Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tài liệu Tiểu luận triết học - Triết học Phật giáo doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.48 KB, 17 trang )

----------
Tiểu luận triết học - Triết học Phật
giáo
1
MỤC LỤC
CHƯƠNG I
PHẬT GIÁO, MỘT HIỆN TƯỢNG TÔN GIÁO
VÀ TRIẾT HỌC CỦA DÂN TỘC.
Sự giao lưu giữa các quốc gia trong một khu vực đã phá vỡ
cái thế riêng biệt của tâm lý, tư tưởng trong từng dân tộc làm cho
tâm lý và tư tưởng đó hoà vào cái chung của khu vực. Việt Nam
cũng ở trong một quá trình như thế. Theo chân các nhà buôn, nhà
truyền giáo Ấn Độ, Phật giáo vào nước ta vào khoảng thế kỷ thứ
I và thứ II sau công nguyên. Sau đó, nối gót người Ấn Độ các
nhà Phật giáo Bắc tông vào. Rồi những người tìm đường sang
Trung Quốc, Ấn Độ học Phật trở về cũng tiếp tục truyền bá Phật
giáo. Bằng những con đường khác nhau đó, Phật giáo, một tôn
giáo chung của nhiều nước Nam Á và Đông Nam Á lúc bấy giờ
cũng tìm được chỗ đứng ở Việt Nam.
Nhưng Phật giáo có nguồn gốc ở xã hội Ấn Độ cổ đại vốn
mang trong mình những đặc điểm của tư tưởng và tôn giáo, của
con người và xã hội của quá khứ và hiên tại Ấn Độ lúc bấy giờ.
Có những điều không phù hợp với con người và xã hội Việt
Nam đương thời. Vì vậy để phát triển được ở Việt Nam, Phật
giáo phải trải qua một quá trình:
2
1,Vào giai đoạn đầu của thời kỳ truyền bá Phật giáo vấp
phải sự phản ứng của các tín ngưỡng cổ truyền của người Việt
Nam, của tục thờ phụng tổ tiên, của lệ cúng bái thổ công và các
thói quên thờ cúng thành hoàng.. . Người Việt Nam mang các tín
ngưỡng trên không khỏi ngỡ ngàng trước Phật giáo. Họ đã xa


lánh, thậm trí chê bai, đả kích.
2,Vào thời kỳ sau của sự truyền bá, lúc Phật giáo đã làm
quen với dân tộc nó vẫn còn liên tục bị sự mổ xẻ của một số
người. Người ta đã đặt nó trên bình diện chính trị - xã hội để
khảo nghiệm và thấy rằng ở Phật giáo có những điều không
thích hợp. Do đó, nhiều người Việt Nam trong những thời kỳ
khác nhau đã phê phán, kỳ thị Phật giáo như : Đàm Mĩ Mông
(thế kỷ XII); Lê Quát, Trương Hán Siêu (thế kỷ XIV); Bùi Huy
Bích, Phạm Nguyễn Du (thế kỷ XVIII); Phạm Quý Thích (thế kỷ
XIX)... đều xem Phật giáo là điều có hại cho xã hội.
Nhưng ở một phía khác, trên phương diện tín ngưỡng,
người Việt Nam xưa lại tìm đến Phật giáo. Dần dần, họ đi đến
tôn sùng và đề cao nó. Các vua Lý, vua Trần từ các thế kỷ XI
đến XIV đều đề cao Phật giáo. Thời Lê, thời Nguyễn tuy tôn
sùng Nho, nhưng vẫn để cho Phật giáo lưu hành. Lê Sát, Lê
Ngân là những đại thần thời Lê sở và những hoàng thân, quốc
thích thời Nguyễn trong nhà đều có chùa thờ Phật. Thậm chí
Trương Hán Siêu trước chống Phật giáo sau lại theo Phật giáo.
Còn quần chúng nhân dân thì lẳng lặng đi theo Phật giáo.
Hai khuynh hướng phủ nhận và thừa nhận trên đã đan xen
nhau, kế tiếp nhau trong lịch sử. Nhưng khuynh hướng thừa nhận
3
mạnh hơn khuynh hướng phủ nhận và là khuynh hướng chung
của lịch sử, làm cho Phật giáo trở thành một tôn giáo và là một
hiện tượng triết học lâu dài của dân tộc.
Trở thành một hiện tượng đó, rõ ràng không phải là sự áp
đặt, cũng không phải là sự lầm lỡ nhất thời, mà như là một sự tất
yếu, một hiện tượng có tính quy luật, không thể khác trong hoàn
cảnh lúc bấy giờ.
Tính tất yếu trên ít nhiều đã có người đề cập. Một số người

có kiến thức lịch sử lại có quan điểm hiện thực chủ nghĩa, không
thể không công khai thừa nhận sự tồn tại hiển nhiên của Phật
giáo. Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích thế kỷ XVIII
đều thừa nhận một số yếu tố của Phật giáo. Thậm chí Lê Quý
Đôn còn cho rằng chê bai tiên Phật là thái độ "hẹp hòi".
Vì sao Phật giáo, một tôn giáo, một triết thuyết từ bên
ngoài vào lại khẳng định được vị trí của mình dài lâu trong dân
tộc như thế?
Về vấn đề này đã có nhiều giải kiến khác nhau. Có người
cho rằng dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống bao dung tôn
giáo nên dung nạp Phật giáo; có người giải thích rằng Phật giáo
là một trào lưu văn hoá nên sẽ sống mãi với dân tộc, có người
quan niệm rằng Phật giáo không giành quyền binh và uy lực
ngoài đời nên người ta tin theo... Nhưng tất cả các lý lẽ đó đều
không sức thuyết phục.
Nếu nói rằng, người Việt Nam có truyền thống bao dung
tôn giáo thì không thể giải thích được hiện tượng các nhà nho
phê phán Phật giáo và những người vô thần đối nghịch với Phật
giáo. Nếu nói rằng Phật giáo là một trào lưu văn hoá mới thấy
4
một mặt của văn hoá dân tộc: mặt chịu ảnh hưởng và mang dấu
ấn của Phật giáo. Nhưng xét về bản chất thì Phật giáo là một tôn
giáo, một lý thuyết thần bí về sự giải thoát con người và do đó
gọi là một tôn giáo đúng hơn là một trào lưu văn hoá. Nếu nói
rằng Phật giáo không giành quyền binh, địa vị ngoài đời thì
không thể giải thích được các hiện tượng lịch sử, như có người
tin theo Phật giáo để mong giầu sang...
5
CHƯƠNG II
PHẬT GIÁO LÀ MỘT NHU CẦU TINH THẦN CỦA NGƯỜI

VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ
Con người ta gồm các cá nhân khác nhau, sống trong thời
gian và không gian khác nhau, nhưng để sống, ở họ đều có chung
một tâm lý: mong muốn ấm no, mạnh khoẻ, sống lâu, giàu sang...
Mong muốn đó ở người dân Việt Nam được gửi vào hình tượng
"Tam đa": Phúc, Lộc, Thọ. Đó là tâm lý, vừa mang tính chất tự
nhiên, vừa mang tính chất xã hội, vừa lâu dài, vừa cấp bách. Nó
gắn liền với con người như sự tồn tại của chính họ.
Xã hội phong kiến là một xã hội trì trệ lâu dài. Người ta
bằng lòng với nền kinh tế tự cấp, tự túc, với tri thức hạn hẹp và
nếp sống làng xã khép kín. Người ta không thể hiểu được những
nguyên nhân thực sự đưa đến những số mệnh khác nhau của con
người, không thể hiểu được vì sao ở người này thì có số phận
hẩm hiu, ở người khác thì có số phận may mắn... Mỗi con người
nghèo khổ đều băn khoăn và mong muốn có một ngày nào đó
được đổi đời. Trong một chế độ xã hội người bóc lột người như
chế độ phong kiến, con người chưa tìm được sức mạnh để giải
phóng mình ở chính bản thân mình. Người ta đặt hy vọng vào
một lực lượng siêu nhiên, đặt niềm tin vào tôn giáo.
Tín ngưỡng nguyên thuỷ đã thoả mãn phần nào nhu cầu của
con người Việt Nam trong lịch sử. Tín ngưỡng đó với các
nguyên lý: Thờ tổ tiên thì được tổ tiên phù hộ, thờ thổ công thì
được thổ công cho phúc, thờ thành hoàng thì được thành hoàng
bảo vệ... đã gieo vào lòng người những niềm tin.
6

×