Tìm hiểu logic của sự hình thành khái
niệm
Trần Thị Ngọc Anh
Tạp chí Triết học
10:14' AM - Chủ nhật, 10/12/2006
Đây là một vấn đề mà người nghiên cứu phải đặt ra khi muốn đi đến cội nguồn của một
khái niệm nào đó và sử dụng nó có hiệu quả trong quá trình tư duy và hoạt động thực tiễn.
Như đã biết, tư duy là một phạm trù cơ bản của triết học. Tư duy có thể được hiểu theo
nghĩa là toàn bộ đời sống tinh thần của con người, là phạm trù đối lập với phạm trù vật
chất (nghĩa này được dùng khi nói về vấn đề cơ bản của triết học). Tư duy cũng có thể
được hiểu theo nghĩa hẹp hơn đó là giai đoạn cao của nhận thức (nhận thức lý tính). Theo
nghĩa thứ hai, tư duy có quá trình hình thành, vận động và phát triển. Khái niệm một hình
thức của tư duy - đương nhiên cũng có quá trình sinh thành, vận động và phát triển. Quá
trình sinh thành, vận động và phát triển (gọi tắt là quá trình hình thành) của khái niệm có
logic của nó. Vậy, logic của sự hình thành khái niệm là gì?
Để trả lời câu hỏi nêu trên, trước hết cần phải làm rõ "logic là gì”? Thuật ngữ "logic" bắt
nguồn từ thuật ngữ “logos" trong triết học Hi Lạp cổ, với các nghĩa là lời nói, tư tưởng, lý
tính, quy luật. Triết học macxít không sử dụng thuật ngữ "logos", mà thay vào đó là thuật
ngữ “logic". Thuật ngữ "logic" đùng để chỉ những thuộc tính tất yếu, khách quan của các
quá trình, hiện tượng. Tính tất yếu, khách quan này được con người nhận thức ở nhiều cấp
độ khác nhau.
Ở cấp độ thứử nhất, logic là tính tất yếu của một sự vật, hiện tượng, một quá trình nào đó
với tư cách là cái đơn nhất. Khi tìm hiểu logic của sự hình thành khái niệm ở cấp độ này,
chúng ta cần làm rõ cơ chế và quy trình hình thành nên khái niệm, tính tuần tự của các thao
tác kế tiếp nhau một cách tất yếu trong quá trình tư duy đi đến khái niệm, những yếu tố cần
và đủ cho sự ra đời cũng như sự tồn tại của khái niệm…
Ở cấp độ thứ hai, logic là tính tất yếu của một nhóm nhỏ các sự vật, hiện tượng, có nghĩa là
tính tất yếu đã có sự lặp lại nhưng mới chỉ ở một số ít các sự vật, hiện tượng hữu hạn với
tư cách là cái đặc thù. Ở cấp đủ này logic có thể được hiểu như là một thuộc tính, bên cạnh
rất nhiều thuộc tính khác nữa, và thuộc tính ở đây được hiểu là tính quy luật. Khi tìm hiểu
logic của sự hình thành khái niệm ở cấp độ này, chúng ta cần xét theo nhóm. Ví dụ, nhóm
các khái niệm triết họe, nhóm các khái niệm khoa học xã hội, nhóm các khái niệm khoa
học tự nhiên...
Ở cấp độ thứ bạ (cấp độ cao nhất), logic đồng nghĩa với quy luật. Đó là những mối liên hệ
phổ biến, tất yếu, tương đối ổn định được lặp đi lặp lại ở nhiều sự vật, hiện tượng khác
nhau. Khi tìm hiểu logic của sự hình thành khái niệm ở cấp độ này, chúng ta cần phải tìm
ra được những quy luật của sự hình thành khái niệm nói chung. Đây là một công việc hết
sức phức tạp.
Dù nghiên cứu logic của sự hình thành khái niệm ở cấp độ nào chăng nữa, chúng ta cũng
phải làm rõ tính tết yếu khách quan của sự hình thành khái niệm. Đương nhiên, cần chú ý
rằng, sự phân biệt giữa "một nhóm khái niệm" với "nhiều khái niệm" chỉ là tương đối.
Nhìn ở một góc độ khác, khi tìm hiểu logic của sự hình thành khái niệm, chúng ta có thể
tiếp cận khái niệm trong các trường hoạt động của nó.
Trường thứ nhất là khảo sát khái niệm trong tính lịch đại, nghĩa là xét logic của sự hình
thành khái niệm trong một quá trình lịch sử của nó, trong tính tất yếu nội tại của bản thân
nó, bất luận nó đã được cá nhân nhận thức hay chưa, nhận thức đến đâu. Nói như vậy
không có nghĩa là phủ nhận vai trò của con người, bởi quá trình hình thành khái niệm chỉ
có thể thực hiện được trên cơ sở nhận thức của con người, chỉ có thể diễn ra trong bộ não
người. Ở đây, khái niệm không còn nằm trong khuôn khổ tư duy của một cá nhân xác định,
mà đó là kết tinh trí tuệ của loài người. Với sự phát triển không ngừng của tri thức nhân
loại, sự phát triển của khái niệm đến một "độ" nhất định sẽ tự sản sinh ra khái niệm mới, tự
mở đường đi đến những lãnh địa mới, sự tự phát triển này diễn ra như thế nào? Chúng ta
có thể tìm được lời đáp cho vấn đề này trong "Khoa học logic" của Hêgen. Ở đó Hêgen nói
về sự chuyển hóa liên tục của "tồn tại" thông qua những nấc thang trung gian, mà chúng ta
hiểu đó là sự tự triển khai của khái niệm thông qua những khái niệm trung gian khác để
đưa nhận thức đến một trình độ cao hơn nữa. Theo đó, khái niệm được coi là kết quả sẽ lại
trở thành khái niệm trung gian của một khái niệm mới, và quá trình ấy sẽ không có điểm
dừng.
Trường thứ hai là khảo sát khái niệm trong tính đồng đại, nghĩa là cần cắt ngang quá trình
hình thành và phát triển của khái niệm để nghiên cứu những yếu tố, những điều kiện cần và
đủ cho khái niệm tồn tại và hoạt động. Ở đây, khái niệm coi như là cái đã có, như là kết
quả của quá trình tư duy. Trong trường hợp này, chữ "xuất hiện" và chữ "tồn tại" là như
nhau. Chúng ta xét khái niệm trong cả một quá trình, mà quá trình ấy như đã được co lại,
rút lại, được đồn nén lại. Có thể làm được như vậy là vì logic của sự vận động của tư
tưởng trong đầu óc một người riêng rẽ lặp lại và sát nhập với logic của sự phát triển lịch sử
của tư duy, xét về đại thể và toàn bộ, dưới hình thức vắn tắt và "được lược bỏ". Nói về sự
"rút gọn" mà không bỏ qua này, Ph.Ăngghen đã viết trong "Biện chứng của tự nhiên" như
sau: "Sự phát triển của một khái niệm nào đó, hay của mối quan hệ giữa những khái
niệm...trong lịch sử của tư duy đối với sự phát triển của nó ở trong đầu óc một nhà biện
chứng riêng rẽ thì cũng như là sự phát triển của một cơ thể nào đó trong cổ sinh vật học đối
với sự phát triển của nó trong bào thai học (hay, nói rõ hơn là trong lịch sử và trong một
mầm mống riêng rẽ)".
Đến đây, người nghiên cứu sẽ vấp phải một vấn đề có tính chất phương pháp luận: Giải
quyết mối quan hệ giữa cái lịch sử và cái logic như thế nào? Khảo sát khái niệm theo
trường thứ nhất liệu có làm cho cái logic bị ảnh hưởng, còn khảo sát khái niệm theo trường
thứ hai liệu cung cấp làm cho cái lịch sử bị tổn thương? Cách duy nhất đúng là, đã lựa
chọn việc khảo sát khái niệm theo hướng nào (lịch đại hay đồng đại), chúng ta cũng vẫn
phải tôn trọng mối quan hệ mật thiết của cái lịch sử và cái logic. Bởi đây chính là chìa
khóa để tìm đến logic của sự hình thành khái niệm.
Lịch sử là bản thân quá trình vận động và phát triển của hiện thực, diễn ra với tất cả tính đa
dạng muôn vẻ của nó, bao hàm những tiến trình tuần tự, những bước nhảy và cả những
ngẫu nhiên. Còn logic là cái được trừu tượng hóa từ lịch sử, thể hiện những mối quan hệ,
liên hệ, tác động lẫn nhau giữa các mặt, các quá trình lịch sử, với tư cách là những quy
luật.
Mối quan hệ giữa cái lịch sử và cái logic là mối quan hệ thống nhất biện chứng có chứa
đựng mâu thuẫn. Sự thống nhất giữa chúng thể hiện ở chỗ, cái lịch sử luôn hàm chứa cái
logic, còn cái logic luôn được chứng minh bằng cái lịch sử. Sự mâu thuẫn giữa chúng thể
hiện ở chỗ, cái lịch sử là những ngẫu nhiên, những quanh co, khúc khuỷu, còn cái logic đã
gạt bỏ những ngẫu nhiên ấy, chỉ còn lại hạt nhân là những quy luật. Theo Rôdentan, cái
logic có hai đặc điểm, mà hai đặc điểm này cũng thể hiện sự thống nhất với cái lịch sử.
Thứ nhất, logic là sự tái sản sinh cô đặc, vắn tắt của lịch sử, đã tẩy sạch tất cả những cái
ngẫu nhiên và thứ yếu (như cách nói của Hêgen), đã thóat khỏi hình thức lịch sử cụ thể, là
cái đã được cô lại, nhào lại, cải tạo lại trong lịch sử. Nhưng logic không phải là bản sao
đơn giản, "không có linh hồn", cứng đờ của quá trình lịch sử, mà là lịch sử được sửa chữa
lại, uốn nắn lại trên tinh thần phù hợp với những quy luật mà bản thân quá trình lịch sử đã
hàm chứa.
Thứ hai, tuy phản ánh lịch sử, nhưng logic là sự tái sản sinh lịch sử ở một trình độ cao hơn
trên cơ sở đạt được của trình độ nhận thức hiện tại phát triển hơn. Trình độ nhận thức hiện
tại là "chòi quan sát" mà ở đó ta có thể nhìn lại cả một tiến trình dài của lịch sử đã qua
cũng như những khuynh hướng của lịch sử sẽ diễn ra trong thời gian tới. Đây là cơ sở
chính cho sự ra đời "trước hiện thực" của nhiều khái niệm. Về vấn đề này, có thể dẫn một
câu nói nổi tiếng của C.Mác: giải phẫu con người là chìa khóa để giải phẫu con vượn.
Mối quan hệ biện chứng giữa cái lịch sử và cái logic được thể hiện một cách rõ nét trong
khái niệm, bởi vì khái niệm là sự phản ánh chân thực lịch sử bằng cách giữ lại cái logic của
hiện thực ấy trong tư duy. Nghiên cứu khái niệm theo lát cắt đồng đại sẽ cho thấy lịch sử
được dồn nén trong nó như thế nào. Còn nghiên cứu khái niệm bắt đầu từ lịch sử, không
thóat ly khỏi lịch sử (theo lịch đại) lại là một nguyên tắc bắt buộc.
Xác định nơi bắt đầu của lịch sử để tìm nơi bắt đầu của tư duy, nơi có thể hình thành nên
khái niệm không phải là một vấn đề đơn giản, bởi vì bản thân lịch sử cũng có muôn vàn
mặt khác nhau, và mỗi mặt ấy đều có thể được coi là khởi điểm. Vậy dựa vào tiêu chí nào?
C.Mác đã đưa ra một tiêu chí khi nghiên cứu về tư bản: nếu như việc nghiên cứu bắt đầu từ
chỗ lịch sử bắt đầu, thì nó cần phải bắt đầu từ cái làm thành bước chuyển, làm thành mắt
xích nối liền giữa quá khứ với hiện tại.
Nghiên cứu khái niệm cũng vậy, phải tìm ra được hiện thực nối liền khái niệm đã có với
khái niệm đang hình thành. Hiện thực ấy là những sự kiện. Khi bám chắc vào lịch sử để
tìm ra logic, nhận thức khoa học rất đề cao vai trò của sư kiện. Các sự kiện với tư cách là
những mặt, những yếu tố đa dạng của hiện thực, được con người thụ cảm và ghi nhận, giúp
con người đi sâu vào bản chất của khách thể. Tuy nhiên, không nên quan niệm phương
pháp lịch sử là sự liệt kê, mô tả một cách giản đơn các sự kiện chồng chất, bởi nếu như vậy
sẽ dẫn đến sự nhầm lẫn giữa cái ngẫu nhiên và cái tất nhiên và hậu quả là không thể đi đến
khái niệm được Điều đó có nghĩa là khi xuất phát từ lịch sử, phải vạch ra tính quy luật của
những sự kiện ấy, tìm ra được tính tất nhiên ẩn giấu sau những ngẫu nhiên. Như vậy, "nếu
phương pháp logic cũng là phương pháp lịch sử, nhưng đã thóat khỏi hình thức lịch sử, thì
đến lượt mình, phương pháp lịch sử phải bao hàm trong mình yếu tố của phương pháp
nghiên cứu logic". Lênin đã chỉ ra con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, mà trên
con đường đó là sự triển khai của vô vàn khái niệm. Song, nên hiểu con đường biện chứng
này như thế nào? Về vấn đề này, Rôdentan viết: "Nhiều hoàn cảnh làm cho tư duy con
người thành phức tạp, không cho phép quá trình nhận thức diễn ra dưới dạng "thuần tuý"
chỉ trong những trường hợp rất hãn hữu mới có thể theo dõi trực tiếp thấy quá trình ấy bắt
đầu từ trực quan sinh động rồi từ trực quan sinh động chuyển thành khái niệm, quy luật.
Trong phần lớn trường hợp, tư duy con người bắt đầu ngay từ những khái niệm, lý luận đã
nêu ra và được biết từ trước đó được gọi là bộ khái niệm công cụ, xuất phát điểm để nhận
thức vươn tới những chân trời mới. Nếu tư duy lại bắt đầu từ trực quan sinh động, thì trực
quan sinh động sẽ bị nhét đầy những khái niệm, ý niệm trừu tượng, thành thử mối liên hệ
từ cái này sang cái khác hoàn toàn bị che lấp đi. Những khái niệm công cụ hay những khái
niệm trung chuyển từ vốn tri thức, sự hiểu biết đã có của chủ thể sang khía cạnh mới, lĩnh
vực mới của hiện thực sẽ đóng vai trò là khởi điểm của quá trình hình thành nên khái niệm
mới. Việc rút ra khái niệm này từ khái niệm khác không phải là việc làm hoàn toàn mang
tính tư biện, mà nó cũng phải dựa trên cơ sở phản ánh tính tất yếu của khách thể.
Nghiên cứu khái niệm trong tính lịch sử, đó là tinh thần của logic biện chứng. Luận điểm
này có liên quan đến vấn đề kinh nghiệm. Những khi xét kinh nghiệm, phải tránh sa vào
chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa kinh viện, bởi vì sử dụng phương pháp lịch sử mà
không có logic sẽ dễ rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm hẹp hòi.Theo nghĩa rộng, kinh nghiệm
được hiểu là vốn tri thức tích luỹ được thông qua hoạt động thực tiễn của cả nhân loại từ
khi xuất hiện ý thức. Lênin đã phải đảo ngược Hêgen ở quan điểm: "Hoạt động thực tiễn
của con người phải làm cho ý thức con người lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần những hình
tượng logic khác nhau để cho những hình tượng này có thể có được ý nghĩa những công
lý". Với một bề dày lịch sử, kinh nghiệm của loài người được đúc kết lại thành kho tàng vô
giá, được thế hệ này nối tiếp thế hệ kia bồi đắp thêm. Song, kinh nghiệm chỉ thực sự có giá
trị khi con người biết cách vận dụng nó, mà một tấm gương điển hình về vận dụng nó là
C.Mác, chủ nghĩa Mác là một thí dụ chỉ rõ ràng chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh như thế
nào từ tổng số những kiến thức của nhân loại, tất cả những cái mà xã hội loài người đã
sáng tạo ra, Mác đã nghiền ngẫm lại một cách có phê phán, không hề bỏ sót một điểm
nào". Những tác phẩm của C.Mác được đánh giá là những kiệt tác vì đã kết tinh tư tưởng
nhân loại bởi một bộ óc thiên tài. Nhưng bên cạnh đó, các tác phẩm của ông cũng mang
một luồng sinh khí mạnh mẽ, bởi chúng đã được kiểm chứng qua phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân. Ở đây, vai trò của kinh nghiệm theo nghĩa hẹp đã phát huy tác dụng
của mình.
Theo nghĩa hẹp, kinh nghiệm được hiểu là vốn tri thức được đúc kết lại thông qua hoạt
động thực tiễn của bản thân chủ thể Ph.Ăngghen luôn khẳng định sự cần thiết của việc
nghiên cứu lịch sử phát triển của khái niệm, của lý luận, bởi vì khái niệm cũng như lý luận
nói chung "không phải do bẩm sinh mà cả cũng không phải do ý thức bình thường hằng
ngày đem lại, mà đòi hỏi một tư duy đã trải qua một lịch sử kinh nghiệm lâu dài". Sức
thuyết phục của lý luận là ở chỗ đó. Nếu chỉ là sự sao chép đơn thuần, sự chắp nối vụng về
các kinh nghiệm đã có thì lý luận sẽ mất đi sức sống tự thân. Để thấy được điểm khác nhau
giữa ý nghĩa nêu trên của lý luận Hêgen đã có một sự so sánh: "Giống như, cùng một câu
cách ngôn luân lý, nếu do một thanh niên nói ra, tuy anh ta hiểu nó một cách hoàn toàn
đúng đắn, thì lại không có cùng một ý nghĩ và cùng một tầm rộng như khi câu đó xuất phát
từ miệng một người từng trải việc đời, và khi nói câu đó, người này đã nói lên toàn bộ sức
mạnh nội dung của nó”. Lênin nhận xét rằng đây là một "sự so sánh hay, duy vật".
Việc tổng kết kinh nghiệm, phân tích lịch sử sẽ là điểm xuất phát cho nhận thức khoa học
mà trên đó, các khái niệm được triển khai, được "mài sắc, gọt giũa, mềm dẻo, năng động".
Từ lịch sử mà ta thấy được sức mạnh của khái niệm đang vận động. Rõ ràng, "toàn bộ sức
mạnh nội dung của khái niệm” nằm ở sự tất yếu của việc hình thành nên khái niệm ấy, nằm
ở hàm lượng tri thức nhân loại dồn nén trong nó, nằm ở sự phát triển, tự triển khai của nó
dưới dạng tiềm năng.
Như vậy, để khai thác được toàn bộ sức mạnh nội dung của khái niệm, chúng ta cần phải
làm rõ được logic của sự hình thành khái niệm. Muốn làm rõ được logic của sự hình thành
khái niệm, chúng ta phải bắt đầu nghiên cứu khái niệm từ trong lịch sử hiện thực để chỉ ra
đời sống của riêng nó, nêu lên sự liên hệ của nó với quá khứ và tương lai, đồng thời phải
nghiên cứu khái niệm trong tính hệ thống, nghĩa là nghiên cứu sự tác động của khái niệm
trong chuỗi của nó và sự tác động của nó tới các chuỗi khái niệm khác.
Lôgíc học là khoa học về các hình thức và quy luật của tư duy. Muốn phản ánh đúng hiện
thực khách quan thì tư duy con người phải tuân theo những quy tắc và quy luật nhất định.
Đó là những quy tắc và quy luật của sự nhận thức, của suy nghĩ, của tư duy mà lôgíc học
nghiên cứu. Việc tuân theo những quy tắc quy luật này là điều kiện không thể thiếu để đạt
tới chân lý khách quan trong quá trình nhận thức.
Cuốn sách Lôgíc học bao gồm cả lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng nhằm giúp cho sinh
viên nắm vững và biết vận dụng những hình thức, những quy tắc và quy luật chi phối sự
phát triển của tư duy vào học tập, nghiên cứu và vào cuộc sống; biết xem xét phân tích tư
tưởng không những về mặt nội dung mà cả về kết cấu; biết vận dụng các thủ thuật lôgíc để
tiếp thu một cách có hiệu quả những môn khoa học mà họ đang học tập, nghiên cứu; biết
sử dụng các tài liệu và tri thức đã được tích luỹ vào hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn. Nghiên cứu lôgíc học còn giúp người học biết giải thích một cách khoa học các sự
kiện; biết cách nêu giả thuyết, chứng minh và bắt bẻ, bác bỏ những tư tưởng, luận điểm
không chân thực khi tranh luận, bút chiến, chống lại những tư tưởng sai lầm trong khoa
học và trong đời sống hiện thực.
KHAC: View Full Version : Những tư tưởng cơ bản của Hegel về logic học với tính cách
là logic biện chứng
Butchi
09-20-2009, 01:04 PM
Thông thường để xây dựng một hệ thống triết học của mình, thì mỗi triết gia đều phải xuất
phát từ điểm xuất phát triết học riêng biệt. Theo Ăngghen, điểm xuất phát đó là vấn đề cơ
bản của triết học mà nó được giải quyết trên lập trường của từng triết gia. Hegel cho rằng,
điểm xuất phát đó có một vị trí vô cùng quan trọng trong quá trình hình thành nên học
thuyết triết học mới. Nó có thể khắc phục được những hạn chế của các học thuyết đã có từ
trước. Chính vì vậy Hegel đã xác định điểm xuất phát triết học của ông là sự đồng nhất duy
tâm giữa tư duy và tồn tại hay là ý niệm tuyệt đối. Nói một cách khác Hegel là nhà triết học
duy tâm khách quan, nghĩa là đối với ông tư tưởng của chúng ta không phải là sự phản ánh
thế giới hiện thực khách quan, trái lại những sự vật và hiện tượng trong thế giới là sự thể
hiện của ý niệm tuyệt đối, mà ý niệm này tồn tại trước khi thế giới xuất hiện.
Căn cứ vào sự phát triển của ý niệm tuyệt đối mà Hegel đã cấu trúc hệ thống triết học của
ông thành logic học, Triết học tự nhiên và Triết học tinh thần. Bài viết này muốn đề cập
đến những tư tưởng của Hegel về logic học với tính cách là logic biện chứng trong hệ
thống triết học Hêghen.
Theo Hêghen, đồng nhất giữa tư duy và tồn tại cũng có nghĩa là những quy luật của tư duy
được logic học nghiên cứu, thực chất cũng là những quy luật của tồn tại (của tự nhiên, của
lịch sử). Vì vậy logic học là bộ phận sinh động nhất của hệ thống triết học Hêghen, bởi vì
trong đó phép biện chứng của ông đã được thể hiện một cách đầy đủ nhất.
Để xây dựng logic học mới với tính cách làlogic biện chứng, Hegel đã nghiên cứu toàn bộ
quá trình phát triển của logic hình thức cổ điển trước đây. Tuy không phủ nhận ý nghĩa và
vai trò của logic hình thức trong lịch sử nhận thức, nhưng Hegel đã chỉ ra những hạn chế
của nó. Theo Hêghen, logic học trước ông là khoa học về những hình thức tư duy chủ
quan, vì vậy nó chưa đầy đủ. chưa đáp ứng được với sự phát triển của triết học và khoa
học. Trên cơ sở đó Hegel đã sáng tạo ra một hệ thống logic học mới - logic biện chứng
nhằm đem lại cho triết học một phương pháp luận mới đó là phép biện chứng. Phép biện
chứng của Hegel là một trong những thành tựu quí giá nhất của triết học cổ điển Đức nói
riêng và lịch sử triết học trước Mác nói chung. Tuy nhiên Hegel đã sáng tạo logic biện
chứng trên lập trường duy tâm. ông đã xuất phát từ cơ sở đồng nhất giữa tư duy và tồn tại
khi coi những qui luật của tự nhiên, của lịch sử cũng là những quy luật của tư duy. Để lý
giải điều này, Hegel cho rằng, con người có khả năng nhận thức được thế giới một cách
tuyệt đối và đầy đủ, nghĩa là tư duy con người nhận thức được thế giới tự nhiên và xã hội.
Từ đó ông coi tư duy là bản chất của chúng. Đồng thời quan niệm của Hegel về sự thống
nhất giữa chủ thể và khách thể không giống như quan niệm của chủ nghĩa duy vật, mà ông
coi nó như là sự đồng nhất hoàn toàn của chúng. Điều này có nghĩa là đối với Hegel khách
thể của tư duy không khác biệt với bản thân tư duy. Những khách thể của tư duy thực chất
chỉ là những quy định của chính tư duy mà thôi. Theo Hêghen, tư duy ở đây hoàn toàn
không được xem xét như là sản phẩm đặc biệt của bộ óc con người, như là nét đặc thù của
con người. Hegel đồng nhất tư duy với hoạt động của ý niệm tuyệt đối với tư cách là cơ sở
của mọi sự vật, hiện tượng của thế giới. Hơn nữa tư duy đồng thời vừa là khách thể, vừa là
chủ thể, nó vừa là những gì đang tư duy, vừa là những gì được tư duy. Tuy nhiên, Hegel
cũng thừa nhận cảm giác, trực giác, biểu tượng, mong muốn là những hình thức của ý thức