Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Luận văn Thạc sĩ ngành Hồ Chí Minh học: Thực hành dân chủ trong giáo dục ở nhà trường đại học Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (796.2 KB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGÔ THỊ HUYỀN TRANG

THỰC HÀNH DÂN CHỦ TRONG GIÁO DỤC
Ở NHÀ TRƯỜNG ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH HỒ CHÍ MINH HỌC

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGÔ THỊ HUYỀN TRANG

THỰC HÀNH DÂN CHỦ TRONG GIÁO DỤC
Ở NHÀ TRƯỜNG ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số: 60.31.02.04
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS NGUYỄN THẾ THẮNG


Hà Nội - 2015


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài. ........................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài. .......................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn ......................................... 5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của Luận văn ......................... 6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ...................................................... 6
7. Bố cục của Luận văn ................................................................................. 6
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ TRONG
GIÁO DỤC................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm dân chủ và dân chủ trong giáo dục .............................. 7
1.1.1. Dân chủ ..................................................................................................... 7
1.1.2. Dân chủ trong giáo dục ......................................................................... 9
1.1.3. Nhà trường đại học ............................................................................... 11
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền giáo dục dân chủ ........................ 12
1.2.1. Dân chủ là quyền ai cũng được học hành ................................. 12
1.2.2. Lực lượng tham gia vào giáo dục chính là nhân dân để phục vụ
cho nhu cầu học tập của nhân dân. ..................................................... 15
1.2.3. Mục đích của nền giáo dục dân chủ mới ........................................ 16
1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ trong quản lý nhà
trường ................................................................................................................ 19
1.3.1. Vai trò của dân chủ trong quản lý nhà trường ......................... 19
1.3.2. Vai trò và yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục
trong thực hành dân chủ ở nhà trường ............................................... 23
1.3.3. Vai trò và yêu cầu của đội ngũ cán bộ giảng dạy trong việc thực
hành dân chủ ở nhà trường đại học .................................................... 27

1.3.4. Yêu cầu đối với người học trong trường đại học ...................... 32
1.4. Dân chủ trong giảng dạy và học tập ................................................. 36
1.4.1. Dân chủ trong nội dung giáo dục và đào tạo ............................ 36


1.4.2. Dân chủ trong phương pháp giảng dạy .................................... 37
1.4.3. Dân chủ trong phương pháp học tập ........................................ 42
Tiểu kết chương 1:..................................................................................... 46
Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO THỰC
HÀNH DÂN CHỦ TRONG NHÀ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ................................................................................................. 47
2.1. Thực trạng thực hành dân chủ trong nhà trường đại học ở Việt
Nam hiện nay ........................................................................................ 47
2.1.1. Sự cần thiết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để thực hiện tốt dân
chủ tại các nhà trường đại học ở Việt Nam hiện nay ................................ 47
2.1.2. Thành tựu, hạn chế trong thực hành dân chủ ở nhà trường đại
học Việt Nam hiện nay..................................................................................... 51
2.2. Phương hướng và giải pháp thực hành dân chủ trong nhà
trường đại học ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh .................. 76
2.2.1. Một số phương hướng thực hành dân chủ ở nhà trường đại học
theo tư tưởng Hồ Chí Minh ................................................................. 76
2.2.2. Một số giải pháp thực hành dân chủ trong nhà trường đại học
Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh .................................. 80
Tiểu kết chương 2:................................................................................... 101
KẾT LUẬN .............................................................................................. 103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.

Nghiên cứu di sản tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy, Người đặc biệt quan tâm
đến vấn đề giáo dục, coi đó là nhiệm vụ cơ bản, không thể tách rời của cách mạng
Việt Nam. Với triết lý đã trở thành niềm tin sâu sắc “một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu”, ngay từ những ngày đầu cách mạng, Hồ Chí Minh đã lên án “chính sách ngu
dân” và “nền giáo dục nơ lệ” của chính quyền thực dân áp dụng ở Việt Nam. Năm
1930, trong lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, Người đã nêu
khẩu hiệu “thực hành giáo dục toàn dân”, tức là phải tiến hành phổ cập giáo dục, tạo
điều kiện để ai cũng được học hành, được hưởng dân chủ trong giáo dục.
Với thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hịa, Nhà nước đó đã thực thi một nền dân
chủ rộng rãi khắp mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có dân chủ trong giáo
dục, bởi “khơng có giáo dục, khơng có cán bộ thì cũng khơng nói gì đến kinh tế văn
hóa”, giáo dục là một mặt trận quan trọng. Thực hiện dân chủ trong giáo dục nhằm
thúc đẩy giáo dục phát triển. Giáo dục là hoạt động liên quan đến vấn đề nguồn nhân
lực cho sự phát triển của một quốc gia, cho nên thiếu dân chủ trong giáo dục sẽ kìm
hãm sự phát triển của nguồn nhân lực- động lực quan trọng nhất, quyết định nhất của
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, thiếu dân chủ trong giáo dục sẽ làm giảm chất
lượng của nguồn nhân lực, nó sẽ đi ngược lại với xu thế phát triển của thời đại - xu
thế đầu tư vào con người.
Trong giai đoạn đổi mới và phát triển hiện nay của đất nước, tư tưởng đó của
Người ln soi sáng sự nghiệp trồng người ở Việt Nam, nó khơng chỉ là cơ sở lý luận
cho việc xác định chiến lược đào tạo con người, chủ trương, đường lối chỉ đạo phát
triển nền giáo dục Việt Nam của Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng, mà còn là
những bài học, những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục hết sức sinh động, thiết thực và
hiệu quả đối với người làm cơng tác giáo dục nói riêng, ngành giáo dục nói chung
hiện nay. Bài học này nhắc chúng ta luôn quán triệt rằng một nền giáo dục mới nhất
thiết phải thực hiện tốt dân chủ mới; một nhà trường phát triễn vững mạnh nhất thiết
phải có dân chủ và thực hiện tốt dân chủ trong hoạt động giáo dục. Dân chủ đó nhất
1



thiết phải gắn liền kỷ cương, vì thế song song với việc phát huy dân chủ cần nghiêm
khắc đối với những trường hợp vi phạm hoặc mất dân chủ trong hoạt động giáo dục
bằng những chế tài nhất định. Đó là tiền đề, là cơ sở cho mọi năng lực của ta, sáng
kiến của ta, tiến bộ của ta luôn luôn phát triển, tiến lên không ngừng xứng đáng là
một nền giáo dục mới Việt Nam mà “con mắt đại bàng của tư duy” của Hồ Chí Minh
đã phát hiện và dày công vun đắp.
Trong những năm gần đây, việc thực hành dân chủ trong giáo dục ở nhà
trường đại học của nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, tuy nhiên những hạn
chế, bất cập vẫn còn tồn tại. Trong các trường đại học vẫn cịn tình trạng mất dân chủ,
dân chủ hình thức, dân chủ quá trớn hoặc lợi dụng dân chủ để trục lợi cá nhân, xúi
giục những hành động vi phạm pháp luật, vi phạm dân chủ.
Để phát triển giáo dục Việt Nam nói chung, giáo dục đại học nói riêng đã có
rất nhiều cơng trình nghiên cứu, tuy nhiên chưa có cơng trình nào ở cấp độ luận văn
nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề thực hành dân chủ trong giáo dục ở các
trường đại học. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn vấn đề “Thực hành dân chủ trong
giáo dục ở nhà trường đại học Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” làm
luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, giáo dục và dân chủ trong
giáo dục ở Việt Nam trong những năm gần đây các nhà nghiên cứu tập trung chủ yếu
vào những vấn đề sau:
Nghiên cứu làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và vai trị của
tư tưởng đó đối với sự nghiệp đổi mới đất nước có: PGS, TS. Phạm Hồng Chương
trong sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà
Nội, 2004. Trong cơng trình này tác giả đã đưa lại một cách nhìn khái quát về tư
tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh, phân tích nội dung dân chủ trong các lĩnh vực cụ
thể và làm rõ vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc giáo dục ý thức dân chủ
cho người dân trong xã hội; TS. Phạm Văn Bính, với cơng trình: Phương pháp dân
chủ Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, phản ánh nét đặc

sắc trong phương pháp Hồ Chí Minh là phương pháp dân chủ, nêu rõ nguồn gốc của
2


phương pháp dân chủ, từ đó tác giả đã đề ra giải pháp để hoàn thiện phương pháp
lãnh đạo dân chủ của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh; cơng trình này là kết quả nghiên cứu của tác giả từ
luận án tiến sỹ triết học với đề tài “Vận dụng tư tưởng và phương pháp dân chủ của
Hồ Chí Minh trong q trình thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”; những
cơng trình như: Dân chủ- di sản văn hóa của Hồ Chí Minh, Nguyễn Khắc Mai, nhà
xuất bản Lao động, Hà Nội, 1997; 100 câu nói về dân chủ của Hồ Chí Minh, Nguyễn
Khắc Mai, nhà xuất bản trẻ, 2001; Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh của hai tác giả
Phạm Thành, Nguyễn Khắc Mai, nhà xuất bản trẻ, 1991, các tác giả đã chỉ ra nguồn
gốc của dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh, về địa vị của người chủ, các hình thức
biểu hiện dân chủ.
Những cơng trình khoa học và luận văn nghiên cứu về vấn đề dân chủ có thể
kể đến: Nguyễn Thế Phúc: Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị- Giá trị
lý luận và thực tiễn, luận văn thạc sỹ khoa học chính trị chuyên ngành Hồ Chí Minh
học, Hà Nội, 2008
Hầu hết các cơng trình trên đã tập trung phân tích định nghĩa của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về dân chủ, chỉ ra được giá trị của việc thực hiện dân chủ trong quá trình
xây dựng Nhà nước dân chủ ở Việt Nam và thực hiện dân chủ trong bộ máy chính
quyền và hệ thống chính trị.
Các cơng trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và việc vận dụng tư
tưởng đó trong giai đoạn hiện nay có TS. Nguyễn Văn Chung với cuốn sách “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam trong
sự nghiệp đổi mới”, nhà xuất bản Quân đội nhân dân, xuất bản năm 2010 đã đưa ra
cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, hệ thống quan điểm của Hồ Chí
Minh về giáo dục và việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục của Đảng cộng
sản Việt Nam hiện nay.

Cuốn sách “Phát triển nền giáo dục Việt Nam trong những thập niên đầu thế
kỷ XXI theo tư tưởng Hồ Chí Minh” do Nguyễn Thị Nga (chủ biên) đã phân tích khái
quát tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về giáo dục trên những khía cạnh như mục
tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục để trên cơ sở đó khẳng định tư tưởng Hồ Chí
3


Minh về giáo dục không chỉ là ánh sáng soi đường, kim chỉ nam cho chiến lược phát
triển con người, phát triển giáo dục ở Việt Nam trong suốt mấy chục năm qua, mà
còn định hướng cơ bản đối với việc đổi mới, chấn hưng phát triển nền giáo dục Việt
Nam trong thời gian tới.
Cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào đào tạo đại
học Việt Nam hiện nay” do TS. Hoàng Anh (chủ biên) xuất bản năm 2013 đã phân
tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, khẳng định tầm quan trọng của việc
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào việc nâng cao chất lượng đào tạo đại
học hiện nay và đề xuất một số giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
vào nâng cao chất lượng giáo dục đại học hiện nay.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục có cuốn sách của
TS. Võ Văn Lộc, Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục, nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, cơng trình đã có sự tìm tịi cơng phu để chứng
minh Hồ Chí Minh là người khai sáng nền dân chủ và giáo dục dân chủ mới ở Việt
Nam, tác giả tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục theo phương
pháp lịch sử, bằng sự trích dẫn các lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh theo chủ đề rồi
mơ hình hóa, tác giả đã nêu lên một số quan điểm dân chủ của Người với đời sống
chung và đời sống giáo dục.
Về thực hành dân chủ ở các trường đại học, TS. Đồng Văn Quân với cuốn
sách “Thực hiện dân chủ trong các trường đại học nước ta hiện nay” do nhà xuất bản
Chính trị quốc gia phát hành năm 2014, đã nêu lên tầm quan trọng của việc thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở, khảo sát thực trạng thực hiện quy chế dân chủ ở các trường
đại học tại Việt Nam hiện nay và đề ra một số giải pháp để thực hiện tốt quy chế dân

chủ trong nhà trường tại các trường đại học ở nước ta hiện nay.
Các cơng trình cơng bố trên các tạp chí khoa học có: Nguyễn Văn Nam, Quán
triệt tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cơng cuộc đổi mới, tạp chí
Cơng tác tư tưởng và văn hóa, sơ 6, 1992; Lê Huy Thực, Hồ Chí Minh về cơ chế thực
hiện dân chủ, tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 4, 1992; Hoàng Trang, Về dân chủ trong
Tư tưởng Hồ Chí Minh, tạp chí Lịch sử Đảng, số 6, 1998; Nguyễn Tiến Phồn, Tư
tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện dân chủ, tạp chí Triết học, số 6, 1997; Hồng Chí
4


Bảo, Hồ Chí Minh - Nhà lý luận và thực hành dân chủ, Thơng tin chính trị học, Hà
Nội, 2000. - Nguyễn Trọng Chuẩn, “Vai trò động lực của dân chủ”, Tạp chí triết học,
số 5- 1996; Vũ Ngọc Hải, “Hệ thống giáo dục quốc dân hướng tới xây dựng xã hơi
học tập suốt đời ở nước ta”, Tạp chí Giáo dục, số 63- 2003; Võ Văn Lộc , “Tư tưởng
Hồ Chí Minh về dân chủ trong học tập”, Tạp chí Giáo dục, số 57- 2003.
Nhìn chung, những cơng trình trên, tác giả đã nêu lên một cách tổng quát về tư
tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và bước đầu tìm
hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục, về thực hành dân chủ trong
giáo dục nhà trường đã cho tác giả luận văn có cách nhìn tồn diện hơn về tư tưởng
dân chủ, giáo dục của Hồ Chí Minh. Thơng qua các cơng trình nghiên cứu, khảo sát
đã cung cấp cho tác giả một khối lượng tư liệu phong phú và quý giá. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu một cách có hệ thống về một lĩnh vực cụ thể của dân chủ là dân chủ trong
giáo dục và đặc biệt là vận dụng tư tưởng đó vào quá trình thực hiện dân chủ trong
giáo dục ở nhà trường đại học nước ta hiện nay thì tác giả chưa thấy một cơng trình
nào thực hiện ở mức độ luận văn theo phương pháp tiếp cận chính trị học.
Kế thừa những thành quả mà các nhà khoa học đã đạt được, chúng tơi đi vào
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục, làm rõ những luận cứ
khoa học để từ đó rút ra ý nghĩa đối với giáo dục đại học Việt Nam hiện nay thông
qua việc vận dụng tư tưởng dân chủ trong giáo dục của Hồ Chí Minh vào q trình
thực hiện dân chủ trong nhà trường đại học Việt Nam.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
- Mục đích:
Luận văn góp phần làm sáng tỏ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
trong giáo dục từ đó tìm ra những giải pháp để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm
nâng cao hiệu quả việc thực hành dân chủ trong nhà trường đại học ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ: để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những
vấn đề sau:
+ Làm rõ khái niệm dân chủ, dân chủ trong giáo dục
+ Làm rõ một số nội dung tư tưởng dân chủ trong giáo dục của Hồ Chí Minh
5


+ Tìm hiểu thực trạng dân chủ trong giáo dục ở nhà trường đại học nước ta
hiện nay.
+ Luận văn đề xuất một số giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm
thực hiện dân chủ trong giáo dục ở nhà trường đại học Việt Nam đạt hiệu quả cao.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của Luận văn
- Đối tượng:
+ Luận văn nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục.
+ Sự vận dụng tư tưởng của Người trong thực hành dân chủ ở nhà trường đại
học nước ta hiện nay.
- Phạm vi:
+ Luận văn tập trung nghiên cứu tư tưởng dân chủ và dân chủ trong giáo dục
của Hồ Chí Minh.
+ Đề tài tiến hành khảo sát việc thực hiện dân chủ trong giáo dục tại một số
trường đại học công lập ở khu vực Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
+ Thời gian khảo sát: từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của Luận văn
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp

luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt
Nam về dân chủ trong giáo dục.
- Phương pháp nghiên cứu của Luận văn: Luận văn sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu như: logic- lịch sử, phân tích - tổng hợp, phương pháp so
sánh, nghiên cứu văn bản học và nghiên cứu trường hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ
trong giáo dục
- Là tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu, giảng dạy và học tập các
chuyên ngành Chính trị học, Hồ Chí Minh học.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
chính của luận văn được kết cấu thành 2 chương, 6 tiết.
6


Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ TRONG GIÁO DỤC
1.1. Khái niệm dân chủ và dân chủ trong giáo dục
1.1.1. Dân chủ
Dân chủ là một hiện tượng lịch sử - xã hội gắn liền với sự tồn tại và phát triển
của đời sống con người và loài người. Dân chủ theo nghĩa gốc của nó bắt nguồn từ
chữ Hy Lạp cổ là Demokratos, từ có cấu tạo gồm: demos là nhân dân, kratos là sức
mạnh. Hai bộ phận này kết hợp thành một khái niệm “dân chủ” với nội dung: dân là
sức mạnh, dân có quyền lực.
Quá trình hình thành và phát triển dân chủ là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Từ khi xã hội lồi người phân chia thành giai cấp và có xung đột giai cấp, tức là từ
chế độ chiếm hữu nô lệ trở đi, cách đây hàng vạn năm, các cuộc đấu tranh giai cấp
liên tục diễn ra, giữa giai cấp thống trị và đông đảo quần chúng bị thống trị, bị áp bức
và bóc lột. Các chế độ xã hội có giai cấp đã tổ chức nên nhà nước. Đó là thể chế
chính trị của giai cấp thống trị. Do đó, dân chủ biểu hiện thơng qua chế độ nhà nước

thành chế độ dân chủ hay nền dân chủ.
Xuất hiện trong điều kiện có giai cấp nên cả Nhà nước và chế độ dân chủ đều
mang bản chất giai cấp. Nhà nước là cơng cụ để thực hiện lợi ích và duy trì quyền lực
của giai cấp thống trị, nên chế độ dân chủ bao giờ cũng chỉ phục vụ cho giai cấp
thống trị. V. Lênin gọi các chế độ dân chủ đó, kể cả dân chủ tư sản là dân chủ của
một thiểu số. Quần chúng nhân dân trong xã hội nếu có được hưởng một số quyền
dân chủ nào đó, thì điều đó chỉ do họ đấu tranh mà giành được, giai cấp thống trị
muốn tồn tại được buộc phải đáp ứng một số đòi hỏi dân chủ nhất định cho dân chúng
dù rất hạn chế và thường bị cắt xén.
Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa bắt đầu xuất hiện trong lịch sử khi giai cấp
công nhân tiến hành cách mạng, chống chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ quyền thống trị của
giai cấp tư sản và trở thành chủ thể của quyền lực, thiết lập nên nhà nước và chế độ
dân chủ của mình. V. Lênin gọi đó là nền dân chủ vơ sản, dân chủ mang bản chất giai
cấp công nhân, dân chủ cho quảng đại quần chúng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm dân chủ được Người giải thích một
cách ngắn gọn khi trả lời cho câu hỏi “dân chủ là như thế nào?”: “là dân làm chủ”. Có
7


lúc Người diễn đạt: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.
Cũng có thể thấy rõ hơn quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ với một sự lý giải cô
đọng khi Người viết:
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Cơng việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là cơng việc của dân
Chính quyền đồn thể từ xã đến chính phủ do dân cử ra
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên
Tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [55, tr.232]

Như vậy, quan niệm dân chủ của Hồ Chí Minh bao trùm trên nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội, từ chính trị trong việc tổ chức và vận hành chính quyền, cho đến
các cơng việc kiến thiết đất nước như xây dựng kinh tế, văn hóa, giáo dục. Với quan
niệm “đổi mới, xây dựng, kháng chiến, kiến quốc” là “của dân” và “là công việc của
dân”. “Có thể nói, nội dung “của dân, “do dân”, “vì dân” trong khái niệm dân chủ của
Hồ Chí Minh tuy ngắn gọn nhưng phản ánh súc tích và đầy đủ nhất nội dung của dân
chủ xét theo bất cứ cách tiếp cận nào” [18, tr. 46- 47]. Tóm lại, quan niệm tổng quát
nhất mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra: Dân chủ là “dân là chủ” và “dân làm chủ”, trong đó
mọi “quyền hành” và “lực lượng” đều thuộc về dân, ở nơi dân.
Thông thường, khi nhắc đến dân chủ, nhiều người vẫn nghĩ nó chỉ thuộc về
lĩnh vực chính trị, hoặc xem xét nó như một phương thức tổ chức xã hội hiện đại. Tuy
nhiên, quan niệm dân chủ của Hồ Chí Minh cịn giúp cho việc nhận thức được đúng
yêu cầu của dân chủ trong các quan hệ xã hội khơng thuộc về chính trị mà ở đó dân
chủ biểu hiện các giá trị thuộc về đạo lý con người như quan hệ trong gia đình, trong
trường học. Nói cách khác, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, trong một xã hội dân
chủ thì các quan hệ dân chủ khơng chỉ có trong nhà nước mà dân chủ cịn phải có
trong mọi thiết chế xã hội, trong xã hội cơng dân, gia đình, đồn thể... đều cần có dân
chủ. Theo cách hiểu này, dân chủ được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội, trong chính trị, kinh tế, giáo dục... Do đó, dân chủ khơng chỉ là
8


một giá trị chung, một sản phẩm của văn minh nhân loại mà nó trở thành một tiêu chí,
một mục tiêu phấn đấu chung của mọi quốc gia, dân tộc, của toàn nhân loại.
1.1.2. Dân chủ trong giáo dục
Trên thế giới và ngay cả ở nước ta đều có các quan niệm khác nhau về giáo
dục, nhưng phần đông đều thống nhất: “Giáo dục là hoạt động hướng tới con người
thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ những tri thức và
kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết
cho đối tượng, giúp hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp

với mục đích, mục tiêu, chuẩn bị cho đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời
sống xã hội” [35, tr. 106].
Đây là một hoạt động đặc trưng và tất yếu của xã hội lồi người, là điều kiện
khơng thể thiếu được để duy trì và phát triển con người và xã hội. Giáo dục là một bộ
phận của quá trình tái sản xuất mở rộng sức lao động xã hội, mà con người được giáo
dục là nhân tố quan trọng nhất, vừa là động cơ, vừa là mục đích của phát triển xã hội.
Để phát huy được nhân tố con người trong giáo dục, ngày nay, xu hướng dân chủ hóa
giáo dục đang được đề cao và phát triển mạnh mẽ. Dân chủ hóa giáo dục có 2 cách
hiểu: 1) Trào lưu tư tưởng đổi mới, cải tổ nền giáo dục nhằm đáp ứng những nhu cầu
thực tiễn và thiết thực của đại đa số học sinh là con em nhân dân lao động. Dân chủ
hóa giáo dục địi hỏi phải thay đổi mục tiêu, nội dung, phương pháp, tổ chức giáo dục
cho phù hợp với năng lực và điều kiện thực tế của đại bộ phận người học để họ có cơ
hội bình đẳng tiếp thu những giá trị văn hóa do giáo dục mang lại. 2) Biện pháp giáo
dục nhằm thay đổi phương pháp dạy- học sao cho phù hợp với sở trường và năng lực
tiếp thu của người học, khiến cho mỗi người học tự mình tích cực chủ động đến với
tri thức và sáng tạo ra con đường riêng để vươn tới và chiếm lĩnh một phần tri thức
một cách nhanh nhất và chắc chắn nhất. Dân chủ hóa giáo dục đối lập với biện pháp
giáo dục quyền uy, áp đặt một cách đồng loạt mọi yêu cầu, nội dung lên toàn thể
người học, do đó dân chủ hóa giáo dục có tác dụng khơi dậy và giải phóng tiềm năng
của từng người học để họ tự trở thành chủ thể giáo dục của chính bản thân mình”[35,
tr.64].

9


Bàn về khái niệm dân chủ trong giáo dục, nhà giáo dục John Dewey, trong
cuốn sách Dân chủ và giáo dục - một dẫn nhập vào triết lý giáo dục đã giải thích:
“bởi vì giáo dục là một tiến trình xã hội, và có rất nhiều loại xã hội, cho nên tiêu chí
dùng để phê phán và giải thích giáo dục hàm ý một lý tưởng xã hội cụ thể. Hai điểm
được lựa chọn ra đánh giá giá trị của một hình thái tồn tại xã hội là: mức độ chia sẻ

các mối hứng thú của tất cả các thành viên của một nhóm; và mức độ trọn vẹn và tự
do của các mối quan hệ tương giao giữa một nhóm này với các nhóm khác. Nói cách
khác, một xã hội không đáng hoan nghênh là một xã hội đặt bên trong và bên ngồi
nó những rào cản ngăn chặn sự giao tiếp và truyền đạt kinh nghiệm một cách tự do.
Một xã hội cho phép mọi thành viên chia sẻ bình đẳng lợi ích của nó và điều chỉnh
linh hoạt các thiết chế dựa vào mối quan hệ tương giao của các hình thái tồn tại liên
kết khác nhau, xã hội ấy cho tới nay có thể được coi là dân chủ. Với tính chất như
thế, một xã hội phải có một kiểu giáo dục giúp cho các cá nhân có được một mối
hứng thú riêng tới các mối quan hệ xã hội và kiểm soát xã hội, và tạo ra những thói
quen tinh thần có thể duy trì những thay đổi xã hội mà không gây nên sự hỗn loạn”
[21, tr. 126]. Như vậy, dân chủ trong giáo dục chính là việc tạo mọi điều kiện để mỗi
cá nhân đều có thể truyền đạt và tiếp thu những kinh nghiệm và kiến thức mà khơng
có một rào cản nào cả.
Nền giáo dục dân chủ là nền giáo dục của dân, do dân, vì dân. Vấn đề dân chủ
trong giáo dục chủ yếu thể hiện vấn đề quyền cơ bản của con người trong giáo dục đó
là:
- Ai cũng có quyền và nghĩa vụ được học hành, quyền được học suốt đời
- Quyền và nghĩa vụ được tham gia vào quản lý, hưởng thụ giáo dục cả vật
chất lẫn tinh thần.
Giáo dục và đào tạo có nội dung, mục tiêu trang bị giá trị, kinh nghiệm dân
chủ, tri thức dân chủ, thái độ, kỹ năng, năng lực làm chủ (làm chủ tự nhiên, làm chủ
tri thức, kỹ thuật, làm chủ kinh tế, làm chủ chính trị, văn hóa, xã hội v.v.) cho người
học để hướng đến xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội.
Tóm lại, dân chủ trong giáo dục được thể hiện qua quyền được học hành,
quyền và mức độ tham gia quản lý, hưởng thụ giáo dục, được giáo dục. Giáo dục có
10


hình thức, phương pháp tổ chức, hoạt động, vận hành hiệu quả theo quy định của
pháp luật, trong đó mỗi chủ thể (cá nhân, tổ chức) tham gia quá trình giáo dục, được

tự chủ, tự do phát huy năng lực sáng tạo đa dạng của mình với mục đích: nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hồn thiện nhân cách của mỗi cá nhân
để họ có thể tham gia vào đời sống xã hội.
1.1.3. Nhà trường đại học
Nền giáo dục của mỗi nước được chia làm nhiều bậc học khác nhau, trong đó
giáo dục đại học là bậc học đào tạo trình độ học vấn chuyên mơn cao với mục tiêu
đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có
kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương ứng với trình độ đào tạo, có sức
khỏe, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đào tạo trình độ đại học được
thực hiện từ bốn đến sáu năm học tùy theo ngành nghề đào tạo đối với người có có
bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc trung học chuyên nghiệp; từ một đến hai
năm đối người có bằng tốt nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành. Mục tiêu đào tạo
trình độ đại học nhằm giúp sinh viên nắm vững kiến thức chuyên môn và kỹ năng
thực hành về một ngành nghề, có kỹ năng phát hiện, giải quyết những vấn đề thông
thường thuộc chuyên ngành được đào tạo. Nội dung đào tạo trình độ đại học phải
đảm bảo cho sinh viên có những kiến thức khoa học cơ bản và chuyên ngành tương
đối hoàn chỉnh; có phương pháp làm việc khoa học; có năng lực vận dụng lý thuyết
vào công tác chuyên môn. Quá trình giáo dục đại học được thực hiện chủ yếu trong
các nhà trường đại học.
Nhà trường đại học là cơ sở giáo dục thuộc bậc đại học, kể cả học viện đào tạo
trình độ cao đẳng, đại học, có thể đào tạo trình độ thạc sỹ, tiến sỹ khi được thủ tướng
Chính phủ giao, nhà trường đại học đặt dưới quyền của một hiệu trưởng (người đứng
đầu các đại học quốc gia, học viện, phân viện được gọi là giám đốc), nhằm đảm bảo
việc giáo dục sinh viên, học viên (nói chung là người học) và những hoạt động của
sinh viên, học viên, giảng viên và những thành viên khác” [35, tr. 447- 448].

11


1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền giáo dục dân chủ

1.2.1. Dân chủ là quyền ai cũng được học hành
Tư tưởng dân chủ trong giáo dục - đào tạo trước hết là quyền ai cũng được học
hành, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, vùng miền, cả
đồng bào trong nước và kiều bào ở nước ngồi đều có quyền lợi và nghĩa vụ học tập.
Mọi người đều có cơ hội học tập, học suốt đời.
Mục đích cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh - mục đích mà Người suốt đời
phấn đấu - là nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Bởi, đối với Người:
“nếu nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì” [53, tr.64]. Suốt đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng một xã
hội mới - xã hội mà ở đó nhân dân thực sự là những người là chủ và làm chủ. Muốn
như vậy, trước hết phải bắt đầu từ công tác giáo dục trong nhân dân.
Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng xã hội mới, mà ở đó thực hiện nền giáo dục
“ai cũng được học hành”. Luận điểm “ai cũng được học hành” thể hiện tầm nhìn
chiến lược của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa giáo dục và cách mạng Việt Nam.
Để thực hiện giáo dục cho mọi người, chỉ sáu ngày sau khi đọc Tuyên ngôn
độc lập, trong phiên họp đầu tiên của chính phủ lâm thời (3- 9- 1945), với cương vị
Chủ tịch nước, Người đã ký ba sắc lệnh quan trọng: Sắc lệnh số 17/SL thành lập Nha
bình dân học vụ, lo việc học cho dân; Sắc lệnh số 19/SL quy định hạn trong 8 tháng
làng nào, thị trấn nào cũng phải có lớp học, ít nhất 30 người theo học; Sắc lệnh số
20/SL cưỡng bức học chữ quốc ngữ (không mất tiền) và kêu gọi tồn dân tham gia
chiến dịch xóa mù chữ.
Để giải thích những điều quy định bắt buộc đó, tháng 10- 1945, Hồ Chí Minh
ra lời kêu gọi tồn dân chống nạn thất học: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm
cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn
phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào cơng cuộc xây dựng
nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ ” [53, tr. 40].
Suy rộng ra, ai cũng được học hành là một mục tiêu phấn đấu cho sự bình
đẳng xã hội. Như chúng ta đã biết, giáo dục vốn là bình đẳng, giáo dục là của mọi
người, giáo dục chỉ bị phân hóa, người lao động chỉ bị mất quyền học hành từ khi xã
12



hội có giai cấp và giai cấp thống trị nắm lấy giáo dục như một công cụ để thống trị xã
hội, bảo vệ lợi ích của mình. Do đó, “ai cũng được học hành” là nhu cầu của phát
triển của cá nhân và cũng là nhu cầu phát triển của xã hội. Một dân tộc mà người dân
không được học hành là một dân tộc dốt và cũng là dân tộc khơng có sức mạnh. Được
học hành là quyền của mỗi con người và là động lực của sự phát triển xã hội. “Ai
cũng được học hành” là cơ sở lý luận cho việc hình thành các quan điểm về xã hội
học tập.
“Ai cũng được học hành” là mọi lứa tuổi đều được học tập, học suốt đời ở
nhiều điều kiện, hoàn cảnh khác nhau. Quyền được học tập trong độ tuổi, quyền vừa
học vừa làm việc và quyền được học tập trong độ tuổi nghỉ ngơi nghĩa là quyền được
học suốt đời. Đối tượng giáo dục là tất cả mọi người, không phân biệt già, trẻ, trai,
gái, thành phần giai cấp trong xã hội, kể cả những người tàn tật, thiểu năng đều có
quyền học tập. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu tấm gương tiêu biểu: cháu Nguyễn
Ngọc Ký tàn tật cả hai tay, dùng chân để viết mà đã cố gắng phấn đấu trở thành một
học sinh giỏi. Đó là tư tưởng mang tính nhân văn sâu sắc của Người.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam chỉ đến thời đại Hồ Chí Minh mới thực sự
thực hiện quyền phụ nữ bình đẳng với nam giới, đặc biệt quan tâm quyền học tập của
phụ nữ, phụ nữ nông thơn, phụ nữ dân tộc ít người. Theo Người: “Phụ nữ lại càng cần
phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm, đây là lúc chị em phải cố gắng để kịp nam giới,
để xứng đáng mình là một phần tử trong nước” [53, tr. 41]. Người rất quan tâm đến
các phong trào của phụ nữ, coi trọng vai trò của phụ nữ khi khẳng định: An Nam cách
mệnh phải có nữ giới tham gia mới thành cơng. Nói phụ nữ là nói phần nửa xã hội.
Nếu khơng giải phóng phụ nữ thì khơng giải phóng một nửa lồi người. Người rất
quan tâm đến các phong trào của phụ nữ: dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, hàng vạn phụ
nữ đã trở thành cán bộ chuyên môn các ngành và cán bộ lãnh đạo, làm giám đốc và
phó giám đốc các xí nghiệp, chủ nhiệm hợp tác xã nơng nghiệp, chủ tịch ủy ban hành
chính, bí thư chi bộ đảng.v.v.. Đồng thời, Người cũng động viên chị em không ngừng
học tập: “Để làm tốt những việc nói trên, chị em phải cố gắng học tập. Học văn hóa,

học chính trị, học nghề nghiệp. Nếu khơng học thì khơng tiến bộ. Có quyết tâm thì
nhất định học được” [63, tr. 263].
13


Hồ Chí Minh cũng hết sức quan tâm đến đồng bào dân tộc thiểu số, tạo mọi
điều kiện để con em dân tộc thiểu số, không phân biệt tuổi tác được đến lớp. Người
yêu cầu phải dạy văn hóa cho đồng bào dân tộc và thơng qua dạy văn hóa mà tuyên
truyền đường lối cách mạng cho họ. Điều này phù hợp với đồng bào các dân tộc
không biết chữ quốc ngữ, nghe và nói tiếng Việt chưa rành, trình độ nhận thức nói
chung cịn rất thấp.
Điều đặc biệt, Hồ Chí Minh cịn quan tâm đến những con người đã từng mắc
phải lỗi lầm. Ngày 07- 11- 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 150/SL về
tổ chức trại giam trong đó có nội dung tổ chức các cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng
(V26). Hệ thống trường này đã góp phần tạo cho họ được học tập trong các trường
giáo dưỡng: xóa mù chữ, dạy nghề. Làm cho họ thức tỉnh lương tâm, hoàn lương sớm
trở về hòa nhập cộng đồng. Phần lớn, họ tin vào chế độ khoan hồng của chế độ dân
làm chủ, nhiều người trong số họ đã vươn lên làm giàu chính đáng trở thành chủ
những doanh nghiệp lớn, có nhiều người tham gia vào cơng tác giữ gìn an ninh trật tự
ở nơi cư trú được nhân dân tín nhiệm.
Khi chưa có chính quyền, Hồ Chí Minh tích cực đấu tranh với thực dân Pháp
đòi quyền được tự do học hành của nhân dân Đông Dương, trong Yêu sách Tám điểm
gửi Hội nghị Vécxây, Người đã đòi quyền “Tự do học tập, thành lập các trường kỹ
thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ”. Khi đã giác ngộ chủ
nghĩa Mác- Lênin, phác thảo con đường cách mạng Việt Nam, Người cũng không
quên vấn đề giáo dục và đề xuất:
“1. Lập trường học cho công nhân;
2. Lập trường cho con cháu công nhân
3. Lập nơi xem sách báo” [51, tr. 335- 336].
Khi có chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh địi hỏi phải “phổ thơng giáo

dục”, phải “nâng cao dân trí”, thậm chí phải “cưỡng bách học chữ quốc ngữ”. Hồ Chí
Minh đã phát động chiến dịch “Diệt giặc dốt”, xóa nạn mù chữ và phát động phong
trào “bình dân học vụ”, tạo thành một xã hội học tập làm cho dân ta ai cũng có điều
kiện được học hành.

14


Người đã chỉ đạo xây dựng, đa dạng hóa các loại hình nhà trường, thu hút mọi
tầng lớp con em nhân dân lao động vào học. Đồng thời mở rộng các hình thức tổ
chức dạy, học để mọi người dân đều được học. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo các
ngành, các cấp chính quyền phải tạo ra cơ hội, thời cơ tốt để mọi người được đi học
và có thể được học. Khát vọng học tập của nhân dân ta bị đè nén trong suốt 80 năm
trời dưới ách thống trị của thực dân Pháp đã được thực hiện. Dưới sự dẫn dắt của
Người, chỉ sau một thời gian ngắn nền giáo dục Việt Nam mới đã nhanh chóng đưa
dân tộc ta từ chỗ 95% người mù chữ từng bước trở thành một dân tộc có học vấn, ai
cũng có quyền được học hành.
Có thể nói, “tư tưởng “Ai cũng được học hành” là một biểu hiện cao cả của
chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh mà xuất phát điểm đầu tiên của nó là từ lịng u
thương con người rất rộng lớn, đặc biệt là những con người nghèo khổ, bị áp bức bóc
lột. Ở tư tưởng này, dường như người ta còn thấy tư tưởng “hữu giáo vơ lồi” của
Khổng Tử, lại có cả bóng dáng của triết học phương Tây thế kỷ XVIII “giáo dục bình
đẳng cho mọi trẻ em”, đặc biệt là tư tưởng nhân văn cao cả của Mác- Lênin về giáo
dục phổ cập cho con người” [46, tr. 318- 319].
1.2.2. Lực lượng tham gia vào giáo dục chính là nhân dân để phục vụ cho
nhu cầu học tập của nhân dân.
Đỉnh cao của nền giáo dục dân chủ là tổ chức cho nhân dân tham gia vào giáo
dục và được hưởng thụ giáo dục. Ý tưởng xây dựng nền giáo dục dân chủ, nhân dân
đã được nhiều người đề cập đến trong những thời điểm lịch sử khác nhau, nhưng chỉ
đến Hồ Chí Minh thì ý tưởng đó mới trở thành hiện thực, Hồ Chí Minh đã xây dựng

một nền giáo dục mà mọi người dân đều có quyền được tham gia và được hưởng thụ.
Từ khi chính quyền cách mạng được thành lập, tư tưởng xây dựng một nền
giáo dục đại chúng, dân chủ nhân dân đã được Hồ Chí Minh phát triển lên một cấp độ
mới và tổ chức thực hiện rất sáng tạo trong thực tiễn. Ngay từ những ngày đầu tiên
của chính quyền cách mạng, trường lớp và các phương tiện dạy học vơ cùng khó
khăn, giáo viên chưa có, kinh phí và các điều kiện đảm bảo của chính phủ chưa có
nhưng Hồ Chí Minh đã dựa vào dân để phát động và tổ chức thành công phong trào
toàn dân tham gia diệt giặc dốt. Những nơi chưa có trường học thì dùng nhà dân làm
15


lớp học, mỗi nhà, mỗi làng, mỗi xã đều tận dụng mọi điều kiện cho việc học tập.
Khơng có thầy giáo thì mọi người đứng ra tự dạy cho nhau, người biết chữ dạy cho
người không biết chữ. Người dạy là quần chúng nhân dân, người học cũng là quần
chúng nhân dân, phương tiện dạy học được huy động trong nhân dân, kinh phí được
huy động từ sự đóng góp của cải, sức lực của nhân dân. Khi phát triển lên thành bình
dân học vụ và các nhà trường chính quy, Người nói: “Giáo dục là sự nghiệp của quần
chúng”; do đó, các cấp, các ngành phải tổ chức cho nhân dân tham tham gia vào quá
trình giáo dục bằng cách kết hợp giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình và xã hội.
Trong bài nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa 2 trường Đại học nhân dân,
Hồ Chí Minh giải thích: “Trong bầu trời khơng gì q bằng nhân dân. Trong thế giới
khơng có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” [59, tr. 453]. Từ sự tin
tưởng vào sức mạnh của nhân dân, Hồ Chí Minh cho rằng sự nghiệp giáo dục, đào tạo
nói chung phải dựa vào dân, gắn bó với quần chúng nhân dân để được quần chúng
nhân dân tin yêu và giúp đỡ.
Như vậy, nền giáo dục dân chủ mới theo quan điểm của Hồ Chí Minh phải là
nền giáo dục xuất phát từ nhân dân và quay lại phục vụ nhân dân, đảm bảo cho tất cả
người dân có quyền được học hành để hiểu và thực hiện quyền là chủ và làm chủ của
mình trong chế độ mới.
1.2.3. Mục đích của nền giáo dục dân chủ mới

Nâng cao dân trí để xây dựng một xã hội dân chủ vì con người, cho con người
là mục đích trọng tâm và xuyên suốt tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh là. Nâng cao
dân trí là một nhiệm vụ quan trọng của nhà nước dân chủ. Bởi lẽ: “Một dân tộc dốt là
một dân tộc yếu” [53, tr. 7]. Trong bài Chống nạn thất học đăng trên Báo Cứu quốc,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong
những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí”[53, tr. 40].
Trong một chế độ dân chủ, mục đích của giáo dục chính là đào tạo nên những
con người có đủ năng lực làm chủ, có đủ năng lực tổ chức cuộc sống mới. Trong bài
báo Học tập khơng mỏi, cải tiến khơng ngừng, Hồ Chí Minh đã nhắc: “Chúng ta là
những người lao động làm chủ nước nhà” [61, tr. 527]. Chính vì là người lao động
làm chủ nước nhà, nên “muốn làm chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ”, và Người
16


đã chỉ ra điều kiện: “Chúng ta học tập chính là để có đủ năng lực làm chủ, có đủ năng
lực tổ chức cuộc sống mới- trước hết là tổ chức nền sản xuất mới...” [61, tr. 527]. Với
mục tiêu của việc học tập như vậy, Người yêu cầu người dạy và người học phải có
thái độ đúng đắn, nghiêm túc và chí tiến thủ trong học tập, với tinh thần “học khơng
biết chán, dạy khơng biết mỏi” để có thể làm chủ bản thân, “làm chủ cuộc sống mới
do chúng ta xây dựng lên. Chúng ta làm chủ tương lai của mình và con cháu mình”
[61, tr. 538]. Mục tiêu của nền giáo dục dân chủ mới Việt Nam được Hồ Chí Minh
nêu rõ là: Đào tạo các em nên những người cơng dân hữu ích cho nước Việt Nam,
những lớp người có đủ đức, tài, vừa hồng, vừa chun, để có thể đảm nhận tốt vai trị
của người cơng dân trong q trình tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Để đạt được mục tiêu đó, Hồ Chí Minh khẳng định mỗi cơng dân Việt Nam,
đặc biệt là thế hệ trẻ phải được giáo dục một cách toàn diện: “Trong việc giáo dục và
học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa,
văn hoá, kỹ thuật, lao động và sản xuất” [61, tr. 467]. Do vậy, học để có đủ năng lực
làm chủ khơng những là quyền lợi mà còn là nghĩa vụ của mỗi người công dân trong
chế độ dân chủ mới.

Nền giáo dục dân chủ mới là nền giáo dục làm phát triển hồn tồn những
năng lực sẵn có của con người. Trong Thư gửi học sinh tháng 9 - 1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định: “Ngày nay các em được cái may mắn hơn cha anh là được
hấp thụ một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các
em nên những người cơng dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm
phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em” [53, tr. 34]. Những con
người được phát triển hồn tồn những năng lực sẵn có của bản thân đó sẽ trở thành
những con người tồn diện, con người mới, khác hoàn toàn với nền giáo dục mà chủ
nghĩa thực dân đã thực thi ở Việt Nam trước đây.
Nền giáo dục dân chủ mới mà Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng là nền giáo
dục nhằm đào tạo nên những con người “hoàn toàn” để “làm người”, để “phụng sự
đoàn thể, giai cấp và nhân dân”, phục vụ “Tổ quốc và nhân loại”. Theo quan điểm
của các nhà kinh điển Mác- Lênin, mục đích của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa là
giáo dục- đào tạo con người phát triển toàn diện. Lênin đã chỉ rõ: “Người ta sẽ
17


chuyển sang việc huấn luyện, giáo dục và đào tạo những con người phát triển về mọi
mặt, được chuẩn bị về mọi mặt và biết làm việc. Đó là cái đích của chủ nghĩa cộng
sản đi tới, nhưng phải trải qua một giai đoạn lâu dài” [48, tr. 163]. Mác - Ăngghen
cũng đã chỉ ra mơ hình về con người phát triển toàn diện của xã hội tương lai: là con
người phát triển về cả trí tuệ, đạo đức, sức khỏe, lao động và thẩm mỹ; hài hòa về thể
chất và tâm hồn, hài hòa giữa cuộc sống cá nhân và xã hội, giữa cái chung và cái
riêng. Phát triển toàn diện nhân cách là phát triển hết khả năng, đặc tính vốn có của
từng cá nhân; chứ khơng phải là làm cho tất cả mọi người đều hoàn toàn giống nhau,
đều làm giỏi tất cả mọi việc như nhau. Kế thừa truyền thống giáo dục của dân tộc,
tiếp thu tinh hoa tư tưởng giáo dục của nhân loại, đặc biệt là quan điểm của Chủ
nghĩa Mác- Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm khẳng định vị trí, vai trị của giáo dục
đối với sự phát triển của đất nước nói chung và đối với mỗi người nói riêng.
Nền giáo dục dân chủ mới là nền giáo dục tôn trọng nhân phẩm, rèn luyện chí

khí, phát triển tài năng của mọi người để phụng sự đồn thể và góp phần vào cuộc
tiến hóa chung của nhân loại. Từ thực trạng nền văn hóa, giáo dục dưới sự đơ hộ của
thực dân Pháp, Người vạch trần chính sách “ngu dân” để dễ bề cai trị của chúng.
Dùng ngòi bút với lời lẽ sắc bén để vạch trần bản chất của cái gọi là “khai hóa văn
minh” của thực dân Pháp, Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong chế độ cũ, những người đến
trường học, được “đào tạo nên những tay sai làm tôi tớ cho bọn thực dân”; những
người không đến trường lớp thì bị bọn thực dân đầu độc bằng các thói hư, tật xấu như
rượu chè, cờ bạc, thuốc phiện và các tệ nạn xã hội. Chính vì thế, phải “ra sức tẩy sạch
ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân cịn sót lại, như: Thái độ thờ ơ đối với xã
hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân; học để lấy bằng cấp, dạy
theo lối nhồi sọ” [59, tr. 185]. Không chỉ lên án, phê phán, vạch trần bản chất nền
giáo dục của chủ nghĩa thực dân, mà cịn thơng qua đó, Hồ Chí Minh muốn xây dựng
một nền giáo dục mới và xây dựng một xã hội mới. Với Hồ Chí Minh, con người vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội thì trước hết cần có con người xã hội chủ nghĩa. Để xây dựng chế độ dân chủ mới
ở Việt Nam, Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến chiến lược trồng người mà biện pháp
quan trọng nhất là giáo dục.
18


Nền giáo dục mới nhằm đào tạo nên những con người tồn diện, đủ đức và tài.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, cũng như quan niệm của Người về vai trị của
giáo dục khơng bó hẹp trong việc giáo dục tri thức, học vấn cho con người, mà có
tính bao qt, sâu xa, nhưng vơ cùng sinh động, thiết thực, nhằm đào tạo ra những
con người toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên”, có tri thức, lý tưởng, đạo đức sức
khoẻ, thẩm mỹ. Khi nhìn nhận vai trị của giáo dục đối với sự hình thành nhân cách
của con người, Người khẳng định:
“Ngủ thì ai cũng như lương thiện,
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền;
Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn,

Phần nhiều do giáo dục mà nên.” [52, tr. 413]
Hồ Chí Minh khẳng định mục đích phát triển đạo đức của giáo dục: “Mỗi con
người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con
người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi” [64, tr. 672].
Nền giáo dục Người chủ trương xây dựng là nền giáo dục nhằm xóa bỏ những
quan niệm coi khinh lao động chân tay, chuộng bằng cấp, ham vinh hoa phú quý, coi
“muôn nghề đều là thấp kém, chỉ nghề đọc sách là cao”. Nền giáo dục mới là nền
giáo dục “phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, đào tạo lớp người, lớp cán bộ mới”
[59, tr. 344].
1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ trong quản lý nhà trường
1.3.1. Vai trò của dân chủ trong quản lý nhà trường
Trong giáo dục, công tác tổ chức và quản lý là một nhân tố quan trọng để xây
dựng một nhà trường vững mạnh. Có thể xem cơng tác này như cái “vỏ vật chất” cho
sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nhà trường phát triển. Việc phát huy cao độ dân
chủ trong giáo dục ở nhà trường luôn là tiền đề cần thiết bảo đảm cho sự phát triển
tồn diện những năng lực sẵn có của con người. Trong Thư gửi các cán bộ, cô giáo,
thầy giáo, công nhân viên, học sinh, sinh viên nhân dịp bắt đầu năm học mới, Báo
Nhân dân, ngày 16- 10- 1968, Hồ Chí Minh viết: “Giáo dục là sự nghiệp của quần
chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa” [61, tr. 508].

19


Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn.
Bởi lẽ, sức mạnh là ở quần chúng, ở việc vận động, tổ chức quần chúng. Nhà trường
có thể thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của mình hay khơng là nhờ việc tổ chức,
quản lý và phát huy sức mạnh của tất cả các cán bộ và nhân viên trong trường. Điều
đó địi hỏi trong mọi cơng việc phải mạnh dạn phát động quần chúng, làm cho mọi
người thấm nhuần tinh thần làm chủ tập thể.
Đối với sự phát triển của xã hội, dân chủ vừa là mục đích, vừa là động lực của

sự phát triển xã hội, thì đối với sự nghiệp phát triển giáo dục, dân chủ cũng chính là
động lực, là mục tiêu trong quá trình xây dựng một nền giáo dục mới. Chủ tịch Hồ
Chí Minh coi dân chủ là chìa khóa, là động lực của tiến bộ và phát triển. Người đặc
biệt chú trọng tới việc thực hành dân chủ để phát huy sáng kiến, kích thích lòng hăng
hái, qua thực hành dân chủ mà thực hiện và phát triển hành động sáng tạo của mình.
Xuất phát từ quan niệm về quyền hành, lực lượng cũng như lợi ích đều thuộc về quần
chúng nhân dân, Hồ Chí Minh coi thực hành dân chủ là sự huy động và sử dụng đối
đa quyền hạn, lực lượng của toàn thể quần chúng trong nhà trường để thực hiện
những nhiệm vụ giáo dục của mỗi trường.
Theo Hồ Chí Minh, tất cả những hoạt động quản lý nhà trường đều trên cơ sở
bàn bạc dân chủ để tất cả các cán bộ, giảng viên có thể đóng góp ý kiến, cùng nhau
bàn bạc, xây dựng kế hoạch và thực hiện. Nói chuyện với Trường Thanh niên lao
động xã hội chủ nghĩa Hịa Bình ngày 17- 8- 1962, Người đã căn dặn thầy giáo và
học sinh nhà trường: “Phải bàn bạc dân chủ. Có cơng việc gì, ban phụ trách trường
bàn bạc với anh em, làm cho tư tưởng mọi người thông suốt, động viên mọi người
cùng làm chứ không nên ban phụ trách định kế hoạch rồi bắt mọi người làm...” [62,
tr. 436]. Giải thích cho vấn đề này, Người đã từng viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ,
tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày
tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một
nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc
đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý” [59, tr. 378]. Khi mọi
người đã được đóng góp ý kiến để cùng nhau đi đến chân lý và thấu hiểu, thơng suốt
thì việc thực hành chân lý đó sẽ diễn ra một cách tự giác. Vì vậy, Hồ Chí Minh ln
20


nhấn mạnh vấn đề thực hành dân chủ, theo Người, “phải thực hành dân chủ, phải làm
cho quần chúng hiểu rõ, làm cho quần chúng hăng hái tham gia thì mới chắc chắn
thành công. Quần chúng tham gia càng đông, thành cơng càng đầy đủ, mau chóng”
[56, tr. 362].

Thực hành dân chủ đưa lại tác dụng thúc đẩy tiềm năng sáng tạo của quần
chúng và trở thành động lực của sự tiến bộ không chỉ đối với tập thể mà đến với mỗi
con người, sự phát triển của tập thể nhà trường phụ thuộc vào sự tham gia của quần
chúng vào các hoạt động của nhà tường, do vậy phải đề cao việc thực hành dân chủ
trong lãnh đạo, quản lý nhà trường. Trái lại, người cho rằng, nếu trong cán bộ, quần
chúng ít sáng kiến, ít hăng hái là vì nhiều lẽ. Mà trước hết là vì: “Cách lãnh đạo của ta
không được dân chủ” [54, tr. 283]. Không có bàn bạc dân chủ là một dấu hiệu của
bệnh chủ quan. Chủ quan là một con đường ngắn dẫn đến quan liêu, mệnh lệnh, bớt
xén. Hồ Chí Minh cũng kết luận: “Cũng ví như ở đây, nếu ban phụ trách có sáng
kiến, có dân chủ thì trường tốt, nếu ban phụ trách lại quan liêu, mệnh lệnh, bớt xén,
trường sẽ khơng ra gì hết” [62, tr. 438].
Quản lý giáo dục trong nhà trường không chỉ là trách nhiệm của ban lãnh đạo
nhà trường mà còn là nghĩa vụ của tất cả các thành viên trong trường nhằm làm cho
nhà trường ngày một tiến bộ. Bởi lẽ, “quản lý là hoạt động có ý thức của con người
nhằm phối hợp hành động của một nhóm người hay một cộng động người để đạt
được các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất” [30, tr. 77], nếu chỉ có sự nỗ lực
tham gia của một số cá nhân vào công tác quản lý nhà trường thì mục đích đặt ra sẽ
không thực hiện được. Đây là sự cố gắng, nỗ lực từ hai phía: lãnh đạo nhà trường và
cán bộ, giáo viên, sinh viên của nhà trường. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Các cô, các chú,
các cháu phải cùng nhau tổ chức và quản lý đời sống vật chất ở các trường học ngày
một tốt hơn, tăng cường bảo đảm sức khỏe và an toàn” [64, tr. 507].
Từ chỗ yêu thương, trân trọng giá trị con người, Hồ Chí Minh yêu cầu nhà
trường phải thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm sự bình đẳng với tất cả
mọi người. Tập trung dân chủ trong nhà trường đòi hỏi các cán bộ, giáo viên và sinh
viên phải tuân thủ nội quy, quy chế của nhà trường, đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; thực hiện thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới
21



×