CHẾ ĐỘ KINH TẾ CƠ BẢN VẦ CẢI CÁCH KINH
TẾ QUỐC HỮU
I- Chế độ kinh tế cơ bản lấy chế độ công hữu làm chủ thể, kinh tế nhiều loại sở hữu
cùng phát triển
1. Một số vấn đề chung
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất nhất định phải thích
ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đó là quy luật chung của phát triển xã
hội loài người, cũng là căn cứ lý luận căn bản để xác định chế độ kinh tế cơ bản xã hội
chủ nghĩa. Chế độ xã hội chủ nghĩa Trung Quốc được xây dựng trên cơ sở xã hội nửa
thuộc địa, nửa phong kiến, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cơ sở trình độ lực lượng sản
xuất hết sức thấp kém và kinh tế thị trường cực kỳ kém phát triển, chỉ có thể là giai đoạn
đầu của chủ nghĩa xã hội. Chế độ kinh tế cơ bản thực hiện trong giai đoạn đầu của chủ
nghĩa xã hội chỉ có thể là lấy chế độ công hữu làm chủ thể, kinh tế nhiều loại sở hữu cùng
phát triển.
Lấy chế độ công hữu làm chủ thể, không phải là lấy kinh tế quốc hữu làm chủ thể. Từ khi
cải cách mở cửa đến nay, kết cấu chế độ sở hữu của Trung Quốc đã có thay đổi quan
trọng, chế độ công hữu xuất hiện nhiều hình thức đa dạng, nó vừa bao gồm kinh tế quốc
hữu và kinh tế tập thể, cũng bao gồm cả thành phần quốc hữu và thành phần tập thể trong
kinh tế hỗn hợp.
Lấy chế độ công hữu làm chủ thể, là nói chung cả nền kinh tế quốc dân, và cũng không
yêu cầu mỗi ngành, mỗi khu vực, mỗi doanh nghiệp đều phải lấy chế độ công hữu làm
chủ thể. Trong giai đoạn hiện nay của Trung Quốc cũng như trong một thời kỳ tương đối
dài sau này, do trình độ phát triển lực lượng sản xuất giữa các ngành, các khu vực, các
doanh nghiệp có một khoảng cách rất lớn, trong lĩnh vực kinh tế khác nhau, khu vực khác
nhau và doanh nghiệp khác nhau, tỷ trọng của các loại hình kinh tế có chế độ sở hữu khác
nhau cũng có sự khác biệt nhau.
Lấy chế độ công hữu làm chủ thể, chủ yếu thể hiện ở chỗ tài sản công hữu chiếm ưu thế
trong toàn bộ tài sản xã hội. Nó đòi hỏi tài sản công hữu phải có một lượng nhất định,
nhưng nặng về chất.
Lấy chế độ công hữu làm chủ thể được thực hiện trong cạnh tranh thị trường. Kinh tế thị
trường đòi hỏi cạnh tranh công bằng, bất luận kinh tế công hữu hay kinh tế phi công hữu
đều không được hưởng bất cứ một đặc quyền nào. Trong cạnh tranh thị trường, kinh tế
công hữu và kinh tế phi công hữu đều như nhau, đều đứng trước hai lựa chọn số phận:
Hoặc là thích ứng với cạnh tranh thị trường, không ngừng phát triển lớn mạnh trong cạnh
tranh bằng thế mạnh của bản thân; hoặc là không thích ứng với cạnh tranh thị trường, dần
dần bị cạnh tranh thị trường đào thải.
Lấy chế độ công hữu làm chủ thể, mấu chốt là khả năng kiểm soát kinh tế quốc hữu đối
với kinh tế quốc dân, khả năng kiểm soát này là cơ sở và đảm bảo cho địa vị chủ thể của
nền kinh tế công hữu. Xét về hiện trạng và xu thế phát triển của nền kinh tế Trung Quốc,
làm thế nào để phát huy tốt hơn khả năng kiểm soát của kinh tế quốc hữu, là một nhiệm
vụ khó khăn cần giải quyết.
2. Khuyến khích, ủng hộ và hướng dẫn kinh tế phi công hữu phát triển
Nhìn nhận kinh tế phi công hữu và sự phát triển của nó đúng đắn hay không, trực tiếp
liên quan đến sự phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa Trung Quốc, liên quan đến
sự điều chỉnh và cải cách kinh tế công hữu, liên quan đến sự phát triển và hoàn thiện chế
độ kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội.
Một là, kinh tế phi công hữu và kinh tế thị trường có mối liên hệ tự nhiên. Nó có quan hệ
quyền sở hữu tài sản rõ rệt, quyết sách kinh doanh tự chủ và cơ chế vận hành linh hoạt,
những đặc điểm đó thống nhất với yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường. Sự tồn tại và
phát triển của nó không những có lợi cho việc xúc tiến phân phối và tận dụng tối ưu tài
nguyên, mà còn giúp cho việc hình thành trật tự giao dịch thị trường và hệ thống cạnh
tranh thị trường.
Hai là, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là kinh tế phi công hữu, đóng vai trò ngày
càng quan trọng trên vũ đài cạnh tranh quốc tế. Trong bối cảnh lớn kinh tế toàn cầu hoá,
sự lưu động nhanh chóng về thông tin, vốn và kỹ thuật trong phạm vi thế giới, sự hoà
nhập lẫn nhau về vốn của các nước, sự phân phối tối ưu và cùng hưởng về tài nguyên
trong phạm vi toàn cầu, đều là xu thế lớn không gì ngăn cản nổi trong phát triển kinh tế
của các nước. Sự hội nhập giữa vốn và kỹ thuật nước ngoài với vốn và kỹ thuật trong
nước là một điều kiện tất yếu để kinh tế thị trường hội nhập với thị trường lớn của kinh tế
thế giới và thực hiện tăng tốc phát triển.
Ba là, trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa lấy chế độ công hữu làm chủ thể,
kinh tế phi công hữu là dựa vào kinh tế công hữu. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân và kinh tế
có đầu tư nước ngoài tự nó có tính tự phát và tính vụ lợi mạnh mẽ, vì thế phải tăng cường
sự hướng dẫn và quản lý đối với sự phát triển của nó. Sự tồn tại và phát triển của nó có
lợi cho sự trao đổi đầy đủ và cạnh tranh bình đẳng của thị trường, có lợi cho nội bộ nền
kinh tế công hữu nảy sinh cơ chế khích lệ và sức sống, có lợi cho tăng cường thực lực
chỉnh thể của nền kinh tế quốc dân, có lợi cho nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
phồn vinh và phát triển.
Bốn là, kinh tế phi công hữu có sức sống lâu dài. Trước hết, kinh tế phi công hữu và kinh
tế thị trường có sức dung hợp nhau mạnh mẽ. Nó không những sinh trưởng trong môi
trường kinh tế thị trường, mà còn là một điều kiện chế độ quan trọng trong sự tồn tại và
phát triển của kinh tế thị trường. Xét về khía cạnh nào đó, không có chế độ công hữu thì
không có chủ nghĩa xã hội, không có chế độ phi công hữu thì cũng khó mà xây dựng
thành công kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Mặt khác khi đã hội nhập hệ thống kinh tế
thế giới, kinh tế công hữu và kinh tế phi công hữu không những song song tồn tại giữa
các doanh nghiệp, mà còn hoà nhập bên trong doanh nghiệp, vả lại sự hoà nhập này ngày
càng mang tính chất quốc tế.
3. Quan hệ giữa kinh tế công hữu và phi công hữu
Các loại kinh tế có chế độ sở hữu khác nhau hoàn toàn có thể phát huy ưu thế của mình,
thúc đẩy lẫn nhau, cùng phát triển trong cạnh tranh thị trường. Trong kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa, một mặt, kinh tế công hữu và kinh tế phi công hữu đều có lý do tồn tại và
phát triển, đều có thể phát huy ưu thế của bản thân trong các lĩnh vực khác nhau, chúng
hoàn toàn có thể và cùng nhau phát triển trong khi song song tồn tại lâu dài; mặt khác,
kinh tế công hữu và kinh tế phi công hữu thông qua hình thức nào đó kết hợp bên trong
doanh nghiệp, hình thành hình thức tổ chức tài sản doanh nghiệp mang tính chất sở hữu
hỗn hợp. Kinh tế thị trường về bản chất là kinh tế mở, sự mở cửa này vừa thể hiện ở chỗ
các chủ thể kinh tế khác nhau song song tồn tại và cùng nhau phát triển, vừa thể hiện ở
chỗ giữa các chủ thể kinh tế khác nhau đã thực hiện sự dung hợp quyền sở hữu bên trong
doanh nghiệp trong khi mở cửa với nhau, hình thành chế độ doanh nghiệp hiện đại với
quyền sở hữu tài sản đa nguyên hoá.
Với điều kiện lấy chế độ công hữu làm chủ thể, trong một thời kỳ tương đối dài sau này,
kinh tế phi công hữu sẽ xuất hiện xu thế phát triển nhanh chóng. Đi đôi với sự phát triển
nhanh chóng của kinh tế phi công hữu, tỷ trọng kinh tế công hữu sẽ phần nào giảm
xuống, nhưng về lượng tuyệt đối sẽ tăng mạnh, tố chất và sức cạnh tranh tổng thể cũng
tăng mạnh. Kinh tế công hữu và kinh tế phi công hữu sẽ hình thành một cục diện mới liên
hệ với nhau, thúc đẩy lẫn nhau, dung hợp với nhau, cùng phát triển.
II- Tiếp tục điều chỉnh tổ chức và cơ cấu của kinh tế quốc hữu, cải cách thể chế
quản lý tài sản quốc hữu
1. Tăng cường khả năng kiểm soát của kinh tế quốc hữu đối với nền kinh tế quốc dân,
điều chỉnh về chiến lược tổ chức và cơ cấu của kinh tế quốc hữu
Nói chung, chế độ quyền sở hữu tài sản của kinh tế quốc hữu làm cho sự ràng buộc về
quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp quốc hữu không mạnh bằng kinh tế phi quốc hữu,
chính quyền và doanh nghiệp cũng khó tách rời triệt để, trình độ kinh doanh tự chủ và tự
chịu lỗ lãi không cao, do đó thiếu tính dung hợp thị trường như kinh tế phi quốc hữu.
Nhưng kinh tế quốc hữu cũng có những chức năng độc đáo riêng mà kinh tế phi quốc hữu
khó có thể thay thế được, chủ yếu là chức năng công ích thoả mãn nhu cầu công cộng của
dân cư, chức năng dễ quán triệt chính sách công cộng của Nhà nước, chức năng bảo vệ an
ninh quốc gia và chức năng bảo đảm kinh tế quốc dân phát triển nhịp nhàng v.v.. Vì vậy:
1) Trong những ngành nghề quan hệ đến an ninh quốc gia như in tiền, công nghiệp quân
sự quan trọng, lĩnh vực then chốt liên quan đến an ninh quốc phòng và hệ thống dự trữ
chiến lược quốc gia v.v.. 2) Những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng với quy mô lớn có hiệu
quả xã hội tương đối lớn, mà trước mắt vốn phi quốc hữu chưa đủ sức hoặc không muốn
đầu tư vào, bao gồm công trình xử lý sông ngòi lớn, công trình trồng rừng phòng hộ trọng
điểm, công trình công ích trọng điểm và công trình xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị v.v.. 3)
Dự án khai thác tài nguyên không thể tái sinh với quy mô lớn, như dự án khai thác dầu
lửa và mỏ than với quy mô lớn v.v.. 4) Khai thác công nghệ cao có ý nghĩa chiến lược đối
với sự phát triển lâu dài của Nhà nước, như công trình nghiên cứu sản xuất vi mạch siêu
lớn v.v. những ngành nghề và lĩnh vực này đều đòi hỏi kinh tế quốc hữu không ngừng
phát triển lớn mạnh.
Đương nhiên, những lĩnh vực kể trên mới chỉ là “yêu cầu tối thiểu” đòi hỏi kinh tế quốc
hữu phải tiếp tục phát huy vai trò quan trọng và ưu tiên làm trong giai đoạn hiện nay, chứ
không phải là nói tài sản quốc hữu chỉ có thể phân phối cho những lĩnh vực đó. Đồng
thời, thứ tự ưu tiên đối với ngành nghề chiến lược là có thể thay đổi. Cùng với sự biến
động của giai đoạn phát triển kinh tế đất nước và môi trường kinh tế, trọng điểm về
ngành nghề chiến lược và phạm vi kinh tế quốc hữu cũng biến đổi theo.
2. Cải cách thể chế quản lý tài sản quốc hữu
Thể chế quản lý tài sản quốc hữu trực tiếp quan hệ đến hiệu quả vận hành tổng thể của
kinh tế quốc dân. Uỷ ban quản lý tài sản quốc hữu Trung Quốc được thành lập đã đánh
dấu cải cách thể chế quản lý tài sản quốc hữu Trung Quốc bước vào một giai đoạn mới:
Một là, dưới tiền đề kiên trì chế độ sở hữu nhà nước, xây dựng chế độ chính quyền Trung
ương và chính quyền địa phương lần lượt đứng ra thay mặt Nhà nước thi hành chức trách
của người bỏ vốn, được hưởng quyền lợi của người sở hữu; quyền lợi, nghĩa vụ và trách
nhiệm thống nhất với nhau; thực hiện được quản lý tài sản kết hợp với quản lý người và
quản lý việc. Hai là, những doanh nghiệp quốc hữu lớn, cơ sở hạ tầng và tài nguyên thiên
nhiên quan trọng liên quan đến vận mệnh kinh tế quốc dân và an ninh quốc gia thì do
chính quyền Trung ương thay mặt Nhà nước thi hành chức trách của người bỏ vốn. Các
tài sản quốc hữu khác thì do chính quyền địa phương thi hành chức trách của người bỏ
vốn. Những tài sản quốc hữu không có tính chất kinh doanh cũng thực hiện theo nguyên
tắc này. Ba là, chính quyền Trung ương cũng như hai cấp chính quyền địa phương tỉnh và
thành phố thông qua thành lập Uỷ ban quản lý tài sản quốc hữu, tiếp tục tìm tòi thể chế
và phương thức kinh doanh tài sản quốc hữu có hiệu quả. Bốn là, xử lý mọi việc theo
pháp luật, Nhà nước vừa phải chế định pháp luật pháp quy để vận hành, vừa phải yêu cầu
chính quyền các cấp nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật pháp quy về tài sản quốc hữu của
Nhà nước, kiên trì tách rời giữa chính quyền và doanh nghiệp, thực hiện tách rời giữa
quyền sở hữu và quyền kinh doanh, làm cho doanh nghiệp tự chủ kinh doanh, tự chịu lỗ
lãi, bảo đảm cho tài sản quốc hữu được bảo tồn và gia tăng giá trị.