Tải bản đầy đủ (.pdf) (143 trang)

Yếu tố khẩu ngữ trong hương rừng cà mau của sơn nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (851.39 KB, 143 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN BÍCH NGỌC

YẾU TỐ KHẨU NGỮ TRONG
HƯƠNG RỪNG CÀ MAU CỦA SƠN NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

Thái Ngun - 2015


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN BÍCH NGỌC

YẾU TỐ KHẨU NGỮ
TRONG HƯƠNG RỪNG CÀ MAU CỦA SƠN NAM

Chuyên ngành: Ngơn ngữ Việt Nam
Mã số: 60.22.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƠN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Cao Cương

Thái Nguyên - 2015




LỜI CẢM ƠN

Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, tơi đã hồn thành luận văn Thạc sĩ
ngơn ngữ với đề tài “Yếu tố khẩu ngữ trong Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam”.

Qua đây, tôi xin chân thành bày tỏ sự kính trọng và lịng biết ơn sâu sắc
tới thầy giáo, TS. Hoàng Cao Cương đã tâm huyết, chỉ bảo tơi trong suốt q
trình thực hiện đề tài này và là người thầy đã truyền dạy cho tôi những kiến
thức và kinh nghiệm quý báu trong công tác giảng dạy sau này. Tôi cũng xin
chân thành cảm ơn đến BGH, khoa sau Đại học, ban chủ nhiệm khoa Ngữ Văn,
cùng các thầy, cô trực tiếp giảng dạy bộ môn chuyên ngành ngôn ngữ của
Trường ĐHSP Thái Nguyên đã tạo điều kiên thuận lợi cho tơi trong suốt q
trình học tập và nghiên cứu.
Thái Nguyên, ngày 25 thánh 8 năm 2015
Tác giả luận văn

Nguyễn Bích Ngọc

i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là do tôi viết. Mọi số liệu, tư liệu cũng
như kết quả nghiên cứu là của riêng tôi.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Thái Nguyên, ngày 25 tháng 8 năm 2015
Người cam đoan


Nguyễn Bích Ngọc

ii


MỤC LỤC
Lời cảm ơn .........................................................................................................i
Lời cam đoan.....................................................................................................ii
Mục lục ............................................................................................................iii
Danh mục các từ viết tắt ...................................................................................iv
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu ....................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5
5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 6
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................. 6
7. Bố cục luận văn ............................................................................................ 7
Chương 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT .................................................................... 8
1.1. Dẫn nhập.................................................................................................... 8
1.2. Một số khái niệm ngôn ngữ học và nghiên cứu văn học............................. 8
1.2.1. Ngơn ngữ tồn dân.................................................................................. 8
1.2.2. Tiếng địa phương .................................................................................... 9
1.2.3. Ngơn ngữ văn hóa. Ngơn ngữ văn học. Ngơn ngữ văn chương ............. 10
1.2.4. Khẩu ngữ .............................................................................................. 15
1.2.5. Chủ đề .................................................................................................. 22
1.2.6. Chi tiết nghệ thuật................................................................................. 23
1.2.7. Hình tượng nhân vật ............................................................................. 24
1.3. Nhà văn Sơn Nam và Hương rừng Cà Mau ............................................. 25

1.3.1. Nhà văn Sơn Nam ................................................................................. 25
1.3.2. Hương rừng Cà Mau............................................................................. 26
1.4. Tiểu kết.................................................................................................... 27
Chương 2. TÍNH KHẨU NGỮ THỂ HIỆN TRONG TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG

iii


2.1. Dẫn nhập.................................................................................................. 30
2.2. Danh sách từ ngữ Nam Bộ trong HRCM ................................................. 31
Cơ sở dữ liệu ...................................................Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Nhóm tương ứng ngữ âm với từ tồn dân.............................................. 32
2.2.2. Nhóm khơng có tương ứng về ngữ âm với từ tồn dân.......................... 39
2.3. Tiểu kết.................................................................................................... 45
Chương 3. TÍNH KHẨU NGỮ THỂ HIỆN TRONG CÁC LỚP TỪ VÀ
TÊN GỌI....................................................................................................... 46
3.1. Dẫn nhập.................................................................................................. 46
3.2. Danh từ .................................................................................................... 46
3.2.1. Danh từ chung: loài cây ........................................................................ 47
3.2.2. Danh từ chung: loài vật......................................................................... 49
3.2.3. Danh từ riêng: tên đất, tên người .......................................................... 54
3.3. Đại từ....................................................................................................... 70
3.4. Tiểu từ cuối câu ....................................................................................... 75
3.5. Cấu trúc vị từ ........................................................................................... 79
3.6. Thành ngữ, quán ngữ ............................................................................... 85
3.6.1. Thành ngữ............................................................................................. 85
3.6.2. Quán ngữ .............................................................................................. 88
3.7. Tiểu kết.................................................................................................... 89
KẾT LUẬN ................................................................................................... 92
THƯ MỤC THAM KHẢO .......................................................................... 95

PHỤ LỤC .................................................................................................... 100

iv


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1. HRCM:

HƯƠNG RỪNG CÀ MAU

2. TSXH:

TẦN SỐ XUẤT HIỆN

3. NAM BƠ:

NAM BỘ

4. TD:

TỒN DÂN

5. CTĐD:

CẤU TRÚC ĐỊNH DANH

6. YTĐT:

YẾU TỐ ĐỨNG TRƯỚC


7. ÝTĐS:

YẾU TỐ ĐỨNG SAU

8. TTCC:

TIỂU TỪ CUỐI CÂU

9. TTMĐ:

TIỂU TỪ MỤC ĐÍCH

10. TTTC:

TIỂU TÌNH THÁI CUỐI

11. TNTN:

THÀNH NGỮ TỤC NGỮ

iv


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Để giao tiếp và sáng tạo, con người có thể dùng âm thanh hoặc chữ viết,
nhưng giao tiếp và sáng tạo bằng âm thanh vẫn là tự nhiên và phổ dụng hơn, vì
lịch sử giao tiếp bằng âm thanh đã có hàng triệu năm trong khi thói quen dùng
chữ viết mới bắt đầu từ dăm ngàn năm lại đây.

Những năm gần đây, đã có rất nhiều những cơng trình nghiên cứu về từ
khẩu ngữ và tác dụng của nó được dùng trong các tác phẩm văn chương như
các tác giả: Nguyễn Thị Thanh Nga (2000), Những từ ngữ mang sắc thái khẩu
ngữ trong tiếng Việt, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Nguyễn Thị Điệp (2009), Dấu
ấn văn hóa Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam, Luận văn Cao học, Đại học
Cần Thơ, Trần Thị Hạnh (2012), Sơn Nam trong tiến trình văn học Nam Bộ,
www.yersin.edu.vn/Uploads/2013/03/Thong_Tin_KH_So_01_091.pdf, Nguyễn
Văn Nở, Nguyễn Thị Tuyết Hoa (2015), Cách vận dụng từ địa phương trong
truyện

ngắn

của

Sơn

Nam,

http.

nguvan.

hnue.

vn/nghiencuu/

tabid/100/newstab/468/default.aspx, Phạm Thị Thu Thủy (2011), Dấu ấn Nam
Bộ trong tập truyện ngắn "Mùa len trâu" của nhà văn Sơn Nam,
www.tonvinhvanhoadoc.vn, Nguyễn Nghiêm Phương (2009), Màu sắc Nam Bộ
trong ngôn ngữ truyện ký Sơn Nam, Luận văn Cao học, ĐHSP Tp Hồ Chí

Minh, Lê Thị Thùy Trang (2003), Đặc điểm truyện ngắn Sơn Nam giai đoạn
1954-1975, Luận văn Cao học, ĐHSP Tp Hồ Chí Minh. Những tác giả trên đã
nói về tác dụng của khẩu ngữ, về nhà văn Sơn Nam một nhà văn đã mang đậm
chất Nam Bộ. Nối tiếp cách tiếp cận này, chúng tôi chọn đề tài để nghiên cứu :
Yếu tố khẩu ngữ trong Hương Rừng Cà Mau của Sơn Nam. Mong muốn khắc
sâu hơn nữa giá trị, tác dụng của khẩu ngữ được Sơn Nam sử dụng trong sáng
tác của mình, cụ thể, chúng tơi đi tìm hiểu về yếu tố khẩu ngữ, tác dụng của nó
mà tác giả sử dụng trong tập truyện Hương Rừng Cà Mau.

1


HRCM của Sơn Nam là tuyển tập truyện ngắn về những người nông dân
Nam Bộ sống cách nay năm sáu chục năm. Việc nghiên cứu hệ thống từ ngữ,
cách kết nối cú pháp và kết nối đoạn trong từng tác phẩm có thể giúp chúng ta
hiểu được những dụng cơng của tác giả trong việc tận dụng các yếu tố khẩu ngữ
cho xây dựng nhân vật và các hoàn cảnh điển hình. Xuất phát từ mong muốn
này, chúng tơi chọn đề tài “Yếu tố khẩu ngữ trong HRCM của Sơn Nam”.
2. Lịch sử nghiên cứu
Mặc dù xuất hiện rất sớm trên văn đàn Miền Nam, nhưng trước 1975
Sơn Nam ít được giới học giả Sài Gịn nhắc tới. Có lẽ bên cạnh lí do về vấn đề
chính trị, cịn có vấn đề về phong cách viết của ông, cái phong cách có phần
ngược với xu thế văn chương thời thượng hồi đó ở vùng tạm chiếm, dưới ách
Mỹ Ngụy.
Sơn Nam chỉ được chú ý và được đánh giá cao sau ngày đất nước được
giải phóng, khi trào lưu trở về nguồn đã trở thành một xu hướng mới của thời
đại. Chỉ khoảng sau 10 năm đất nước thống nhất, nhiều tác phẩm của ơng đã
được tái bản, trong đó nổi tiếng nhất là HRCM.
Trong lời tựa cho HRCM tập 1, nhà thơ Viễn Phương coi Sơn Nam là
một cây bút xuất sắc và tiêu biểu cho văn chương Nam Bộ thế kỉ XX. Trong

Các tác gia văn học Việt Nam, viết năm 1992, các tác giả Nguyễn Đăng Mạnh,
Nguyễn Đình Chú, Nguyên An đã coi HRCM là tác phẩm tiêu biểu nhất, đặc
sắc nhất của Sơn Nam. Từ điển văn học bộ mới in năm 2004 cho tác phẩm này
là "đã đem lại cho nhiều thế hệ người đọc những xúc cảm thẩm mĩ bổ ích,
những gợi ý chân thành cao quý về đất nước và tình người" [27,1566]. Với
Trần Hữu Tá, HRCM đã chứng tỏ được tác giả của nó là "một người cầm bút có
dáng vẻ và hương sắc riêng" [45,72].
Bàn về phong cách nghệ thuật của Sơn Nam trong HRCM, Từ điển văn
học, bộ mới, cho rằng: "Truyện ngắn của Sơn Nam có cốt cách, ý vị riêng …
Tác giả viết hết sức thoải mái, tự nhiên, như lời kể trong bữa nhậu bằng ngôn

2


ngữ đời thường. Phương ngữ được dùng vừa phải, đúng chỗ. Con người và
vùng đất "nê địa" Cà Mau cứ thế hiện lên trên từng trang viết của ông, cuốn
hút, say người." [27, 1566]. Bước sang thế kỉ XXI, các nghiên cứu về Sơn Nam
tiếp tục đi theo hướng này nhưng dưới một tiếp cận mới: nghiên cứu thi pháp.
Phong cách Sơn Nam được các nhà nghiên cứu cụ thể và chi tiết hóa qua
những dụng cơng của ơng trong sử dụng lời ăn tiếng nói hàng ngày của người
Nam Bộ. Các cơng trình nghiên cứu đều có khát vọng chung là mong muốn
cắt nghĩa cho thật khoa học cái gọi là "hương sắc riêng", cách "viết như nói"
của Sơn Nam.
Truyện ngắn Sơn Nam gồm "một thế giới nhân vật phong phú và đa
dạng", từ những người lao động chăm chỉ đến những kẻ quen sống dựa dẫm,
lười biếng; từ những người thật thà, chân chỉ đến những kẻ bịp bợm, sống lang
bạt kì hồ; từ những người cịn nặng lòng với đất nước, quê hương đến những kẻ
rắp tâm làm tay sai cho ngoại bang... Ứng với mỗi một loại nhân vật là một loại
tính cách. Theo Lê Thị Thùy Trang, 2003, trong HRCM, các nhân vật đều ít
được mơ tả ngoại hình. Thay vào đó là cách mơ tả đặc biệt riêng của Sơn Nam:

thơng qua lời nói, thái độ, hành động.. Nhưng cái làm nên ấn tượng Sơn Nam nhất
trong lòng người đọc là nghệ thuật sử dụng tiếng địa phương Nam Bộ. "Đó là cách
diễn đạt khéo léo mà khơng cầu kì, mộc mạc, chân thành, giản dị, dễ hiểu mà
không kém mượt mà, không làm mất đi tính thẩm mĩ của văn học" [56, 113].
"Nhiều tác phẩm trong HRCM mang đậm khẩu khí Nam Bộ. Ở những tác phẩm
này gần như tác giả đã sao chụp nguyên mẫu ngoài cuộc sống" [56, 116].
Nguyễn Văn Nở và Nguyễn Thị Tuyết Hoa, 2015, cho rằng, "Một trong
những yếu tố làm nên sức hấp dẫn trong truyện ngắn của Sơn Nam là cách vận
dụng ngôn ngữ của ông, đặc biệt là phương ngữ Nam Bộ. Lớp từ vựng trong
phương ngữ Nam Bộ được vận dụng để miêu tả trong truyện ngắn Sơn Nam rất
đa dạng.". Theo các tác giả này, " …một số lớp từ sau: lớp từ xưng hô, lớp từ
định danh một số động vật, thực vật, lớp từ chỉ đặc điểm địa hình, hiện tượng

3


tự nhiên, lớp từ chỉ vật thể nhân tạo được dùng phổ biến trong cách nói năng
của người Nam Bộ. Bởi lẽ đây là lớp từ phản ánh trực tiếp đặc điểm vùng đất,
cuộc sống lao động sản xuất, nét sinh hoạt văn hóa cùng cách ứng xử trong giao
tiếp của người Nam Bộ" [39].
Theo Trần Thị Hạnh, "đặc biệt, Sơn Nam trong nghệ thuật sử dụng ngơn
ngữ bình dân đã có những bước tiến đáng ghi nhận" [21, 45]. và bà lí giải điều đó
như sau: "… vẫn là lời ăn tiếng nói của người dân Nam Bộ nhưng nó khơng làm
cho người đọc các vùng khác khó hiểu. Ông không sử dụng ngôn ngữ quá cũ, mà
thông qua giọng điệu, cách ví dụ vẫn thể hiện được cá tính Nam Bộ" [21, 45].
Tóm lại, việc nghiên cứu Sơn Nam trong những năm đầu của thế kỉ đã
có chiều sâu: đi theo hướng thi pháp. Các tác giả nghiên cứu dần đi tới được
những đồng thuận khi đánh giá nghệ thuật văn chương của ông. Từ phương
diện xây dựng kết cấu và cốt truyện thì thật ra truyện ngắn Sơn Nam khơng có
những đóng góp thật đặc biệt. Tuy nhiên, cái đặc sắc trong các truyện của ông

lại nằm ở cách sử dụng sáng tạo vốn từ địa phương, cách đặt tên nhân danh và
địa danh độc đáo và lối kể chuyện đượm màu sắc dân gian. Chính cái độc đáo
này đã đưa Sơn Nam vào một vị trí thật đặc biệt của trong tiến trình văn
chương Nam Bộ. Gộp các yếu tố này cho dễ gọi trong một danh từ chun mơn
chung hơn, ta có thể nói: đó là sự thành công từ chất liệu khẩu ngữ trong từng
sáng tác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Xác định các yếu tố làm nên cái gọi là chất liệu khẩu ngữ trong HRCM
- Làm rõ đặc điểm phân bố của các yếu tố khẩu ngữ trong HRCM. Qua
đó thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa các yếu tố ngơn ngữ bình dân và ngơn
ngữ bác học trong một tác phẩm văn chương.
- Tìm hiểu bước đầu tác dụng nghệ thuật của các yếu tố khẩu ngữ trong
HRCM.

4


3.2. Nhiệm vụ
- Xác định đặc điểm cấu trúc khẩu ngữ trong HRCM.
- Tìm hiểu tác dụng nghệ thuật của các yếu tố khẩu ngữ trong HRCM.
Tìm hiểu các mặt tích cực và hạn chế của yếu tố này trong sáng tạo văn
chương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Một trong những yếu tố tạo nên giá trị nghệ thuật của một tác phẩm văn
học là chất liệu ngôn ngữ mà nhà văn sử dụng. Thông thường, chất liệu này là
ngôn ngữ chuẩn mực, ngôn ngữ văn chương, nơi hạn chế đến thấp nhất cách sử
dụng vốn từ địa phương và cách diễn đạt theo ngôn ngữ nói, ngơn ngữ giao tiếp
hàng ngày. Tuy nhiên tiến trình văn học Việt Nam đã từng được chứng kiến

tình trạng có những tác giả dùng ngơn ngữ nói làm phương tiện biểu đạt văn
chương. Những tác giả này có người thành cơng nhưng cũng có người chưa
thật thành cơng. Chẳng hạn hiện tượng dùng ngơn ngữ nói của Hồ Xn Hương
tạo nên dịng thơ Nơm tuyệt tác trong q khứ là một ví dụ thành cơng. Cịn ở
địa hạt văn xuôi thế kỉ XX người ta cũng đã ghi nhận được hàng loạt các tác giả
có nhiều tìm tịi trong sử dụng ngơn ngữ bình dân như Hồ Biểu Chánh, Bình
Nguyên Lộc, Nguyễn Văn Bổng, Sơn Nam hoặc các trường hợp Nguyễn
Quang Lập, Nguyễn Ngọc Tư sau này. Để tìm hiểu bí quyết nào giúp nhà văn
sử dụng ngơn ngữ nói trong sáng tác lại gặt hái được thành cơng, trước hết cần
tìm hiểu sự phân bố các yếu tố khẩu ngữ có trong tác phẩm của họ và cách khai
thác chúng cho mục đích thẩm mĩ. Chúng tơi chọn các tập truyện ngắn của Sơn
Nam cho việc tìm hiểu bước đầu này.
Tên tuổi của nhà văn Sơn Nam gắn liền với tập truyện HRCM. Năm
1962 tập truyện được Nhà xuất bản Phù Sa xuất bản, chỉ gồm 18 truyện, Sau đó
nó được nhiều nhà xuất bản tái bản nhiều lần, cả trước lẫn sau giải phóng. Đến
2001 Nhà xuất bản Trẻ nhân khi tái bản đã tập hợp những truyện ngắn khác nữa

5


của ơng và xuất bản thêm 2 tập mới. Ngồi 18 truyện trước đây, HRCM có
thêm 47 truyện ngắn nữa. 18 truyện cũ từ 1962 được đặt tên là HRCM, Tập
Một. Hai tập tiếp sau là HRCM, Tập Hai và Tập Ba.Tập 2: 26 truyện;Tập Ba:21
truyện. Hiện nay dưới tiêu đề HRCM là một tổng tập truyện ngắn dày dặn gồm
65 truyện, gấp hơn 3 lần số truyện xuất bản lần đầu. Trong cơng trình này cả 3
tập HRCM này là ngữ liệu cơ sở dùng cho phân tích các đặc điểm khẩu ngữ mà
nhà văn đã sử dụng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Chất khẩu ngữ của HRCM được bộc lộ qua:
a. Vốn từ ngữ địa phương

b. Cấu trúc cú pháp đặc trưng của ngơn ngữ nói theo phong cách Nam Bộ
Hai yếu tố này sẽ được phân tích trong cơng trình.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây::
5.1. Phương pháp thống kê: Những yếu tố khẩu ngữ tiêu biểu xuất hiện trong
HRCM được lên danh sách kèm với tần số xuất hiện (TSXH) của chúng. Nhờ
các phân tích thống kê có thể phát hiện ra dược mức độ sử dụng và hiệu lực
thông tin của chúng trong HRCM.
5.2. Phương pháp phân tích ngữ nghĩa: Các yếu tố khẩu ngữ được tập hợp
theo các dạng đơn vị khác nhau có trong hệ thống ngơn ngữ và xem xét nội
dung biểu đạt chính của chúng theo phương pháp phân tích ngữ nghĩa ở từng
ngữ cảnh có thể.
5.3. Phương pháp phân tích diễn ngơn: Đặt các yếu tố khẩu ngữ vào văn bản
và các hoàn cảnh cụ thể để xem xét tác dụng của các yếu tố này trong liên kết
văn bản và qua đó tìm hiểu các hiệu lực dụng ngơn của chúng.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Ý nghĩa lí luận

6


- Nhằm khẳng định vai trị tích cực của chất liệu khẩu ngữ trong truyện
ngắn Sơn Nam, nói riêng và truyện ngắn Việt Nam, nói chung.
Trong việc xác định phong cách một tác giả, bên cạnh việc quan tâm đến
các yếu tố nghệ thuật liên quan đến xây dựng nhân vật, tính cách nhân vật và
phác họa các hồn cảnh xuất hiện nhân vật, người nghiên cứu cần có cái nhìn
chi tiết hơn nữa về chất liệu ngơn ngữ mà nhà văn ưa thích dùng trong sáng tác.
6.2.Ý nghĩa thực tiễn
- Bước đầu tìm hiểu đặc điểm cấu trúc của cái gọi là chất liệu khẩu ngữ.
- Khẳng định vai trị ngơn ngữ cá nhân nhà văn trong sáng tác văn chương.

- Giới thiệu thủ pháp phân tích ngơn ngữ cho xác định phong cách.
- Góp thêm tiếng nói khẳng định vị trí của Sơn Nam trong tiến trình
truyện ngắn Việt Nam hiện đại.
7. Bố cục luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, luận văn gồm 3 chương chính:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết
Chương 2: Vốn từ ngữ Nam Bộ trong HRCM
Chương 3: Những lớp từ ngữ đặc biệt

7


Chương 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. Dẫn nhập
Như là các khái niệm công cụ cho khảo sát hiện tượng khẩu ngữ trong
HRCM của Sơn Nam, chương này xin trình bày một số khái niệm ngôn ngữ học
và nghiên cứu văn học liên quan trực tiếp với đề tài. Đó là các khái niệm ngơn
ngữ học về loại hình ngơn ngữ chức năng với tư cách là các hệ thống con trong
hệ thống ngôn ngữ một tộc người và các khái niệm sơ giản về cấu trúc nghệ
thuật trong một tác phẩm văn học. Chương cũng dành phần còn lại cho giới
thiệu về Sơn Nam và tác phẩm HRCM.
1.2. Một số khái niệm ngôn ngữ học và nghiên cứu văn học
1.2.1. Ngôn ngữ tồn dân
Trong q trình tộc người, khi hội đủ các điều kiện kinh tế - xã hội nhất
định thi tiếng nói tộc người bước sang giai đoạn phát triển trở thành phương
tiện giao tiếp chung cho cả một quốc gia. Đến lượt chúng, những tiếng nói
trong các vùng dân cư khác nhau trở thành phương ngữ (tiếng địa phương) của
quốc gia. Cái ngôn ngữ bao trùm lên, được dùng như phương tiện giao tiếp
chung giữa các địa phương chính là ngơn ngữ tồn dân của một quốc gia.

Mặc dù có những khác biệt nhất định về giọng nói giữa các địa phương,
nhưng nịng cốt một ngơn ngữ tồn dân đã được hình thành trên cơ sở vốn từ
vựng chung. Đó là những từ ngữ được tất cả thành viên nói năng trong một
quốc gia hiểu và sử dụng một cách tự nhiên. Chúng được dùng theo phong cách
trung hòa. Đối lập với vốn từ này là các lớp từ được dùng hạn chế như từ địa
phương, từ nghề nghiệp, tiếng lóng , thuật ngữ… Vốn từ của ngơn ngữ toàn
dân được xây dựng trên lớp từ cơ bản và làm cơ sở thống nhất ngơn ngữ và
quốc gia. Nó cũng chính là nịng cốt của vốn được sử dụng trong ngơn ngữ văn
học, khi tiếng nói của một dân tộc dấn thêm một bước nữa trong tiến trình phát
triển của mình để thành một ngơn ngữ thống nhất và được chuẩn hóa.

8


1.2.2. Tiếng địa phương
Đối lập với ngơn ngữ tồn dân là tiếng địa phương, thứ tiếng nói được
dùng hạn chế trong một vùng nhất định. Những khác biệt về ngữ âm, từ vựng
và ngữ pháp trong so sánh giữa các vùng miền cho phép tách chia các tiếng địa
phương trong cùng một ngôn ngữ. Sự khác biệt về ngữ pháp giữa các tiếng địa
phương thường ít được bộc lộ hoặc nếu có cũng khơng gây nên những ấn tượng
q đặc biệt đối với người tiếp nhận. Ấn tượng nổi bật là nằm ở các khác biệt
về ngữ âm và từ vựng.
Giọng nói cùng những biểu hiện âm thanh khác lạ là đặc điểm dễ nhận ra
nhất khi giao tiếp với người ở địa phương khác. Đó chính là các biểu hiện về
mặt ngữ âm của một tiếng địa phương. Những đặc điểm ngữ âm khác biệt này
là biểu hiện bề mặt, còn các đặc điểm âm vị chung cho tất cả các tiếng địa
phương của cùng một ngơn ngữ thì được định vị ở cấu trúc sâu, ở tầng nền cấu
trúc một ngơn ngữ. Chính mối quan hệ này giữa hai tầng cấu trúc đã cho phép
những người nói các tiếng địa phương khác nhau vẫn hiểu nhau được. Ở cấp độ
từ vựng học, ngoài phần chung vốn từ trong ngơn ngữ tồn dân, mỗi tiếng địa

phương đều có những từ ngữ đặc trưng riêng của mình. Đó là những thơng tin
quan trọng về địa lí, hồn cảnh kinh tế, xã hội và nhất là về phong tục và tập
quán của một địa phương. Theo Dẫn luận ngôn ngữ học, "Từ địa phương là
những từ ngữ dùng hạn chế ở một hoặc vài địa phương. Nói chung, từ địa
phương là bộ phận từ vựng của ngơn ngữ nói hằng ngày của bộ phận nào đó
của dân tộc chứ khơng phải là từ vựng của ngôn ngữ văn học. Khi dùng vào
sách báo nghệ thuật, các từ địa phương thường mang sắc thái tu từ: diển tả lại
đặc điểm của địa phương, đặc điểm của nhân vật” [20; 14]. Còn Từ điển giải
thích thuật ngữ ngơn ngữ thì đưa ra một định nghĩa ngắn nhưng tổng quát
hơn:“Từ địa phương không ở trong ngơn ngữ văn học mà thuộc về tiếng nói
của một vùng đất nhất định. Chúng mang sắc thái địa phương. Người của địa
phương này không hiểu từ của địa phương khác”. [62; 399].

9


Về nguyên tắc, nói chung, ở những phong cách viết như hành chính cơng
vụ, chính luận báo chí hoặc khoa học kĩ thuật thì khơng thể sử dụng vốn từ địa
phương được. Tuy nhiên, trong sáng tác văn chương, đôi khi vốn từ địa phương
lại có tác dụng quan trọng. Nhờ vốn từ địa phương được sử dụng một cách có
chọn lọc, nhà văn có thể mơ tả và bộc lộ cụ thể và sinh động hệ thống các tính
cách nhân vật và những môi trường sống khác nhau của họ.
Theo bản chất tín hiệu của từ ngữ, người ta phân vốn từ địa phương
thành hai loại: từ địa phương ngữ âm và từ địa phương từ vựng. Nếu khác biệt
giữa từ địa phương và từ toàn dân chỉ dừng trên bề mặt thì đó là các từ địa
phương ngữ âm. Ví dụ thiệt, lịnh, đờn, thiếm… trong tiếng Nam Bộ tương
đương với các từ toàn dân như thật, lệnh, đàn, thím …Những tương đương này
là có quy luật. Cịn khi các từ địa phương khơng tìm thấy những từ tương ứng
về mặt ngữ âm trong tiếng tồn dân thì đó chính là các từ đặc hữu của địa
phương đó. Chúng là các từ địa phương từ vựng như: bần, măng cụt, len trâu,

càm ràm, mẻ ung, nhậu, lé đé…
Trong các trích dẫn sau:
- “Hồi đầu mùa, tao biểu giao trâu cho họ len đi miệt khác kiếm cỏ. Mà
mày ngăn cản. Bây giờ tới nước này rồi…”[HRCM.1.131].
- “Mày ăn trộm búa nữa hả? Ráng mà đỡ. Nè!” [HRCM.1.216].
-“Ghiền rồi hả mậy?”[HRCM.1.140].
Những từ địa phương Nam Bộ được in đậm. Trong số này, biểu, nè, ghiền,
mậy là những từ địa phương ngữ âm; còn miệt, ráng là từ địa phương từ vựng.
Trong thực tế, từ địa phương ngữ âm luôn chiếm tỉ lệ áp đảo, cịn từ từ
vựng thì thường có số lượng ít hơn rất nhiều. Những từ địa phương từ vựng
cung cấp nhiều thông tin về một vùng đất. Đó là các từ chỉ những sản vật đặc
hữu, lối tư duy và tính cách riêng của một vùng dân cư do điều kiện xã hộikinh tế trong tiến trình lịch sử cụ thể đưa lại.
1.2.3. Ngơn ngữ văn hóa. Ngơn ngữ văn học. Ngơn ngữ văn chương
10


Khi một nhà nước đã hình thành thì do áp lực hệ thống chữ viết mà các
thổ ngữ, phương ngữ dần quy tụ thống nhất vào ngơn ngữ tồn dân. Ngơn ngữ
này, đến lượt nó, do những địi hỏi ngày càng gay gắt của kinh tế - xã hội tất
yếu bị chuẩn mực hóa. Đấy là một q trình diễn ra lâu dài ở cả bình diện cấu
trúc lẫn bình diện chức năng. Về cấu trúc đó là sự thống nhất giữa các thành
viên trong cộng đồng nói năng về hình thức âm thanh của từ, về hệ thống từ
vựng và về hệ thống từ pháp và cú pháp. Còn về chức năng đó là xuất hiện
những quy định bắt buộc sử dụng ngơn ngữ đã chuẩn hóa cho từng khu vực
giao tiếp nhất định. Những khu vực giao tiếp quen thuộc trước đây bằng ngôn
ngữ viết sẽ được ngôn ngữ chuẩn hóa tiếp quản và mở rộng ra tiếp theo yêu cầu
của xã hội hiện đại.
Theo Trường phái ngôn ngữ học chức năng Praha, ngôn ngữ đã trải qua
quá trình chuẩn hóa như vậy được gọi là ngơn ngữ văn hóa. Thuật ngữ này
tương đương với thuật ngữ ngơn ngữ văn học ở nước ta quen dùng. "Ngôn ngữ

văn học là ngơn ngữ mẫu mực đã được chuẩn hóa, phục vụ cho tất cả các lĩnh
vực giao tiếp giữa người với người, và giữ vai trò to lớn trong việc hình thành
và phát triển tư duy, phát triển tâm lí, trí tuệ và tồn bộ hoạt động tinh thần
của con người, cịn gọi là ngơn ngữ chuẩn, ngơn ngữ tiêu chuẩn”[35,127].
Tuy nhiên, thuật ngữ ngôn ngữ văn học, mặt khác, lại trùng với khái
niệm "ngơn ngữ mang tính nghệ thuật được dùng trong văn học". Để tránh
nhầm lẫn, ở đây chung ta tạm gọi đó là ngơn ngữ văn chương.
Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học, như màu sắc đối với hội họa,
âm thanh đối với âm nhạc, hình khối đối với kiến trúc. Trong sự sáng tạo của
nhà văn, sự sáng tạo về ngôn ngữ đóng vai trị quan trọng. Ngơn ngữ của tác
phẩm văn học chính là ngơn ngữ của đời sống, ngơn ngữ tồn dân đã được
nâng đến trình độ nghệ thuật. Trong văn chương, ngôn ngữ là một trong những
yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn.
Mỗi nhà văn lớn bao giờ cũng là những tấm gương sáng về mặt hiểu biết về

11


ngôn ngữ của nhân dân. Bằng ngôn ngữ, nhà văn cụ thể hóa, vật chất hóa sự
biểu hiện của chủ đề và tư tưởng, tính cách nhân vật và cốt truyện. Lời M.Gorki
“Yếu tố đầu tiên của văn học là ngơn ngữ, cơng cụ chủ yếu của nó và cùng với
các sự việc, hiện tượng của cuộc sống là chất liệu văn học.”
Ngơn ngữ hiện thực trong đời sống có những điểm khác biệt quan trọng
với ngôn ngữ văn chương. Theo M. Gorki, ngơn ngữ bình dân là tiếng nói
“ngun liệu”, cịn ngơn ngữ văn chương là thứ tiếng nói đã được nhào luyện
tinh xảo. Mỗi tác phẩm văn chương đều lấy thực tế làm khn mẫu để phản
ánh. Đó là những cảnh huống con người thuộc nhiều nhóm xã hội khác nhau,
nhiều mục đích và phương thức sống khác nhau tồn tại thực trong một xã hội.
Để phản ánh được thực tế đa dạng và muôn màu này ngôn ngữ trong tác phẩm
văn chương phải là phương tiện đa giọng điệu. Trong một phương thức phản

ánh đặc thù, ngôn ngữ văn chương là kết quả của mơt q trình lao động và học
tập không mệt mỏi của nhà văn. Nó vừa là kết tinh của truyền thống sử dung
ngơn từ của cả dân tộc lại vừa là kết quả sáng tạo của cá nhân của nhà văn.
Khác với ngôn ngữ trong đời sống thực và cả những dạng ngôn ngữ chức năng
khác nhau được dùng trong các phong cách viết, ngơn ngữ văn chương có
những đặc trưng riêng sau đây:
1. Biểu cảm
Ngôn ngữ trong các môi trường như luật pháp, nhà nước hay trong
ngành nghề, trong khoa học luôn phải khách quan, khơng phụ thuộc vào tình
cảm thái độ của người dùng. Đó là thứ ngơn ngữ của cơng việc, của các thuật
ngữ vừa trừu tượng, khái quát vừa trung tính về phong cách. Cịn ngơn ngữ
trong mơi trường sáng tạo nghệ thuật thì trước hết là thứ ngơn ngữ có thể nói
được thế giới nội tâm của người viết. Người viết có rung cảm thật sự trước thế
giới hiện thực thì mới nạp đầy nguồn cảm hứng cho sáng tạo. Sự rung cảm đó,
suy cho cùng, bắt nguồn từ tình cảm thái độ của tác giả trước cuộc sống. Do
vậy ngơn ngữ văn chương mang tính chủ quan. Ngôn ngữ văn học là phương

12


tiện bộc lộ thế giới quan người viết, thế giới tâm hồn của anh ta và đậm đặc cá
tính riêng có của nhà văn. Và trên hết đó là thứ ngơn ngữ của tình cảm.
Các hình tượng văn học, hệ thống tính cách nhân vật được mơ tả một
cách nhân văn, cụ thể, cần là những sản phẩm độc đáo, khơng vay mượn, do
chính người viết tạo dựng. Chúng có sứ mệnh tác động mạnh mẽ đến người đọc
và kêu gọi sự cảm thông, rung cảm của người đọc trước những số phận, hoàn
cảnh nhân vật mà một tác phẩm xây dựng nên. Để có sức mạnh truyền cảm, sức
lan tỏa như vậy, nhà văn phải chọn được chất liệu ngơn ngữ phù hợp: ngơn ngữ
biểu cảm.
2. Hình tượng

Triết học, chính trị, khoa học là khu vực làm việc với các khái niệm được
xã hội quy định một cách chuẩn xác vì yêu cầu của các giao tiếp ở những khu
vực này là u cầu về thơng tin trí tuệ. Những khái niệm được thể hiện qua các
thuật ngữ khoa học, đảm bảo mối quan hệ 1 đối 1 giữa cái biểu đạt và cái được
biểu đạt. Những hiện tượng đồng âm, đa nghĩa, đồng nghĩa, những lối nói ví
von so sánh hoặc các biện pháp ẩn dụ hóa trong giao tiếp bằng thuật ngữ, do
vậy, bị loại trừ. Nhưng do vậy, nó cũng loại trừ ln cả tính biểu cảm ẩn chứa
trong từng từ ngữ. Thay vào đó là tính trừu tượng và khách quan hóa cao độ
của phương tiện giao tiếp.
Ngược lại trong văn chương, ngơn ngữ có đích là để tạo nên một khơng
gian thẩm mĩ cho việc tiếp thụ của người đọc. Ngôn ngữ được lựa chọn do vậy
phải đầy màu sắc, đa dạng về hình ảnh và đa thanh. Nhờ khắc họa các tính cách
nhân vật một cách cụ thể và chi tiết mà nhà văn đưa đến cho người đọc các khía
cạnh khác nhau của chủ đề và tìm cách để thuyết phục được người đọc. Trong
văn chương, phương thức sáng tạo riêng đó chính là nhờ vào hệ thống các hình
tượng. Chẳng hạn, để mô tả khách quan và lô gic sự cố khô hạn kéo dài, báo
cáo công vụ đưa các số liệu về ngày mưa/ không mưa, số lượng hồ trữ nước đã
cạn trong một địa phương. Còn trong văn chương, thay vì các số liệu, nhà văn

13


dùng ngơn ngữ để hình tượng hóa. Chẳng hạn như dòng thơ sau đây của Xuân
Diệu: "Con đỉa vắt qua mơ đất chết...". Hình tượng con đỉa, sinh vật sống dai
dẳng nhất, bất chấp mọi khắc nghiệt đời sống, khi bị qua mơ đất khơ hạn cũng
bị vắt khơ theo. Lời nói có hình tượng đạt tới giá trị thẩm mĩ cao, vì đó mới là
cái đích của văn chương. Do phải phản ánh hiện thực theo cách của hình tượng,
nên tư duy của nhà văn cũng phải là tư duy hình tượng và ngơn ngữ mà họ
dùng cũng phải là ngơn ngữ hình tượng.
3. Chính xác

Khác với thơng tin thơng qua ý niệm, quan hệ lơgic hình thức như
thường thấy trong khoa học, trong văn chương việc thông tin được diễn ra trên
cơ sở hệ thống hình tượng tác phẩm. Nhà văn, nhờ lịch lãm trong ngôn từ và
kinh lịch trong đời sống, tự tạo nên sở trường riêng trong mơ tả các hình tượng.
Chất liệu làm nên các hình tượng bắt nguồn từ các nguyên mẫu trong đời sống
hiện thực. Muốn lột tả các nguyên mẫu này, không có cách nào khác ngồi việc
nhà văn phải có ý thức dùng chính xác từ ngữ.
Chế Lan Viên trong Trời đã lạnh rồi, khi khắc họa cảnh cuối thu, viết:
"Roi trên cành chừng đã đi qua
Chen lá lục quả bàng vàng đã chín
Cỏ có dễ mềm hơn vì sương sớm
Cúc bên đường nghiêng những giọt sương hoa"
Đoạn này cảnh ngụ tình, vì nó nhắc những cảnh trí mà tác giả và người
vợ trẻ đã từng lưu khắc nhiều kỉ niệm lứa đơi. Trong đó có trái roi, trái bàng, có
khóm cỏ, bông cúc cùng những giọt sương đầu mùa là những sản vật, những
chi tiết quen thuộc đất trời Miền Bắc khi sắp sang đông. Tác giả khéo chọn
những màu sắc đứng cạnh nhau, trong đó màu vàng được tơn lên thành màu
chủ đạo, vừa gợi mùa thu vừa ngụ ý về biệt li, xa vắng. Tác giả dùng các từ
chừng, có dễ mơ tả chính xác nhận cảm của mình về cảnh chuyển mùa. Thật
gượng nhẹ và tinh tế. Những từ ngữ trong cả đoạn thơ hợp với tư duy hình

14


tượng. Và để đạt được điều đó, từ ngữ phải thật chính xác và hợp lí cả về lượng
lẫn chất.
4. Đa thanh
Ngôn ngữ văn chương không đơn điệu mà đa thanh vì thực tế khách
quan mn hình, mn vẻ. Văn chương qua các lớp lang hình tượng phải bộc
lộ được tính đa dạng và phong phú đó. Hệ thống hình tượng được biểu lộ qua

hệ thống tính cách nhân vật. Mỗi nhân vật do hoàn cảnh xuất thân, tuổi tác, giới
tính và đặc điểm thụ đắc ngơn ngữ khơng như nhau nên ngôn ngữ mà họ dùng
cũng không thể cùng là một ngơn ngữ được. Đó là các giọng nói, ngơn ngữ cá
nhân mà nhà văn phải có nhiệm vụ phản ánh trung thực trong tác phẩm của
mình. Nhà văn hiểu rằng, ngôn ngữ nhân vật cũng là một bộ phận quan trọng
khơng tách rời của tính cách nhân vật. Hệ thống từ ngữ mà tác giả sử dụng, do
vậy, biểu lộ những giọng điệu khác nhau, của các tính cách khác nhau, ở những
tầng lớp xã hội, ở những vùng miền khác nhau.
Ở những phong cách viết khác, người viết phải tuân theo đặc điểm hành
chức của hệ thống ngơn ngữ chun ngành. Đó là lớp từ chun dùng cho một
chuyên ngành và đã được chuẩn hóa. Các yếu tố khẩu ngữ, tiếng địa phương,
các từ thông tục, quán ngữ thậm chí cả những yếu tố dân gian đầy trí tuệ và hấp
dẫn như các thành ngữ, tục ngữ cũng khơng có cơ hội xuất hiện trong các văn
bản "đã được làm sạch" này. Nếu không, văn bản được viết nên sẽ vi phạm
nguyên tắc chuẩn mực hóa của chính ngơn ngữ đang được sử dụng.
1.2.4. Khẩu ngữ
Hai hình thức truyền tải ngôn ngữ, âm thanh và chữ viết, tạo nên hai
dạng ngơn ngữ chính của một ngơn ngữ. Đó là ngơn ngữ nói và ngơn ngữ viết.
Chúng khác nhau cả về hình thức lẫn mục đích sử dụng. Nếu ngơn ngữ nói
thường được dùng cho giao tiếp thường nhật vì ưu thế chuẩn bị và đáp ứng
nhanh thì ngôn ngữ viết lại được tận dụng trong giao tiếp "chính thức" vì có các
ưu thế:

15


- Có thể khắc phục được các rào cản khơng, thời gian mà giao tiếp âm
thanh không thể vượt qua.
- Người phát và người nhận có thời gian chuẩn bị và giải mã thông điệp.
Không nhất thiết họ phải phản ứng tức thì như trong giao tiếp trực tiếp qua âm

thanh.
Dạng phổ biến nhất của ngôn ngữ viết là ngôn ngữ sách vở, cịn của
ngơn ngữ nói là khẩu ngữ. Theo Từ điển tiếng Việt, khẩu ngữ "là dạng lời nói
thường, dùng trong cuộc sống hàng ngày, có phong cách đối lập với phong
cách viết” [60, 196]. "Đó là một hệ thống kí hiệu có thể được thể hiện bằng âm
thanh và có chức năng đáp lại một kích thích tố hữu quan (thường đòi hỏi phản
ứng ngay lúc ấy) một cách năng động, tức là sự phản ứng phải hoàn chỉnh và
nêu rõ mặt cảm xúc cũng như nội dung của các sự kiện hữu quan" [60, 70].
Ngay trước công nguyên, vấn đề khẩu ngữ đã được nhắc tới khi Virgile
đưa ra mơ hình bánh xe (bánh xe phong cách Virgile) nhằm phân loại các dạng
lời nói. Theo Virgile, lời nói cụ thể tùy theo mục đích và mơi trường sử dụng
mà được xếp vào một trong ba phong cách: cao quý (acrolect) như lời nói thi
ca, các anh hùng ca; trung bình (mesolect) như lời nói trong giao tiếp, nhất là
giữa những nông dân; hoặc thấp kém (basilect) như lời nói trong giao tiếp đời
thường. Phong cách thấp kém ngụ ý lời nói khơng liên quan với những điều cao
quý, cao thượng mà chỉ nhằm đáp ứng những nhu cầu giao tiếp thường nhật mà
dưới con mắt thi nhân là những lời "tầm thường", không ý vị.
Tiếp nối ý tưởng này, nhưng tinh tế và khoa học hơn, vào giữa thế kỉ
XX, Trường phái ngôn ngữ học Praha đưa ra quan niệm về tầng chức năng
ngôn ngữ. Theo họ, tầng chức năng phản ánh nhu cầu con người trong giao tiếp
và vì vậy khơng có phẩm chất cao quý hay tầm thường tự thân trong các tầng
chức năng. Mỗi một chức năng hóa thân thành một phong cách và lời nói chính
là biểu hiện cụ thể của phong cách đó. Các tầng chức năng càng mở rộng và
phát triển thì ngơn ngữ càng phong phú và càng có cơ sở vững chắc làm nảy

16


sinh các dạng ngôn ngữ khác nhau. Trong các dạng lời nói của một ngơn ngữ,
đáng quan tâm nhất là: ngơn ngữ viết (ngơn ngữ văn hóa, ngơn ngữ văn học) và

ngơn ngữ nói (khẩu ngữ, ngơn ngữ thơng tục).
Khẩu ngữ, bao hàm hai thuộc tính:
- Về mặt vật lí: được bộc lộ bằng âm thanh
- Về mặt chức năng: dùng trong giao tiếp đời thường.
Những từ ngữ có trong khẩu ngữ thường trực trong vốn từ của người nói
và xuất hiện ngay tức thì khi người nói cần huy động để đáp ứng hay đưa ra các
thông điệp trong trao đổi bằng lời. Nói cách khác, các từ ngữ thuộc về khẩu
ngữ là các cấu trúc ngôn ngữ tự nhiên nhất. Chúng được thu nạp không qua con
đường học vấn mà qua tích lũy kinh nghiệm trong giao tiếp tự nhiên. Chúng có
trong vốn từ tối thiểu của mọi thành viên cộng đồng nhằm đảm bảo nhu cầu
giao tiếp thiết yếu, mang tính liên nhân của họ. Chính vì nguồn gốc tự nhiên
nên các từ ngữ thuộc khu vực khẩu ngữ thường giàu hình ảnh và biểu cảm.
Chính nhờ mô tả bằng khẩu ngữ mà cảnh và người ở vùng đất phương
Nam, tâm trạng và cảnh ngộ của những người con xa xứ thời mở đất khi còn
"muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lềnh như bánh canh" được bộc lộ ra một cách
trực tiếp và tự nhiên. Chất liệu này được thể hiện rõ nhất qua lối diễn đạt không
màu mè kiểu cách, đặc "dân quê", và qua sự điểm xuyết khéo léo những thành
ngữ, tục ngữ hàm chứa những triết lí dân gian thường thấy trong lời ăn tiếng
nói hàng ngày của người Nam Bộ. Có thể nói HRCM đã tập hợp được tương
đối đầy đủ các khơng gian điển hình cho khung cảnh sống của người Nam Bộ.
Đó là những khung cảnh đơn sơ từ nơng thôn tới đô thị, từ ruộng đồng tới sông
nước, từ xóm ấp tới chợ búa, từ sinh hoạt hàng ngày đến các tụ họp thưởng
thức nghệ thuật hoặc các sinh hoạt tập thể, mang tính cộng đồng. Bất kì khơng
gian nào trong tập truyện cũng đều khá đặc biệt và thấm đẫm chất Nam Bộ.
Sơn Nam khi thì dùng bút pháp ước lệ, tượng trưng, khi thì dùng cách mơ tả
hiện thực để khắc họa những cảnh trí đặc biệt này. Đi với bút pháp ước lệ,

17



tượng trưng, ngơn ngữ được chọn ít nhấn nhá và đặc biệt là thường trở về với
ngơn ngữ tồn dân, ít cảm xúc hơn. Chẳng hạn như cảnh tiến vào rừng sâu của
người ăn ong trong truyện Hương rừng: "Xuồng dừng lại giây lát nghỉ trưa rồi
mái dầm lại tiếp tục khốt dịng nước đỏ ngịm, tuy chảy mạnh nhưng tứ bề gió
khuất nên khơng gợn sóng. Đơi bờ quanh co, hoa lá nghiêng mình, giao đầu,
bắt tay nhau che kín bóng mặt trời.
Trong đoạn trích, vốn từ địa phương thật nghèo nàn. Các diễn đạt được
xây dựng trên các kết hợp cú pháp chuẩn mực của văn viết; không dùng cách
nói của khẩu ngữ. Có lẽ do vậy mà đoạn tả trên mặc dù có nhiều hình ảnh đẹp
nhưng khơng lạ và ít gây được xúc cảm đặc biệt cho người đọc. Nó giống một
đoạn văn tả cảnh thơng thường hay gặp trong các tác phẩm ưa dùng ngôn ngữ
văn chương, chuẩn hóa.
Sơn Nam thật tung tẩy khi trở về được khẩu khí quen thuộc của mình: lối
nói bình dân. Đó là cách nói tận dụng khẩu ngữ Nam Bộ. Khung cảnh được
phác họa mặc dù đơn sơ, nhưng thật sống động. Và với cung cách đó, phong
cách Sơn Nam mới đặc biệt được tạo ra.
Có nguồn gốc từ trạng thái cổ xưa, khi ngơn ngữ mới chỉ có dạng biểu
đạt là âm thanh, nên mối quan hệ giữa hình thức và nội dung (giữa âm thanh và
ý nghĩa) của vốn từ ngữ này thường đơn giản và tự nhiên. Từ phía người tiếp
nhận, q trình giải thuyết nghĩa diễn ngôn bằng khẩu ngữ lệ thuộc sâu sắc vào
các đặc điểm ngữ cảnh và ngữ điệu mà người nói sử dụng. Để phù hợp cao nhất
với các ngữ cảnh mà nó xuất hiện, từ ngữ thuộc lớp khẩu ngữ thường được cấu
trúc lỏng lẻo hơn so với cấu trúc từ ngữ trong ngơn ngữ viết. Đó là những cấu
trúc dễ biến đổi và khá linh hoạt, tạo nhiều "đất' cho thể hiện ngữ điệu đi kèm.
Trong lời nói hàng ngày người nói có thể chèn yếu tố phụ hoặc cải biến cấu
trúc để từ một cấu trúc từ ngữ ổn định, chuẩn mực thành những dạng cấu trúc
lỏng hơn, dễ thể hiện các cảm xúc theo ngữ điệu phù hợp hơn:
chồng con:

chồng với chả con


18


×