nữa. Bất kì một Nhà nước nào cũng có chức năng kinh tế, mà theo Mac thì


chức năng của nhà nước như “vai trị bà đỡ cho xã hội cũ thai nghén xã hội mới”. ở các


thời kì khác nhau, các chế độ xã hội khác nhau, do tính chất Nhà nước khác nhau nên vai
trị và chức năng kinh tế của Nhà nước có biểu hiện khác nhau.
2.Vai trò kinh tế của Nhà nước qua các giai đoạn khác nhau của lịch sử
Nói về vai trị kinh tế của Nhà nước qua các thời kì và chế độ xã hội, C.Mac và
F.Anghen đã có những đúc kết hết sức xác đáng như sau:
* Các Nhà nước trước Chủ nghĩa tư bản, vai trò kinh tế chủ yếu là đặt ra chế độ thuế
khoá, một chế độ đóng góp có tính chất cưỡng bức để ni sống bộ máy cai trị, thực
hiện chức năng đối nội (giữ cho sự xung đột giai cấp nằm trong vòng trật tự) đối ngoại
(bảo vệ lãnh thổ) từ đó bảo vệ và mở rộng lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị.
* Đến Nhà nước tư sản, vai trò kinh tế của Nhà nước không chỉ dừng lại ở thuế khố,
khơng chỉ đơn thuần là cơ quan cai trị ở bên ngồi, bên trên q trình sản xuất như
Anghen đã nhận xét "nền văn minh mà tiến lên thì bản thân thúê má là không đủ nữa,
Nhà nước phát hành hối phiếu, vay nợ tức là phát hành công trái”. Và sự xuất hiện sở
hữu Nhà nước đã làm cho Nhà nước bắt đầu ở bên trong quá trình sản xuất, Nhà nước là
“Nhà tư bản tập thể lý tưởng, Nhà nước ấy càng chuyển nhiều lực lượng sản xuất thành
tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại càng biến thành tư bản tập thể thực sự bấy nhiêu và
càng bóc lột nhiều cơng nhân”
Cũng theo hai ơng, khơng thể có sự biến đổi kinh tế xã hội từ chủ nghiã tư bản lên xã
hội cộng sản nếu thiếu vai trò kinh tế của Nhà nước, của giai cấp vô sản, Anghen nhấn
mạnh ”Giai cấp vô sản chiếm lấy chính quyền Nhà nước và biến tư liệu sản xuất trước
hết thành sở hữu Nhà nước”. Theo dự đoán của Mac và Anghen, chun chính vơ sản
trong đó bộ phận quan trọng là Nhà nước và vai trò kinh tế của Nhà nước ra đời từ sự
chín muồi của các tiền đề kinh tế xã hội, đến lượt sự ra đời vai trò kinh tế của Nhà nước
lại thúc đẩy các điều kiện kinh tế xã hội của xã hội mới phát triển và hoàn thiện. Và khi
những điều kiện kinh tế xã hội phát triển đến một trình độ nhất định lại dẫn đến sự tự
tiêu vong của Nhà nước theo đúng quy luật phát sinh phát triển và chuyển hố vốn có
của mọi sự vật hiện tượng



Mac và Anghen với tư cách vừa là nhà khoa học vừa là nhà hoạt động thực tiễn, hai
ông chưa thể đề cập nhiều vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước cho xã hội tương
lai khi thực tiễn chưa đến, bằng sự phân tích logic hai ơng chỉ phác hoạ chức năng kinh
tế của Nhà nước chủ yếu là ”biến các tư liệu sản xuất thành sở hữu Nhà nước”, chỉ đến
sau này Lênin với tư cách là người lãnh đạo trực tiếp công cuộc xây dựng xã hội mới thì
vai trị và chức năng của Nhà nước mới được nói tới nhiều hơn. Ơng cho rằng nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên công hữu xã hội về tư liệu sản xuất với hai hình
thức sở hữu tồn dân và tập thể. Sở hữu tồn dân về tư liệu sản xuất là hình thức sở hữu
chung của toàn thể nhân dân lao động, mọi người cùng chiếm hữu tư liệu sản xuất.
Người chủ cao nhất là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, sản xuất được tiến hành theo kế
hoạch tập trung thống nhất của Nhà nước. Cịn hình thức sở hữu tập thể do tập thể người
lao động góp vốn, tư liệu sản xuất để xây dựng nên, sản xuất được tiến hành theo kế
hoạch của tập thể có sự hướng dẫn của Nhà nước. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có vai trị
kinh tế đặc biệt, nó khơng cịn là bộ máy ăn bám đứng trên quá trình sản xuất nữa mà
phải chuyển sang tổ chức, thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế quốc dân. Chức năng
này gắn liền với q trình kế hoạch hố tập trung thống nhất, quản lý sản xuất và phân
phối sản phẩm, kiểm tra chặt chẽ mức độ lao động và tiêu dùng.
Thực tế lịch sử đã cho thấy cùng với sự tiến hoá của các chế độ xã hội, vai trò kinh
tế của Nhà nước cũng có những biến đổi hết sức lớn lao, thể hiện rõ trong các lý thuyết
kinh tế điển hình qua các thời kì
- Trong xã hội chiếm hữu nơ lệ và phong kiến: vai trò kinh tế của Nhà nước chủ yếu
chỉ dừng lại ở việc bảo vệ sở hữu về nô lệ và phong kiến về Tư liệu sản xuất. Nhà nước
trực tiếp dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối của cải được sản xuất ra
bởi nơ lệ. Cịn Nhà nước phong kiến khơng chỉ can thiệp vào việc phân phối mà còn tập
hợp nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nơng nghiệp, khuyến khích quan lại
di dân đi mở mang các vùng đất mới, đề ra các chính sách ruộng đất thích hợp cho từng
thời kì.
- Trong giai đoạn đầu của sự hình thành và phát triển của Chủ nghĩa tư bản



+ Trong thời kì tích luỹ ngun thuỷ Tư bản (giữa thế kỉ 15) Nhà nước có vai trị kinh
tế quan trọng trong việc tích luỹ tiền (Chủ nghĩa trọng thương), họ đề cao vai trò tiền tệ,
coi tiền tệ là tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá sự giàu có của một quốc gia -“Nội thương
là cái ống dẫn, ngoại thương là cái máy bơm, muốn tăng của cải phải có ngoại thương
nhập dần của cải qua nội thương”-do đó các Nhà nước đã buộc các thương gia nước
ngồi không được mang tiền ra khỏi nước họ, quy định những nơi được phép buôn bán
để dễ dàng cho việc kiểm tra, đánh thuế nhập khẩu cao, khuyến khích phát triển xuất
khẩu hàng hoá , thành phẩm, hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô... Sự can thiệp của Nhà
nước đã góp phần tạo ra những tiền đề cần thiết cho sự ra đời của Chủ nghĩa tư bản.
+ Thế kỉ 18,19 cuộc Cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ nhất hồn thành, cơng trường
thủ cơng Tư bản chủ nghĩa đã đứng vững trong công nghiệp, nông nghiệp...nền sản xuất
ở các nước Tư bản phát triển nhanh, giai cấp Tư sản đã chuyển từ lĩnh vực lưu thông
sang lĩnh vực sản xuất, tư tưởng tự do kinh tế được thể hiện rõ nhất trong thời kì này mà
tiêu biều là quan điểm kinh tế của trường phái cổ điển. Họ ủng hộ mạnh mẽ tư tưởng tự
do cạnh tranh, chống lại việc Nhà nước can thiệp vào kinh tế:”Trong chính sách và trong
kinh tế phải tính đến những q trình tự nhiên, không nên dùng những hành động cưỡng
bức để chống lại q trình đó”-W.Petty. Tư tưởng tự do kinh tế này được tiếp tục phát
triển ở thuyết trật tự tự nhiên của trường phái trọng nông ở Pháp, đại diện của họ là
Quesnay, ơng cho rằng chỉ có xã hội tư bản mới là xã hội bình thường vì nó phù hợp với
trật tự tự nhiên (với 2 quy luật cơ bản la quy luật vật lý và luân lý) từ đó ơng đưa ra tư
tưởng tự do tư hữu, tự do cạnh tranh, tự do tham gia thị trường.
Tuy nhiên đại diện tiêu biểu nhất trong thời kì này là một nhà Kinh tế chính trị học tư
sản cổ điển người Anh-Ađam Smith-ông đã dưa ra lý thuyết “Bàn tay vơ hình”, “Con
người kinh tế”, “Nhà nước khơng can thiệp vào tổ chức nền kinh tế hàng hoá". Ông cho
rằng hoạt động của nền kinh tế là do các quy luật khách quan tự phát chi phối, sự vận
động của thị trường là do quan hệ cung cầu cùng với những biến động tự phát của giá cả
hàng hoá trên thị trường quyết định. Quan hệ giữa người với người là quan hệ về lợi ích
kinh tế. Mỗi người hoạt động chỉ nhằm lợi ích cho bản thân, song do “bàn tay vơ hình”

chi phối buộc con người phục tùng lợi ích chung của xã hội, điều này nằm ngoài ý định


của từng nhà kinh doanh. Mặc dù đề cao “bàn tay vơ hình” song ơng cũng cho rằng đơi
khi Nhà nước có nhiệm vụ kinh tế nhất định, đó là khi các nhiệm vụ kinh tế đặt ra vượt
quá khả năng của các doanh nghiệp. Mặt khác các nhà kinh tế cũng thấy được rằng nền
kinh tế phát triển càng cao, xã hội hoá sản xuất ngày càng mở rộng, thị trường ngày càng
phát triển thì càng cần có sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, song tư tưởng
của họ vẫn dừng lại ở sức mạnh thị trường, ở sự tác động tự phát của các quy luật kinh tế
thị trường làm cho nền kinh tế phát triển ổn định và lành mạnh.
- Sang thời kì của đại tư bản công nghiệp: Chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng
nhờ các nguồn vốn tích luỹ to lớn nên người ta chủ yếu chỉ phê phán những sự tiêu dùng
xa xỉ làm giảm nguồn tích luỹ chứ cũng chưa thấy rõ vai trò cần thiết của Nhà nước
trong việc điều chỉnh các quá trình phát triển, khắc phục các mất cân đối (Ví dụ Davit
Ricardo).
+ Vào đầu những năm 1930 của thế kỉ nảy, khủng hoảng kinh tế diễn ra thường xuyên
đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929-1933 đã làm cho “bàn tay vơ
hình” khơng thể đảm bảo những điều kiện ổn định cho nền kinh tế thị trường phát triển.
Đồng thời ở giai đoạn này trình độ xã hội hố sản xuất phát triển khá cao làm cho các
nhà kinh tế thấy rằng: cần có một lực lượng điều tiết nền kinh tế từ một trung tâm-đó là
Nhà nước. Từ đó J.M.Keynes-nhà kinh tế học người Anh đã dưa ra lý thuyết "Nhà nước
điêù tiết nền kinh tế thị trường". Ông cho rằng cùng với sự tăng lên của sản lượng quốc
gia thì thu nhập tăng lên và tiêu dùng cũng tăng lên. Nhưng do xu hướng “tiêu dùng giới
hạn” nên tiêu dùng tăng chậm hơn so với thu nhập, điều này làm giảm cầu tiêu dùng
tương đối. Cầu tiêu dùng giảm làm giảm giá hàng hố và từ dó làm giảm tỷ suất lợi
nhuận, tỷ suất lợi nhuận giảm nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất thì các doanh nghiệp khơng
cịn có lợi do đó họ khơng đầu tư vào sản xuất, kinh doanh nữa. Và như vậy khủng
hoảng, trì trệ kinh tế và thất nghiệp xảy ra là điều không thể tránh khỏi. Để khắc phục
tình trạng đó, Nhà nước cần phải can thiệp vào nền kinh tế, vào thị trường, phát huy mọi
nguồn vốn nhàn rỗi trong cư dân, các nghiệp chủ đưa vào sản xuất, tăng vốn đầu tư để

giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, tiêu dùng, đặc biệt chú ý đến tăng cầu tiêu


dùng và chỉ có tăng cầu tiêu dùng mới thực sự khuyến khích các nghiệp chủ đầu tư mới
vào sản xuất, đó là một mặt. Mặt khác, Nhà nước phải dùng chính sách tài chính, lãi suất
để tác động vào nền kinh tế. Phải chấp nhận lạm phát vừa phải, tăng lượng tiền nhất định
vào lưu thông để giảm lãi suất, tăng đầu tư tư bản mới, có làm được những điều đó thì
mới làm cho nền kinh tế phát triển cân bằng và ổn định, tránh được các đợt khủng
hoảng, thất nghiệp xảy ra trong nền kinh tế. Tuy nhiên, những quan điểm của Keynes và
những người theo ông không làm cho khủng hoảng, thất nghiệp và lạm phát giảm, trái
lại ngày càng gia tăng theo chu kì kinh tế.
+ Chính do những hạn chế của Keynes đã làm xuất hiện “Chủ nghĩa tự do mới”-họ
muốn kết hợp tất cả các quan điểm cũng như phương pháp luận của các trường phái tự
do cũ, trọng thương mới, trường phái Keynes với tư tưởng cơ bản là: “Cơ chế thị trường
có sự điều tiết của Nhà nước ở mức độ nhất định”, khẩu hiệu mà họ đưa ra là:”Thị
trường nhiều hơn và Nhà nước can thiệp ít hơn”. Họ xây dựng nhiều mơ hình kinh tế thị
trường như:
* “Nền kinh tế thị trường xã hội “ của CHLB Đức, nó dược hinh dung như một sân
bóng trong đó mỗi doanh nghiệp là một cầu thủ, Nhà nước đóng vai trị là trọng tài thiết
kế luật “chơi “ để điều khiển trận đấu sao cho nền kinh tế có thể tránh được những tai
hoạ như khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế là: Tôn
trọng cạnh tranh, Nhà nước can thiệp vào kinh tế phải tổng hợp với thị trường, Nhà nước
coi trọng chỉ tiêu xã hội, sử dụng nó để đánh giá hoạt động của mỗi doanh nghiệp.
* ở Mĩ tiêu biểu có “Trường phái trọng tiền hiện đại”, họ cũng ủng hộ tư tưởng tự do
kinh tế chống lại việc Nhà nước can thiệp, họ cho rằng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
thường xuyên ở trạng thái cân bằng động, đó là hệ thống tự điều chỉnh, hoạt động dựa
vào các quy luật kinh tế vốn có.
* ở các nước Bắc Âu đã có chủ trương tăng cường vai trị của Nhà nước nhưng chủ
yếu chỉ trong lĩnh vực xã hội, kiểu kinh tế thị trường xã hội.
+ Rõ ràng cả 2 trường phái Keynes và tự do mới đều vấp phải những sai lầm, hoặc là

hạ thấp đến mức bỏ qua cơ chế thị trường hoặc là phủ nhận vai trò kinh tế của Nhà nước,


nên vào thập niên 60,70 có sự xích lại gần nhau của 2 trường phái để hình thành nền
kinh tế hỗn hợp, tức là họ đã phối hợp “Bàn tay vơ hình” và “Bàn tay hữu hình” để điều
tiết nền kinh tế. Trong cuốn “Kinh tế học” của Samuelson ông viết:”Điều hành một nền
kinh tế khơng có cả chính phủ lẫn thị trường thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn
tay”, theo ơng Nhà nước có vai trị đảm bảo sự ổn định, cơng bằng và hiệu quả vì các
nền kinh tế thực tế đôi khi chịu thất bại của thị trường gồm cạnh tranh khơng hồn hảo
(cao hơn nữa là độc quyền), tác động bên ngoài( ngoại ứng), hàng hố cơng cộng (nếu
để tư nhân làm thì việc cung ứng thường khơng đủ nên Chính phủ phải nhảy vào làm
việc đó) thuế (một dạng cưỡng bức quan trọng của Nhà nước để phục vụ những chi tiêu
của mình).
Như vậy sự can thiệp của Chính phủ vào thị trường để nâng cao hiệu quả không phải
chỉ đơn thuần là do ý thích, mà đã tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các tư doanh làm ăn
trôi chảy, ngăn cản lạm dụng khi các doanh nghiệp trở thành những kẻ tham lam độc
quyền và kiềm chế hoạt động của các doanh nghiệp khi khối nhà máy của họ đe doạ sinh
mạng và tài sản của người khác. Ngoài ra nếu nền kinh tế hoạt động hồn tồn có hiệu
quả, ln trên ranh giới đường khả năng sản xuất, sự cạnh tranh trên thị trường là hoản
hảo thì hàng hố ln được đặt vào tay người có nhiều tiền nhất chứ khơng phải theo
nhu cầu lớn nhất, vì vậy cần thừa nhận rằng một hệ thống thị trường có hiệu quả có thể
gây ra sự bất bình đẳng lớn, và một khi thị trường dân chủ khơng thích sự phân phối
“phiếu đơla” trong một thị trường “thả lỏng” thì nó có biện pháp thay đổi kết quả thơng
qua những chính sách “phân phối lại”, từ đó Nhà nước có thể sử dụng "thuế luỹ tiến”
đánh thuế người giàu theo tỉ lệ thu nhập cao hơn người nghèo, xây dựng hệ thống hỗ trợ
thu nhập nhằm tạo ra một “mạng lưới an tồn”, bảo vệ những người khơng may khỏi bị
huỷ hoại về kinh tế. Bên cạnh đó, theo Samuelson từ khi ra đời cho đến nay Chủ nghĩa
tư bản đã gặp phải những thăng trầm chu kì cuả lạm phát, do vậy sử dụng một cách thận
trọng quyền lực về tiền tệ và tài chính của Chính phủ (bao hàm việc điều tiết tiền tệ và
hệ thống ngân hàng để xác định mức lãi suất và điều kiện tín dụng.

Qua xem xét 3 vai trị trên đây của Chính phủ- người đảm bảo hiệu quả, công bằng và
ổn định-ông đã làm rõ tại sao nước Mĩ những năm 1980 lại được gọi là “một nền kinh tế


hỗn hợp”, cơ chế thị trường xác định giá cả và sản lượng trong nhiều lĩnh vực, trong khi
đó Chính phủ điều tiết thị trường bằng các chương trình thuế, chi tiêu và luật lệ. Cả hai
bên thị trường và Chính phủ đều có tính chất thiết yếu như nhau. Lí thuyết kinh tế của
trường phải này có ý nghĩa thực tiễn với nước ta vì nền kinh tế nước ta hiện nay là nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là sự vận động dược điều tiết bởi sự
thống nhất giữa cơ chế thị trường-bàn tay vơ hình- và vai trị kinh tế của Nhà nước-bàn
tay hữu hình.
- Thời kì các nước xã hội chủ nghĩa: Sau Đại chiến Thế giới II, bên cạnh hệ thống các
nước tư bản chủ nghĩa đã hình thành và phát triển từ trước, một hệ thống mới các nước
xã hội chủ nghĩa ra đời và tồn tại song song trên khắp các châu lục (trước Đại chiến Thế
giới II chỉ tồn tại duy nhất một Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Liên Xơ). Do quan điểm
chính trị, tư tưởng và nhiều điều kiện khác, tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều áp dụng
chế độ kế hoạch hoá tập trung để quản lý nền kinh tế. Đặc trưng nổi bật nhất của chế độ
này là việc Nhà nước được đặt vào trung tâm của mọi quan hệ kinh tế. Thông qua cơng
cụ kế hoạch được chi tiết hố đến cao độ, mọi vấn đề của nền kinh tế từ sản xuất, phân
phối đến tiêu dùng... đều do các cơ quan Nhà nước đảm trách. Điều này là nguyên nhân
quan trọng dẫn đến sự tụt hậu của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa so với hệ thống
các nước tư bản phát triển. Những cải tổ nhưng không triệt để sau đó vì thế đã dẫn tới sự
sụp đổ khơng tránh khỏi của Liên Xô và một loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
vào cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90.
Như vậy về nguyên tắc Nhà nước cần phải can thiệp vào thị trường nhưng không có
mơ hình nào chung có thể áp dụng cho tồn thế giới. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của
từng nước mà phải tìm ra cho mình một vị trí tiếp cận với nền kinh tế, một cách thức
riêng để can thiệp vào thị trường, định hướng nền kinh tế đến các mục tiêu mong muốn
trên cơ sở tôn trọng các quy luật khách quan của thị trường.

3. Tính tất yếu khách quan của việc xuất hiện vai trò kinh tế của Nhà nước


Trên thực tế, khơng có nền kinh tế nào thế giới lí tưởng của bàn tay vơ hình. Mỗi nền
kinh tế đều có những khuyết tật. Vì lí do đó nên ở bất cứ nơi nào trên thế giới, không có
chính phủ nào dù bảo thủ đến đâu lại khơng nhúng tay vào nền kinh tế. Trong nền kinh
tế thị trường, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển và theo đó quan hệ sản xuất mới
được thiết lập cho phù họp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vì
vậy Nhà nước cần phải nắm vai trò chủ đạo trongviệc đưa ra giải pháp để phát triển lực
lượng sản xuất. Trong thời kì quá độ, để phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường cần
phải giải quyết hai mâu thuẫn chính. Thứ nhất đó là mâu thuẫn giữa nền kinh tế chậm
phát triển với yêu cầu phát triển nền kinh tế hiện đại bằng quá trình đẩy nhanh phát triển
nền kinh tế hàng hố. Thứ hai đó là mâu thuẫn giữa những yếu tố nhanh nhạy, tự phát
của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.Với tư cách là cơ quan quyền lực đại diện
cho lợi ích của nhân dânvà là người chủ đại diện cho sở hữu toàn dân, Nhà nước phải
quản lí nền kinh tế đ, thực hiện chế độ dân chủ về mọi khâu, mọi mặt của quá trình tái
sản xuất.
II- Sự hình thành cơ chế quản lí mới ở Việt Nam
Trước hết ta cần nắm được khái niệm cơ chế kinh tế: Đó là tồng thể các yếu tố có mối
liên hệ tác động qua lại lẫn nhau tạo thành động lực dẫn dắt nền kinh tế phát triển.
1.

Cơ chế quản lí kinh tế cũ ở Việt Nam

a)Đặc trưng cơ bản
Cơ chế quản lí kinh tế cũ của nước ta là cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao
cấp (Giai đoạn trước ĐạI hội VI của Đảng năm 1986) Đặc trưng chủ yếu của cơ chế
quản lý kinh tế giai đoạn này đó là coi kế hoạch là cơng cụ quản lí số một, có tính chất
pháp lệnh bắt buộc trực tiếp hoặc gián tiếp đối với tất cả các nghành, các cấp, tổ chức xã
hội, các đơn vị kinh tế trong đó cơng dân, luật pháp về kinh tế (mới có rất ít) và các cơng

cụ quản lí khác đều được xếp sau cơng cụ kế hoạch. Nhà nước bị biến thành “ông chủ
của một doanh nghiệp lớn”, thông qua hệ thống chỉ tiêu kế hoạch chi tiết, Nhà nước trực
tiếp quyết định tất cả các vấn đề liên quan tới đời sống kinh tế xã hội của đất nước.
b)Ưu điểm


Cơ chế này đã góp phần đắc lực vào việc huy động những nguồn lực khổng lồ trong
thời gian ngắn để triển khai các chương trình quy mơ của quốc gia, đặc biệt là việc động
viên nhân tài vật lực phục vụ các nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu phù hợp với đặc điểm
tình hình đất nước trong những năm chiến tranh. Có thể nói cơ chế quản lí này đã hồn
thành sứ mạng lịch sử của mình.
c)Nhược điểm
- Quản lí kinh tế bằng các mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, điều đó thể hiện ở sự chi
tiết hóa quá đáng các nhiệm vụ do Trung ương giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp
lệnh từ trên giao xuống, qua đó làm suy yếu, triệt tiêu động lực kinh tế thậm chí gây ra
tác động như khuyến khích sự ỷ lại, dựa dẫm, lười biếng gây thiệt hại cho những người
tích cực, tạo mơi trường cho lãng phí, gây thất thoát cho tài sản quốc gia .
- Các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động của các đơn vị kinh
tế cơ sở, nhưng lại không chịu trách nhiệm về những quyết định của mình.
- Coi thường các quan hệ hàng hố- tiền tệ và hiệu quả quản lí kinh tế, quản lí nền kinh
tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ
yếu, do đó hạch tốn chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thể hiện dưới các hình thức:
bao cấp quá giá, chế độ cung cấp và cấp phát vốn của ngân sách mà không ràng buộc vật
chất đối với người được cấp phát vốn.
- Từ những đặc điểm trên tất yếu dẫn đến một bộ máy quản lý cồng kềnh, có nhiều cấp
trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ quản lý kém năng lực
quản lí, khơng theo nghiệp vụ kinh doanh, nhưng phong cách thì quan liêu cửa quyền.
Những quan niệm “ ấu trĩ” trên đây về xây dựng và phát triển kinh tế là biểu hiện sai
lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, mà đặc biệt là quy luật quan hệ
sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp đã tích cóp những xu hướng tiêu cực,
làm nảy sinh sự trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội. Vấn đề
đặt ra là phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó theo hướng căn bản của sự đổi mới cơ chế quản
lí đã được Đại hội VI của Đảng xác định và được tiếp tục khẳng định tại Đại hội VII:”


Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ, vận hành có
hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước”
2.

Cơ chế thị trường và sự vận dụng ở Việt Nam

a)Một số khái niệm cơ bản
Để có thể đi sâu nghiên cứu cơ chế quản lí kinh tế mới ở Việt Nam cần nắm vững một
số khái niệm sau
- Thị trường là gì? Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thơng hàng hố, nó
ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất lưu thơng hàng hố, sản
xuất hàng hố ngày càng phát triển, lượng sản phẩm lưu thông trên thị trường ngày càng
dồi dào và phong phú, thị trường được mở rộng. Như vậy thị trường là lĩnh vực trao đổi
hàng hố thơng qua tiền tệ làm mơi giới, tại đây người mua và người bán tác động qua
lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hố lưu thơng trên thị trường. Thị
trường là trung tâm của tồn bộ q trình tái sản xuất hàng hoá. Những vấn đề cơ bản
của nền sản xuất hàng hố là sản xuất cái gì? Số lượng bao nhiêu? Bằng phương pháp
nào? đều phải thơng qua thị trường vì vậy thị trường đóng vai trị hoạt động và phương
án sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
- Cơ chế thị trường là gì? Mọi hệ thống kinh tế đều được tổ chức cách này hay cách
khác, để huy động tối đa các nguồn lực xã hội và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó
nhằm sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ thoả mãn nhu cầu của xã hội. Việc sản xuất ra
hàng hố gì? Theo phương thức nào là tốt nhất? Việc phân phối hàng hoá được sản xuất
ra sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu xã hội? Đó là những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh

tế xã hội, lực lượng nào quyết định những vấn đề cơ bản đó?
Trong nền kinh tế hàng hố có một loạt những quy luật kinh tế vốn có cho nó hoạt
động như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ... và lợi nhuận là
động lực cơ bản của sự vận động của nó. Các quy luật đó thể hiện sự tác động của mình
thơng qua các mối quan hệ kinh tế trong lĩnh vực trao đổi- thị trường, thông qua sự vận
động của giá cả. Nhờ sự vận động của hệ thống giá cả thị trường mà diễn ra sự thích ứng
tự phát khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu của nhu cầu của xã


hội, tức là các quy luật điều tiết nền sản xuất xã hội. Một nền kinh tế mà trong đó những
vấn đề cơ bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường.
Như vậy, cơ chế thị trường là cơ chế tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hoá, là “ bộ máy”
kinh tế điều tiết toàn bộ sự vận động của kinh tế thị trường, q trình sản xuất và lưu
thơng hàng hố dưới sự tác động khách quan của các quy luật kinh tế vốn có của nó (đặc
biệt là quy luật giá trị- quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thơng hàng hố) cơ
chế đó quyết định những vấn đề cơ bản của nền kinh tế: sản xuất cái gì? như thế nào?
cho ai?
- Vai trị của kinh tế thị trường?Kinh tế thị trường giúp nhân loại giải quyết 3 vấn đề cơ
bản trong nền kinh tế một cách có hiệu quả
+Sản xuất cái gì? Khơng phải do thượng đế, một tổ chức mệnh lệnh và cũng không phải
do người sản xuất quyết định, mà do người tiêu dùng thông qua việc bỏ đồng tiền để lựa
chọn: Họ thích hàng hố này chứ khơng phải hàng hố kia, họ cần số lượng này chứ
không phải số lượng khác, chấp nhận mức giá này chứ không phải mức giá khác. Thông
qua việc bỏ phiếu bằng đồng tiền để chọn cho mình những thứ hàng hố hợp sở thích,
thị hiếu, nhu cầu, về chủng loại, số lượng, mẫu mã. ở đây tính dân chủ tự do thực sự
được thể hiện rõ nét.
+Sản xuất như thế nào? Vấn đề này được giải quyết thông qua cạnh trạnh và chủ yếu là
do cạnh tranh quyết định. Muốn đứng vững và chiến thắng trong cạnh tranh, người sản
xuất phải lựa chọn kĩ thuật và công nghệ tối ưu. Cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong
ngành hình thành nên lợi nhuận siêu ngạch cho người sản xuất. Động lực hấp dẫn này

thúc đẩy họ luôn đổi mới kĩ thuật, phấn đấu đưa năng suất lao động cá biệt lên cao hơn
năng suất lao động xã hội. Hơn nữa, cạnh tranh còn là cơ chế sàng lọc, bình tuyển những
kiểu sản xuất tân tiến, loại bỏ những cơ chế sản xuất cũ kĩ lạc hậu. Vì thế cạnh tranh là
linh hồn của đời sống kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
+Sản xuất cho ai? Như ta đã biết mục đích của sản xuất hàng hoá là để bán, để chuyển
H thành T, làm cho sản xuất tái diễn. Do vậy để trả lời câu hỏi “Sản xuất cho ai” chỉ có
thể là sản xuất cho người có tiền. Trong phân phối, động lực vì đồng tiền để làm giàu trở


thành một sức mạnh thật sự thúc đẩy con người trong các hoạt động kinh tế của họ. Tất
nhiên sự phân phối trong kinh tế thị trường không tránh khỏi một số mặt trái về hậu quả
xã hội.
-Đặc điểm chung của cơ chế thị trường
+Ưu điểm: Trước hết nó kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện
thuận
lợi cho hoạt động tự do của họ, lấy lợi nhuận siêu ngạch làm động lực hoạt động nên địi
hỏi
các doanh nghiệp thường xun phải hạ thấp chi phí lao động cá biệt xuống thấp hơn chi
phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó mà động viên được các nguồn lực của xã hội và sử
dụng tiết kiệm các nguồn lực đó, thúc đẩy việc áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, tăng
năng suất lao động, nâng cao trình độ xã hội hố sản xuất.
* Hai là cơ chế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi nhanh chóng khi
những điều kiện kinh tế thay đổi, làm thích ứng kịp thời khối lượng và cơ cấu của sản
xuất với khối lượng và cơ cấu của nhu cầu. Lí do là vì trong kinh tế thị trường tồn tại
một nguyên tắc ai đưa ra thị trường một loại hàng hoá mới và sớm nhất sẽ thu được lợi
nhiều nhất.
* Ba là trong nền kinh tế thị trường hàng hoá rất phong phú và đa dạng, do vậy tạo điều
kiện thuận lợi cho việc thoả mãn ngày càng tốt hơn những nhu cầu vật chất, văn hố và
sự phát triển tồn diện của mọi thành viên xã hội. Những việc này nếu để Nhà nước tự
làm thì sẽ phải thực hiện một khối lượng cơng việc khổng lổ, có khi cịn khơng thực hiện

được và địi hỏi chi phí cao trong việc ra các quyết định.
+Nhược diểm: Bên cạnh những ưu điểm kể trên, kinh tế thị trường cịn có hàng loạt các
khuyết tật, trước hết là sự phát triển không ổn định của nền kinh tế, điều đó xuất phát từ
tính tự phát của cơ chế kinh tế thị trường. Những cân đối lớn trong nền kinh tế được xác
lập thông qua hàng loạt những dao động. Do đó cứ sau một thời kì phồn thịnh lại đến
thời kì trì trệ, suy thối, khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát...là những hiện tượng gắn


liền với kinh tế thị trường. Những hiện tượng kể trên ảnh hưởng tiêu cực tới các mặt đời
sống kinh tế xã hội.
* Thứ hai, đó là sự xuất hiện độc quyền trong nền kinh tế. Độc quyền vi phạm các điều
kiện hiệu quả Pareto, điều đó làm tổn hại tới lợi ích của người tiêu dùng và của xã hội.
* Thứ ba, các ngoại ứng. Ngoại ứng tồn tại khi việc sản xuất hoặc tiêu dùng một mặt
hàng trực tiếp làm ảnh hưởng tới các doanh nghiệp hoặc người tiêu dùng không can dự
đến việc mua hoặc bán hàng hóa đó, nhưng khơng được phản ánh đầy đủ trong giá cả thị
trường. Ngoại ứng dù tích cực hay tiêu cực khi không được phản ánh trong giá cả thị
trường sẽ làm cho mức sản lượng không phải là tối ưu và do đó làm thiệt hại tới lợi ích
xã hội.
* Thứ tư, hàng hố cơng cộng. Đây là hàng hố mà sự tiêu dùng của một người khơng
ảnh hưởng đến sự tiêu dùng của ngưởi khác như: đường cao tốc, quốc phịng, an
ninh...hàng hố cơng cộng hết sức cần thiết nhưng các cá nhân, hộ gia đình, các doanh
nghiệp không ai chịu bỏ tiền ra để sản xuất.
* Thứ năm, phân phối thu nhập. Do sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường, sự
bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, sự phân hoá giàu nghèo là hiện tượng khơng
tránh khỏi. Những điều đó có thể dẫn đến mâu thuẫn, thậm chí xung đột trong xã hội.
Điều này sẽ trở thành những nhân tố cản trở quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế.
* Thứ sáu, vấn để thông tin. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp cần rất
nhiều thông tin khác nhau. Trong khi đó, khả năng của từng doanh nghiệp trong việc thu
nhập và xử lý thông tin rất hạn chế. Mỗi doanh nghiệp không thể tự giải quyết được nhu
cầu về thơng tin của chính mình.

* Thứ bảy, mục đích của doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, do đo họ có thể lạm dụng tài
nguyên xã hội, có thể gây ra ơ nhiễm nguồn nước, khơng khí...
* Thứ tám, khủng hoảng sản xuất thừa là căn bệnh cố hữu của các nền kinh tế thị trường
phát triển. ở đây, do mức cung hàng hố vượt q mức cầu có khả năng thanh tốn nên
dẫn tới tình trạng “ dư thừa hàng hố” Ngun nhân của tình trạng trên là do mâu thuẫn
cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn này được thể hiện trên


tính kế hoạch cao độ ở từng doanh nghiệp với tính vơ chính phủ trên tồn bộ nền sản
xuất xã hội. Xu hướng mở rộng sản xuất vô hạn độ mâu thuẫn với sức mua có hạn của
quần chúng. Mâu

thuẫn đối kháng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.

Do những khuyết tật đó mà xã hội thường xuyên phải có sự kiểm tra, điều tiết, định
hướng một cách có ý thức đối với sự vận động của cơ chế thị trường, đó là lí do cần thiết
phải thiết lập vai trị quản lí của Nhà nước ở tất cả các nước có nền kinh tế thị trường. ở
nước ta sự quản lí của Nhà nước nhằm hướng tới sự ổn định về kinh tế xã hội, sự công
bằng và hiệu quả cũng như làm cho nền kinh tế ngày càng tăng trưởng và phát triển với
tốc độ cao.
b)Sự vận dụng vào Việt Nam
Cùng với tiến trình phát triển chung của thế giới, nền kinh tế Việt Nam cũng đi lên
phát triển một nền kinh tế thị trường nhưng mang bản săc riêng của Việt Nam-nền kinh
tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa- đó là nền
kinh tế vận động theo cơ chế hỗn hợp và được định hướng bởi lý tưởng của chủ nghĩa xã
hội. Đây là vấn đề hết sức mới mẻ và tất nhiên định nghĩa này đòi hỏi phải loại trừ thành
kiến"Thị trường là
chủ nghĩa tư bản","kế hoạch là chủ nghĩa xã hội" và các quan điểm cùng loại. Để hiểu
rõ về
nền kinh tế thị trường của Việt Nam ta cần làm rõ một số vấn đề sau:

*Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa?
Khi chuyển sang kinh tế thị trường chúng ta đứng trước một thực trạng là đất nước đã
và đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong
kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội còn rất thấp. Đất nước lại trải
qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân,
phong kiến còn nhiều, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
- Kinh tế hàng hố cịn kém phát triển, nền kinh tế cịn mang nặng tính chất tự cấp tự
túc:


+ Trình độ cơ sở vật chất kĩ thuật và cơng nghệ sản xuất cịn thấp kém
+ Hệ thống kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội chưa đủ để phát triển
kinh tế thị trường ở trong nước và chưa đủ khả năng để mở rộng giao lưu với thị trường
quốc tế.
+ Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả, còn mang nặng đặc trưng của một
cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Hiện tượng độc canh cây lúa vẫn còn tồn tại, ngành nghề
chưa phát triển. Từ Đại hội lần thứ VI của Đảng cho đến nay tuy cơ cấu ngành và cơ cấu
thành phần kinh tế đã có nhiều thay đổi nhưng vẫn chưa thành được một cơ cấu mới hợp

+ Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của nước ta đã được hình thành và đang phát
triển vì vậy thị trường ở nước ta cũng đang được hình thành và phát triển. Tuy nhiên thị
trường ở nước ta còn ở trình độ thấp, tính chất của nó cịn hoang sơ, dung lượng cịn
thiếu và có phần rối loạn, chúng ta mới từng bước có thị trường hàng hố nói chung. Về
cơ bản nước ta cịn chưa có thị trường sức lao động. Chúng ta cũng chưa có thị trường
tiền tệ và thị trường tiền vốn, hoặc mới có thị trường này ở khu vực ngoài quốc doanh
với quan hệ vay, trả, mua, bán cịn thơ sơ. Khu vực kinh tế Nhà nước vẫn sử dụng lãi
suất, tỉ giá và quan hệ tài chính tiền tệ do Nhà nước quy định. Chưa có lãi suất, tỉ giá và
tín dụng thực sự theo cơ chế thị trường.

Thực trạng trên đây của nước ta là hậu quả của nhiều nguyên nhân khác nhau. Về mặt
khách quan đó là do trình độ phát triển của phân cơng lao động xã hội cịn thấp. Nền
kinh tế cịn mang nặng tính tự cấp tự túc. Về mặt chủ quan là do nhận thức chưa đúng
đắn về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, do sự phân biệt duy ý chí giữa thị trường có tổ chức
và thị trường tư do. Một thời gian khá dài đã tồn tại quan niệm cho rằng những tư liệu
sản xuất lưu chuyển trong nội bộ các xí nghiệp quốc doanh là những hàng hố đặc biệt,
nó khơng được mua bán tự do vì chúng có vai trị đặc biệt quan trọng. Nếu chúng rơi
vào tay tư nhân nó sẽ trở thành những phương tiện nô dịch lao động của người khác. Sức
lao động tiền vốn cũng được quan niệm không phải là hàng hố...Mặt khác do quản lí


theo chiều dọc- theo chức năng kinh doanh của từng ngành một cách máy móc cho nên
đã dẫn tới hiện tượng cửa quyền, cắt đứt mối liên hệ tự nhiên giữa các ngành.
+ Năng suất lao động và thu nhập quốc dân tính theo đầu người cịn thấp
Do trình độ cơ sở vật chất kĩ thuật và cơng nghệ cịn thấp, kết cấu hạ tầng dịch vụ sản
xuất
và dịch vụ xã hội còn kém, cơ cấu kinh tế còn mất cân đối, thị trường trong nước còn
chưa phát triển...cho nên năng suất lao động xã hội và thu nhập bình qn tính theo đầu
người ở
nước ta tất yếu vẫn cịn rất thấp. Tình hình này được phản ánh qua các số liệu sau
Theo giá hiện hành( tỷ 1988

1989

1990

1991

1992


đồng)
GNP

13,266

2,308

38,167

69,959

101,87

Tổng đầu tư (I)

1,906

2,817

4,796

-

-

Tiêu dùng (C)

13,291

24,358


38,177

66,61

94,883

Tiết kiệm (S)

-25

-50

-10

3,349

6,987

Qua số liệu trên đây ta thấy: do năng suất lao động còn thấp nên mức tiêu dùng xã hội từ
năm 1988 đến năm 1990 đều lớn hơn mức GDP hàng năm, do vậy khơng có tích luỹ nội
bộ từ nền kinh tế trong nước, tiết kiệm đều là số âm. Theo số liệu thống kê của Ngân
hàng thế giới năm 1991 thì thu nhập quốc dân theo đầu người của nước ta so với các
nước đang phát triển ở Châu á thì vào loại thấp nhất Việt Nam: 200USD/người, trong
khi GDP/người năm 1990 của Trung Quốc là 370USD, Indonexia là 570USD, ấn Độ là
350USD, Philippin là 730USD, Thái Lan là 1420USD, Malaixia là 2320USD, Nam
Triều Tiên là 5400USD
- ảnh hưởng của mơ hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
Do nhận thức chủ quan duy ý chí về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mà trong nhiều thập kỉ
qua ở nước ta đã tồn tại mơ hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp,

thực tiễn hoạt động kinh tế đã chứng minh mơ hình này có nhiều nhược điểm cũng như


những tác động tiêu cực của nó đến nền kinh tế nước ta, nó gần như đối lập với nền kinh
tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường.
*Thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế Việt Nam sang kinh tế thị trường có sự
quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Lịch sử đã chứng minh rằng không thể chuyển nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn nếu
thiếu " đòn xeo" là kinh tế hàng hố. Chính Mac đã coi sự phát triển của kinh tế hàng
hoá là xuất phát điểm và là điều kiện quan trọng nhất không thể thiếu được đối với sự ra
đời và phát triển của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa. Nội chiến kết thúc, Lenin cũng
chủ trương thi hành chính sách kinh tế mới (NEP). Về thực chất đó là sự phát triển kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần nhằm khơi dậy sự sống động cuả nền kinh tế, mở rộng
giao lưu hàng hoá giữa thành thị và nông thôn, thực hiện các quan hệ kinh tế bằng hình
thức quan hệ hàng hố tiền tệ trên thị trường.
- Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta có sự khác biệt với các nước
Đông Âu và Liên Xô (cũ), những nước này đã có nền kinh tế phát triển, nền kinh tế đã
được cơ khí hố, khơng có tính tự nhiên tự cấp tự túc như nước ta, vì vậy quá trình hình
thành nền kinh tế thị trường nước ta trước hết là q trình chuyển nền kinh tế cịn mang
nặng tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Mặt khác, nền kinh
tế nước ta cũng đã tồn tại mơ hình kinh tế chỉ huy với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, cơ
chế này đã được phân tích ở phần trên, nó gần như đối lập với thị trường cũng như cơ
chế thị trường. Thị trường được coi là trung tâm của quá trình sản xuất và tái sản xuất xã
hội, vì vậy quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường cịn là q
trình xố bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước.
- Quá trình chuyển nền kinh tế nước ta đồng thời cũng là q trình thực hiện nền kinh tế
mở, nhằm hồ nhập thị trường trong nước với thị trường thế giới.
Sự xuất hiện và phát triển của sản xuất hàng hoá đã phá vỡ các quan hệ kinh tế truyền
thống của nền kinh tế khép kín. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã khẳng định: kinh

tế hàng hoá đã làm cho thị trường dân tộc gắn bó và hồ nhập với thị trường thế giới.


Chính giao lưu hàng hố đã làm cho các quan hệ kinh tế được mở rộng khỏi phạm vi
quốc gia, đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng. Kinh tế mở là đặc điểm và là
xu thế của thời đại ngày nay mà bất kì quốc gia nào cũng phải coi trọng. Trong điều kiện
nước ta, bài học về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong cuộc đấu
tranh giành độc lập tự do trước đây một lần nữa lại sống động trong công cuộc phát triển
đất nước với bối cảnh và điều kiện mới. Trong quan hệ kinh tế quốc tế chúng ta đã có
nhiều đổi mới quan trọng, đã chuyển từ đơn phương sang đa phương, quan hệ với tất cả
các nước khơng phân biệt chế độ chính trị, theo ngun tắc đơi bên cùng có lợi và khơng
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Trong những năm gần đây, thực hiện quan
điểm về kinh tế đối ngoại nói trên, hoạt động kinh tế quốc tế nước ta đã có những tiến bộ
lớn. Xuất khẩu hàng hố tăng nhanh với nhịp độ trên dước 20% hàng năm (1986-1992),
bảo đảm nhập khẩu các loại vật tư và công nghệ chủ yếu, cải thiện dần cán cân thanh
toán quốc tế. Chúng ta đã nhanh chóng điều chỉnh và khắc phục được những hẫng hụt về
nguồn vốn và thị trường từ các nước SNG và Đơng Âu. Hàng hố của nước ta tìm được
những thị trường mới như Đơng Nam á, Tây Âu. Nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam cũng
tăng nhanh.
*Các giai đoạn và các biện pháp hình thành cơ chế quản lí mới
Quắ trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một q trình phức tạp, có nhiều khó
khăn, khơng nên quan niệm đơn giản và nóng vội, cần phải tn thủ những tính quy luật
của q trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường, q trình đó trải qua những giai
đoạn sau đây:
-Giai đoạn quá độ chuyển sang nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần có sự quản lí của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về mặt lịch sử giai đoạn này bắt đầu từ năm 1979 với mốc lịch sử quan trọng là Nghị
quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ VI (khoá IV) tháng 9 năm 1979. Về
mặt logic, giai đoạn này bắt đầu từ việc hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất

hàng hoá theo đúng nghĩa nhằm tạo ra những mối quan hệ vừa tự chủ, vừa lệ thuộc lẫn


nhau giữa các chủ thể sản xuất. Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là khắc phục tính
hiện vật của quan hệ trao đổi, hình thành quan hệ hàng hoá tiền tệ trên thị trường. Nội
dung trên được thực hiện với những giải pháp chủ yếu sau đây:
+ Một là hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hố nhằm chuyển quan hệ
trao đổi có tính hiện vật sang quan hệ hàng hoá tiền tệ.
+ Hai là đẩy mạnh phân công lao động xã hội nhằm mở rộng thị trường.
+ Ba là chuyển quan hệ sở hữu có tính đơn nhất sang quan hệ sở hữu có tính đa dạng
vớinhiều hình thức sở hữu khác nhau để khắc phục hiện tượng vô chủ, lãi giả, lỗ thật
trong các doanh nghiệp Nhà nước, để tạo ra sự tự do kinh tế và hình thành nhiều nhà
kinh doanh giỏi thích ứng với cơ chế thị trường. Trong điều kiện của nước ta, chúng ta
đã điều chỉnh cơ cấu sở hữu theo những bước sau đây: Phát huy hình thức kinh tế hộ
nông dân, thợ thủ công, xây dựng khu vực kinh tế công cộng với chức năng là bảo đảm
sự ổn định và là cơ sở cho sự phát triển các thành phần kinh tế, hình thành và phát triển
các công ty cổ phần.
+ Bốn là, đổi mới chính sách kinh tế nhằm chuyển các quan hệ kinh tế theo chiều dọc
sang chiều ngang, từng bước đã thực hiện tự do hoá giá cả. Thực chất là thay thế cơ chế
hai giá bằng cơ chế một giá, nhằm từ bỏ cơ chế cũ, chuyển sang cơ chế thị trường, đây là
khâu quan trọng tạo tiền đề cho việc đổi mới cơ chế trong các lĩnh vực khác như tài
chính, tiền tệ, tiền lương, quản lí thị trường. Việc tự do hố giá cả đã làm cho sản xuất
thích ứng nhạy cảm với nhu cầu của thị trường và đem lại sức sống mới cho sản xuất.
- Giai đoạn phát triển kinh tế hàng hố nhiều thành phần có sự quản lí của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan điểm phát triển
kinh tế hàng hố nhiều thành phần có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, quan niệm này được tái khẳng định rõ hơn ở Đại hội lần thứ VII và lần thứ
VIII của Đảng ta. Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là phát triển và mở rộng quan hệ
hàng hoá tiền tệ tạo tiền đề cho kinh tế hàng hoá phát triển. Để thực hiện nội dung đó,

chúng ta đã và đang thực hiện những giải pháp chủ yếu sau:


+ Một là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố nhưng
phải đảm bảo nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tăng trưởng và phát triển, bảo đảm
sự ổn định của nền kinh tế quốc dân cũng như về các mặt chính trị- xã hội, bảo đảm sự
công bằng xã hội và sự vững bền của môi trường, bảo đảm sự phát triển, tăng trưởng
đồng bộ và cân đối, tạo điều kiện thúc đẩy những ngành mũi nhọn nhằm tạo ra sự tích
luỹ nội bộ từ trong nền kinh tế.
+ Hai là chủ động tạo điều kiện cần thiết để xây dựng đồng bộ các yếu tố của thị trường,
phát huy những ưu thế và động lực của thị trường, đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực
của
cơ chế thị trường.
+ Ba là, hồn chỉnh và tăng cường vận dụng các chính sách tài chính và tiền tệ nhằm tạo
nguồn vốn và tạo ra và thực hiện việc đầu tư vốn theo mục tiêu phát triển, phân phối,
phân phối lại thu nhập quốc dân tạo ra sự ổn định về giá cả, về tiền tệ và tỷ giá hối đối,
qua đó tạo mơi trường thuận lợi cho sự phát triển sản xuất hàng hoá phù hợp với cơ chế
thị trường
+ Bốn là đào tạo cán bộ quản lí kinh doanh theo yêu cầu của kinh tế thị trường. Chúng
ta đã kết hợp giữa việc mở rộng quy mô đào tạo để nâng cao dân trí với việc coi trọng
chất lượng nhằm đào tạo nhân tài.Việc đào tạo cán bộ quản lí kinh doanh không chỉ chú
ý đáp ứng nhu cầu của khu vực kinh tế Nhà nước mà còn phải quan tâm tới khu vực
ngoài quốc doanh cũng như khu vực kinh tế nông thôn và miền núi.
+ Năm là, tăng cường vai trị quản lí của Nhà nước để phát huy những ưu thế và khắc
phục những của khuyết tật của cơ chế thị trường.
- Giai đoạn hình thành và phát triển cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nội dung chủ yếu của giai đoạn 3 là tiền tệ hoá các quan hệ kinh tế, tạo lập cơ sở kinh
tế cho các quy luật kinh tế của kinh tế thị trường, phát huy tác dụng một cách đầy đủ,
phát triển kinh tế trong nước và hoà nhập với kinh tế thế giới. Nội dung trên được thực

hiện với


những giải pháp then chốt sau:
+ Một là phát triển cơ cấu kinh tế mở nhằm hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, đây là
giải pháp có tính thời đại.
+ Hai là hoàn thiện và phát triển kinh tế thị trường các yếu tố sản xuất nhằm đáp ứng
các nhu cầu về vốn, sức lao động và các điều kiện vật chất khác cho sản xuất.
+ Ba là thiết lập cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước, cần tiếp tục thực hiện tự
do hoá giá cả và thương mại hoá giá cả trong nền kinh tế, tăng cường năng lực quản lí
của Nhà nước đối với cơ chế thị trường, đây là giải pháp có ý nghĩa gần như quyết định
đối với sự hình thành và phát triển của kinh tế thị trường nước ta.
+ Bốn là lựa chọn chính sách khoa học, cơng nghệ vì mục tiêu phát triển. Hướng cơng
nghệ được lựa chọn ở tầm quốc gia là cộng nghệ điện tử, tin học, công nghệ sinh học,
gia công nguyên liệu...hướng công nghệ này sẽ khắc phục được sự khan hiếm các nguồn
lực và đưa nền kinh tế phát triển theo chiều sâu, trong đó lao động trí tuệ trở thành đặc
trưng nổi bật.
III-

Sự cần thiết tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ở Việt Nam

1- Nội dung( đặc trưng) của cơ chế quản lí mới
Ngồi những dặc trưng chung của một nền kinh tế thị trường là
- Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi
phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh của mình, được tự do liên
doanh, liên kết, tự do tổ chức quá trình sản xuất theo luật định, đây là đặc trưng rất quan
trọng của kinh tế thị trường, nó xuất phát từ những điều kiện khách quan của việc tồn tại
kinh tế hàng hoá đồng thời cũng là biểu hiện và là yêu cầu nội tại của kinh tế hàng hoá.
- Trên thị trường hàng hoá rất phong phú, người ta tự do mua bán hàng hoá. Trong đó,
người mua chọn người bán, người bán tìm người mua, họ gặp nhau ở giá cả thị trường,

đặc
trưng này phản ánh tính ưu việt hơn hẳn của kinh tế thị trường so với kinh tế tự nhiên.


- Giá cả được hình thành ngay trên thị trường, giá cả thị trường vừa là sự biểu hiện bằng
tiền của giá trị thị trường, vừa chịu sự tác động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung
cầu hàng hoá dịch vụ.
- Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường, nó tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản
xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế.
- Kinh tế thị trường là một hệ thống kinh tế mở, một mặt nó phát huy được lợi thế so
sánh của nền kinh tế, mặt khác tạo điều kiện tiếp thu những thành tựu mới của khoa học
kĩ thuật-cơng nghệ thế giới. Nó rất đa dạng, phức tạp và được điều hành bởi hệ thống
tiền tệ và hệ thống luật pháp của Nhà nước.
Ngoài ra thị trong cơ chế quản lí kinh tế mới của nước ta cịn có những đặc trưng riêng
sau:
- Hai mặt kinh tế và thị trường nước ta được chủ động kết hợp với nhau ngay từ đầu
trên cả tầm quản lí kinh tế vĩ mơ và vi mơ thơng qua pháp luật. Nếu ở tầm vi mô, các
chủ doanh nghiệp lấy lợi nhuận làm mục tiêu xác định hiệu quả của sản xuất kinh doanh
thì ở tầm vĩ mơ, Nhà nước dùng hiệu quả kinh tế xã hội làm mục tiêu quản lí nhằm thực
hiện tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Vấn đề dân chủ và công bằng xã hội ở đây
được hiểu theo nghiã những đơn vị và cá nhân trong xã hội được làm những gì mà pháp
luật khơng cấm, được tự do sản xuất và kinh doanh, được hưởng những thành quả lao
động của mình và được thừa kế tài sản theo luật định.
- Cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, môi trường sinh thái của đất nước được
chủ động bảo vệ qua các dự án đầu tư môi sinh và qua việc chấp hành một cách đúng
đắn luật pháp, chính sách mơi trường của Nhà nước qua từng thời kì.
- Nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nứơc theo định hướng xã hội chủ nghĩa
là nền kinh tế thị trường có trình độ phát triển cao. Nếu như nền kinh tế trì trệ, kém phát
triển, tổng sản phẩm và thu nhập quốc dân thấp kém dẫn tới mức thu nhập bình qn của
dân cư cịn thấp, khơng có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế thì khơng thể gọi là định hướng

xã hội chủ nghĩa được, đành rằng chỉ có nội dung này thì chưa đủ bởi vì nhiều nước đã


có nền kinh tế phát triển cao nhưng đó lại không phải là nền kinh tế định hướng xã hội
chủ nghĩa.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lí nền kinh tế thị trường dựa trên mục tiêu dân giàu
nước
mạnh xã hội cơng bằng văn minh. Trong thời kì đầu chuyển sang kinh tế thị trường Nhà
nứơc ta thực hiện vai trò "bà đỡ " tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế thị trường phát
triển đúng hướng, vai trị đó được thể hiện bằng hệ thống pháp luật, bảo vệ quyền tự do
dân chủ, công bằng xã hội và mở rộng phúc lợi xã hội cho nhân dân.
- Nền kinh tế đang ở trong quá trình chuyển biến từ một nền kinh tế mang nặng tính tự
cấp tự túc sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mơ của Nhà nước, do đó về cơ
bản nền kinh tế còn thiếu đồng bộ, mang nhiều yếu tố tự phát rối loạn, vẫn mang tính
chất sản xuất nhỏ, kỹ thuật thủ công, năng suất lao động thấp, mức sống, mức thu nhập
của dân cư còn thấp. Đội ngũ những nhà sản xuất kinh doanh còn rất non trẻ, tình trạng
quan liêu, thiếu hiểu biết, thậm chí trì trệ bảo thủ trước bước ngoặt chuyển đổi kinh tế.
Dấu ấn của cơ chế kinh tế bao cấp còn ảnh hưởng xấu tới các hoạt động kinh tế. Do vậy
chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là lấy tự do hoá thương mại và tự do hoá giá cả là
khâu trung tâm đột phá, từng bước tiến tới cơ chế thị trường đích thực.
- Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần( kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh
tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước và mới đây nhất tại Đại hội IX
của Đảng ta đã xác định thêm một thành phần kinh tế nữa là kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi) Để có thể định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế Nhà nước phải phát huy được vai
trị chủ đạo, nó cùng với kinh tế hợp tác là nền tảng của nền kinh tế. Ngoài ra Nhà nước
đầu tư phát triển các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế khác nhằm tạo nhiều
công ăn việc làm cho dân cư và góp phần tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Các thành
phần kinh tế được phát triển một cách bình đẳng với nhau.
- Cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nứơc trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ
nghĩa là vấn đề hồn tồn mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử và hồn tồn chưa có

một mơ hình vạch sẵn. Do vậy, khơng thể ngay từ đầu hình dung tồn bộ các chi tiết của


×