Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

bao cao tot nghiep nganh Nong hoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.65 KB, 31 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>PHẦN 1 MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Nước ta là nước thuộc nền văn minh lúa nước từ lâu đời, với hơn 70 % dân số là nông dân, lao động nông nghiệp chiếm 76% tổng số lao động cả nước. Lúa gạo là lương thực chính cung cấp cho đời sống hàng ngày của con người Việt Nam nói riêng và các nước trên thế giới nói chung. Dược liệu, thực phẩm và cung cấp thức ăn cho gia súc. Nước ta không những sản xuất luấ gạo để đảm bảo an ninh lương thực mà còn tạo ra sản phẩm hàng hoá để xuất khẩu đưa ra thị trường thế giới đem lại lợi nhuận cho người nông dân. Do vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến nông nghiệp, đề ra nhiều chủ trương, chính sách về nghiên cứu các tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất cay trồng nói chung và cây lúa nói riêng. Nhằm giải quyết mục tiêu lương thực đòi hỏi phải có chủ trương đúng đắn và lâu dài, tập trung đầu tư thích đáng về cây lúa nước. Do điều kiện tình hình hiện nay gia tăng dân số nên diện tích đất sản xuất ngày càng bị thu hẹp lại, con đường có hiệu quả nhất để đảm báo cho an ninh lương thực, xói đói giảm nghèo, nâng cao mức sống chi người dân lâo động nông nghiệp, nông thôn. Cần tập trung khai thác hết tiềm năng diện tích đất đai hiện có, đưa vào các tiến bộ khoa học kỹ thuật trên đông ruộng, tăng vụ trên từng đơn vị diện tích nhằm nâng cao năng suất và đạt hiệu quả kinh tế vững chắc trong sản xuất nông nghiệp. Trong hệ tống các biện pháp canh tác, biện pháp sử dụng giống lúa tốt phù hợp với yêu cầu sản xuất, điều kiện tự nhiên của địa phương là yếu tố hết sức quan trọng hàng đầu quyết định việc nâng cao năng suất sản lượng cây trồng và đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân. Trong những thập kỷ qua, nước ta đã tiếp thu và phát huy những tiến bộ khoa học kỹ thuật trên thế giới về công tác nghiên cứi lai tạo, chọn lọc, khảo nghiệm giống cây trồng của nước ta đạt được nhiều thành tựu đáng kể góp phần vào công cuộc xây dựng ngành nông nghiệp ngày càng vững mạnh. Nền nông nghiệp của huyện Bắc Trà My nói chung và của xã Trà Giang nói riêng đã từng bước có những tiến bộ đáng khích lệ. Lãnh đạo chính quyền địa phương đã chỉ đạo các Ban, ngành liên quan và đền từng người dân vận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới để đưa vào sản xuất, nhất là sử dụng những giống lúa mới có xác nhận trên diện tích ruộng, như: các giống Xi21, Xi23, Khang dân 18, TH5, HT1,…được đưa vào sản xuất đại trà. Thực trạng sản xuất lúa ở huyện Bắc Trà My cũng như của xã Trà Giang hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn do nhiều nguyên nhân như: khí hậu thời tiết khắc nghiệt, đất đai bạc màu, điều kiện kinh tế xã hội, khả năng đầy tư thâm canh thấp kém, hạ tầng cơ sở còn yếu và thiếu, vấn đề đầu ra sản phẩm, công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng, cơ cấu giống lúa, công tác khuyến nông,…còn nhiều hạn chế dẫn đến năng suất thấp và bấp bênh, hiệu quả kinh tế thấp, giá trị hàng hoá không cao,…Do đó, tính bền.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> vững chưa cao, tình trạng dịch bệnh và mất mùa vẫn còn xảy ra, người sản xuất lúa vẫn còn nghèo. Công tác quản lý giống chưa thực sự chặc chẽ, thiếu kiểm tra, kiểm định mà chỉ tin tưởng ở nhà cung cấp nên đã xảy ra tình trạng đưa giống lúa kém chất lượng, đã thoái hoá hoặc nhiễm sâu bệnh bán hoặc cấp cho người dân mà không hế hay biết. Áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, thâm canh tăng năng suất theo từng vùng, từng vụ chưa được chú trọng đúng mức. Trên cùng một cánh đồng sản xuất lúa còn nhiều giống lẫn lộn không đồng nhất, tuỳ thuộc vào khả năng thâm canh, chọn giống của hộ sản xuất. Nhằm giải quyết những vấn đề tồn tại nêu trên, Tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Điều tra tình hình sản xuất lúa tại xã Trà Giang, huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam”. 1.2. Mục đích đề tài - Điều tra nhằm đánh giá thực trạng về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội và tình hình sản xuất - lúa tại xã Trà Giang để từ đó đánh giá tiềm năng sản xuất lúa và tìm ra những thuận lợi, khó khăn và giải pháp trong việc sản xuất lua tại địa phương. - Đề xuất các biện pháp kỹ thuật phù hợp với trình độ và tập quán canh tác lúa của người dân địa phương nhămg thu được năng suất và hiệu quả kinh tế cao..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> PHẦN 2 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.1. Vai trò và giá trị của cây lúa Lúa là một cây lương thực đặc biệt quan trọng và chủ yếu cung cấp lương thực, thức ăn trong chăn nuôi gia súc. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 60 – 70 % dân số sống bằng lúa gạo. Trong đó, các nước Châu Á 80 – 90 %, và 100 % các nước trên thế giới sử dụng lúa gạo. 2.1.1. Giá trị về dinh dưỡng: So sánh thành phần hoá học của một số cây lương thực, ta thấy: lúa gạo giàu tinh bột và đường, tuy nhiên nghèo protein và chất béo hơn lúa mì và ngô. Tinh bột là nguồn cung cấp calo, giá trị nhiệt lượng của lúa là 35904 calo, lúa mỳ là 3610 calo, độ đồng hoá đạt 95,9 %. Hàm lượng amiloza trong hạt quyết định dộ dẻo của gạo, nếu hạt có 10 – 18 % % amiloza thì gạo mềm, nếu từ 25 – 30 % thì gạo cứng. Các loại gạo Việt Nam có hàm lượng amiloza thay đổi từ 18 – 45 %, đặc biệt là khoảng 6 – 8 %. Trong thành phần protein lúa gạo, lizin chiếm khoảng 4,26 %, tritophan chiếm 1,63 – 2,14 %, methionin chiếm 1,44 – 1,77 %, teonin chiếm 3,39 – 4,42 %, với thành phần dinh dượng như trên thì cứ mỗi 100g gạo sẽ tạo ra năng lượng 347 – 357 kcalo. Các loại gạo Việt Nam có hàm lượng protein thấp nhất là 5,25 %, cao nhất là 12,84 %, phần lớn trong khoảng 7 – 8 %. Lúa Nếp có hàm lượng protein cao hơn lúa tẻ, lúa chiêm cũng có lượng protein cao. Lipit vào loại trung bình, phân bố chủ yếu ở lớp vỏ gạo, nếu gạo xay là 2,02 %, gạo giã chỉ còn 0,52 % % Như vậy, lúa là cây lương thực có giá trị dinh dưỡng cao, có đầy đủ các chất dinh dưỡng như các loại cây lương thực khác. Ngoài ra, còn có nhiều vitamin đặc biệt nhóm vitamin B1, B2, B6, PP,…lượng vitamin B1 là 0,45mg/ 100g hạt ( trong đó phân bố ở phôi 45 %, vỏ cám 34, 5 % ), trong gạo còn chứa nhiều khoáng chất như P2O5, K2O, MgO, SiO2, CaO, Fe2O3,… Từ đặc điểm dinh dưỡng của hạt, đã từ lâu lúa gạo được xem là thực phẩm và dược phẩm có giá trị. tổ chức dinh dưỡng thế giới đã gọi: “ Hạt gạo là hạt của sự sống ”. Thành phần Cây LT Lúa Lúa mì Lúa mì đen Ngô Cao lương Kê. Tinh bột 62,4 6. Protein. Lipit. Xenlulo. Tro. ( Nguồn: Giáo trình cây lúa ĐHNN1, NXBNN, HN. 1997 ). Nước.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> 2.1.2. Giá trị kinh tế: Lúa gạo ngoài việc sử dụng làm cây lương thực chủ yếu, các sản phẩm phụ của cây lúa còn được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau: - Gạo: còn có thể làm nguyên liệu sản xuất rượu, bia… - Tấm: Sản xuất tinh bột, rượu cồn, votca, aceton, phấn mịn, thuốc chữa bệnh. - Cám: Dùng để sản xuất thức ăn cho gia súc non và vổ béo, làm thức ăn cho gia súc tổng hợp. Trong công nghệ dược, cám còn được để sản xuất vitamin B, chữa bệnh tê phù. Dầu cám có chất lượng cao, dùng để chữa bệnh, chế tạo sơn cao cấp, làm mỹ phẩm, chế xà phòng… - Trấu: Sản xuất nắm men, làm thức ăn cho gia súc, sản xuất vật liệu đóng lót hàng, dùng để đọn chuồng, làm phân bón có SiO2 cao, ở nông thôn còn sử dụng làm chất đốt. - Rơm rạ: sản xuất thành giấy Caston xây dựng, đồ gia dụng như: thừng, chão mũ, … Cũng có thể dùng rơm rạ để sản xuất thức ăn gia súc, nấm rơm, độn chuồng, chất đốt, … Ngoài ra, ở một số nước trên thế giới, gạo còn là một trong những mặt hàng xuất khẩu trong những năm gần đây như Mỹ, Thái Lan, Trung Quốc…riêng Việt Nam, hàng năm xuất khẩu trên 02 triệu tấn tới khoảng 40 nước trên thế giới, đúng thứ 2 sau Thái Lan. 2.2. Tình hình sản cuất và nghiên cứu lúa gạo trên thế giới và Việt Nam: 2.1.1. Trên Thế giới: Diện tích lúa trên thế giưói khá lớn, tuy nhiên không phân bổ đồng đều, khoảng 90% tập trung ở Châu Á, phạm vi phân bố từ vĩ tuyến 30 0N đến 400B. Năng suất lúa thay đổi tuỳ theo mức độ thâm canh, trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật của từng nước. - Tình hình sản xuất lúa: Bảng 2.1 cho thấy: Giai đoạn 2001 – 2005, sản lượng lúa của thế giới đều tăng, năm 2005 đạt 634.507 triệu tấn. Trong đó: Sản xuát châu Á đạt 5774,114 triệu tấn đạt 90%; ở châu Phi – 20,389 triệu tấn ( 3% ), Châu Mỹ- 36,299 triệu tấn ( 6% ); ở Châu Âu và châu Đại Dương 3.704 triệu tấn ( 1% ). Giai đoạn từ năm 2005-2008, sản lượng lúa của toàn thế giới và các châu lục đều tăng, chỉ có Châu Âu và châu Đại Dương là sản lượng giảm, năm 2008 đạt 685,01 triệu tấn. Trong đó: sản lượng lúa châu Á đạt 266,86 triệu tấn chiêm 91%; ở châu Phi 23,175 triệu tấn ( 3% ); ở châu Mỹ 35,644 triệu tấn ( 5% ); ở châu Âu và châu Đại Dương chỉ có 3.51 triệu tấn ( 1% )..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Bảng 2.1 sản lượng lúa thế giới và các châu lục giai đoạn 2001-2008: Đơn vị tính: Triệu tấn Thế giới, châu lục Toàn Thế giới Châu Á Châu Âu Châu Đại Dương Châu Mỹ Châu Phi. 2001. 2002. 2003. 98.245. 569.478. 584.717. 44.63. 515.385. 530.411. 2004. 2005. 2006. 2007. 2008. 607.91. 634.507. 641.08. 657.414. 685….. 547.591. 574.114. 580.86. 599.35. 622….. Windows Media Player.lnk. (Nguồn: FAO, 2009) Bảng 2.2 ta thấy: Về diện tích: Diện tích tăng không đều qua các năm 1998 – 2000, Năm 2001 diện tích giảm đột ngột, sau đó có tăng nhưng không tăng bằng các năm trước. Về năng suất: Nhìn chung năng suất luôn có chiều hướng tăng lên qua các năm, năm 2000 – 2001 cùng với diện tích, năng suất cũng giảm nhưng qua các năm 2006 – 2008 năng suất luôn ổn định ở mức 41 tạ/ha, cao nhất so với các năm trước. Về sản lượng: Do việc phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ và việc áp dụng tốy nó vào trong sản xuất nông nghiệp, nên sản lượng lúa thế giới tằn nhưng sự tăng không ổn định qua các năm. Năm 1997 – 2008 sản lượng tăng từ 577,5 đến 626,7 triệu tấn. Hiện nay trên thế giới diện tích trồng lúa hầu hêt ở các quốc gia đang có xu hướng bị thu hẹp do đất trồng lúa bị chuyển đổi thành đất sản xuất và đất trong điều kiện công nghiệp hpá và sự bùng nổdân số trên thế giới như hiện nay. Vì vậy, để tăng sản lượng lúa hàng loạt nước đẩy mạnh sản xuất lúa gạo theo hướng thâm canh tăng vụ và đã thu được nhiều tiến bộ đáng kể. Theo dự đoán của các chuyên gia viện nghiên cứu lúa IRRI thì đến năm 2025 thế giới sẽ cần 765 triệu tấn lúa và các nước như Thái Lan, Banglades, Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam sẽ là những trọng điểm lương thực của thế giới trong tương lai. Bảng 2.2. Tình hình sản xuất lúa của thế giới (1998 – 2008) Diện tích Sản lượng Năm Năng suất (tạ/ha) (triệu ha) (triệu tấn) 1998 1999 2000 2001.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 (Nguồn: FAO, Production year book. 2009) Các nước có diện tích và sản lượng lớn chủ yếu tập trung ở Châu Á, trong đó Ấn Độ có diện tích lớn nhất ( 44 triệu ha ), Trung Quốc sản lượng lớn nhất (187,04 triệu tấn). Bảng 2.3. Diện tích, năng suất, sản lượng lúa của một số nước diễn hình trên thế giới năm 2007 Diện tích Năng suất Sản lượng TT Nước (triệu ha) (tạ/ha) (triệu tấn) 1 Trung Quốc 2 Ấn Độ 3 Inđônêxia 4 Băngladét 5 Việt Nam 6 Myanmar 7 Thái Lan 8 PhiLíppin 9 Brazil 10 Nhật Bản (Nguồn: FAO, 2008) Từ bảng 2.3 ta thấy rõ, có sự chênh lệch về năng suất rất lớn giữa các nước, trong đó các nước như Mỹ, Trung Quốc, Inđônêxia và Nhật Bản có năng suất lúa cao hơn trung bình của thế giới. Năng suất lúa của Việt Nam thì tương đương với năng suất bình quân chung của thế giới. . Bên cạnh đó Thái Lan có năng suất rất thấp, mặc dầu nước suất khẩu gạo lớn nhất thế giới nhưng do nước này chỉ quan tâm đến chất lượng gạo hơn so với năng suất. Bảng 2.4. Sản lượng lúa một số nước Châu Á 2005 – 2006 Đơn vị: triệu tấn Năm 2005 2006 Nước Thái Lan.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Ấn Độ Nhật Bản Việt Nam Trung Quốc Inđônêxia Myanma Bănglađét Iran Cadăcxtan CHND Triều Tiên Hàn Quốc Pakixtan Thổ Nhĩ kỳ Tổng ( Nguồn: Sản xuất thị trường NN và PTNT số 6 + 7/2006 ) Sản xuất lúa ở một số nướcc như Ấn Độ, Nhật Bản, Thái Lan, Myanma trong mấy năm qua tăng về số lượng do thời tiết thuận lợi cho phát triển cây lúa. Tuy nhiên, ở một số nước trong khu vực, sản lượng thóc giảm. Nhìn chung, trong vài thập kỷ qua việc sản xuất lúa gạo có nhiều tiến bộ vượt bậc trong việc tăng năng suất và tăng diện tích nhằm tăng sản lượng. Tuy vậy, ở khu vực này có tỷ lệ tăng dân số là 1,6 đến 1,7%, Dự báo năm 2030, dân số Châu Á sẽ tăng thêm 1 tỷ người, thì trong thời gian trong vòng thời gian 5 – 7 năm tới sẽ gặp phải khó khăn để đảm bảo lương thực cho người dân nơi đây. Vơi tình hình như vậy, nhằm đảm bảo an ninh lương thực cho khu vực nói riêng và thế giới nói chung, cần phải ứng dụng tiến bộ khoa học kỷ thuật, thâm canh tăng năng suất sản lượng như cơ cấu chuyển đỏi giống tốt, giống mới có năng suất cao, chống chịu được sâu bệnh. Lưu ý công tác phòng trừ sâu, bệnh hại ở những vùng trọng điểm lúa của thế giới. Tình hình nghiên cứu lúa gạo trên thế giới: + Cải tiến hình dạng cây lúa: Viện nghiên cứu lúa quốc tế IRRI đã nghiên cứu ra nhiều giống mới khắc phục được những nhược điểm đỗ ngã, đẻ, đẻ ít nhánh, dễ bị sâu bệnh, chương trình cải tiến được chia làm 3 giai đoạn. Giai đoạn 1: Phát triển giống có dạng hình cây thấp, thân cứng, khả năng đẻ nhánh cao, phản ứng đạm tốt, khả năng sinh trưởng ngắn… ví dụ IR8. Giai đoạn 2: Đưa gen kháng sâu bệnh vào dạng cây cải tiến cho năng suất cao và ổn định, ví dụ IR26, IR42. Giai đoạn 3: Phát triển những giống cây lúa chín sớm với dạng hình thấp cây, kháng được một số loại sâu, bệnh hại quan trọng, năng suất cao, ví dụ IR6, IR36. + Ưu thế lai:.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Vào những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 ưu thế lai được sử dụng với cây lúa thành công ở rất nhiều nước như Ân Độ, Nhật Bản, Mỹ, viện nghiên cứu lúa quốc tế. Và gần đây nhất là Trung Quốc đã đạt được nhiều thắng lợi trong việc sử dụng ưu thế lai đưa vào sản xuất lúa. Cho đến nay Trung Quốc đã thu thập được trên 60 nguồn bất dục tế bào chất khác nhau, từ đó đã chọn tạo được 600 dòng đực và 600 dòng duy trì tương ứng, đồng thời xác định được 3000 dòng phục hồi. + Công nghệ gen: Các nhà khoa học hiện nay đọc được trình tự bộ gen của lúa. Nhằm xác định những chức năng di truyền có lợi là cơ sở để tạo ra những bộ giống lúa mới đáp ứng cho nhiều nhu cầu khác nhau. Đặc biệt là những giống cho năng suất cao và chống chịu tốt. Viện nghiên cứu di truyền Bắc Kinh công bố gióng lúa Indica có khoảng 45000 – 56000 gen. Sự hoàn thành giải mã biểu đồ gen của cây lúa được hy vọng là sẽ thúc đẩy những chương trình gây giống theo tập quán, cho phép các nhà nghiên cứu lai tạo ra những giống lúa chịu hạn, kháng bệnh, chịu lạnh tốt hơn và sinh trưởng phát triển tốt ở những vùng có đại hình cao. Ngoài ra các viện nghiên cứ, các trung tâm nghiên cứu, các nhà khoa học đã chọn tạo được lúa biến đổi gen kháng thuốc trừ cỏ, kháng sâu, bệnh chịu mặn, chịu hạn, kháng một số bệnh hại trên lúa như rầy nâu, đạo ôn, bạc lá. 2.1.2. Ở Việt Nam: * Tình hình sản suất: Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử, người dân đã sử dụng phương thức sản suất cổ truyền gắn với những giống lúa địa phương cây cao, hạt lớn, phản ánh độ chiếu sáng trong ngày, đòi hỏi thâm canh tốt, không đáp ứng với nhu cầu lương thực do tỷ lệ sự phát triển dân số ngày càng cao. Việt Nam là nước nông nghiệp nhiệt đới và là một nước có văn minh lúa nước phát triển lâu đời. Điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp nói chung và sản suất lúa nước nói riêng. Nhiệt độ trung bình từ 22 – 27 0C, hàng ngày có khoảng 1000 – 1500 giờ nắng và khoảng 100 ngày mưa với lượng mưa trung bình từ 1500 – 2000 mm, độ ẩm trung bình từ 80 – 87% trên mặt đất có khoảng 2860 ssông ngòi và có khoảng 653,6 ha đầm lầy ( Tạp chí thống kê năm 1991: lương thực Việt Nam thực trạng và giải pháp ). Sự hội tụ của những yếu tố này với khoảng 21% đất nông nghiệp chiếm trong tổng diện tích đất tự nhiên, đảm bảo cho sự phát triển nông nghiệp nói chung và ngành trồng lúa nói riêng. Trong đó, có hai châu thổ trồng lúa lớn nhất của cả nước đó là đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Sông Cửu Long, ngoài ra Việt nam còn có nhiều diện tích nhỏ hơn nằm xen kẻ với nhiều vùng thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp như vùng miền núi phía bắc và tây nguyên, vùng trung du bán sơn địa, vùng ven miền trung….mỗi vùng đều có điều kiện khác nhau và cây lúa được trồng như một nghề truyền thống của người dân làm nông nghiệp. Bảng 2.5. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa của Việt nam (1995-2005).

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Chỉ tiêu Diện tích Năng suất Sản lượng Năm (ha) (Tạ/ha) (1000tấn) 1995 6.765,6 36,9 24963,7 1996 7.003,8 37,7 26396,7 1997 7.009,7 38,8 27523,9 1998 7.362,7 39,6 29145,5 1999 7.653,6 41,0 31393,8 2000 7.666,3 42.4 32529,5 2001 7.492,7 42,9 32108,4 2002 7.404,3 45,5 34447,2 2003 7.452,2 46,0 34568,8 2004 7.445,2 48,9 36158,0 2005 7.326,2 48,9 35800,0 (Nguồn: Tổng cục thống kê và bản tin khuyến nông việt Nam số 1/2006) Tuy nhiên, những năm qua diện tích lúa có xu hướng giảm dần nhưng năng suất và sản lượng tăng dần qua các năm từ năm 1985 đến nay sản xuất lúa gạo của nước ta tăng trưởng không ngừng với tốc độ bình quân là 5% năm ( khoảng 1 triệu tấn/năm ). Kim ngạch sản xuất khẩu gạo chiếm 30%, kim ngạch xuất khẩu nông lâm sản chiếm khoảng 15-17% thị phần gạo thế giới. Năm 2005, là năm gặp nhiều khó khăn trong sản xuất nông nghiệp như hạn hán gay gắt trên diện rộng, bảo lụt xảy ra lớn… nhưng nhờ phấn đấu nỗ lực Việt nam đã xuất khẩu gạo đạt kỷ lục. Mới gần 20 nước tham gia vào thị trường gạo thế giới với lượng xuất khẩu lên đến 5,2 triệu tấn, kim ngạch gần 14 tỷ USD. Góp phần đưa mặt hàng gạo Việt nam cạnh tranh với các nước có thế mạnh xuất khẩu trên thị trường.Ngoại số lượng còn nâng cao chất lượng gạo của Việt nam có vị trí đứng vửng và mở rộng thị trường xuất khẩu trên thế giới, như sang Nhật Bản là thị trường được xem là khá khắt khe về kiểm tra chất lượng. Nhờ đó mà giá trị xuất khẩu gạo đạt bình quân 245 USD/tấn so với năm 2002 chỉ đạt 190 USD/tấn. Theo các chuyên gia, bước đột phá để nâng cao chất lượng lúa gạo xuất khẩu Việt Nam trước hết là khâu giống. Để nâng cao khả năng cho gạo Việt Nam, trong thời gian tới, TS. Bùi Chí Bửu cho rằng cần phải thực hiện đồng bộ ba giải pháp, đó là sử dụng lúa đặc sản mùi thơm, giống có hàm lượng prôtêin cao, phát triển công nghệ hạt giống và công nghệ sau thu hoạch. Ngoài ra, theo ông muốn cạnh tranh với các khu vực khi tham gia AFTA, Việt Nam cần dành khoảng 10% diện tích để trồng lúa cao sản Hè thu, năng suất khoảng 10 tấn/ha sau đó cấy lắp một vụ giống cổ truyền ngon cơm như Nàng hương, Nàng thơm, Móng chim,…có như vậy, Việt Nam mới có gạo ngon cung cấp cho thị trường nội địa và cạnh tranh với gạo Thái Lan. Sản lượng lúa Việt Nam năm 2004 tăng gấp 3,5 lần so với năm 1975 ( từ 11,6 triệu tấn lên 35,6 triệu tấn ) trên diện tích gieo trồng từ 5,6 triệu ha lên 7,3 triệu ha, năng suất bình quân 2,2 triệu tấn/ha tăng lên 4,9 tấn/ ha. Sự gia tăng to lớn này đã đưa Việt Nam lên hàng thứ hai các Quốc gia xuất khẩu gạo của thế giới..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Qua bảng 2.5 cho thấy, trong những năm gần đây, diện tích sản xuất lúa có chiều hướng giảm do quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá một phần diện tích đất nông nghiệp trồng lúa đã chuyển đổi mục đích sử dụng để phục vụ cho quá trình này. Tuy nhiên, sự phát triển của xã hội cũng kéo theo sự phát triển của khoa học kỹ thuật làm cho trình độ canh tác kỹ thuật thâm canh cũng được nâng lên dẫn đến năng suất và sản lượng ngày càng tăng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam được thể hiện ở bảng 2.4 và 2.5. Việt Nam được coi là một trong những trung tâm trồng lúa lâu đời nhất ở Châu Á. Năm 2007, diện tích trồng lúa của cả nước là 7,21 triệu ha, năng suất bình quân đạt 49,80 tạ/ha,sản lượng đạt 35,86 triệu tấn. Nhìn chung, diện tích trồng lúa có xu hướng giảm nhưng do năng suất tăng nên sản lượng lúa tăng. Năm 2004 2005 2006 2007 2008. Diện tích 7.445,3 7.329,2 7.323,4 7.210,0 9.414,0. Năng suất Sản lượng tạ/ha Nghìn tấn 48,55 36,14 48,83 35,79 48,91 35,82 49,80 35,86 52,2 38,725 ( Nguồn: Thống kê Việt Nam 2004 – 2008 ). Lúa được trồng khắp cả nước, từ đồng bằng đến trung du và miền núi, trong đó tập trung chủ yếu ở hai đồng bằng lớn của cả nước, đó là đồng bằng Sông Cửu Long ( 3683,6 nghìn ha ) và đồng bằng Sông Hồng ( 1111,6 nghìn ha ). Để phát triển lúa gạo ở Việt Nam trong thời gian tới, cần giải quyết các vấn đề đảm bảo mục tiêu an toàn lương thực trước áp lực gia tăng dân số, giảm diện tích lúa và tăng chất lượng hạt gạo, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa, cạnh tranh quốc tế trong gia đoạn Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. * Tình hình nghiên cứu: Nước ta đã tiếp thu được những thành quả to lớn từ cuộc Cách mạng Xanh của thế giới. Ở Việt Nam, với hai giống lúa “ thuần nông” và NN8, cùng với các giống lúa khác từ viện lúa Quốc tế IRRI là IRR36, IR20, ở miền Bắc cùng với một số dòng mới được tách ra và nhân lên từ IR8 và một số giống lúa thấp cây mới được lai tạo. Sau thành công của Trung Quốc về chương trình nghiên cứu lúa lai vào thập kỷ 70 của thế kỷ XX. Được sự chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn và sự giúp đỡ của FAO ( Tổ chức Nông lương thế giới ), một hệ thống nghiên cứu và phát triển lúa lai đã hình thành trong cả nước. Bước đầu, các cơ sở đã tạo rấcc tổ hợp lúa lai có triển vọng, đội ngũ nghiên cứu khoa học nghiên cứu lúa lai được đào tạo tập trung nghiên cứu lúa lai theo cả hệ thống “ 3 dòng ” và “ 2 dòng ” trong thời gian qua đã hình thành nhiều trung tâm nghiên cứu lúa lai như Viện khoa học kỹ thuật Nông nghiệp, Trường đại học Nông nghiệp 1,….

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Giai đoạn 1990 – 1994, Trung tâm khảo nghiệm giống cây trồng Trung ương đã tiến hành khảo nghiệm giống Quốc gia hơn 150 giống. Riêng mạng lưới cơ sở của Trung tâm cũng đã thu thập, nhập nội, chọn tạo và đưa vào khảo nghiệm các giống trình diển 19 giống lúa lai, 22 giống lúa thuần Trung Quốc, 14 giống lúa thơm hạt dài chất lượng tốt đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Viện lúa đồng bằng Sông Cửu long sau 20 năm hoạt động đã đạt được những thành tựu rất đáng kể trong công tác chọn tạo giống đặc biệt là các giống lúa. Sau 20 năm, viện đã có giống được Bộ công nhận, trong đó 25 giống mang tên OM đợc lai tạo tại viện và 18 giống được dùng trong sản xuất đại trà. Viện đã chuyển 100 bộ giống lúa để khảo nghiệm ở 11 tỉnh đồng bằng Sông Cửu long, các tỉnh miền Trung và miền Bắc. 2.1.3. Tình hình sản xuất lúa của tỉnh Quảng Nam: bổ sung số liệu sản xuất lúa của tỉnh Quảng Nam 2.1.4. Tình hình sản xuất lúa của huyện Bắc Trà My: 2.1.5. tình hình sản suất lúa ở xã Trà Giang:. bổ sung số liệu sản xuất lúa của tỉnh Quảng Nam 2.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài: 2.2.1. Cơ sở khoa học: Điều tra, nghiên cứu tình hình sản xuất lúa xuất phát từ những cơ sở khoa học như sau: Trong sản xuất lúa nươc yếu tố cơ bản bản vẫn là giống, kĩ thuật thâm canh, lịch thời vụ gieo trồng, phòng trừ sâu, bệnh…sẽ quyết định đến năng suất, sản lượng và hiệu quả kinh tế. Giống là tư liệu sản xuất đặc biệt liên quan đến điều kiện tự nhiên, khí hậu đất đai khả năng đầu tư thâm canh của nông dân thâm canh sản xuất, là tư liệu rất cần thiết không thể tách rời với điều kiện ngoại cảnh của từng khu vực sản xuất nhất định.Loại giống khác nhau thi có đặc trưng và đặc tính khác nhau của từng loại giống đó. Nó còn phụ thuộc tuỳ theo loại đất đai, điều kiện tự nhiên, khí hậu sinh thái của từng vùng và khả năng đầu tư, chế độ chăm bón khác nhau thì cho năng suất sản lượng mức độ cũng khác nhau. Việc điều tra tình hình sản xuất để chúng ta biết được điều kiện tự nhiên, chế độ canh tác và mức độ đầu tư thâm canh của người sản xuất nhằm đem lại hiệu quả kinh tế và góp phần xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống của nông dân. Do đó, việc điều tra đánh giá xác định đặc điểm giống tốt, thích hợp với điều kiện canh tác một vùng nhất định. Ngoài ra, điều tra tình hình sản xuất giúp ta nắm được cơ cấu về giống, diện tích năng suất,thời vụ gieo trồng hiệu quả kinh tế…từ đó rút ra kết luận nhằm điều chỉnh giúp nông dân sản xuất lúa đem lại hiệu quả kinh tế gia đình và duy trì bền vững sản xuất nông nghiệp thực sự đem lại lợi nhuận cho người nông dân. 2.2.2.Cơ sở thực tiễn.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Tiếp tục đẩy mạnh sản xuất lúa trên địa bàn xã Trà Giang có những thuận lợi và khó khăn nhất định. Nhờ có nhiều chủ trương, đường lối chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, chuyển giao khoa học – công nghệ kỹ thuật vào lĩnh vực phát triển nông nghiệp trong đó có sản xuất thâm canh cây lúa nước, tuy nhiên đến nay chuyển biến vẫn chưa đáng kể. Thực tế, trong quá trình sản xuất giống luôn có hiện tượng thoái hoá, phân li, lẫn tạp. Do nhiều nguyên nhân, như: tính di truyền của giống không ổn định, do hiện tượng đột biến gây nên họăc có thể là hỗn tạp cơ giới hoặc sinh học xảy ra trong quá trình sản xuất. Đó cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm chất lượng giống, dẫn đến giảm năng suất chất lượng sản phẩm. Do vậy, việc điều tra phải chính xác, khách quan, tìm được nguyên nhân làm giảm chất lượng giống để từ đó cơ sở khoa học cho việc quyết định phục tráng hay loại bỏ một số giống đang sản xuất mà không có hiệu quả kinh tế. Trong thực tế sản xuất, có những hộ nông dân tiếp thu nhanh, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, bên cạnh đó cũng không ít hộ nông dân thiếu kiến thức khoa học kỹ thuật, tiếp thu tri thức trễ hoặc bão thủ, thiếu mạnh dạn và gặp phải điều kiện tự nhiên khó khăn ít quan tâm đến đầu tư thâm canh tăng sản xuất. Do đó, điều tra, đánh giá tình hình sản xuất lúa để rút ra một số kết luận giúp cho nông dân tiến hành canh tác lúa tốt hơn.. PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG - NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Tình hình sản xuất lúa năm 2009 tại xã Trà Giang, huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam. - Điều tra 30 hộ sản xuất lúa đại diện cho 6 thôn xã Trà Giang. - Thời gian điều tra từ 01/7/-15/11/2010 - Địa điểm điều tra: tại xã Trà Giang, huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam. 3.2. Nội dung nghiên cứu - Tìm hiểu một số đặc điểm về điều kiện tự nhiên. - Điều kiện kinh tế - xã hội của xã Trà Giang. - Điểu tra tình hình sản xuất lúa của xã Trà Giang. - Những thuận lợi, khó khăn để đưa ra giải pháp. 3.3. Phương pháp nghiên cứu 3.3.1. Phương pháp điều tra thu nhập sồ liệu - Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp Thu nhập số kiệu thông tin thứ cấp từ các cơ quan chức năng huyện, xã ( Trạm khuyến nông, phòng thống kê, phòng NN và PTNT huyện và UBND xã ) - Phương pháp thu nhập thông tin sơ cấp (phương pháp điều tra nông hộ) Điều tra 30 hộ theo phiếu điều tra ( lập sẵn ), điều tra bằng phương pháp đánh giá nhanh nông thôn PRA ( phỏng phấn trực tiếp có sự tham gia của người dân ) để thu nhập thông tin, dữ liệu sơ cấp. - Phương pháp chọn điểm điều tra: 6 điểm mỗi thôn/1 điểm ở vùng đất thịt nhẹ và đất phù xa ven sông. - Phương pháp chọn mẫu điều tra ( điểm khảo sát ) đại diện: + Chọn 3 thôn đại diện cho toàn xã làm điểm điều tra. + Mỗi thôn chọn ra 1 - 2 nhóm điển hình. + Trong một thôn điều tra từ 10 hộ đại diện 3 nhóm có thu nhập khác nhau ( hộ khá, hộ trung bình, hộ nghèo ).. PHẦN 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẤN.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> 4.1. Điều kiện tự nhiên của xã Trà Giang 4.1.1. Vị trí địa lí, cơ cấu hành chính Hướng lâm là xã miền núi nằm ở phía tây tỉnh thừa thiên huế và phía nam huyện A lưới, bố trí dân cư ven theo trục dọc tuy có đường Hồ chí minh có chiều dài trên 6km. Là xã trung tâm nằm ở giữa 4 xã thuộc vùng trong huyện A lưới. - Phía nam giáp với xã A Đớt -Phía bắc giap với xã Hương phong -Phía Đông giáp xã A roàng CHỈNH SỬA THEO SỐ LIỆU CỦA XÃ TRÀ GIANG -Phía tây giáp với Đông Sơn Trà Giang chia theo hành chính có 6 thôn gồm Thôn 1, Thôn 2,Thôn 3, Thôn 4, Thôn 5 và Thôn 6. Có 11 dân tộc anh em sống chung. Trong đó, dân tộc Kinh chiếm 90% dân số toàn xã. Còn lại là một sồ dân tộc khác như: Kor, Cadong, và Mường,… chiếm 10% dân số. Nhìn chung, vị trí địa lí khá thuận lợi về giao thông đi lại thuận tiện để vận chuyển hàng hoá. 4.1.2. Điều kiện thời tiết, khí hậu Trà Giang nằm trong khí hậu miền Trung, chịu nhiều ảnh hưởng gió mùa, những ngay tháng nắng ít hơn tháng mưa. Mùa nắng từ tháng 4 đến tháng 7, mưa từ tháng 8 đến tháng 1 năm sau.Vào mùa hè có gió tây nam ( gió Lào ), tuy nhiên khí hậu nơi đây mát diệu hơn cả toàn tỉnh. Mùa đông chịu ảnh hưởng bởi gió mùa Đông Bắc không khí tương đối lạnh và ẩm. + Nhiệt độ trung bình trong năm là 23,80C các tháng mùa hè từ 24 - 260 C ), nóng nhất vào tháng 6 đến tháng 7 đến 33-350C các tháng mùa đông nhiệt độ trung bình dao động từ 18-190C. + Lượng mưa trung bình cả năm 359,1 mm mưa tập trung nhiều nhất vào tháng 9 - 10 hàng năm và thường xảy ra lũ lụt sớm từ tháng 9 đến tháng 11. Địa hình với tốc độ lớn, nước chảy xiếc gây tàn phá mùa màng, nhất là khi lũ lụt đến lúa chưa kịp thu hoạch. Bảng 4.1: Một số yếu tố thời tiết khí hậu ở huyện Bắc Trà My Nhiệt độ trung bình tháng ( Đơn vị tính: 0C ) Tháng 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. Năm 2006 2007 2008 2009 Lượng mưa trung bình ( Đơn vị tính: mm ). 8. 9. 10. 11. 12. TB năm.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Tháng 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12. Mưa năm. 7. 8. 9. 10. 11. 12. TB năm. Năm 2006 2007 2008 2009 Độ ẩm trung bình ( Đơn vị tính: % ) Tháng 1. 2. 3. 4. 5. 6. Năm 2006 2007 2008 2009 Số giờ nắng ( Đơn vị tính: giờ ) Tháng. Năm 2006 2007 2008 2009. 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12. TB năm. 104 53 90 55. 107 191 191 180. 149 165 140 143. 137 129 183 136. 193 162 141 156. 234 207 164 192. 130 230 208 163. 144 113 158 170. 115 129 112 103. 115 43 79 upl oad. 123 doc. net. 167 25 48 90. 46 102 40 115. 136,75 134,5 128 135,1. * Nhận xét chung: Xã Trà Giang thuộc khí hậu huyện Bắc Trà My, lượng mưa hàng năm lớn cho nên rất thuận lợi cho việc phát triển kimh tế nông nghiệp đặc biệt là chế độ ánh sáng, độ ẩm, lượng mưa phù hợp với sự sinh trưởng và phát triển của cây lúa, nhưng do sự chênh lệch nhiệt độ và ảnh hưởng của gió mùa cho nên việc cơ cấu cây trồng phải phù hợp vợi.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> lịchthời vụ gieo trồng hợp lí. Để đảm bảo tốt sản xuất phụ đông xuân phải cho lúa trổ ở tiết cốc vũ, vụ Hè thường gặp hạn hán ở tháng 5 đến tháng 6, thiên tai bão lụt từ tháng 8 đến tháng 11 nên năng suất thường bấp bênh. Vậy, muốn phát triển kinh tế nông nghiệp phải tính toán phù hợp cơ cấu lịch thời vụ, cơ cấu cây trồng hợp lí, biết kết hợp thời tiết, khí hậu hài hoà ở các khu vực và nguồn lực sẵn có để đầu tư thâm canh các giống lúa phù hợp với chất đất trên địa bàn xã Trà Giang có điều kiện thuận lợi có sông suối sử dụng trong việc tưới tiêu đồng ruộng áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất cây lúa nươc ngày càng phát triển. * Nguồn nước tưới: Nguồn nước và thuỷ lợi phục vụ sản xuât lúa nước của xã Trà Giang, ngoài lượng nước mưa, chủ yếu lấy từ suối Nứa, Ào ào, đập Đại An và các đập bổi là lượng nước cung cấp nước tưới tiêu cho sản xuất lúa nước trên địa bàn xã với diện tích 83,9 ha/1 vụ. Tuy nhiên, do địa bàn phức tạp, không đồng đều. Có nơi cao, có nơi thấp, hệ thống kênh mương chưa đáp ứng nhu cầu thoát nước vào mùa mưa lũ nên một số diện tích đất thường ngập úng và bồi lấp hằng năm. Hộ sản xuất nông nghiệp của xã Trà Giang ngoài sử dụng nứơc mưa để tưới cho đồng ruộng. Còn có nguồn suối tương đối lớn phục vụ tưới tiêu hằng năm. UBND xã cũng đằ tư xây dựng kiên cố hoá thuỷ lợi như đập: Đại An và các đập bổi, trung bình các thôn đều có các đập bổi trên những cánh đồng. Tuy nhiên, nguồn nước tưới hằng năm thường xảy ra thừa nước vào vụ đông, thiếu nươc vào mùa hè. Dẫn đến ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất lượng lúa, bên cạnh đó hệ thống kênh mương chưa được đảm bảo. Cứ sau 1 đợt mưa lũ lại bị sạt lỡ nặng các kênh ven suối khắc phục không kịp thời nên lượng nước cần để tưới không đủ cung cấp. * Đất và tình hình sử dụng đất đai - Đất đai: Đất đai là nguồn cung cấp dinh dưỡng chính và là yếu tố cần thiết cho cây trồng đây chính là nguồn tài nguyên và môi trương quý giá đối với đời sống của con người, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Dạng đất chủ yếu của xã phần lớn là đất xấu, chua phèn, có cây chỉ thị màu như cây sim, mua. Diện tích đất canh tác nhỏ lẻ, manh mún ảnh hưởng đến quá trình sản xuất, việc chủ trương “ Dồn điền đổi thửa ” đến nay chưa thực hiện được. Bên cạnh đó, trong những năm qua tốc độ xây dựng nhà ở xây dựng xưởng sản xuất lâm sản và nhiều công trình khác nên quá trình sử dụng đất ở xã Trà Giang năm 2009 có những biến đổi. Kết quả điều tra tình hình sử dụng đất thể hiện: Trà Giang có địa hình khá rộng và bằng phẳng theo dọc sông Trường, chạy dọc uốn quanh dọc theo chiều dài của xã. Hai bên ven sông là nơi diện tích canh tác tập trung sản xuất nông nghiệp khá rất thuận lợi trong việc đi lại vào vùng sản xuất. Diện tích tự nhiên toàn xã la 5.126,69 ha, trong đó đất nông ngiệp là 4436,67 ha chiếm 86,5% đất lâm nghiệp: 4116,18ha chiếm 48,5%, đất phi nông nghiệp: 109,25 chiếm 2.13% đất chưa sản xuất 580,77 ha chiếm 11,3%. Đất trồng lúa chiếm 105,0 chiếm 2,0%. Đất phù sa 60ha chiếm 71% ở ven sông Trường và các khe suối,… từ đầu xã đến cuối xã, là diện tích cho năng suất lúa chủ yếu. Tuy nhiên, đất trũng chua, phèn chiếm khá lớn 23,9 ha, đây là diện.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> tích ruộng lúa nông hộ tận dụng nên nguồn nước thường không đủ để tưới cho diện tích trên và năng suất thấp nhất. - Tình hình sử dụng ruộng đất: Bảng 4.2 thấy rằng tình hình quản lý sử dụng đất đai của xã khá hợp lý, bố trí sử dụng đúng mục đích, nâng cao năng suất cây trồng. Tuy nhiên chất lượng đất nơi đây không được tốt, đất chua phèn, chi phí đầu tư khá lớn, chưa chủ động nguồn tưới tiêu dẫn đến năng suất sản lượng hiệu quả kinh tế còn thấp. Trong sản suất nông nghiệp diện tích trồng lúa là cây lương thực chính hàng năm, ngoài ra còn diện tích rau màu khác. Bảng 4.2. Diện tích và tình hình sử dụng đất của xã năm 2009 Tỷ lệ(%) so với Loại đất Diện tích (ha) đất tự nhiên Tổng DT tự nhiên 5126,67 100 Trong đó: 1. Đất nông nghiệp 4436,67 86,5 2. Đất trồng lúa 105 2,0 3.Đất trồng ngô 15,8 0,30 4. Đất trồng rau màu khác 72,3 14,1 5. Đất chuyên dùng 54,26 1,0 6. Đất thuỷ lợi 26,64 1,92 7. Đất công sở, cơ quan 0,99 0,019 8. Đất có mục đích công cộng 46,84 0,91 9. Đất khác 17,81 0,34 10. Đất lâm nghiệp 4116,18 48,5 11. Đất ở 21,95 0,42 12. Đất sông suối có mặt nước 26,64 0,51 13.Đất chưa sử dụng 580,77 11,3 14. Đất phi nông nghiệp 109,25 2,13 ( Nguồn: Địa chính xã Trà Giang cung cấp năm 2011) + Diện tích sản xuất các giống lúa: Trà Giang là một xã vùng núi phần lớn lao động thuần nông, diện tích đất nông nghiệp bình quân trên khẩu thấp ( khoảng 0,37 m2 ). Do vậy, trong những năm qua, việc sản xuất lúa luôn đạt 100% diện tích cả hai vụ. Do xuất phát từ điều kiện tiểu khí hậu vùng đất đai khô cằn khả năng thâm canh thấp trong thực tế diện tích sử dụng các giống lúa khác nhau. Bảng 4.3: Cơ cấu diện tích lúa nước của xã từ năm 2007 – 2009 Diện tích 2007 Diện tích 2008 Diện tích 2009 STT Thôn ( ha ) ( ha ) ( ha ) 1 Thôn 1.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> 2 3 4 5 6. Thôn 2 Thôn 3 Thôn 4 Thôn 5 Thôn 6 Tổng Nguồn: UBND xã Trà Giang 2010. Qua bảng 4.3 số lượng được phân tích ở những năm 2007 có độ chênh lệch khá lớn. Thôn có diện tích cao nhất 15ha và thấp nhất 7.5ha. Nhưng đến năm 2008 và 2009 diện tích tăng lên tương đối đồng đều. Thôn A so1 có diện tích lớn nhất 21 ha những thôn còn lại thấp nhất cũng có 10,5 ha trở lên. Diện tích lúa nước trên được phân bố phụ thuộc lao động hộ nông nghiệp, diện tích đất bằng phẳng và có nguồn nươc tưới thuận lợi. Bên cạnh đó còn có phụ thuộc vào dân số và nghành nghề khác. Cho thấy thôn Ka nôn 1 dân số đông nhưng lao động nông nghiệp thiếu, chủ yếu là phát triển dịch vụ 4.2. Điều kiện kinh tế xã hội * Điều kiện xã hội Đến thời điểm 30 tháng 12 năm 2009 dân số xã Hương lâm có 1909 nhân khẩu trong đó nam:934 khẩu, mật độ dân số :37 người/km2 .Dân cư phân bố theo 6 thôn dọc theo tuyến đường Hồ Chí Minh từ bắc vào nam,giao thoong đi lại rất thuận lợi . Cơ cấu lao động toàn xã có :1.013 người. Trong đó lao động nông nghiệp chiếm khoảng 85% lao động nghành nghề và dịch vụ khác chiếm 15% Bảng 4.4 Dân số và lao động qua các năm từ 2007-2009 Năm Dân số và lao động 2007 2008 2009 tổng nhân khẩu nam nữ tổng lao động nam nữ lao động nông ngiệp lao động nghành nghề Nguồn:UBND xã Trà Giang 2010 Qua bảng trên cho thâý lao động nông nghiệp chiếm tỉ lệ cao đến 85% lao động nghành nghề và dịch vụ thì có chiều hướng tăng dần nmhưng không dáng kể. Do vậy Hương lâm được xát địng là xã nông nghiệp..

<span class='text_page_counter'>(19)</span> * Điều kiện kinh tế Hương lâm là xã có truyền thống anh hùng cách mạnh thời kì chống mỹ cứu nước, sau giải phóng và đến thời kì đổi mới thì Hưong lam vẫn là xã ngèohưởng chương trinh 135 đẩu tư. Từ đó đời sống của đại bộ phận nhân dân từng bươc được cải thiện và phát triền đi lên. Nguồn thu nhập chính của xã là trồng trọt và chăn nuôi, bên cạnh đó còn có chính sách của xã hội hỗ trợ, nên mức thu nhập bình quân 4 triệu đồng /người/ năm. Chuyển dịch , cấu cây trồng vật nuôi có chiều hướng tích cực, tỷ lệ hộ đói giáp hạt, đói kinh niên không còn xảy ra như các năm trước. Năng suất sản lượng các loại cây mùavụ chủ yếu tăng, hiệu quả kinh tế có xa thế phát triển bền vững. Ngành nghề và các dịch vụ có phát triển (xem bảng 4.4) 4.3 Kết quả điều tra tình hình sản xuất lúa của xã Trà Giang năm 2009 4.3.1 Cơ cấu chủng loại lúa đông xuân- hè thu Từ năm 2004 trở về trước gieo trồng các giống lúa chủ yếu sau: Thái lùn, giống địa phương A4, NN2, IR 38. Nhưng khi sử dụng giống lâu dài ssản xuất càng về sau năng suất càng giảm xuống do nhiều nguyên nhân. Giống thái hoá lẫn tạp với giống khác và dễ nhiễm sâu bệnh. Do đó từ năm 2005 và đặc biệt là năm 2007 trở lại đây lảnh đạo chính quyền địa phương rất quan tâm đến việc cơ cấu giống lúa được xát nhận đưa vào sử dụng rộng rải cho toàn xã. Bên cạnh đó là những giống lúa khá phù hợp với điều kiện khí hậu, đất đai và tập quán canh tác người dân nơi đây. Khắc phục phần nào đó thiên tai lụt bão và sâu bệnh gây hại Từ đó cơ cấu các giống lúa chủ lực như: lúa Thơm, Xi 21, Xi 23. khang dân, TH5,Q5 HT1 để đưa vào sản xuất. Loại bỏ dần giống lúa địa phương dễ sâu bệnh bị thái hoá năng suất thấp chưa qua chọn lọc tốt. Bảng 4.6 Cơ cấu giống lúa của 3 nhóm hộ điều tra Vụ. Tên giống lúa. Khang dân TH5 Đông Xi23 xuân Xi21 Q5 Thơm Hè Khang thu dân TH5 Q5. Hộ nghèo Số hộ trồng (hộ). tỷ lệ %. Hộ trung bình Số hộ trồng (hộ). tỷ lệ %. Hộ khá Số hộ trồng (hộ). tỷ lệ %. Bình quân chung Số hộ tỷ lệ trồng % (hộ).

<span class='text_page_counter'>(20)</span> Thơm Qua bảng 4.6 cho thấy các nhóm hộ cơ cấu trồng giống lúa khác nhau. Nhóm hộ khá ít sử dụng nhiều loại giống vào vụ sản xuất. Vụ Đông xuân, chỉ tập trung trồng giống lúa Xi23 và Xi21 là phần lớn, chiếm 80 – 90%. Tuy nhiên, ở vụ Hè thu chỉ tập trung hai loại giống Khang dân và Thơm. Trong khi đó, hộ nghèo và trung bình thì lại cơ cấu vào nhiều loại giống khác nhau. Ngoài các giống lúa trên, nhân dân trong xã còn đua vào sản xuất các giống TH5, Q5,… Bên cạnh đó, qua điều tra cho biết rõ hơn nhóm hộ nghèo ít mua giống mới đã được xác nhận mà chỉ phụ thuộc vào sự hỗ trợ của Nhà nước và sừ hỗ trợ của các Dự án đầu tư. Các hộ chủ yếu chọn lọc giống lúa sản xuất của vụ này để đưa vào trồng cho vụ sau hoặc năm sau. Riêng nhóm hộ khá cho thấy, hầu hết mua giống lúa có xác nhận để đưa vào sản xuất cho nên năng xuất hơn hẳn nhóm hộ nghèo. Ngoài việc nhân giống và khuyến cáo nông dân sử dụng giống lúa mới, Uỷ ban nhân dân xã còn đứng ra cung ứng giống mới có chất lượng và phẩm chất tốt từ công ty Vật tư giống cây trồng Quảng Nam theo nhu cầu đăng ký các loại giống của từng nông hộ. Đồng thời, hướng dẫn quy trình sản xuất giống mới cho bà con nông dân, từ đó nhân rộng ra toàn xã đưa vào trồng giống mới thích hợp với điều kiện và tập quán canh tác, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Từ đó, nâng cao hiệu quả kinh tế nông nghiệp phát triển có chiều hướng tích cực đi lên. Cho dù các giống lúa được đưa vào sản xuất qua các vụ khá nhiều, nhưng dội ngũ cán bộ kỹ thuật và cán bộ khuyến nông trên địa bàn xã quá ít không đáp ứng đợc nhu cầu của nhân dân. Trên địa bàn xã khôn có cán bộ khuyến nông, chỉ có 01 cán bộ khuyến nông của huyện được điều đi làm nhiệm vụ cho 03 xã giáp ranh với nhau, đó là xã Trà Giang, thị trấn Trà My và xã Trà Sơn. Việc chỉ đạo, kiểm soát chất lượng giống hầu như chưa được kiểm nghiệm chất lượng mà vẫn được đưa vào sản xuất dẫn đến ảnh hưởn không nhỏ đến năng suất và sản lượng, lây lan sâu bệnh hại lúa. Qua điều tra thực tế cho thấy, giống lúa được đưa vào sản xuất mỗi vụ rất thấp 15/83,9 ha, chỉ chiếm 17,9 % diện tích ruộng trên địa bàn. Do đó, việc chọn lọc các loại giống mới để xác định loại giống thích hợp cho từng thời vụ, từng tiểu vùng sản xuất khác nhau là vấn đề rất cần thiết và chú trọng đầu tư thích đáng và có hiệu quả. Để đạt được vấn đề đó, cấn có kế hoạch phối hợp chặc chẽ giữa Uỷ ban nhân dân xã và các Ban, ngành từ cấp huyện đến xã. Đặc biệt, với công ty cung cấp giống lúa có thương hiệu uy tín trên địa bàn tỉnh Quảng Nam để liên hệ mua giống phù hợp, đồng thời hướng dẫn lịch thời vụ cho nông dân sản xuất là hết sức quan trọng nhất là vấn đề xác định lại giống phù hợp. Hơn nữa, điều kiện tự nhiên khá phù hợp cho việc canh tác lúa, giải quyết nguồn lương thực đủ cung cấp cho đời sống nhân dân địa phương. Tuy nhiên, do trước sức ép của gia tăng dân số tỉ lẹ nghịch với thu hẹp dần diện tích đất đai canh tác đòi hỏi phải tìm ra giải pháp để duy trì và đảm bảo an ninh lương thực trong thời gian tới. Một trong những biện pháp quan trọng đó là: phải lựa chọn và cơ cấu giống lúa trên địa bàn xã đáp ứng nhu cầu với các điều kiện sản xuất của nông hộ..

<span class='text_page_counter'>(21)</span> Việc lụa chọn cơ cấu giống lúa phải đảm bảo các yếu tố sau: - Một là, giống lúa đưa vào sản xuất phải có năng suất cao, ổn định và phù hợp với trình độ và điều kiện thâm canh của các nông hộ trên địa bàn xã. - Hai là, giống phải có khả năng chống chịu sâu bệnh tốt, hạn chế tối đa các ảnh hưởng xấu của thiên nhiên, như: lũ lụt, hạn hán, gió mùa,… - Ba là, các giống được chọn để sản xuất phải có giá trị cao về chất lượng gạo và thương phẩm. - Bốn là, giống lúa đưa vào sản xuất đại trà phải có lý lịch giống rõ ràng, trải qua quá trình chọn lọc. Các giống này phải được trạm giống, trạm khuyến nông giới thiệu và đợc trồng thử nghiệm ở địa phương. Bảng 4.7: Diện tích giống lúa của các hộ điều tra Diện tích của hộ Chỉ tiêu Số hộ Hộ Vụ trồng Hộ Tên Trung Hộ khá ( hộ ) nghèo giống bình Khang dân TH5 Đông Xi23 xuân Xi21 Q5 Thơm Khang dân TH5 Hè thu Q5 Thơm. Tỷ lệ (%). Diện tích bình quân hộ ( m2 ). Từ bảng 4.7, cho thấy trong 3 nhóm hộ thì nhóm hộ khá có khả năng đầu tư thâm canh cao hơn 2 nhóm hộ nghèo và hộ trung bình. Diện tích sản xuất các giống lúa của nhóm hộ khá có thời gian sinh trưởng dài bố trí trồng vụ Đông xuân như giống lúa Xi23 là: 14.000m2, Xi21: 7.000m2. Bố trí các giống Hè thu như Khang dân: 14.000 m 2, lúa Thơm: 14.500 m2. Hai nhóm hộ trung bình và nghèo do mức đầu tư có hạn chỉ tập trung sản xuất các giống: Khang dân: 11.000 m2, Thơm: 14.000 m2, ngoài ra còn sử dụng các giống TH5, Q5,… Trong sản xuất nông nghiệp năng suất cây trồng là yếu tố cuối cùng để đánh giá sự thành công hay thất bại trong sản xuất. Trong đó, giống được xem là một trong những yếu tố quyết định, đóng vai trò quan trọng đến năng suất cây trồng. Đối với xã Trà Giang, việc đưa vào sản xuất lúa nước là rất mới mẻ so với cả nước. Từ sau giải phóng, bước đầu chủ yếu dùng các loại giống của địa phương năng suất.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> thấp, chưa chú trọng đến vấn đề giống và thâm canh. Sau những năm 1995 trở lại đây, nhốc chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước, đồng thời khoa học và công nghệ bùng nổ, tiến bộ được áp dụng vào sản xuất mạnh mẽ về nông thôn và miền núi. đặc biệt là năm 2006 có Chương trình 135 giai đoạn 2 tập trung đầu tư hỗ trợ phát triển sản xuất, cung cấp giống cây, con,… trong đó có cả giống lúa mới đã được trồng khảo nghiệm phù hợp với địa phương, từ đó năng suất và sản lượng được nâng lên rõ rệt. Thúc đẩy ý thức loại bỏ giống lúa thoái hoá thay thế bằng những giống mới có năng suất cao đưa vào sản xuất đại trà. Thường xuyên quan tâm bổ sung giống mới và loại thải những giống đã thái hoá, năng suất, lẫn tạp, dễ nhiễm bệnh và sâu hại,… thay vào đó là các loại giống phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng và trình độ sản xuất của địa phương. Qua các vụ sản xuất cho thấy, giống Xi21, Xi23 và Thơm cho năng suất khá cao và ổn định. Xác định cơ cấu giống tương đối hợp lý nên diễn biến năng suất bình quân từ năm 2007 – 2009 của xã Trà Giang tăng lên dần lên theo hướng sản xuất phát triển đi lên. Trên thực tế, hiện nay được đưa vào sản xuất khá nhiều giống lúa khác nhau ở các diện tích trên địa bàn xã, mỗi loại giống có những ưu, nhược điểm khác nhau, qua quá trình sản xuất bà con nông dân đã chọn được một số giống có nhiều đặc trưng, đặc tính phù hợp với điều kiện đất đai, trình độ canh tác của nông hộ. Trong đó, có một số giống đã được đưa vào sản xuất khá lâu đối với xã Trà Giang, như: Khang dân, Xi21, Xi 23 nhưng vẫn còn được sử dụng với diện tích lớn do có nhiều ưu điểm như ít phân ly, năng suất khá ổn định, có khả năng chống chịu sâu bệnh, không đòi hỏi đầu tư lớn,… Bảng 4.8: Năng suất lúa của 3 nhóm hộ điều tra Chỉ tiêu Vụ Giống Khang dân TH5 Đông Xi23 xuân Xi21 Q5 Thơm Khang dân Hè TH5 thu Q5 Thơm. Hộ nghèo Số hộ trồng (hộ). tỷ lệ %. Hộ trung bình Số hộ trồng (hộ). tỷ lệ %. Đơn vị tính: Tạ/ha Bình quân Hộ khá chung Số hộ Số hộ tỷ lệ tỷ lệ trồng trồng % % (hộ) (hộ).

<span class='text_page_counter'>(23)</span> Qua số liệu ở bảng 4.8 ở trên cho thấy, năng suất bình quân của các loại giống lúa theo nhóm hộ trồng có chênh lệch về năng suất nhưng không đáng kể. Lúa có thời gian sinh trưởng dài nhất là Xi21, Xi23 tiếp đến là giống trung ngày như Khang dân, Q5, TH5 đến giống cực ngắn là lúa Thơm. Năng suất của nhóm hộ khá là cao nhất: 36,8 ta/ ha, nhóm hộ nghèo thấp nhất: 31,2 tạ/ha. Qua đó cho thấy, nhóm hộ khá có khả năng đầu tư phân bón, có quan tâm đến chế độ thâm canh hơn những hộ còn lại như bổ sung thêm phân bón hoá học để bón thúc. Các loại giống được hộ nông dân đưa vào sản xuất chủ yếu là giống được sử dụng cho cả hai vụ Đông xuân và Hè thu, như: Khang dân, Thơm, TH5 và Q5. Đây là những giống trung ngày và ngắn ngày. Qua đó cho thấy, ở đây ít hộ chọn giống lúa dài ngày vào vụ Hè thu, như: Xi21, Xi23. Năng suất bình quân các loại giống lúa giao động từ 27 – 41 tạ/ha, giống có năng suất cao nhất là TH5, tiếp đến là Xi21, Xi23, giống có năng suất thấp nhất như Q5 chỉ đạt 27 tạ/ha và Khang dân 31,5 – 32,1 tạ/ha. 4.3.3. Một số đặc điểm các giống lúa đang sản xuất: Qua số liệu điều tra thực tế theo 3 nhóm hộ sản xuất lúa trên địa bàn xã Trà Giang có thể rút ra kết luận: - Nhìn chung, hộ khá có điều kiện thâm canh tốt hơn hai nhóm hộ còn lại, có áp dụng các biện pháp kỹ thuật, thể hiện rõ nhất ở chỗ ngoài bón lót phân chuồng còn có bón thúc lần một. Sử dụng phân vô cơ hỗn hợp NPK, nắm bắt được một số đặc điểm cơ bản thời gian sinh trưởng của từng giống lúa sản xuất. Vì vậy, đã nâng cao năng suất và hiệu quả tốt hơn hai nhóm hộ nghèo và hộ trung bình. - Nhóm hộ nghèo không có điều kiện về kinh tế để đầu tư phân, giống lúa mới hoặc có dùng cũng chỉ chiếm 50% diẹn tích của hộ hoặc chỉ dùng một vụ và phần lớn sử dụng lại giống của vụ trước, giống đã thoái hoá và lẫn tạp, nhiễm sâu, dịch bệnh. Qua đó, thể hiện rõ thiếu trình độ, thiếu kiến thức canh tác, điều kiện thâm canh và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp. Bảng 4.9: Một số đặc điểm của các loại giống đang sản xuất tại xã Trà Giang Tên Thời gian Ưu điểm Nhược điểm giống sinh trưởng của giống của giống - Thích ứng rộng, chịu đất - Hạt lép nhiều vụ Hè thu phèn, phù hợp đất thịt nhẹ. - Giá thóc giống cao - Thân cứng, lá đóng gọn, - Thời gian sinh trưởng khá Xi21 150 – 165 chống đổ ngã, khả năng đẻ dài từ 150 ngày dễ gặp lũ nhánh khá, chịu rét tốt. lụt, giông vụ Hè thu - Năng suất khá cao, chất - Chỉ phù hợp vụ Đông xuân lượng gạo khá. - Nhiễm đạo ôn Xi23 150 – 165 - Đẻ nhánh ít, bông dài - Thời gian sinh trưởng dài - Cứng cây, chống đổ tốt 150 ngày - Không bạc lá - Sản xuất vụ Hè thu dễ gặp.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> Khang dân. Thơm. TH5. Q5. - Năng suất cao. lũ, giông - Chỉ phù hợp vụ Đông xuân - Nhiễm đạo ôn. 120 – 125. - Thích ứng rộng - Ngắn ngày từ 110 – 115 ngày ( sạ ) và 120 – 125 ngày ( cấy ) - Phù hợp cả hai vụ Đông xuân và Hè thu - Năng suất trung bình - Trình độ thâm canh vừa - Cây thấp, cứng và ít đỗ ngã. - Dễ bị sâu bệnh - Chất lượng gạo khong ngon - Giá giống khá cao - Bông ngắn - Vàng lá. 90 – 105. - Thời gian sinh trưởng cực ngắn, trồng được cả hai vụ Đông xuân và Hè thu - Trình độ thâm canh vừa - Cây thấp, cứng ít đổ ngã - Chất lượng gạo tốt, cơm dẻo thơm ngon. - Năng suất thấp 35 – 37 tạ/ha - Hay bị sâu bệnh - Chất lượng gạo không ngon - Giá giống khá cao - Bông ngắn - Vàng lá. 120 – 125. 120. - Thích ứng rộng - Giống trung ngày, phù hợp cả hai vụ Đông xuân và Hè thu - Năng suất trung bình - Cây thấp, cứng ít đổ ngã - Cao trung bình, thân nhỏ, lá đòng lớn quang hợp mạnh - Chống chịu hạn tốt - Hạt thóc nhỏ, dài chất lượng gạo tốt, cơm ngon, dẻo. - Dễ nhiễm sâu bệnh - Giá giống khá cao - Bông ngắn - Vàng lá - Chi phí đầu tư cao - Dễ úng, khi chín chưa kịp thu hoạch rụng rơi hao hụt và nẩy mầm trên bông - Không chịu đất trũng, đất phèn. Số liệu qua bảng 4.9 cho thấy, Xi21, Xi23 là những giống được nông dân sử dụng khá lâu, năng suất tương đối cao và ổn định, phẩm chất gạo tốt nhưng dễ bị nhiễm bệnh đạo ôn ở mức độ nhẹ và trung bình, khả năng chịu lạnh tốt, thích ứng rộng, chịu đất chua, ít đổ ngã nhưng thời gian sinh trưởng lại khá dài, từ 150 – 165 ngày. Một số giống có thời gian sinh trưởng trung bình tưd 120 – 125 ngày như Khang dân phù hợp cơ cấu giống vụ Hè thu, năng suất không cao, gạo cứng, cơm khô, trổ không thoát và lép ở cuối bông. Giống TH5, Q5 năng suất khá, giống có mức đầu tư trung bình, phẩm chất gạo tốt, hạt thóc nhỏ, dài ( cơm dẻo, thơm ngon ) đang thích dùng và nhân rộng của nhiều nông hộ. Ngoài ra, còn có lúa giống Thơm cực ngắn, hạn chế đợc thiệt.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> hại, rủi ro do tránh được lũ bão, thời gian sinh trưởng cực ngắn chỉ 90 – 105 ngày là thu hoạch, rất phù hợp để bố trí những diện tích ven sông suối hoặc diện tích thấp trũng, cây thấp chống đổ ngã tốt, phẩm chất gạo tốt, cơm dẻo, thơm ngon nhưng thường năng suất không cao, bông ngắn, bố trí hạt trên bông không đều và dễ nhiễm sâu bệnh. 4.3.4. Tình hình sâu bệnh hại lúa Trong quá trình sản xuất, ngoài việc quan tâm đầu tư phân bón, lịch thời vụ còn có việc rất quan trọng đó là theo dõi tình hình sâu bệnh hại, phải cơ cấu chọn lcọ giống thích hợp, kháng được sâu bệnh. Đồng thời, năm bắt được mức độ sâu bệnh hại của từng giống để có kế hoạch và biện pháp phòng trừ thích hợp. Trên thực tế, trong đầu tư thâm canh cao, nhất là khi bón phân mất cân đối thì khả năng phát sinh và gây hại của sâu bệnh càng lớn. Tuy nhiên, mỗi loại giống cây trồng có đối tượng sâu bệnh hại khác nhau và mức độ kháng sâu bệnh cũng khác nhau. Lúa là cây trồng không những hàng năm mà hàng vụ nên đòi hỏi thâm canh cao, chịu tác động, ảnh hưởng bởi điều kiện sinh thái và môi trường, đó cũng là nguồn thức ăn và là nơi khu trú của sâu bệnh hại lúa, sâu bệnh là là nỗi lo lắng của nông dân sản xuất, vì sâu bệnh gây ảnh hưởng lớn đến năng suất, sản lượng, phẩm chất của sản phẩm. Phải tìm hiểu khả năng chống chịu sâu bệnh hại lúa trên các hộ đã thu được kết quả như sau: Bảng 4.10: Mức độ sâu bệnh gây hại trên các giống của các hộ điều tra Sâu hại chính Bệnh hại chính Sâu Sâu Giống Rầy Đậu Vàng Khô cuốn đục Bạc lá nâu ôn lùn vằn lá thân Xi 21 + Xi 23 + Khang dân + TH5 + Thơm ++ Q5 ++ Ghi chú: + Nhiễm sâu bệnh ở mức độ nhẹ ( dưới 25% số cây trên ruộng ) + + Nhiễm sâu bệnh ở mức độ trung bình ( 26 – 50% số cây trên ruộng ) Qua bảng 4.10 trên cho thấy, sâu hại trên các giống lúa đang sản xuất trên địa bàn xã Trà Giang khá phổ biến nhưng không gây dịch hại lớn nhờ có chương trình của Dự án Tầm nhìn Thế giới từ năm 2000 đến 2006, đã tổ chức cho bà con nông dân về chương trình quản lý phòng trừ dịch hại tổng hợp IPM phát triển rộng 6/6 thôn đã được tập huấn khá bài bản. Nhờ đó, mức độ sâu bẹnh hại trên đồng ruộng giảm xuống rõ rệt và hầu như chưa xảy ra bịch bệnh hại trở lại từ khi áp dụng IPM trên địa bàn xã. Mặc dù còn có rải rác như bệnh đạo ôn ở các giống Xi21, Xi23 và sâu cuốn lá ở một số giống khác nhau nhưng không đáng kể. 4.3.5. Mức độ đầu tư phân bón qua 3 nhóm hộ điều tra.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> Vấn đề đầu tư phân bòn hết sức quan trọng, đây là khâu quyết định đến năng suất cây trồng và sản phẩm cuối cùng đặc biệt là cây lúa, đồng thời tạo khả năng chống chịu sâu bệnh của giống lúa. Cây lúa đòi hỏi phải có thâm canh, đảm bảo quy trình về phân bón và phải có phân bón. Phân bón được xem là yếu tố rất quan trọng đối với cây lúa, nên đầu tư phân bón tốt thì đem lại năng suất và phẩm chất sản phẩm tốt, nếu ít quan tâm đầu tư thâm canh thì đồng nghĩa năng suất lúa không như mong muốn. Từ những yếu tố trên thể hiện rõ về lợi nhuận kinh tế nếu đầu tư càng lớn, có cân đối và phù hợp thì đồng nghĩa với nâng cao năng suất, hiệu quả kinh tế đem lại lợi nhuận càng cao và ngược lại, nếu đầu tư phân bón thấp hoặc thậm chí không đầu tư thâm canh thì năng suất thấp và hiệu quả kinh tế không cao. Vì vậy, việc đầu tư sử dụng phân và bón cân đối là hết sức quan trọng. Từ đó mới phát huy hết hiệu quảm khai thác hết tiềm năng giống cây lúa, năng suất của cây lúa cũng như đất đai. Qua các công trình nghiên cứu về quy trình bón phân cho thấy rằng, trên thực tế: bón phân hợp lý là đúng lúc thời điểm lúa cần nhu cầu phân bón, bón đúng cách, đúng tỷ lệ và liều lượng. Hệ số bón phụ thuộc vào đặc tính lý hoá của đất, chế độ tưới nước và các biện pháp tác động trên đồng ruộng. Mức đầu tư phân bón còn phụ thuộc vào đặc điểm của từng giống lúa và tuỳ theo khả năng đầu tư của nông dân trực tiếp sản xuất. Kết quả điều tra cho đánh giá kết luận cho thấy mức đầu tư phân bón cho lúa của các nông hộ thể hiện như sau: Bảng 4.11: Lượng phân bón đầu tư trong 2 vụ sản xuất lúa của các nhóm hộ Khối Thuốc Diện Phân Vụ Nhóm lượng Urê NPK Kali Vôi BVTV tích chuồng lúa hộ giống (kg/ha) (kg/ha) (kg/ha) (kg/ha) và trừ cỏ ( ha ) (kg/ha) (kg/ha) 1000đ/ha Khá Đông TB xuân Nghèo Khá Hè TB thu Nghèo Qua bảng 4.11, nhìn chung tình hình sử dụng phân bón của các nhòm hộ không có sự chênh lệch đáng kể. Nhóm hộ khá sử dụng phân bón nhiều hơn nhóm hộ trung bình và nghèo. Việc sử dụng phân vô cơ là chủ yếu, sau đó là phân hữu cơ ( phân chuồng ), tuy chưa đủ để đáp ứng nhu cầu của cây lúa, mới chỉ đáp ứng ở mức thấp và trung bình. Nhìn chung, mức đầu tư phân bón 0 vụ khác nhau, vụ Đông xuân được đầu tư nhiều hơn vụ Hè thu và ở mức độ cao hơn. Trung bình, nhóm hộ khá sử dụng phân chuồng 9.650 kg/ha ở vụ Đông xuân, 9.350 kg/ha ở vụ hè, còn nhóm hộ trung bình và nghèo lượng phân chuồng bòn cho vụ Đông xuân tương ứng 9.200 kg/ha và 8.200 kg/ha, vụ Hè thu là 8.600 kg/ha và 8.050.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> kg/ha. lượng Urê được sử dụng của các nhóm hộ ở vụ Đông xuân và vụ Hè thu cũng có sự khác nhau. Vụ Đông xuân việc đầu tư Urê của các nhóm hộ như sau: nhóm hộ khá 154 kg/ha, nhóm hộ trung bình 148 kg/ha, nhóm hộ nghèo 114 kg/ha; vụ Hè thu sử dụng Urê có thấp hơn nhưng cũng đạt lượng bón đối với nhóm hộ khá là 140 kg/ha, nhóm hộ trung bình 135 kg/ha, hộ nghèo 104 kg/ha. Theo khuyến cáo của Ban khuyến nông thì lượng phân vô cơ hỗn hợp NPK 16:16:8 trong mỗi bao là 25 kg là vữa đủ để dùng chi 01 sào nên việc sử dụng NPK của các nhóm hộ tương đơng nhau và đạt 500 kg/ha. Việc sử dụng Kali giữa các nhóm hộ trong mỗi vụ cũng có sự chệnh lệch. Vụ Đông xuân nhóm hộ khá là 191 kg/ha, nhóm hộ trung bình 187 kg/ha, nhóm hộ nghèo 181 kg/ha; vụ Hè thu việc sử dụng Kali của các nhóm hộ có giảm hơn, với nhóm hộ khá là 170 kg/ha, nhóm hộ trung bình 177 kg/ha, hộ nghèo 160 kg/ha. Cho thấy, các nhóm hộ ít dùng hoặc không dùng vôi khử chua và diệt trừ sâu bệnh. 4.3.6. Thời vụ gieo trồng Qua quá trình sử dụng các loại giống lúa đã gieo trồng qua các vụ và hàng năm trên diện tích địa bàn xã thể hiện rõ, tính ưu việt của từng giống lúa thích ứng với điều kiện khí hậu, thời tiết, đất đai và khả năng đầu tư thâm canh của từng hộ. Giống lúa dài ngày thì tỷ lệ cơ cấu trồng tập trung vào vụ Đông xuân, như: Xi21, Xi23. Thời vụ gieo sạ vụ Đông xuân từ 20/ 11 đến 31/12, với giống trung ngày, như: Khang dân., TH5, Q5 gieo sã từ 30/12 đến 10/ 01 năm sau. Riêng giống Thơm có thời gian sinh trưởng cực ngắn nên thường bố trí trồng vào vụ Hè thu, gieo sạ vào cuối tháng 5 và thu hoạch vào cuối tháng 8. Bảng 4.12: Lịch thời vụ sản xuất lúa của các nhóm hộ được điều tr tại xã Trà Giang năm 2008 – 2009 Năm 2008 2009 Vụ lúa 11 12 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Xuân sạ thu hoạch Đông trung xuân Xuân sạ thu hoạch muộn Hè sạ thu hoạch thu 4.3.7. Hiệu quả kinh tế sản xuất lúa theo từng nhóm hộ Trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói riêng, mục đích cuối cùng của nhóm hộ nông dân là tăng năng suất và đem lại hiệu quả kinh tế, tạo thu nhập và giải quyết nhu cầu đời sống hàng ngày. Từ đó, các hộ luôn tìm ra giải pháp áp dụng khoa học kỹ thuật đưa vào sản xuất, thâm canh tăng năng suất, sản lượng sản phẩm cao nhất trên một đơn vị diện tích đất canh tác của nông hộ. Nhưng, trên thực tế cho thấy năng suất lúa có giới hạn. Muốn đầu tư thâm canh như thế nào để mang lại hiệu quả kinh tế cao thì phải trải qua quá trình sản xuất nhiều vụ,.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> nhiều năm mới rút ra được bài học kinh nghiệm và có biện pháp, công thức tốt nhất đưa vào sản xuất. Vấn đề sản xuất lúa ở xã Trà Giang chủ yếu nhằm mục đích cung cấp đủ lương thực cho cuộc sống của nông hộ, chưa đủ điều kiện để sản xuất trở thành sản phẩm hàng hoá trao đổi hay xuất khẩu mà chủ yếu bước đầu giải quyết được nạn đói giáp hạt hàng năm. Qua điều tra, kết quả của nông dân sản xuất lúa của năm 2009 như sau: Bảng 4.13: Hiệu quả kinh tế sản xuất lúa theo nhóm hộ Tính theo năng suất bình quân cả năm Năng suất bình quân Giá Tổng thu Tổng chi Lãi ròng Chỉ tiêu ( tạ/ha ) ( 1000đ/kg ) ( triệu đồng/ha ) ( triệu đồng/ha ) ( triệu đồng/ha ) Nhóm hộ Nghèo Trung bình Khá Qua bảng 4.13 cho thấy, mức đầu tư cũng như lãi ròng có mức độ khác nhau. Tuy nhiên, độ chênh lệch không lớn. Giá cả tại thời điểm điều tra trong ba nhóm hộ vẫn có lãi, nhóm hộ khá có lãi cao nhất ( 4,05 triệu đồng ), đồng thời cũng là nhóm có mức chi phí đầu tư cao hơn từ 7,5 triệu đồng/ha nên năng suất cao hơn và từ đó hiệu quả kinh tế cao hơn. Nhóm hộ nghèo có chi phí đầu tư thấp nhất ( 5,5 triệu đồng ) nên lãi ròng cũng thấp hơn hộ khá, nhưng qua so sánh giữa nhóm hộ nghèo và trung bình sự chênh lệch lãi ròng là không đáng kể. Ngoài sự quan tâm đến hiệu quả kinh tế và cơ cấu các loại giống lúa, nông dân còn sử dụng những giống thích hợp với điều kiện canh tác của từng hộ đang sản xuất để có một phương thức canh tác phù hợp. 4.3.8. Tình hình áp dụng một số biện pháp kỹ thuật mới trong sản xuất lúa Bảng 4.14: Một số biện pháp kỹ thuật mới được áp dụng trong sản xuất lúa Hộ trung Nhóm hộ Hộ khá Hộ nghèo bình Tỷ lệ hộ áp dụng Hộ Hộ Hộ Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ (%) trồng trồng trồng (%) (%) (%) Biện pháp ( hộ ) ( hộ ) ( hộ ) Giống lúa mới IPM 3 tăng 3 giảm Qua bảng 4.14 cho thấy, mức độ đầu tư mua giống mới khác nhau, nhóm hộ khá mua giống mới cho 100% diện tích sản xuất của hộ. Nhóm hộ trung bình và nghèo thấp hơn. Số giống hộ nghèo đưa vào sản xuất là giống được Nhà nước hỗ trợ, chiếm 60% diện tích, do không có kinh phí để mua, bên cạnh đó giá lúa giống khá cao 15.000 đồng/kg, trong khi đó lúa thịt chỉ có 8.000 đồng/kg, giá giống cao gần gấp đôi giá lúa thịt..

<span class='text_page_counter'>(29)</span> Do vậy, diện tích còn lại các hộ nghèo và trung bình tập dụng lúa thịt F2, F3 đã phân li để làm giống cho vụ tiếp theo dẫn đến năng suất thấp. Tuy nhiên, địa phương đã áp dụng biện pháp IPM khá tốt từ đó hạn chế được sâu bệnh, dịch hại trên diện rộng, mặc dù có sâu bệnh nhưng không đáng kể. 4.4. Những thuận lợi, khó khăn và giải pháp trong sản xuất lúa tại xã Trà Giang, Bắc Trà My, Quảng Nam 4.4.1. Những thuận lợi - Điều kiện xã hội ở xã Trà Giang khá thuạn lợi, có thể chủ động nguốn nước tưới tiêu cho cả 2 vụ sản xuất Đông xuân – Hè thu. - Chính sách quan tâm của Đảng, Nhà ước phù hợp, ban hành nhiều chủ trương trọng điểm về công tác khuyến khích nông dân phát triển sản xuất, như: miễn thuế nông nghiệp, thuỷ lợi phí, hỗ trợ giống cây trồng, cho vay vồn sản xuất, chăn nuôi, đầu tư cơ sở hạ tầng, vật chất phục vụ cho nông nghiệp, đầu tư xây dựng kiên cố hoá đạp thuỷ lợi,, kênh mương, đường xá liên thôn, liên xã thuận lợi cho việc vận chuyển sản phẩm hàng hoá nông sản, đặc biệt là con đường Trà My – Trà Bồng ( Quảng Ngãi ) xuyên suốt từ đầu xã đến cuối xã. - Tiếp tục khai hoang mở rộng và tận dụng hết tiềm năng diện tích đất đai, sử dụng hiệu quả nguồn nước tưới toàn bộ diện tích lúa trên địa bàn xã góp phần ổn định an ninh lương thực, góp phần xóa đói giảm nghèo cho nông dân. - Uỷ ban nhân dân huyện Bắc Trà My có chủ trương phân công cán bộ kỹ thuật của Phòng Nông nghiệp giúp địa phương chỉ đạo kỹ thuật thâm canh lúa nước, nâng cao năng suất và sản lượng. Hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc, bón phân, phòng trừ sâu bệnh hại lúa và các kỹ thuật mới cho nông dân trong sản xuất lúa để đem lại hiệu quả kinh tế cao. - Uỷ ban nhân dân xã đã phối hợp lồng ghép các chương trình, dự án đầu tư của các tổ chức phi Chính phủ vào phát triển nông nghiệp địa phương ngày càng nhiều hơn, thực sự đem lại hiệu quả kinh tế tạo thu nhập ổn định cuộc sống cho người dân. 4.4.2. Những khó khăn - hạn chế - Trình độ canh tác trên ruộng lúa nước của người dân chưa đúng kỹ thuật. Một số bộ phận người đồng bào dân tộc thiểu số còn chặt phá rừng làm nương rẫy để trồng lúa, chưa có kiến thức làm lúa nước nên khi chỉ đạo thực hiện thâm canh tăng năng suất trong thời gian qua gặp rất nhiều khó khăn, hạn chế nhất định. - Dân số tăng nhanh, diện tích đất bị thu hẹp, nông dân chưa thực sự mạnh dạn đầu tư vào sản xuất. - Tỷ lệ hộ nghèo còn cao, trên 45 % vào cuồi năm 2009 nên khả năng đầu tư vào sản xuất còn gặp nhiều khó khăn. - Trong việc xuất lúa nước, Uỷ ban nhân dân xã đã đứng ra cung ứng các loại giống lúa nhưng các hộ dân đăng ký mua rất ít, chưa đạt 50% diện tích về giống lúa mới đã xác nhận. Trong một vụ sản xuất còn sử dụng nhiều loại giống khác nhau thậm chí co hộ còn sử dụng các giống F2, F3, thậm chí là F4 nên dẫn đến năng suất thấp, chưa đảm bảo yêu cầu trong sản xuất..

<span class='text_page_counter'>(30)</span> - Tập quán canh tác lạc hậu, không chú trọng đầu tư thâm canh tăng năng suất, còn trông chờ, ỷ lại vào sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước. - Khâu làm đất phần lớn diện tích được làm bằng các công cụ hỗ trợ thủ công, độ sâu cày phay cạn từ 10 – 12 cm, tầng canh tác không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật nên lúa thường bị nghẹt rễ. - Về gieo sạ, phần lớn và con nông dân địa phương sạ là chủ yếu, chiếm trên 90 % diện tích, còn lại là cấy ở những diện tích bị lầy lội, diện tích tận dụng khe suối ngầm. Chưa áp dụng công cụ gieo sạ hàng nên lượng giống bị tiêu tốn nhiều, mật độ không đảm bao, khó chăm sóc và thường dẫn đến tình trạng quá thưa thì bị mất năng suất và quá dày cũng mất năng suất, bên cạnh đó dể tạo cho sâu bệnh hại phát triển. - Về phân bón, chủ yếu bón phân hữu cơ ( phân chuồng ) và phân vô cơ hỗn hợp ( NPK loại 16:16:8 hoặc 10:10:5 ) và ít dùng phân đơn. Liều lượng bón chưa cân đối, liều lượng và thời gian bón phân chủ yếu là bón lót và thúc lần 1, sau đó không quan tâm bón phân, thăm đồng không thường xuyên để điều tiết nước và phát hiện sâu bệnh sớm dẫn đến năng suất lúa thấp. 4.4.3. Một số giải pháp ưu tiên để đáp ứng yêu cầu sản xuất lúa tại xã Trà Giang Sau khi điều tra, đánh giá thuận lợi – khó khăn, ưu, nhược và hạn chế trong việc sản xuất lúa của đại diện các nhóm hộ điều tra trong địa bàn xã sau đó đưa vào sản xuất những giống lúa tốt có năng suất cao, khá phù hợp với điều kiện tự nhiên, khả năng đầu tư và tập quán thâm canh như giống lúa lai, T92-1, TH1,… đã được trồng khảo nghiệm. Có thể rút ra được một số giải pháp sau: - Huy động từ các nguồn vốn hỗ trợ đầu tư và khuyến khích nông dân sản xuất lúa. - Mở các lớp tập huấn kỹ thuật nông nghiệp, thâm canh trong canh tác lúa, thường xuyên phổ biến các tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng vào sản xuất cây trồng đặc biệt là cây lúa. - Xây dựng bố trí hợp lý lịch thời vụ sao cho phù hợp, tránh được thiệt hại do sâu bệnh, lũ lụt,…niêm yết lịch thời vụ tại nhà sinh hoạt công đồng của từng thôn. - Tiếp tục tăng cường quan tân đầu tư bê tông hoá hệ thống thuỷ lợi,kêng mương nội đồng để đảm bảo việc cung cấp đủ nước tưới tiêu cho đồng ruộng.. PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1. Kết luận.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> - Một là, điều kiện thời tiết, khí hậu, đất đai xã Trà Giang tương đối thuận lợi cho cây lúa sinh trưởng và phát triển. Điều kiện phát triển kinh tế - xã hội ngày càng ổn định, lực lượng lao động nông nghiệp dồi dào. Tuy nhiên, cơ sở vật chất, hạ tầng chưa đồng bộ và toàn diện. Số hộ nghèo trong xã chiếm tỷ lệ cao trên 45%, nguồn thu nhập chính chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp để cải thiện đời sống nên mức độ đầu tư vào nông nghiệp chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu. Hai là, cơ cấu giống chủ yếu của cả 02 vụ chủ yếu là Xi21, Xi23, Khang dân, TH5 vì các giống này khá phù hợp với điều kiện tự nhiên, thời tiết và trình độ canh tác của nhân dân địa phương. Ba là, năng suất trung bình của các nhóm hộ vụ Đông xuân đạt 42 tạ/ha cao hơn vụ Hè thu đạt 40 tạ/ha của năm 2009. Năng suất các giống lúa ở cả hai vụ sản xuất năm 2009 đều có tăng so với các năm trước nhưng không đáng kể. Bốn là, lượng phân bón của các nhóm hộ điều tra hầu như chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của cây lúa. Các nhóm hộ sử dụng chủ yếu là phân hữu cơ, vô cơ hỗn hợp ( NPK ) nhưng vẫn ở mức thấp và trung bình, các nhóm hộ chưa chú ý sử dụng phân chuồng, phân xanh để cải tạo đất. Năm là, tình hình sâu bệnh hại đều xuất hiện trong các giai đoạn phát triển của cây lúa nhưng ở mỗi thời kỳ, ở mỗi giống lúa mức độ hại khác nhau, là sâu cuốn lá, rầy nâu, bệnh đạo ôn thường xảy ra ở vụ Đông xuân. Sáu là, hiệu quả kinh tế của các nhóm hộ khác nhau, nhóm hộ nghèo có mức chi phí đầu tư thấp nhất 5,5 triệu đồng/ha nên lại ròng cũng thấp 2,6 triệu đồng/ha, thua hộ khá 4,05 triệu đồng/ha. Lãi ròng nhóm hộ nghèo và nhóm hộ trung bnình có chênh lệch nhưng không lớn 0,7 triệu đồng/ha. 5.2. Đề nghị - Tiếp tục tổ chức mở các lớp tập huấn chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng vào sản xuất lúa, khuyến khích nông dân sử dụng các giống lúa mới đã được xác nhận, các biện pháp canh tác, thâm canh và phòng trừ sâu bệnh hại tổng hợp IPM. - Mạnh dạn loại bỏ các giống lúa cũ đã thoái hoá, năng suất thấp, dễ nhiễm sâu bệnh thay vào đó bằng các loại giống lúa mới có năng suất cao, khả năng chống chịun sâu bệnh, ngập lụt, hạn hán,… - Quy hoạch từng vùng trồng các giống lúa khác nhau để dễ quản lý sâu bệnh và dịch hại..

<span class='text_page_counter'>(32)</span>

×