Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Nhân tố con người trong sự phát triển lực lượng sản xuất và chiến lược đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.06 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
Hiện nay, phát triển bền vững được xác định là chiến lược ưu tiên hàng đầu của hầu
hết các quốc gia trên thế giới. Một trong những cơ sở, nền tảng quan trọng nhất để
thực hiện chiến lược phát triển đó là nhân tố con người. Lịch sử phát triển xã hội đã
chứng minh rằng, trong mọi giai đoạn, con người là yếu tố đóng vai trị quyết định sự
phát triển theo chiều hướng tiến bộ của xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
đã hoàn toàn đúng khi khẳng định rằng, sự phát triển của xã hội không phải do bất kỳ
một lực lượng siêu nhiên nào, mà chính con người đã sáng tạo nên lịch sử của mình lịch sử xã hội lồi người. Nhận thức rõ vai trò to lớn của nhân tố con người, trong công
cuộc đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì "dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
nhấn mạnh con người là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất của xã hội, là
nhân tố chính, là nguồn lực mang tính quyết định sự thành công hay thất bại trong sự
phát triển và tồn tại của một quốc gia.
1. Lý do chọn đề tài:
Trong bối cảnh Việt Nam đã và đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đó là cơ hội
và cũng là thách thức rất lớn, đòi hỏi con người phải khơng ngừng nâng cao trình độ
để đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển khoa học cơng nghệ. Vì vậy Đảng và Nhà
nước ta phải có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực một cách toàn diện cả về thể lực lẫn
trí lực phù hợp với nhu cầu để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nhanh và bền
vững.
Với ý nghĩa trên, chúng tôi xin chọn đề tài “Nhân tố con người trong sự phát
triển lực lượng sản xuất và chiến lược đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện
nay” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Hồn thành Tiểu luận này chúng tơi tơi hi vọng sẽ có có thể góp một phần nhỏ bé
của mình trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh để xây
dựng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực nhân lực tại Việt Nam và đưa ra một số giải
pháp về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong giai đoạn tới.

2



2. Mục đích nghiên cứu đề tài:
Nghiên cứu lý luận về nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất và
chiến lược đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay; chỉ ra những ưu điểm, tồn tại
của chiến lược đào tạo nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay từ đó đề xuất một số
giải pháp nhằm xây dựng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực để thực hiện thành công
“Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025 tầm nhìn đến năm 2035”.
Để đạt được mục đích nêu trên thì nhiệm vụ của đề tài:
− Nghiên cứu cơ sở lý luận về Yếu tố con người trong sự phát triển lực lượng sản
xuất và các khái niệm có liên quan.
− Xác định thực trạng việc xây dựng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực ở Việt
Nam hiện nay.
− Đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực để
thực hiện thành công “Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm
2025 tầm nhìn đến năm 2035”.
3. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài:
Nhân tố con người trong sự phát triển của lực lượng sản xuất và chiến lược đào tạo
nguồn nhân lực ở Việt Nam là một đề tài hay và cấp thiết hiện nay. Đã có rất nhiều
những luận án, bài báo, trang thơng tin nói tới vấn đề này, đi sâu phân tích đặc điểm
cơng nghiệp hố, hiện đại hố trên địa bàn vùng (hoặc tỉnh, thành); làm rõ thực trạng
nguồn nhân lực ở các địa phương/ngành lĩnh vực và trên cơ sở đó đề xuất các giải
pháp xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở các địa phương. Tuy nhiên, để kế thừa và vận dụng sáng tạo những
thành tựu của các cơng trình khoa học đã nêu trên, chúng em mong muốn đóng góp
một phần cơng sức nhỏ bé của mình, mạnh dạn có một cách nhìn khác, cách nhìn của
Thanh niên đối với chiến lược đào tạo phát triển nguồn nhân lực trong kỷ ngun
cơng nghệ và số hóa. Trên cơ sở đó, làm sáng tỏ thực trạng cơng tác đào tạo nguồn
nhân lực cơng nghiệp từ đó đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm xây dựng chiến lược
đào tạo phát triển nguồn nhân lực công nghiệp cho đất nước hiện nay

3



4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề của yếu tố con người trong lực lượng sản
xuất, lý luận nguồn nhân lực, chiến lược đào tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam nói
chung và chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cơng nghiệp nói riêng. Tập trung nghiên
cứu làm rõ thực trạng số lượng, chất lượng nguồn nhân lực, yêu cầu nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghiệp để từ đó tìm ra các phương hướng
và giải pháp cơ bản để phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực tự động hóa góp phần
thực hiện thành cơng Chiến lược phát triển cơng nghiệp trong kỷ ngun cơng nghệ
và số hóa ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài là sử dụng phương pháp nghiên
cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
6. Kết cấu đề tài: Gồm 2 chương chính

4


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
KHÁI NIỆM LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ NHÂN TỐ CON NGƯỜI
TRONG PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.
1.1. Khái niệm lực lượng sản xuất.
1.1.1. Định nghĩa và tính chất lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là tổng thể các nhân tố vật chất kỹ thuật được sử dụng
trong các quá trình sản xuất của xã hội tức là trong quá trình con người cải tạo,
cải biến giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu tồn tại và phát triển của mình.
Như vậy, xét về mặt tính chất thì khái niệm lực lượng sản xuất, nó phản
ánh một số tính chất căn bản sau:

Trước hết, nó phản ánh quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá
trình sản xuất. Con người là động vật cao cấp nhất, là tinh hoa của mn lồi, là
sản phẩm của q trình phát triển hết sức lâu dài của giới tự nhiên. Con người
phải tìm kiếm mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhiên như
thức ăn, thức uống, nhà để ở. Theo một số nhà nhân học khẳng định nhánh người
bắt đầu hình thành rõ cách đây khoảng 10 triệu năm bắt đầu từ “vượn người ”.
Khi đó vượn người đã biết sử dụng gậy gộc, đá, xương động vật làm công cụ và
bắt đàu biết chế tạo công cụ lao động thô sơ cũng như dùng lửa. Nhưng cuộc
sống của loài vượn vẫn theo quy luật sinh vật, sống hoà lẫn vào thiên nhiên, sinh
sống hồn tồn tuỳ theo bản năng vốn có trong cơ thể và những thứ sẵn có trong
tự nhiên, có thể nói là hồn tồn phụ thuộc vào tự nhiên.Theo thời gian vượn
người tiến hoá thành người khéo, người đứng thẳng, người khôn và con người
hiện đại ngày nay. Nhưng sự tiến hố ấy khơng làm thay đổi mối quan hệ mật
thiết giữa con người với tự nhiên. Ngày nay, con người vẫn đang chinh phục tự
nhiên bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau. Như vậy, ngay từ thời kỳ

5


sơ khai nhất, con người đã biết dựa vào những thứ vốn có trong tự nhiên để cải
biến nó theo nhu cầu sinh tồn và phục vụ nhu cầu sống của mình. Do đó ta thấy
rõ một sự thật tất yếu khách quan là con người không thể tồn tại nếu khơng có
mối quan hệ mật thiết, gắn kết chặt chẽ với tự nhiên.
Đồng thời nó cũng thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người cụ
thể hơn là biểu hiện mức độ, khả năng chinh phục tự nhiên của con người.
Trong thời nguyên thuỷ con người chỉ mới sử dụng những công cụ hết sức
thô sơ, hầu hết là những cơng cụ thủ cơng vào q trình lao động sản xuất. Do đó
năng suất lao động thấp kém, con người chưa tạo ra nhiều của cải dư thừa có khả
năng trao đổi với nhau phục vụ nhu cầu sống hết sức sinh động, phong phú của
mình. Điều đó phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên vẫn còn non thấp kém. Cho

đến khi chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, con người đã
dần sáng tạo ra các công cụ lao động tiến bộ hơn song về bản chất nó vẫn mang
tính thủ công. Do vậy, mặc dù sản phẩm lao động làm ra ngày một phong phú
hơn song trong quá trình lao động sản xuất vẫn còn dựa vào sức người - mặt thể
lực là chính, cần nhiều thời gian và quan trọng hơn vẫn chưa đáp ứng được nhu
cầu ngày càng đa dạng của con người. Sang chế độ tư bản chủ nghĩa, con người
đã tạo ra hàng loạt những máy móc hết sức hiện đại để phục vụ vào quá trình lao
động sản xuất, khai thác tài nguyên thiên nhiên, cải biến nó thành những vật dụng
và sản phẩm có giá trị, chất lượng cao, phong phú về hình thức, đa dạng về chủng
loại, mẫu mã. Đặc biệt cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra bắt đầu từ thế kỷ
XVII suốt cho đến ngày nay đã nhanh chóng làm biến đổi bộ mặt kinh tế xã hội
của thế giới. Theo đánh giá của C.Mác và Ph.Ăngghen: “Chỉ sau hơn hai thế kỷ
tồn tại, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một khối kượng của cải vật chất nhiều hơn tất
cả các thời đại trước gộp lại”. Như thế trình độ chinh phục tự nhiên của con
người đã bước lên một mốc son mới, đánh dấu một bước phát triển cao của tiến
bộ lồi người. Cũng chính trong giai đoạn này con người đã dần dần chiếm thế
chủ động trong quá trình lao động sản xuất.

6


Mặt khác, lực lượng sản xuất có tính khách quan trong q trình sản xuất.
Thật vậy khơng có một q trình sản xuất nào mà lại khơng cần đến sức lao động
của con người hay những yếu tố sẵn có trong tự nhiên. Nói cách khác trong q
trình sản xuất vật chất không thể không cần đến lực lượng sản xuất.
1.1.2 .Cấu trúc lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất.
Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con
người vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội.
Chính những người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất,

với sức mạnh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động trước hết
là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật
chất.
Lực lượng sản xuất bao gồm nhiều nhân tố cụ thể nhưng thường được
phân tích thành 2 nhóm nhân tố: người lao động với kỹ năng lao động của họ và
tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao
động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp
với nhau tạo thành lực lượng sản xuất.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, “Lực lượng sản xuất hàng đầu
của tồn thể nhân loại là cơng nhân, là con người lao động” (V.I. Lênin: Toàn
tập, nxb.Tiến bộ, Matxcova, 1977, trang 38, trang 430). Chính con người lao
động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao
động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác
động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình
lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con người ngày càng
được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người khơng ngừng phát triển, hàm
lượng trí tụê của lao động ngày càng cao. Ngày nay với cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ, lao động trí tụê ngày càng đóng vai trị chính yếu.

7


Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là 1 yếu tố cơ bản của
lực lượng sản xuất đóng vai trị quyết định trong lực lượng sản xuất. Công cụ
lao động do con người sáng tạo ra, là “Sức mạnh của tri thức đã được vật thể
hố”, nó “nhân” sức mạnh của con người trong quá trình lao động sản xuất.
Công cụ lao động là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất. Cùng với q
trình tích lũy kinh nghiệm, với những phát minh và sáng chế kỹ thuật, công cụ
lao động không ngừng được cải tiến và hồn thiện. Chính sự cải tiến và hồn
thiện khơng ngừng, cơng cụ lao động đã làm biến đổi tồn bộ tư liệu sản xuất,

xét đến cùng đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội.
Trước kinh tế tri thức, sự phát triển của lực lượng sản xuất biểu hiện ở hai mặt :
• Trí lực đóng vai trò chủ đạo, tức là sẽ xuất hiện một tầng lớp lao động trí óc
đơng đảo hợp thành chủ thể trong đội ngũ những người lao động.
• Những nhân tố mới thúc đẩy lực lượng sản xuất sẽ được phát triển rộng
khắp.
Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Con
người không thể sản xuất vật chất mà không cần đến những yếu tố sẵn có trong
tự nhiên như đất, nước, khống sản, khơng khí, … Đó chính là những đối tượng
lao động. Đặc trưng nổi bật của công cụ sản xuất và đối tượng lao động biểu
hiện chủ yếu ở sự gia tăng hàm lượng khoa học và công nghệ, cuối cùng là hàm
lượng tri thức được kết tinh trong sản phẩm ngày càng nhiều.
Còn tư liệu lao động là những phương tiện, công cụ lao động mà con
người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động, sản xuất ra của cải vật chất.
Thông qua các công cụ của họ đã chứng tỏ họ có hoạt động lao động và đây
cũng chính là ranh giới tách người ra khỏi giới sinh vật nói chung, thế giới động
vật nói riêng.

8


1.1.3. Tính chất đặc biệt của lực lượng sản xuất hiện đại.
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trị ngày
càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất là động lực mạnh
mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở
thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời
sống và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Những phát minh khoa học trở thành thang điểm xuất phát ra đời những
ngành sản xuất mới, những máy móc thiết bị mới, cơng nghệ mới ngun vật
liệu mới, năng lượng mới. Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học vào sản

xuất, cụ thể là vào người lao động và tư liệu sản xuất, trở thành một yếu tố
không thể thiếu được trong sản xuất đã làm cho lực lượng sản xuất có bước
phát triển nhảy vọt, tạo thành cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại khơng
cịn là kinh nghiệm và thói quen của họ mà là tri thức khoa học. Như vậy, dù
không phải là yếu tố thứ ba của lực lượng sản xuất nhưng có thể nói khoa học
và cơng nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
1.2. Vai trò của con người trong lực lượng sản xuất
1.2.1. Khái niệm con người.
Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ thời
cổ đại đến hiện đại. Trong đó quan niệm của triết học Mác-Lênin về con người
và bản chất con người, xuất phát từ giác độ khái quát nhất, đứng trên lập trường
duy vật biên chứng, làm cơ sở phương pháp luận cho việc giải quyết những vấn
đề khác của con người, có thể nói là đúng đắn nhất cho tới ngày nay.
Trước hết con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với
mặt xã hội.

9


Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là sản phẩm
của thế giới tự nhiên. Con người là một bộ phận của tự nhiên. Con người khơng
thể tồn tại mà thốt ly khỏi q trình tất yếu đó là sinh ra, phát triển rồi chết đi.
Trải qua hàng chục vạn năm, con người đã thay đổi từ vượn thành người điều
đó được chứng minh trong các cơng trình nghiên cứu của Đác-uyn. Những
thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình tâm sinh lý, các giai đoạn phát
triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân con người.
Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất
con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật
là mặt xã hội. Thông qua hoạt động lao động sản xuất con người sản xuất ra của

cải vật chất và tinh thần phục vụ đời sống của mình hình thành và phát triển
ngôn ngữ và tư duy, xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết
định hình thành bản chất xã hội của con người đồng thời hình thành nhân cách
cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát
triển của con người ln bị quyết định bởi các hệ thống quy luật khác nhau
nhưng thống nhất với nhau. Chúng cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn
chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối
quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành các nhu cầu về sinh học và
nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở, nhu cầu tái
sản xuất xã hội, nhu cầu tình cảm, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu hưởng thụ các giá
trị tinh thần.
Như vậy ta thấy rõ mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người
còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất nhất để phân biệt con người với loài vật.
Hai mặt trên thống nhất với nhau để tạo nên con người tự nhiên - xã hội hay
một thực thể song trùng.
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người Mác đã nêu trong luận đề
nổi tiếng Luận cương về Phoiơbăc: “Bản chất con người không phải là một cái

10


trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất
con người là tổng hoà các quan hệ xã hội”.
Trong đời sống con người, xét trên ba phương diện khác nhau: quan hệ
giữa con người với tự nhiên, với xã hội và chính bản thân con người, suy đến
cùng đều mang tính xã hội. Nhưng có thể nói quan hệ giữa con người với con
người là quan hệ bản chất nhất bao trùm lên các mối quan hệ khác. Thực tế lịch
sử đã chứng minh khơng có một cá nhân nào có thể tự đáp ứng đầy đủ nhu cầu
của bản thân cũng như không thể lao động một cách độc lập tuyệt đối để sản

xuất vật chất mà phải liên kết lại với nhau, phân công lao động và trao đổi sản
phẩm cho nhau. Từ đó hình thành các quan hệ xã hội, điều chỉnh và chi phối
hoạt động, hành vi của con người. Chỉ trong tồn bộ các mối quan hệ đó, con
người mới bộc lộ tồn bộ bản chất của mình. Trong điều kiện lịch sử cụ thể
nhất định, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người sản xuất ra của cải vật
chất đồng thời hồn thiện bản thân mình.
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Khơng có giới tự nhiên,
khơng có lịch sử xã hội thì khơng tồn tại con người. Bởi vậy con người là sản
phẩm của lịch sử. Song điều quan trọng là con người luôn luôn là chủ thể của
lịch sử - xã hội.
Con người sáng tạo ra lịch sử, nhưng khơng bao giờ sáng tạo ra lịch sử
trong những hồn cảnh và điều kiện được lựa chọn, mà trong hoàn cảnh và điều
kiện sẵn có do quá khứ để lại. Do đó ta phải ln chú ý tới mối quan hệ hai
chiều giữa hiện tại và quá khứ, đặc biệt là môi trường sống của con người.
Thông qua môi trường sống con người có sự tác động qua lại lẫn nhau thực hiện
các quan hệ xã hội tạo nên bản chất người, làm cho con người khác với con vật.
1.2.2. Con người là nhân tố trung tâm có tính quyết định lực lượng sản xuất.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, “lực lượng sản xuất hàng đầu
của toàn thể nhân loại là công nhân là người lao động”. Con người là nhân vật
chính của lịch sử, vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển xã hội. nhân tố

11


con người vừa là phương tiện sáng tạo ra mọi giá trị của cải vật chất và tinh
thần, sáng tạo và hồn thiện ngay chính bản thân mình đồng thời vừa là chủ
nhân sử dụng có hiệu quả mọi tài sản vơ giá ấy. Trên phương diện đó vai trị
nhân tố con người lao động trong lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất sáng
tạo nhất của quá trình sản xuất. Nhân tố trung tâm của con người chính là sức
lao động bao gồm thể lực và trí lực. Khơng có người lao động nào trong q

trình sản xuất vật chất lại không cần đến lao đông thể lực hay lao động cơ bắp.
Chính những người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức
mạnh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động trước hết là công
cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất.
Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con
người khơng ngừng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người ngày càng
phát triển. Trong quá trình đó khơng những con người sử dụng trí tuệ nội tại của
mình mà cịn được kế thừa những kinh nghiệm qua học hỏi lẫn nhau giữa
những người lao động cho nên có thể nói kinh nghiệm cũng là một lực lượng
sản xuất. Kinh nghiệm được tích luỹ dần trở thành kỹ năng và cao hơn nữa nó
có thể trở thành tri thức khoa học, kỹ thuật, cơng nghệ.
Vai trị con người trong thời đại mới là cần hiểu sâu sắc những giá trị lớn
lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi
nguồn của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc gia….Con
người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần,
trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng
thời là mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội.
Hơn nữa, các nhân tố khác đều là sản phẩm của người lao động. Chỉ có
nhân tố con người mới có thể làm thay đổi được công cụ sản xuất làm cho sản
xuất ngày càng phát triển với năng suất và chất lượng cao, thay đổi quan hệ sản
xuất và các quan hệ xã hội khác. Công cụ lao động thô sơ hay hiện đại, xấu hay
tốt, phụ thuộc trực tiếp vào nhân tố con người. Giới tự nhiên nói chung và đối
tượng lao động nói riêng, chỉ là những vật vơ tri vơ giác mà thơi. Nó chỉ có ý
nghĩa khi trở thành sản phẩm phục vụ nhu cầu của con người. Muốn vậy tất yếu

12


người lao động phải tác động vào tư liệu sản xuất để sản sinh ra nó. Như thế
q trình sản xuất vật chất khơng thể thốt ly khỏi lao động của con người.

Trong thời đại mới, nhân tố con người có tri thức ngày càng đóng vai trị quyết
định hơn trong lực lượng sản xuất. Có thể khẳng định rằng nhân tố con người
đóng vai trị quyết định q trình lao động sản xuất ra của cải vật chất.

13


CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC VÀ GIẢI PHÁP ĐÀO
TẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam:
2.1.1. Về số lượng:
Việt nam là quốc gia có dân số đơng với khoảng 96,5 triệu người (Niêm
giám thống kê năm 2019). Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ở nước ta năm
2019 là khoảng 55,8 triệu người (Niên giám thống kê 2019). Lợi thế của nguồn
nhân lực ở Việt Nam là đội ngũ lao động trẻ, có khả năng sáng tạo trong lao
động làm ra của cải vật chất. Điều này phản ánh nguồn nhân lực của Việt Nam
phát triển dồi dào và đang ở giai đoạn dân số vàng.
2.1.2. Về chất lượng:
Chất lượng chung của nguồn nhân lực vẫn ở mức thấp so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới: Chất lượng và chỉ số cạnh tranh nguồn nhân lực
chỉ đạt lần lượt là 3,79/10 điểm (xếp thứ 11/12 nước Châu Á theo bảng xếp
hạng của Ngân hàng Thế giới (WB)); tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo nghề
chiếm gần 85% (thành thị 70%, nông thôn 91%); đa số doanh nghiệp sử dụng
lao động chưa hài lòng về chất lượng lao động, nhất là kỹ năng làm việc của
người lao động.
Cơ cấu phân bố lao động theo ngành nghề mất cân đối: Tỷ lệ lao động làm
việc cho các ngành cần tăng tốc phát triển giai đoạn 2011 – 2020 phục vụ cơng
cuộc cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước như: Cơng nghệ thơng tin, công
nghiệp phụ trợ, y tế, giáo dục – đào tạo…chỉ chiếm xấp xỉ 1% mỗi ngành, trong
khi có tới 47,4% lao động làm việc trong khu nông – lâm – ngư nghiệp hoặc lao

động giản đơn.
Cơ cấu đào tạp nguồn nhân lực không hợp lý: Tỷ lệ đào tạo đại học, cao
đẳng so với trung cấp, công nhân kỹ thuật nghề là 7/3 dẫn tới thực trạng “thừa
thầy, thiếu thợ”. Sinh viên ra trường khó tìm được việc làm phù hợp, thiếu kỹ

14


năng hịa nhập, làm việc nhóm, giao tiếp với nước ngồi, ứng dụng cơng nghệ
thơng tin….
Việt Nam xuất khẩu lao động phổ thơng giản đơn, nhập khẩu lao động có
trình độ, tay nghề cao: Hiện có khoảng 400 nghìn lao động Việt Nam đang làm
việc tại nước ngoài trong hơn 30 nhóm nghề khác nhau, nhưng đa số là lao
động giản đơn, trong khi phải nhập khẩu nguồn lao động có trình độ từ nước
ngồi để làm các cơng việc mà lao động Việt Nam không thể đảm nhận.
(Số liệu lấy từ Trang Thông tin Điện tử Tổng cục Thống kê)
2.2.

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trên:
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trên là do:
-

Công tác giáo dục – đào tạo của Việt nam chưa theo kịp nhu cầu phát triển
nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế; việc thực hiện nhiều mục tiêu đề ra trong “Chiến lược phát
triển nhân lực thời kỳ 2011-2020” còn chậm, chưa theo kịp thực tiễn phát
triển kinh tế – xã hội đất nước; hệ thống giáo dục – đào tạo chưa có cải cách
đáng kể, thiếu liên kết hữu cơ với nhu cầu thị trường, dẫn đến cơ cấu lao
động phân bố theo ngành nghề chưa hợp lý;


-

Chất lượng giáo dục – đào tạo nhìn chung cịn hạn chế, nội dung chưa gắn
nhiều với thực tiễn sản xuất, nhu cầu của doanh nghiệp sử dụng lao động,
xem nhẹ các kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng lao động tự chủ, sáng tạo; đội
ngũ làm công tác giáo dục – đào tạo còn thiếu về số lượng (trên 50% tổng số
trường chưa đảm bảo tỷ lệ giảng viên/sinh viên theo quy định), chưa đảm
bảo chất lượng (chỉ có 14% giảng viên có trình độ từ tiến sỹ trở lên, 35% có
trình độ thạc sỹ);

- Chính sách thu hút, quản lý, sử dụng, đãi ngộ nhân tài chưa hoàn thiện,
thiếu sức cạnh tranh: Mặc dù các Bộ, ngành, địa phương đã và đang tích
cực thực hiện nhiều biện pháp thu hút, quản lý, sử dụng, đãi ngộ nhân tài
nhưng môi trường, điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ, thu nhập… chưa thực

15


sự hấp dẫn, kết quả thu hút nguồn nhân lực có kỹ năng trình độ cáo cịn hạn
chế.
2.3. Phương hướng cơ bản để nâng cao hiệu quả đào tạo nhằm phát huy nhân tố
con người trong lực lượng sản xuất:
2.3.1. Nâng cao vai trò quản lý nhà nước đối với sự phát triển giáo dục đào tạo:
Trong điều kiện hiện nay, nhu cầu đào tạo của con người ngày càng cao,
nhưng nhu cầu này vẫn chưa được định hướng rõ ràng từ nhu cầu xã hội. Trong khi
đó khuynh hướng sử dụng nhân lực ở các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh
thường theo qui định của từng lĩnh vực cụ thể, từng công nghệ sản xuất, kinh
doanh, được lượng hóa theo u cầu. Chính vì vậy nếu khơng có sự quản lý của
nhà nước về chiến lược và kế hoạch phát triển, sử dụng việc làm cho người lao
động thì sự mất cân đối giữa đào tạo và việc làm của con người trong xã hội là điều

khó tránh khỏi. Do đó, phát triển nguồn nhân lực, giáo dục – đào tạo và việc làm là
ba nhân tố cần được nhà nước quản lý tốt để việc đào tạo nhân lực có hiệu quả. Đối
với nước ta, vấn đề việc làm không chỉ giải quyết ở khu vực kinh tế phát triển, sử
dụng lao động có kỹ thuật cao mà cịn những khu vực có kinh tế chậm phát triển,
khu vực có nhiều tiềm năng tạo ra việc làm.
2.3.2. Đào tạo con người phải gắn với xu hướng học tập suốt đời:
Trong thời đại công nghiệp, khoa học sẽ ngày càng phát triển cao và xã hội
sẽ có sự cải biến lớn, con người cần được bồi dưỡng năng lực thích ứng với những
biến đổi đó, cần có ý thức về tương lai, cần có năng lực tư duy. Năng lực này có
được là tùy thuộc vào tính liên tục và kịp thời của đào tạo nhằm đáp ứng được nhu
cầu ngày càng cao của công nghệ.
2.4.

Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực Việt Nam:
Từ thực tiễn trong nước và kinh nghiệm của thế giới có thể thấy rằng, việc xây

dựng và phát triển nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta có ý
nghĩa hết sức quan trọng và cũng là yêu cầu bức thiết hiện nay. Chiến lược phát triển

16


kinh tế-xã hội 2011 - 2020 cũng nêu rõ cần tập trung tạo đột phá “phát triển nhanh
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn
bản nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển
và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Để xây dựng đội ngũ nhân lực có chất lượng cao
và thực hiện thành công “Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025
tầm nhìn đến năm 2035”, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp:
Thứ nhất, xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực gắn với chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế

quốc tế. Ngày 19/4/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 579/QĐTTg Phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020 trong đó
nêu rõ mỗi bộ, ngành và địa phương phải xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực đồng
bộ với chiến lược, kế hoạch phát triển chung của mình. Vấn đề hiện nay là cần hiện
thực hóa Chiến lược bằng các biện pháp, hành động cụ thể. Kinh nghiệm của nhiều
nước cho thấy rõ, coi trọng và quyết tâm thực thi chính sách giáo dục - đào tạo phù
hợp là nhân tố quyết định tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển
nhanh và bền vững.
Thứ hai, song song với việc phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, phát
triển nguồn nhân lực cần đi đôi với xây dựng và hoàn thiện hệ thống giá trị của con
người trong thời đại hiện nay như trách nhiệm công dân, tinh thần học tập, trau dồi tri
thức; có ý thức và năng lực làm chủ bản thân, làm chủ xã hội; sống có nghĩa tình, có
văn hóa, có lý tưởng. Đây cũng là những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam, rất cần được tiếp tục phát huy trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhất là đối với
thế hệ trẻ.
Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực phải gắn với nâng cao chất lượng chăm sóc
sức khỏe người dân, chính sách lương - thưởng, bảo đảm an sinh xã hội. Đại hội XI đã
đề cập tới việc cụ thể hóa những hoạt động của lĩnh vực này nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả chăm sóc sức khỏe nhân dân, đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức trong bối cảnh hội nhập,
cạnh tranh gay gắt và yêu cầu cường độ lao động cao.

17


Thứ tư, cải thiện và tăng cường thông tin về các nguồn nhân lực theo hướng
rộng rãi và dân chủ, làm cho mọi người thấy được tầm quan trọng của vấn đề phát
triển nguồn nhân lực ở nước ta và trên thế giới. Cụ thể ví dụ điển hình đó là các
chương trình hướng nghiệp cho học sinh, sinh viên các cấp diễn ra gần đây.
Thứ năm, xây dựng đội ngũ giáo viên – nhân tố quan trọng để nâng cao chất
lượng đào tạo người lao động: Chú trọng xây dựng đội ngũ giáo viên có trình độ và

chất lượng cao phù hợp với các lĩnh vực trong xã hội. Thiết lập mối quan hệ với các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo;
chú trọng hơn nữa việc đào tạo ở nước ngoài kết hợp với việc mời chuyên gia nước
ngoài đến giảng dạy ở Việt Nam nhằm giúp cho người học nhanh chóng tiếp cận với
những tri thức, cơng nghệ và kỹ năng mới. Điều quan trọng hơn hết là Nhà nước phải
có chính sách sử dụng và đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ giảng dạy một cách thỏa
đáng.
Thứ sáu, xây dựng hệ thống các cơ chế quản lý và phát huy sức mạnh trí tuệ của
người lao động, nâng cao tính chủ động của các cơ sở, địa phương, đơn vị trong việc
đào tạo nguồn nhân lực: xây dựng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cần phải gắn kết
giữa 3 mặt: đào tạo – sử dụng – việc làm. Phải xây dựng hệ thống các chính sách nhằm
phát huy cao nhất thế mạnh của con người Việt Nam.

18


KẾT LUẬN
Ngày nay, cùng với sự phát triển của lịch sử, vai trò ngày càng tăng của nhân tố
con người là một xu thế tất yếu. Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất không chỉ
là một bộ phận cấu thành mà còn là nhân tố giữ vai trò trung tâm trong lực lượng sản
xuất. Chính hoạt động của nhân tố con người tạo ra phương thức kết hợp tốt nhất giữa
các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất, qua đó, nó giữ vai trị quyết định đối với
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhờ nó mà cơng cụ lao động và phương tiện sản
xuất ngày càng được đổi mới, sản xuất phát triển với năng suất và chất lượng cao, đời
sống tinh thân và bộ mặt xã hội ngày càng tiến bộ.
Ngày nay, phát triển nguồn nhân lực có tính quyết định nhất đến sự phát triển kinh
tế xã hội, không như trước đây là chỉ nguồn tài nguyên thiên nhiên, của cai vật chất,
tiền bạc, mà chính là nguồn lực từ nhân tố con người. Phát triển đào tạo nguồn nhân
lực được hiểu về cơ bản là gia tăng giá trị cho con người trên các phương diện về đạo
đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn và thể lực,...làm cho con người trở thành những người

lao động có những năng lực và phẩm chất chất lượng cao hơn. Có như thế mới thể hiện
được quan điểm con người vừa là động lực vừa là mục đích của mọi q trình phát
triển.
Chúng tơi hy vọng rằng với chiến lược đào tạo đúng đắn và khoa học của Đảng,
với trí tuệ và phẩm chất của con người Viêt nam, chúng ta sẽ đưa đất nước Việt Nam
sánh vai được với các cường quốc năm châu.

19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. V.I. Lênin: Toàn tập, NXB.Tiến bộ, Matxcova, 1977, trang 38, trang 430
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình triết học Mác – Leenin (Sử dụng trong các
trường Đại học – Hệ không chuyên Lý luận chính trị) (Tài liệu dùng tập huấn giảng
dạy năm 2019), Hà Nội 8 – 2019
3. Tổng cục thống kê, Niêm giám thống kê 2019 (Tóm tắt), NXB. Thống kê, 7 – 2020
4. Trang Thông tin Điện tử Tổng cục thống kê, Bộ Kế hoạch đầu tư
5. Trang báo Điện tử VnExpress, Bộ Khoa học và Công nghệ
6. Trang báo Điện tử Vietnamnet, Bộ Thông tin và Truyền thông

20


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................................................ 2
NỘI DUNG..................................................................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1:................................................................................................................................................... 5
KHÁI NIỆM LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.......5
2.1. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM:


14

2.1.1. Về số lượng:.......................................................................................................................................14
2.1.2. Về chất lượng:....................................................................................................................................14
2.2. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ TRÊN:
15
2.3. PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐÀO TẠO NHẰM PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT:

16

2.3.1. Nâng cao vai trò quản lý nhà nước đối với sự phát triển giáo dục đào tạo:.....................................16
2.3.2. Đào tạo con người phải gắn với xu hướng học tập suốt đời:............................................................16
2.4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM:
16
KẾT LUẬN..................................................................................................................................................... 19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................................ 20

21



×