Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Thăm dò ảnh hưởng của môi trường nuôi cấy đến sinh trưởng của callus nghệ đen (Curcuma zedoaria Roscoe)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.01 KB, 12 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế

Tập 12, Số 2 (2018)

THĂM DÒ ẢNH HƢỞNG CỦA MÔI TRƢỜNG NUÔI CẤY ĐẾN SINH TRƢỞNG
CỦA CALLUS NGHỆ ĐEN (Curcuma zedoaria Roscoe)

Trƣơng Thị Phƣơng Lan1,2*, Lê Thị Anh Thƣ2, Nguyễn Thị Hà Ngân2
Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế

1

Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế

2

*Email:
Ngày nhận bài: 23/01/2018; ngày hoàn thành phản biện: 29/01/2018; ngày duyệt đăng: 8/6/2018
TÓM TẮT
Nghệ đen (Curcuma zedoaria Roscoe) là một lồi cây thuốc q với thành phần hoạt
chất chính là curcumin. Để tạo nguồn nguyên liệu cho quá trình ni cấy tế bào
huyền phù cây nghệ đen, q trình ni cấy callus in vitro lồi cây này đã được
nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy môi trường nuôi cấy callus thích hợp là
mơi trường có bổ sung 1,0 mg/L 2,4-D kết hợp với 1,5 mg/L KIN với kích thước
trung bình đạt 1,564 cm, khối lượng tươi đạt 0,904 g và khối lượng khô của callus
đạt 0,084 g. Đối với xử lý chất kích kháng salicilic acid (SA), mơi trường có bổ sung
1,0 mg/L 2,4-D kết hợp với 1,5 mg/L SA là môi trường tốt nhất cho khả năng sinh
trưởng của callus nghệ đen, kích thước trung bình đạt 1,534 cm, khối lương tươi
đạt 0,832 g và khối lượng khô của callus đạt 0,078 g sau 4 tuần nuôi cấy.
Từ khóa: Callus, curcumin, nghệ đen.


1. MỞ ĐẦU
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), có đến 80% dân số thế giới sử dụng dược
liệu làm thuốc để chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe. Việc khai thác nguồn dược liệu tự
nhiên từ thực vật đang trở thành một vấn đề quan trọng mang tính tồn cầu và chúng
ngày càng được thương mại hóa nhiều hơn. Tuy nhiên, việc cung cấp nguồn nguyên
liệu thực vật cho công tác bào chế thuốc ngày một khó khăn do sự khan hiếm về
nguyên liệu, khó có thể đáp ứng đủ nhu cầu dược liệu ngày càng tăng trong tương lai
[19]. Điều này buộc các nhà khoa học cần phải tính đến cơng nghệ nuôi cấy tế bào thực
vật như một con đường tiềm năng để cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp
dược phẩm [12].
Thực vật không chỉ được sử dụng như là nguồn cung cấp carbohydrate, protein
và chất béo mà còn là nguồn cung cấp các hợp chất tự nhiên dùng trong dược phẩm,
63


Thăm dị ảnh hưởng của mơi trường ni cấy đến sinh trưởng của callus nghệ đen …

hóa chất nơng nghiệp, hương liệu, chất màu, thuốc trừ sâu sinh học và các chất phụ gia
thực phẩm có giá trị…[13] mà những chất này không thể sản xuất từ các tế bào vi sinh
vật hoặc tổng hợp bằng con đường hóa học. Nuôi cấy tế bào thực vật để sản xuất các
hợp chất thứ cấp có thể đạt được bằng con đường nuôi cấy callus là một trong những
biện pháp làm tăng hiệu suất tổng hợp các hoạt chất sinh học trong tế bào, tăng hàm
lượng hoạt chất sinh học cao, rút ngắn thời gian và giảm chi phí sản xuất so với thu từ
cây ngoài tự nhiên.
Cây nghệ đen (Curcuma zedoaria Roscoe) thuộc họ Gừng (Zingiberaceae) là một
loài thân thảo, được trồng phổ biến ở các nước Đông Nam Á, Trung Quốc, Ấn Độ và
Nhật Bản. Ở Việt Nam, thường gặp nghệ đen mọc tự nhiên ở nhiều địa phương miền
núi và trung du phía Bắc (Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái…) và một số tỉnh miền Trung.
Từ xưa, nghệ đen được dùng như một loại dược liệu có giá trị cao để chữa nhiều bệnh
như đau dạ dày, điều kinh, nơn mửa, tích máu tử cung…[2]. Curcumin là một trong

những hoạt chất sinh học chính của nghệ đen. Curcumin có tác dụng chống đông máu
và hạ huyết áp, sodium curcuminate có tác dụng chống co thắt ruột, curcuminoide và
secquiterpen có tác dụng chống viêm nhiễm [3]. Việc thu hồi các hoạt chất từ nghệ đen
ngoài thiên nhiên gặp nhiều trở ngại do nó là lồi có hệ số nhân thấp và chịu nhiều tác
động như điều kiện tự nhiên không thuận lợi, thời gian cây đến tuổi thu hoạch dài,
năng suất phụ thuộc vào mùa vụ, …[11]. Vì vậy, nghiên cứu ni cấy callus nghệ đen
có bổ sung chất kích thích sinh trưởng cũng như chất kích kháng nhằm tăng hiệu suất
thu hồi các hoạt chất sinh học có trong tế bào nghệ đen là cần thiết. Xuất phát từ cơ sở
trên, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm cung cấp nguồn nguyên liệu in vitro
cho việc tách chiết các hợp chất thứ cấp từ cây ghệ đen, góp phần định hướng cho việc
sản xuất hoạt chất này trong thực tế.

2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là callus nghệ đen (Curcuma zedoaria Roscoe) in vitro sinh
trưởng trên môi trường cơ bản MS (Murashige và Skoog 1962) có bổ sung sucrose 3%,
agar 0,8% và 2,4-D (2,4-dichlorophenoxyacetic) 1 mg/L, BAP (benzylaminopurine) 1
mg/L [18] do Bộ môn Công nghệ sinh học, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế
cung cấp.
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các loại môi trường dinh dưỡng được điều chỉnh pH đến 5,8 và khử trùng ở
nhiệt độ 121oC (1 atm) trong 20 phút. Các thí nghiệm ni cấy được thực hiện ở 25±2oC,
cường độ chiếu sáng 2000 lux và thời gian chiếu sáng 12 giờ/ngày. Kết quả nghiên cứu
được đánh giá sau 4 tuần.
64


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế

Tập 12, Số 2 (2018)


Ảnh hƣởng của một số chất kích thích sinh trƣởng lên khả năng sinh trƣởng của
callus nghệ đen
Callus in vitro (0,5 cm) được cấy lên mơi trường MS có sucrose 3%, agar 0,8%,
2,4-D 1,0 mg/L kết hợp với KIN (kinetin) và NAA (naphthaleneacetic acid) ở các nồng
độ từ 0,5-2,0 mg/L. Đối chứng trong tất cả các thí nghiệm là mơi trường chứa chất kích
thích sinh trưởng 2,4-D 1,0 mg/L và BAP 1 mg/L.
Ảnh hƣởng của một số chất kích kháng sinh trƣởng lên khả năng sinh trƣởng của
callus nghệ đen
Callus in vitro (0,5 cm) được cấy lên mơi trường MS có sucrose 3%, agar 0,8%,
2,4-D 1,0 mg/L kết hợp với AgNO3 và SA (salicylic acid) ở các nồng độ từ 0,5-2,0 mg/L.
Xử lý thống kê
Các chỉ tiêu theo dõi bao gồm kích thước, khối lượng và màu sắc của callus. Các
thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên với 3 lần lặp lại (n ≥ 30). ết quả thí nghiệm được
tính trung bình và phân tích ANOVA bằng Duncan’s test (p<0,05).

3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hƣởng của 2,4-D kết hợp với KIN lên khả năng sinh trƣởng của callus nghệ
đen trong điều kiện in vitro
Kết quả trình bày ở bảng 1 cho thấy nồng độ 2,4-D 1,0 mg/L và KIN có ảnh
hưởng lên khả năng sinh trưởng của callus. Nhìn chung, mơi trường có bổ sung KIN
cho tỷ lệ sinh trưởng callus cao hơn đối chứng (ĐC). ích thước trung bình của callus
tăng dần (1,475-1,563 cm), khối lượng tươi và khối lượng khơ trung bình của callus
cũng tăng dần (0,791-0,904 g và 0,079-0,084 g) ở các nồng độ KIN từ 0,5-1,5 mg/L. Khi
tăng IN lên 2 mg/L, kích thước, khối lượng tươi và khơ trung bình của callus có xu
hướng giảm (1,375 cm, 0,85 g và 0,080 g) nhưng vẫn cao hơn ĐC (1,350 cm, 0,679 g và
0,061 g). Callus ở môi trường bổ sung 2,4-D 1,0 mg/L kết hợp với KIN 1,5 mg/L có màu
vàng (Hình 1), đậm hơn ĐC, ở các mơi trường khác callus có màu vàng tương đương
hoặc nhạt hơn ĐC.
Theo Võ Châu Tuấn và cs (2011), môi trường chứa 2,4-D 1,0 mg/L và BAP 1

mg/L tốt nhất cho sự cảm ứng tạo thành callus ở cây nghệ đen với tỷ lệ tạo callus lên
tới 46,01%. hi nhân callus trên môi trường này, callus sinh trưởng với tốc độ trung
bình, có màu trắng vàng và mềm [18], đây là môi trường chứng tôi sử dụng làm đối
chứng trong nghiên cứu của mình. Trong nghiên cứu của chúng tơi, thay thế BAP bằng
KIN callus có khả năng sinh trưởng tốt hơn, đường kính, khối lượng tươi và khô của
callus đều cao hơn đối chứng và sai khác này có ý nghĩa thống kê.

65


Thăm dị ảnh hưởng của mơi trường ni cấy đến sinh trưởng của callus nghệ đen …
Bảng 1. Ảnh hưởng của 2,4-D 1,0 mg/L kết hợp với KIN lên khả năng sinh trưởng của callus
nghệ đen sau 4 tuần nuôi cấy

KIN (mg/L)

Đường kính (cm)

ĐC
0,5
1,0
1,5
2,0

1,350c
1,475abc
1,525ab
1,564a
1,375bc


Khối lượng (g)
Tươi
Khơ
0,679c
0,791b
0,838ab
0,904a
0,850ab

0,061c
0,079b
0,083a
0,084a
0,080b

Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trên cùng một cột chỉ ra sự sai khác có mức ý nghĩa thống kê của trung
bình mẫu với p < 0,05 (Duncan’s test).

Hình 1. Callus sinh trưởng trên mơi trường có bổ sung 1,0mg/L 2,4-D kết hợp với 1,5 mg/L KIN
sau 4 tuần nuôi cấy

3.2. Ảnh hƣởng của 2,4-D kết hợp với NAA lên khả năng sinh trƣởng của callus nghệ
đen trong điều kiện in vitro
Kết quả trình bày ở bảng 2 cho thấy các mơi trường có 2,4-D 1,0 mg/L kết hợp
với nồng độ NAA khác nhau thì khả năng sinh trưởng của callus là khác nhau. Tương
tự như IN, khi thay thế BAP bằng NAA cũng giúp tăng khả năng sinh trưởng của
callus lên cao hơn đối chứng như trong nghiên cứu của Võ Châu Tuấn và cs (2011) [18].
ích thước trung bình của callus tăng rõ rệt (1,450-1,564 cm), khối lượng tươi và
khối lượng khơ trung bình của callus cũng tăng (0,703-0,794 g và 0,064-0,080 g) ở các
nồng độ NAA từ 0,5-1,0 mg/L cao hơn ĐC (1,351 cm, 0,653 g và 0,061g). hi tăng NAA

lên 1,5-2 mg/L, kích thước, khối lượng tươi và khơ trung bình của callus có xu hướng
giảm (1,500-1,438 cm, 0,757-0,693 g và 0,074-0,063 g). Callus ở môi trường bổ sung 2,4D 1,0 mg/L kết hợp NAA 1,0 mg/L có màu vàng (Hình 2), tuy nhiên callus hơi xanh so
66


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế

Tập 12, Số 2 (2018)

với ĐC, ở các mơi trường khác callus có màu vàng nhạt hơn.
Bảng 2.Ảnh hưởng của 2,4-D 1,0 mg/L kết hợp với NAA lên khả năng sinh trưởng của callus
nghệ đen sau 4 tuần ni cấy

NAA (mg/L)

Đường kính (cm)

ĐC
0,5
1,0
1,5
2,0

1,351c
1,450abc
1,564a
1,500ab
1,438bc

Khối lượng (g)

Tươi
Khơ
0,653c
0,061c
0,703abc
0,064c
0,794a
0,080a
0,757ab
0,074b
0,693bc
0,063c

Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trên cùng một cột chỉ ra sự sai khác có mức ý nghĩa thống kê của trung
bình mẫu với p < 0,05 (Duncan’s test).

Hình 2. Callus sinh trưởng trên mơi trường có bổ sung 1,0 mg/L 2,4-D kết hợp với 1,0 mg/L
NAA sau 4 tuần nuôi cấy

Theo các tài liệu đã công bố, NAA cũng đã được một số tác giả sử dụng để cảm
ứng tạo callus nghệ đen. Mello và cs (2001) đã tạo được callus nghệ đen từ đoạn rễ trên
mơi trường MS có 3% sucrose, bổ sung 13,4 µM NAA và 2,2 µM BA, nuôi trong điều
kiện tối [9]. Nghiên cứu của Miachir và cs (2004) cho thấy callus nghệ đen hình thành
từ đoạn rễ sinh trưởng trên mơi trường MS có bổ sung 1,0 mg/l NAA, nhưng nếu nuôi
cấy trên môi trường MS có bổ sung 2,4 D trong điều kiện tối thì callus sẽ khơng xuất
hiện [10].
3.3. Ảnh hƣởng của 2,4-D kết hợp với SA lên khả năng sinh trƣởng của callus nghệ
đen trong điều kiện in vitro
Kết quả trình bày ở bảng 3 cho thấy mơi trường có bổ sung 2,4-D 1,0 mg/L và
67



Thăm dị ảnh hưởng của mơi trường ni cấy đến sinh trưởng của callus nghệ đen …

SA cho tỷ lệ sinh trưởng callus cao hơn ĐC. ích thước trung bình của callus tăng rõ
rệt (1,244-1,534 cm), khối lượng tươi và khối lượng khơ trung bình của callus cũng tăng
dần (0,639-0,832 g và 0,060-0,078 g) ở các nồng độ SA từ 0,5-1,5 mg/L. hi tăng SA lên 2
mg/L, kích thước, khối lượng tươi và khơ trung bình của callus có xu hướng giảm
(1,410 cm, 0,796 g và 0,069 g) nhưng vẫn cao hơn ĐC (1,210 cm, 0,598 g và 0,057 g).
Callus ở môi trường bổ sung 2,4-D kết hợp với SA 1,5 mg/L có màu vàng (Hình 3),
đậm hơn ĐC, ở các mơi trường khác callus có màu vàng tương đương hoặc nhạt hơn.
Bảng 3. Ảnh hưởng của 2,4-D 1,0 mg/L kết hợp với SA lên khả năng sinh trưởng của callus nghệ
đen sau 4 tuần ni cấy

SA (mg/L)

Đường kính (cm)

ĐC
0,5
1,0
1,5
2,0

1,210b
1,244bc
1,362abc
1,534a
1,410ab


Khối lượng (g)
Tươi
Khô
0,598c
0,057c
0,639c
0,060bc
0,768b
0,067bc
0,832a
0,078a
0,796ab
0,069ab

Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trên cùng một cột chỉ ra sự sai khác có mức ý nghĩa thống kê của trung
bình mẫu với p < 0,05 (Duncan’s test).

Hình 3. Callus sinh trưởng trên mơi trường có bổ sung 1,0 mg/L 2,4-D kết hợp với 1,5 mg/L SA
sau 4 tuần nuôi cấy

Thông thường, xử lý SA trong q trình ni cấy sẽ ảnh hưởng đến q trình
sinh trưởng của tế bào, tốc độ sinh trưởng chậm lại đồng thời sự tích lũy hợp chất thứ
cấp tăng lên [7, 8]. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, bổ sung SA thu được sinh khối tế
bào cao hơn đối chứng, đây không phải là hiện tượng phổ biến và chỉ xuất hiện trên
một số ít đối tượng. Kết quả này tương tự như nghiên cứu của Sudha và cs (2003), xử
68


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế


Tập 12, Số 2 (2018)

lý 200 µM SA sau 15 nuôi cấy, sinh khối tế bào Capsicum frutescens cao hơn khoảng 1,5
lần so với đối chứng không cảm ứng [17]. Trên họ cà, nghiên cứu của Jain và cs (2015)
cho thấy khi xử lý 50 µM SA trên nuôi cấy rễ tơ cây Solanum melongena sinh khối thu
được cao hơn đối chứng khoảng 1,5 lần sau 28 ngày (5,16 g so với 3,39 g), trong khi đó
hàm lượng solasodine cao hơn đối chứng khoảng 13,5 lần (89,03 µg/g khô so với 6,5
µg/g khô) [5]. Kết quả tương tự cũng thu được khi xử lý SA trên tế bào cây cà gai leo
(Solanum hainanense Hance) [4].
3.4. Ảnh hƣởng của 2,4-D kết hợp với AgNO3 lên khả năng sinh trƣởng của callus
nghệ đen trong điều kiện in vitro
Theo Kumar và cs (2009) và Sandra & Maira (2013), AgNO3 khi được bổ sung
vào môi trường nuôi cấy mô thực vật có tác dụng ức chế hoạt động của ethylene nội
sinh, vì thế quá trình sinh trưởng của tế bào sẽ được thuận lợi hơn [6, 14]. Do đó, sử
dụng AgNO3 để tăng hiệu quả của q trình ni cấy đã được nhiều tác giả sử dụng.
Tương tự như trường hợp trên, số liệu ở bảng 4 cũng cho thấy tất cả mơi trường được
thăm dị đều làm tăng khả năng sinh trưởng của callus. Các mơi trường có AgNO3 đều
cho tỷ lệ sinh trưởng callus cao hơn ĐC.
ích thước trung bình của callus tăng dần (1,375-1,452 cm), khối lượng tươi và
khối lượng khơ trung bình của callus cũng tăng (0,591-0,709 g và 0,050-0,062 g) ở các
nồng độ AgNO3 từ 0,5-1,5 mg/L. hi tăng AgNO3 lên 2 mg/L, kích thước, khối lượng
tươi và khơ trung bình của callus có xu hướng giảm rõ rệt (1,353 cm, 0,668 g và 0,058 g)
cao hơn ĐC (1,275 cm, 0,527 g và 0,048 g). Callus ở môi trường bổ sung 2,4-D kết hợp
với AgNO3 1,5 mg/L có màu vàng (Hình 4), đậm hơn ĐC, ở các mơi trường khác callus
có màu vàng tương đương hoặc nhạt hơn.
Bảng 4. Ảnh hưởng của 2,4-D 1,0 mg/L kết hợp với AgNO3 lên khả năng sinh trưởng của callus
nghệ đen sau 4 tuần ni cấy

AgNO3 (mg/L)


Đường kính (cm)

ĐC
0,5
1
1,5
2,0

1,275b
1,375ab
1,410a
1,452a
1,353ab

Khối lượng (g)
Tươi
Khô
c
0,527
0,048c
0,591bc
0,050c
0,648ab
0,057b
0,709a
0,062a
0,668ab
0,058b

Ghi chú: Các chữ cái khác nhau trên cùng một cột chỉ ra sự sai khác có mức ý nghĩa thống kê của trung

bình mẫu với p < 0,05 (Duncan’s test).

69


Thăm dị ảnh hưởng của mơi trường ni cấy đến sinh trưởng của callus nghệ đen …

Hình 4. Callus sinh trưởng trên mơi trường có bổ sung 1,0 mg/L 2,4-D kết hợp với 1,5 mg/L

AgNO3 sau 4 tuần nuôi cấy
Trong nghiên cứu trước, chúng tôi nhận thấy bổ sung AgNO3 vào môi trường
nuôi cấy sẽ làm tăng khả năng nhân giống in vitro cây nghệ đen, bao gồm cả nâng cao
hiệu quả khử trùng, tái sinh chồi, nhân chồi và tạo rễ [1]. Sử dụng AgNO3 để tăng khả
năng cảm ứng tạo callus cũng như sinh trưởng của callus cũng đã được một số tác giả
sử dụng, chẳng hạn như tăng cảm ứng tạo callus trên ngô [16] hay cà chua [15].
4. KẾT LUẬN
1. Trong các mơi trường có bổ sung chất kích thích sinh trưởng, mơi trường có bổ
sung 1,0 mg/L 2,4-D kết hợp với 1,5 mg/L IN là môi trường tốt nhất cho khả năng
sinh trưởng của nghệ đen, kích thước trung bình đạt 1,564 cm, khối lượng tươi đạt
0,904 g và khối lượng khô của callus đạt 0,084 g sau 4 tuần nuôi cấy.
2. Trong các môi trường có bổ sung chất kích kháng, mơi trường có bổ sung 1,0 mg/L
2,4-D kết hợp với 1,5 mg/L SA là môi trường tốt nhất cho khả năng sinh trưởng của
nghệ đen, kích thước trung bình đạt 1,53 cm, khối lượng tươi đạt 0,832 g và khối
lượng khô của callus đạt 0,078 g sau 4 tuần nuôi cấy.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Trương Thị Phương Lan, Lê Thị Anh Thư, and Ngơ Thị Sen (2017). Ảnh hưởng của AgNO3 đến
q trình tái sinh in vitro cây nghệ đen (Curcuma zedoaria Roscoe). Tạp chí Khoa học Đại học Huế:
Nơng nghiệp và Phát triển nơng thơn, Vol. 126(3D), pp. 65-73.
[2]. Lã Đình Mỡi, and Lưu Đàm Cư (2002). Tài nguyên thực vật có tinh dầu ở Việt Nam. Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội.

70


TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế

Tập 12, Số 2 (2018)

[3]. Phạm Đình Tỵ, Nguyễn Thế Dũng, Lê Minh Hà, and Hoàng Thanh Hương (2000). Công nghệ
phân lập hoạt chất Osthol và Curcumin từ nguyên liệu thực vật. Viện Hóa học các hợp chất thiên
nhiên. Chương trình nghiên cứu khoa học cơ bản của Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công
nghệ Quốc gia.
[4]. N. H. T. Anh, T. N. T. An, N. T. Nho, and N. H. Loc (2016). Effect of salicylic acid on the
biosynthesis of solasodine in cell suspension culture of Solanum hainanense Hance. Plant Cell
Biotechnology and Molecular Biology, Vol. 17(1-2), pp. 14-20.
[5]. A. Jain, and S. Singh (2015). Effect of growth regulators and elicitors for the enhanced production
of solasodine in hairy root culture of Solanum melongena (L.). Journal of Indian Botanical Society, Vol.
94(1-2), pp. 23-39.
[6]. V. Kumar, G. Parvatam, and G. Ravishankar (2009). AgNO3 - a potential regulator of ethylene
activity and plant growth modulator. Electronic Journal of Biotechnology, Vol. 12(2), pp.
[7]. N. H. Loc, N. T. Giang, and N. D. Huy (2016). Effect of salicylic acid on expression level of genes
related with isoprenoid pathway in centella (Centella asiatica (L.) Urban) cells. 3 Biotech, Vol. 6(1),
pp. 86.
[8]. M. B. Lu, H. L. Wong, and W. L. Teng (2001). Effects of elicitation on the production of saponin in
cell culture of Panax ginseng. Plant Cell Report, Vol. 20, pp. 674-677.
[9]. M. O. Mello, M. M., and B. Appezzato-da-Glória (2001). Histological analysis of the callogenesis
and organogenesis from root segments of Curcuma zedoaria Roscoe. Brazil Arch. Biol. Technol., Vol.
44(2), pp. 197-203.
[10]. J. I. Miachir, V. L. M. Romani, A. A. F. De Campos, M. O. Mello, O. J. Crocomo, and M. Melo

(2004). Micropropagation and callogenesis of Curcuma zedoaria Roscoe. Scientia Agricola, Vol. 61(4),
pp. 427-432.
[11]. R. Moscatiello, B. Baldan, and L. Navazio (2013). Plant Cell Suspension Cultures. Pages 77-93 in
Maathuis F. J. M., ed. Plant Mineral Nutrients: Methods and Protocols. Totowa, NJ: Humana
Press.
[12]. V. Mulabagal, and H. S. Tsay (2004). Plant cell cultures- an alternative and efficient source for the
production of biologically important secondary metabolites. Int. J. Appl. Sci. Engin., Vol. 2, pp. 2948.
[13]. S. R. Rao, and G. A. Ravishankar (2002). Plant cell cultures: chemical factories of secondary
metabolites. Biotechnol. Adv., Vol. 20, pp. 101-153.
[14]. A. T. Sandra, and O. Maira (2013). Effect of culture medium consistence and silver nitrate on
micropropagation of two potato (Solanum tuberosum) cultivars. Revista Colombiana de Biotecnología,
Vol. 15, pp. 55-62.
[15]. S. H. Shah, S. H. Shah, S. Ali, S. A. Jan, J.-U.-D. Din, and U. G. Ali (2014). Assessment of silver
nitrate on callus induction and in vitro shoot regeneration in tomato (Solanum lycopersicum Mill.).
Pakistan Journal of Botany, Vol. 46(6), pp. 2163-2172.
[16]. D. D. Songstad, C. L. Armstrong, and W. L. Petersen (1991). AgNO3 increases type II callus
production from immature embryos of maize inbred B73 and its derivatives. Plant Cell Rep, Vol.
9(12), pp. 699-702.

71


Thăm dị ảnh hưởng của mơi trường ni cấy đến sinh trưởng của callus nghệ đen …
[17]. G. Sudha, and G. A. Ravishankar (2003). Influence of methyl jasmonate and salicylic acid in the
enhancement of capsaicin production in cell suspension cultures of Capsicum frutescens Mill
Current Science, Vol. 85(8), pp. 1212-1217.
[18]. V. C. Tuan, V. D. Hoang, and N. H. Loc (2011). Cell suspension culture of zedoary (Curcuma
zedoaria Roscoe). VNU Journal of Science, Natural Sciences and Technology, Vol. 27, pp. 64-70.
[19]. J. Zhao, and R. Verpoorte (2007). Manipulating indole alkaloid production by Catharanthus roseus
cell cultures in bioreactors: from biochemical processing to metabolic engineering. Phytochem.

Rev., Vol. 6(2), pp. 435-457.

STUDY ON EFFECT OF CULTURE MEDIA ON GROWTH OF
Curcuma Zedoaria Roscoe CALLUS

Truong Thi Phuong Lan1,2*, Le Thi Anh Thu2, Nguyen Thi Ha Ngan2
University of Medicine and Pharmacy, Hue University

1

University of Sciences, Hue University

2

*Email:
ABSTRACT
Curcuma zedoaria Roscoe is a value medicinal plant containing curcumin as major
component. To produce material for the processing, of suspension cell culture the
in vitro cells propagation was investigated. The results indicated that the optimal
medium for callus generation was basic MS medium supplemented with 1.0 mg/L
2,4-D and 1.5 mg/L KIN, resulting in the size of calli of 1.564 cm, 0.904 g fresh
weight and 0.084 g dry weight. Medium containing 1.0 mg/L 2,4-D and 1,5 mg/mL
SA was the optimal medium of cell growth under effect of elicitors, resulting in the
size of calli of 1.53 cm, 0.832 g fresh weight and 0.078 g dry weight after 4 weeks of
culture.
Keywords: Callus, curcumin, Curcuma zedoaria.

72



TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế

Tập 12, Số 2 (2018)

Trƣơng Thị Phƣơng Lan Sinh ngày 30 tháng 01 năm 1973 tại Thành phố
Huế. Năm 1998, bà tốt nghiệp cử nhân sinh học tại Trường Đại học Khoa
học Huế. Năm 2002, bà tốt nghiệp Thạc sĩ Sinh học và cử nhân Tiếng Anh
tại chức tại Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế. Từ năm 1998 bà tham
gia giảng dạy và hiện là giảng viên Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế,
và đang là NCS ngành Sinh lý thực vật, Trường Đại học Khoa học, Đại
học Huế.
Lĩnh vực nghiên cứu: Tế bào, Sinh lý, sinh hóa thực vật.
Lê Thị Anh Thƣ sinh ngày 12 tháng 12 năm 1993 tại Quảng Nam. Năm
2016, bà tốt nghiệp kỹ sư ngành Công nghệ Sinh học tại Trường Đại học
Khoa học, Đại học Huế.
Lĩnh vực nghiên cứu: Công nghệ Sinh học.

Nguyễn Thị Hà Ngân sinh ngày 13 tháng 3 năm 1995 tại Quảng Nam.
Hiện đang học ngành kỹ sư công nghệ sinh học tại Trường Đại học Khoa
học, Đại học Huế
Lĩnh vực nghiên cứu: Công nghệ Sinh học.

73


Thăm dị ảnh hưởng của mơi trường ni cấy đến sinh trưởng của callus nghệ đen …

74




×