LỜI MỞ ĐẦU
Đại hội Đảng VI đã mở ra một trang mới cho lịch sử kinh tế Việt
Nam. Bước ngoặt này có ý nghĩa trọng đại: Biến nền kinh tế Việt Nam từ kế
hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp, thành nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Bước ngoặt này đánh dấu sự thay đổi, phát triển
mạnh mẽ của nền kinh tế xã hội Việt Nam. Sự phát triển này phải chăng là
kết quả của Việt Nam trước Đại hội Đảng VI? Và sự phát triển nào phải
chăng cũng cần trải qua một thời kỳ gọi là. Thời kỳ quá độ?
Lênin - Nhà lãnh đạo lỗi lạc - nhà quản lý xã hội thiên tài đã luôn luôn
nhìn xã hội bằng con mắt của nhà quản lý, và với tầm nhìn chiến lược hàm
chứa phép biện chứng sâu sắc. Ông luôn luôn muốn thay thế xã hội bằng xã
hội khác tốt hơn. Bởi vậy ông đã nói” “Sự phát triển là cuộc đấu tranh của
các mặt đối lập”.
Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học
gắn liền với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy: Biện chứng và siêu
hình. Chính cuộc đấu tranh lâu dài của hai phương pháp này đã thúc đẩy tư
duy triết học phát triển và hoàn thiền dần với thắng lợi của tư duy biện
chứng duy vật.
Triết học khi nói đến phát triển thì luôn chú ý đến nguồn gốc và động
lực của phát triển và khuynh hướng của sự phát triển.
Sự đòi hỏi của các yếu tố khách quan trong sự phát triển của sự vật
hiện tượng đó là mâu thuẫn tất yếu biện chứng. Phép biện chứng nói rằng:
Sự vật nào cũng có mặt trái ngược, cũng chứa động mâu thuẫn bên trong của
nó, bản thân sự vật, cả trong tự nhiên và trong xã hội.
Trong các mặt đối lập bao giờ cũng có sự đấu tranh gạt bỏ lẫn nhau.
Phép biện chứng đã tìm thấy sự thấp nhất giữa các mặt đối lập. Các mặt đối
1
lập tồn tại không tách rời nhau mà lẫn vào nhau, thâm nhập trong nhau, mặt
này chứa đựng mầm mống của mặt kia, chúng tác đọng qua lại lẫn nhau làm
điều kiện cho nhau tồn tại và phát triển. Sự phát triển từ cái này thành cái
khác cần một thời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Trong nền kinh tế sự phân công
lao động toạ ra mối quan hệ hữu cơ giữa người và người tạo ra sự phát triển
xã hội. Lênin nói “Do phân công lao động, ai lo cho người ấy, mọi người vì
một người, một người vì mọi người, và phải tìm thấy mình trong người
khác, còn chúa không thể lo cho người được".
Thời kỳ quá độ hiện nay ở Việt Nam là thời kỳ ủ mầm của một xã hội
phát triển, trong đó phân công lao động đang diễn ra mạnh mẽ, đó là sự đấu
tranh giữa những mặt đối lập của cơ chế cũ, và đang báo hiệu một tương lai
tươi sáng, một nền kinh tế phát triển bền vững.
Đề tài: Lênin nói "Sự phát triển là cuộc đấu tranh của các mặt đối lập"
từ luận điểm trên làm rõ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của Việt
Nam trong thời kỳ quá độ"
2
I. QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ MÂU THUẪN GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP CỦA
PHÉP BIỆN CHỨNG
Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học
gắn liền với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy - biện chứng và siêu
hình. Chính cuộc đấu tranh lâu dài của hai phương pháp này đã thúc đẩy tư
duy triết học phát triển và được hoàn thiện dần với thắng lợi của tư duy biện
chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và
phương pháp. Hệ thống các quy luật, phạm trù của nó không chỉ phản ánh
đúng đắn thế giới khách quan mà còn chỉ ra những thách thức để định hướng
cho con người trong nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Phép biện chứng
duy vật không chỉ khái quát những thành tựu của tất cả các khoa học cụ thể,
mà còn kết tinh những tinh hoa trong quá trình phát triển tư tưởng triết học
của nhân loại. Phép biện chứng duy vật trình bày một cách có hệ thống chặt
chẽ tính chất biện chứng của thế giới thông qua những phạm trù và những
quy luật chung nhất của thế giới (tự nhiên, xã hội và tư duy).
Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương
pháp luận chỉ đạo mọi hoạt động của con người, trong đó, quy luật thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (gọi tắt là quy luật mâu thuẫn) là hạt
nhân của phép biện chứng. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự
phát triển; phản ánh quá trình đấu tranh giải quyết mẫu thuẫn bên trong sự
vật. Từ đó, phải vận dụng nguyên tắc mâu thuẫn mà ý đồ cơ bản của nó là
phải nhận thức đúng đắn mâu thuẫn của sự vật, trước hết là mâu thuẫn cơ
bản và mâu thuẫn chủ yếu, phải phân tích mâu thuẫn và quá trình đấu tranh
giải quyết mâu thuẫn. Đấu tranh là phương thức giải quyết mâu thuẫn. Lênin
nói "Sự phát triển là một cuộc "đấu tranh" giữa các mặt đối lập". Tuy nhiên,
3
hình thức đấu tranh rất đa dạng, linh hoạt, tuỳ thuộc mâu thuẫn cụ thể và
hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Theo quan điểm biện chứng thì sự vật nào cũng là một thể thống nhất
của các mặt đối lập, tức là, các mặt có xu hướng, khuynh hướng trái ngược
nhau. Chính sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn sự
vật.
Khi nói mâu thuẫn biện chứng là nói đến mâu thuẫn tất yếu của những
mặt trái ngược nhau, ví dụ, điện có cực âm, cực dương… Trong các mặt đối
lập, chúng vừa đấu tranh với nhau (với nghĩa tác động theo xu hướng trái
ngược nhau) nhưng các mặt đối lập lại là thống nhất với nhau.
Thống nhất là tồn tại không tách rời nhau, làm điều kiện cho nhau tồn
tại, phát triển, có mặt này thì mới có mặt kia. Thống nhất còn bao hàm thâm
nhập nhau, trong mặt này chứa đựng mầm mống mặt kia, cho nên, chúng ta
không nên tạo ra hàng rào tuyệt đối giữa các mặt đối lập mà phải thấy được
có sự chuyển hoá giữa các mặt đối lập. Chuyển hoá có trình độ từ thấp đến
cao và dẫn đến sự chuyển hoá cuối cùng, tức là khi mâu thuẫn đã được giải
quyết. Chuyển hoá cuối cùng có hai hình thức cơ bản: hình thức thay đổi vị
trí cho nhau và hình thức các mặt đối lập cũ mất đi và hình thành những mặt
đối lập mới.
Hầu hết các nhà triết học đều cho rằng thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập đều có vai trò trong sư phát triển của sự vật. Tuy nhiên, tuỳ từng
giai đoạn phát triển mà ta phải nhấn mạnh mặt này hay mặt kia. Khi sự vật
còn ở giai đoạn phát triển, khi mâu thuẫn chưa gay gắt thì khi đó mặt thống
nhất giữ vai trò chủ đạo, còn khi mâu thuẫn trở nên gay gắt, đấu tranh để
giải quyết mâu thuẫn lại là chủ đạo, chính yếu.
Ngày nay, sự "thống nhất" của các mặt đối lập ngày càng mở rộng.
Những giải pháp khoa học và kỹ thuật tiên tiến, những vấn đề toàn cầu… tạo
4
ra môi trường thuận lợi cho sự mở rộng đó. Vì vậy, bước chuyển biến cách
mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội không thể không mang những
hình thái đặc thù: có thể cho phép các nước kém phát triển đi lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua một hay nhiều giai đoạn nào đó trong sự phát triển tư bản chủ
nghĩa.
II. VẬN DỤNG QUY LUẬT MÂU THUẪN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CNXH Ở VIỆT NAM
Nước ta đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm cơ bản nhất của thời kỳ quá độ là sự tồn tại
nền kinh tế nhiều thành phần và xã hội nhiều giai cấp. Trong thời kỳ quá độ,
nền kinh tế có tính chất quá độ. Nó không còn là nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa, nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
2.1. Tính tất yếu tồn tại nhiều thành phần kinh tế (TPKT) ở Việt
Nam
Trong bất cứ hình thái kinh tế - xã hội nào cũng có phương thức sản
xuất giữ vị trí chi phối. Ngoài ra, còn có phương thức sản xuất tàn dư của xã
hội trước và phương thức sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Các
phương thức sản xuất này ở vào địa vị lệ thuộc, bị chi phối bởi phương thức
sản xuất thống trị.
Thành phần kinh tế là một loại hình của quan hệ sản xuất xác định
tương ứng với trình độ và trình độ của lực lượng sản xuất nhất định đã ra đời
nhưng chưa đạt tới độ thống trị trong nền kinh tế hoặc đang bị thủ tiêu dần.
Như vậy, phạm trù thành phần kinh tế và phương thức sản xuất đều
phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, nhưng không đồng nhất về nội dung. Trong thời kỳ quá độ, mỗi
phương thức sản xuất khi chưa hoặc không đóng vai trò thống trị, cũng
không bị trị, lệ thuộc mà tồn tại như những "bộ phận", những "mảnh" trong
5
mối quan hệ vừa thống nhất "xen kẽ", vừa đấu tranh bài trừ gạt bỏ, phủ định
lẫn nhau của kết cấu kinh tế xã hội, thì đó là thành phần kinh tế. Khi một
thành phần, một bộ phận nào đó giữ một vai trò thống trị đối với các thành
phần (bộ phận, hình thức kinh tế khác) thì nó là một phương thức sản xuất
đại diện cho hình thái kinh tế - xã hội đó.
Mỗi thành phần kinh tế có kiểu tổ chức sản xuất kinh doanh của nó hợp
thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Nền kinh tế - xã hội nước ta tồn tại nhiều thành phần kinh tế là vì các lý
do sau:
- Khi giành chính quyền thì chính quyền mới tiếp quản nền kinh tế chủ
yếu dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, gồm hai loại là tư hữu lớn
(kinh tế tư bản chủ nghĩa) và tư hữu nhỏ (sản xuất nhỏ cá thể). Phương thức
sản xuất cũ chưa thể mất đi, do đó tồn tại thành phần kinh tế tư bản tư nhân,
thành phần kinh tế cá thể, thành phần kinh tế hợp tác.
- Trong một nền kinh tế thì các ngành, vùng kinh tế phát triển không
đều về lực lượng sản xuất, tương ứng với nó là những quan hệ sản xuất, đó
chính là cơ sở nảy sinh các thành phần kinh tế khác nhau.
- Xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế - chính trị, các nước đều cần đầu tư
của nước ngoài, hình thành thành phần kinh tế tư bản Nhà nước, đó là sự kết
hợp đầu tư giữa nhà nước với các nhà tư bản, các công ty trong nước và
ngoài nước.
- Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn; để giữ vững
chính quyền cộng sản thì phải xây dựng thành phần kinh tế mới là kinh tế
quốc doanh hay kinh tế nhà nước.
Thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh
tế khác đóng vai trò tích cực trong quá trình phát triển nền kinh tế - xã hội.
2.2. Các thành phần kinh tế ở Việt Nam
6