Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Đánh giá tình hình ô nhiễm kim loại nặng trong đất nông nghiệp và nước ở xã đại đồng huyện văn lâm tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.1 MB, 89 trang )

1. Đặt vấn đề

1.1. Tính cấp thiết của đề tài

Môi trờng ngày nay không còn là vấn đề của mỗi quốc gia mà đà trở
thành vấn đề toàn cầu. Bảo vệ môi trờng đợc xem nh một tiêu chuẩn đạo
đức, một điều kiện để phát triển của một cá nhân, một cộng đồng, một quốc
gia. Trên thế giới, ngay từ năm đầu của thập kỷ 70 môi trờng đà đợc đa
thành chơng trình quốc tế. Hội nghị quốc tế về môi trờng đầu tiên tại
Stokhom - Thuỵ Điển vào năm 1972 đà khẳng định: nguyên nhân của những
vấn đề môi trờng là do sự kém phát triển. Các nớc đang phát triển trong
chiến lợc phát triển kinh tế của mình phải gắn với bảo vệ môi trờng. Từ hội
nghị này vấn đề môi trờng đà đợc các quốc gia thừa nhận nh một nguyên
tắc: Môi trờng, phát triển và hạnh phúc nhân loại là mục tiêu phấn đấu của
cộng đồng các dân tộc.
Trong những năm gần đây, nhờ từng bớc thực hiện quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc cùng với nền kinh tế thị trờng, Việt Nam
đà có những bớc tiến rõ rệt. Tuy nhiên, khi nền kinh tế - xà hội phát triển,
dân số gia tăng, kèm theo áp lực của cơ chế thị trờng đà không tránh khỏi
làm nảy sinh những t duy kinh tế thiếu cân nhắc kỹ lỡng, vợt khỏi tầm
kiểm soát của Nhà nớc trong nhiều lĩnh vực, dẫn đến những hành động duy ý
chí do chạy theo lợi nhuận tối đa, đặc biệt là trong khai thác sử dụng và bảo vệ
tài nguyên thiên nhiên, trong đó có tài nguyên nớc và đất.
Tổng diện tích đất nông nghiệp của nớc ta là 9.345.346 ha chiếm
28,4% tổng diện tích đất tự nhiên[5], vì vậy ô nhiễm đất nông nghiệp là vấn đề
cần đợc quan tâm. Nguyên nhân gây ô nhiễm đất đợc xác định một cách
tổng quát là do chất thải của sinh hoạt, sản xuất công, nông nghiệp. Trong đó,
sự tích luỹ kim loại nặng (KLN) trong đất nông nghiệp và nớc đang là một

1



vấn đề cần đợc quan tâm thoả đáng đặc biệt là khu vực xung quanh các nhà
máy, xí nghiệp, các làng nghề truyền thống, khu dân c và đô thị lớn.
XÃ Đại Đồng nằm ở phía Đông Bắc của huyện Văn Lâm, tỉnh Hng
Yên. Trên địa bàn xà có trục đờng sắt Hà Nội - Hải Phòng, đờng tỉnh lộ 19
và 196 chạy qua. Theo số liệu thống kê năm 2003, tổng diện tích tự nhiên của
xà là 802,96 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp là 560,65 ha chiếm
69,82% tổng diện tích tự nhiên[29]. Thôn Lộng Thợng trong xà có nghề đúc
đồng truyền thống, thôn Xuân Phao và Văn ổ có nghề tái chế kẽm. Hiện nay,
nghề đúc đồng ở thôn Lộng Thợng đang phát triển mạnh với khoảng 100 lò
đúc đồng hoạt động liên tục, thu hút hơn 80% lao động trong thôn. Nghề tái
chế kẽm hiện chỉ còn 6 lò tái chế do nguồn nguyên liệu khan hiếm. Công việc
đúc đồng và tái chế kẽm hoàn toàn thủ công và cha áp dụng một biện pháp
nào nhằm thu gom, xử lý rác, phế thải và nớc thải. Vì vậy, xà Đại Đồng trở
thành một trong những khu vực có nguy cơ bị ô nhiễm môi trờng cao, đặc
biệt là ô nhiễm KLN trong đất nông nghiệp và nớc.
Để đánh giá ảnh hởng của các làng nghề (nghề đúc đồng và nghề tái
chế kẽm) đến sự tích luỹ KLN trong đất nông nghiệp và nớc nhằm đảm bảo
cho nền nông nghiệp bền vững, chúng tôi tiến hành đề tài:
"Đánh giá tình hình ô nhiễm kim loại nặng trong đất nông nghiệp và nớc
ở x Đại Đồng huyện Văn Lâm tỉnh Hng Yên''
1.2. Mục đích và yêu cầu

1.2.1. Mục đích
1. Đánh giá mức độ ảnh hởng của làng nghề đến sự tích luỹ kim loại
nặng trong đất nông nghiệp và nớc của xà Đại Đồng huyện Văn Lâm tỉnh
Hng Yên.
2. Đề xuất biện pháp quản lý nhằm hạn chế sự ô nhiễm kim loại nặng
trong đất nông nghiệp và nớc của xà Đại Đồng huyện Văn Lâm tỉnh H−ng
Yªn.


2


1.2.2. Yêu cầu
1. Đánh giá đúng thực trạng ô nhiễm kim loại nặng trong đất nông
nghiệp và nớc của xà Đại Đồng huyện Văn Lâm tỉnh Hng Yên.
2. Xác định các nguồn gây ô nhiễm kim loại nặng cho đất và nớc trong
khu vực nghiên cứu.
3. Các biện pháp đợc ®Ị xt ph¶i mang tÝnh kh¶ thi.

3


2. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu

2.1. Thực trạng môi trờng

2.1.1. Thực trạng môi trờng thế giới
Ngày nay, các hiểm hoạ và thách thức về môi trờng không còn giíi
h¹n trong ph¹m vi cđa tõng qc gia hay tõng khu vực mà đà mang tính
toàn cầu. Năm 1992, 165 quốc gia đà tham dự Hội nghị Thợng đỉnh về
môi trờng và phát triển của Liên Hiệp Quốc tổ chức ở Rio de Janeiro
(Brazin), báo động cho toàn thể nhân loại biết rằng sự phát triển mạnh mẽ
kinh tế trên toàn thế giới ở thế kỷ 20 đà làm thay đổi khí hậu trái đất theo
chiều hớng xấu đi. Đến năm 1997, hội nghị toàn cầu ở Kyoto (Nhật Bản)
đà đa ra kế hoạch giảm lợng khí thải độc hại, ngăn chặn hiện tợng "hiệu
ứng nhà kính" làm cho trái đất nóng lên và gây ra các thảm họa môi trờng
toàn cầu; và các hội nghị đợc tổ chức ở The Hague (Hà Lan) năm 2000 và
Bonn (Đức) năm 2001 để tiếp tục công việc trên. Môi trờng thế giới trong

những năm đầu thế kỷ 21 đang phải đơng đầu với hàng loạt các vấn đề
sau:
2.1.1.1. Khí hậu toàn cầu biến đổi và tần xuất thiên tai gia tăng
Vào cuối năm 1990, mức phát tán dioxit cacbon (CO2) hàng năm xấp xỉ
bằng 4 lần mức phát tán năm 1950 và hàm lợng CO2 đà đạt đến mức cao nhất
trong những năm gần đây. Theo đánh giá của Ban Liên Chính phủ về biến đổi
khí hậu thì có bằng chứng cho thÊy vỊ ¶nh h−ëng rÊt râ rƯt cđa con ng−êi đến
khí hậu toàn cầu. Những kết quả dự báo gồm việc dịch chuyển của các đới khí
hậu, những thay đổi trong thành phần loài và năng suất của các hệ sinh thái,
sự gia tăng các hiện tợng thời tiết khắc nghiệt và những tác động đến sức
khỏe con ngời. Các nhà khoa học cho biết, trong vòng 100 năm trở lại đây,
trái đất đà nóng lên có thể mang lại những bất lợi, đó là[16]:

4


- Mực nớc biển có thể dâng lên cao từ 25 - 140 cm, do sự tan băng và
sẽ nhấn chìm một vùng ven biển rộng lớn, làm mất đi nhiều vùng sản xuất
nông nghiệp, dẫn đến nghèo đói, đặc biệt ở các nớc đang phát triển[16].
- Thời tiết thay đổi dẫn đến gia tăng tần xuất thiên tai nh gió, bÃo, hỏa
hoạn và lũ lụt. Điều này không chỉ ảnh hởng đến sự sống của loài ngời một
cách trực tiếp và gây ra những thiệt hại về kinh tế mà còn gây ra nhiều vấn đề
môi trờng nghiêm trọng khác. Các trận hỏa hoạn tự nhiên không kiểm soát
đợc vào các năm từ 1996 - 1998 đà thiêu hủy nhiều khu rừng ở Braxin,
Canada, khu tự trị Nội Mông ở Đông Bắc Trung Quốc, Inđônêxia, Italia,
Mêhicô, Liên bang Nga và Mỹ. Những tác động của các vụ cháy rừng có thể
rất nghiêm trọng. Chi phí ớc tính do nạn cháy rừng đối với ngời dân Đông
Nam á là 1,4 tỷ USD, các vụ cháy rừng còn đe dọa nghiêm trọng tới đa dạng
sinh học[16].
2.1.1.2. Sự suy giảm tầng ôzôn (O3)

Vấn đề gìn giữ tầng ôzôn có vai trò sống còn đối với nhân loại. Tầng
ôzôn có vai trò bảo vệ, chặn đứng các tia cực tím có ảnh hởng trực tiếp tới
đời sống của con ngời và các loài sinh vật trên trái đất. Bức xạ cực tím có
nhiều tác động, hầu hết mang tính chất phá hủy đối với con ngời, động vật và
thực vật cũng nh các loại vật liệu khác, khi tầng ôzôn tiếp tục bị suy thoái,
các tác động này càng trở nên tồi tệ. Ví dụ, mức cạn kiệt tầng ôzôn là 10% thì
mức bức xạ tia cực tím ở các bớc sóng gây phá hủy tăng 20%. Bức xạ tia cực
tím có thể gây hỏng mắt, làm đục thủy tinh thể và phá hoại võng mạc, gây ung
th da, làm tăng các bệnh về đờng hô hấp. Đồng thời bức xạ tia cực tím tăng
lên đợc coi là nguyên nhân làm suy yếu các hệ miễn dịch của con ngời và
động vật, đe dọa tới đời sống của động và thực vật nổi trong môi trờng nớc
nhờ quá trình chuyển hóa qua quang hợp để tạo ra thức ăn trong môi trờng
thủy sinh[16].

5


2.1.1.3. Tài nguyên bị suy thoái
Rừng, đất rừng và đồng cỏ hiện vẫn đang bị suy thoái hoặc bị triệt phá
mạnh mẽ, đất hoang bị biến thành sa mạc. Sa mạc Sahara có diện tích rộng 8
triệu km2, mỗi năm tăng thêm 5 - 7 km2. Một bằng chứng mới cho thấy, sự
biến đổi khí hậu cũng là nguyên nhân gây thêm tình trạng xói mòn đất ở nhiều
khu vực. Gần đây, 250 nhà Thổ nhỡng học đợc Trung tâm Thông tin và T
liệu Quốc tế Hà Lan tham khảo lấy ý kiến đà cho rằng, khoảng 305 triệu ha
đất màu mỡ (gần bằng diện tích của Tây Âu) đà bị suy thoái do bàn tay của
con ngời, làm mất đi tính năng sản xuất nông nghiệp. Khoảng 910 triệu ha
đất tốt (tơng đơng với diện tích của Ôxtrâylia) sẽ bị suy thoái ở mức trung
bình, giảm tính năng sản xuất và nếu không có biện pháp cải tạo thì quỹ đất
này sẽ bị suy thoái ở mức độ mạnh trong tơng lai gần. Theo Tổ chức Lơng
thực Thực phẩm thế giới (FAO) thì trong vòng 20 năm tới, hơn 140 triệu ha

đất (tơng đơng với diện tích của Alaska) sẽ bị mất đi giá trị của trồng trọt và
chăn nuôi. Đất đai ở hơn 100 nớc đang chuyển chậm sang dạng hoang mạc,
nghĩa là có khoảng 900 triệu ngời đang bị đe dọa. Trên phạm vi toàn cầu,
khoảng 25 tỷ tấn đất đang bị cuốn trôi hàng năm vào các sông ngòi và biển
cả[16].
- Sự phá hủy rừng vẫn ®ang diƠn ra víi møc ®é cao, trªn thÕ giíi diện
tích rừng có khoảng 40 triệu km2, song cho đến nay diện tích này đà bị mất đi
một nửa, trong số đó, rừng ôn đới chiếm khoảng 1/3 và diện tích rừng nhiệt
đới 2/3. Sự phá hủy rừng xảy ra mạnh, đặc biệt ở những nớc đang phát triển.
Chủ yếu do nhu cầu khai thác gỗ củi, nhu cầu lấy đất làm nông nghiệp và cho
nhiều mục đích khác[16].
ở các nớc phát triển, diện tích rừng tăng 9 triệu ha, con số này còn quá
nhỏ so với diện tích rừng đà bị mất đi. Chất lợng của những khu rừng còn lại
đang bị đe doạ bởi nhiều sức ép do tình trạng gia tăng dân số, ma axit, nhu
cầu khai thác gỗ củi và cháy rừng. Nơi c trú của các loài sinh vật bị thu hẹp,

6


bị tàn phá, đe doạ tính đa dạng sinh học ở các mức độ về gien, các giống loài
và các hệ sinh thái[16].
- Với tổng lợng nớc là 1386.106 km3, bao phủ gần 3/4 diện tích bề
mặt trái đất, nhng loài ngời vẫn "khát" giữa đại dơng mênh mông, bởi vì
với tổng lợng nớc đó thì nớc ngọt chỉ chiếm 2,5% tổng lợng nớc, mà
hầu hết tồn tại ở dạng đóng băng và tập trung ở hai cực, còn lợng nớc ngọt
mà con ngời có thể tiếp cận để sử dụng trực tiếp thì lại rất ít ỏi (chỉ chiếm
0,26%). Sự gia tăng dân số nhanh cùng với quá trình công nghiệp hoá, đô thị
hoá, thâm canh nông nghiệp và các thói quen tiêu thụ nớc quá mức đang gây
ra sự khủng hoảng nớc trên phạm vi toàn cầu. Gần 20% dân số thế giới
không đợc dùng nớc sạch và 50% thiếu các hệ thống vệ sinh an toàn. Sự suy

giảm nớc ngọt ngày càng lan rộng hơn và gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng,
đó là nạn thiếu nớc ở nhiều nơi và đối với các khu vực ven biển đó là sự xâm
nhập mặn. Ô nhiễm nớc uống là phổ biến ở các siêu đô thị, ô nhiễm nitrat
(NO3-) và sự tăng khối lợng các KLN gây tác động đến chất lợng nớc hầu
nh ở khắp mọi nơi. Nguồn cung cấp nớc sạch trên thế giới không thể tăng
lên đợc nữa, ngày càng có nhiều ngời phụ thuộc vào nguồn cung cấp cố
định này và ngày càng có nhiều ngời chịu ảnh hởng của ô nhiễm hơn[16].
2.1.1.4. Ô nhiễm môi trờng đang xảy ra ở quy mô rộng
Sự phát triển đô thị, khu công nghiệp, du lịch và việc đổ bỏ các loại chất
thải vào đất, biển, các thuỷ vực đà gây ô nhiễm môi trờng ở quy mô ngày
càng rộng, đặc biệt là các khu đô thị. Nhiều vấn đề môi trờng tơng tác với
nhau ở các khu vực nhỏ, mật độ dân số cao. Ô nhiễm không khí, rác thải, chất
thải nguy hại, ô nhiễm tiếng ồn và nớc đang biến những khu vực này thành
các điểm nóng về môi trờng. Khoảng 30 - 60% dân số đô thị ở các nớc có
thu nhập thấp vẫn còn thiếu nhà ở và các điều kiện vệ sinh. Lợng nớc ngọt
đang khan hiếm trên hành tinh cũng bị chính con ngời làm tổn thơng, một
số nguồn nớc bị nhiễm bẩn nặng đến mức không còn khả năng hoàn nguyªn.

7


Hiện nay, đại dơng đang bị biến thành nơi chứa rác khổng lồ của con
ngời, nơi chứa đựng đủ loại chất thải của nền văn minh kỹ thuật, kể cả chất
thải hạt nhân. Việc đổ các chất thải xuống biển đang làm ô nhiễm các khu vực
ven biển trên toàn thế giới, gây huỷ hoại các hệ sinh thái nh đất ngập nớc,
rừng ngập mặn và các dải san hô.
Trên thế giới, nhiều vùng đất đà đợc xác định là bị ô nhiễm. Ví dụ, ở
Anh đà chính thức xác nhận 300 vùng với diện tích 10.000 ha bị ô nhiƠm, tuy
nhiªn trªn thùc tÕ cã tíi 50.000 - 100.000 vùng với diện tích khoảng 100.000
ha bị ô nhiễm. Còn ở Mỹ, có khoảng 25.000 vùng, ở Hà Lan là 6.000 vùng đất

bị ô nhiễm cần phải xử lý[16].
2.1.1.5. Sự gia tăng dân số
Con ngời là chủ của trái đất, là động lực chính làm tăng thêm giá trị
của các điều kiện kinh tế - xà hội và chất lợng cuộc sống. Tuy nhiên, xung
lợng gia tăng dân số hiện nay ở một số nớc đi đôi với đói nghèo, suy thoái
môi trờng và tình hình kinh tế bất lợi đà gây ra xu hớng làm mất cân bằng
nghiêm trọng giữa dân số và môi trờng.
Đầu thế kỷ XIX, dân sè thÕ giíi míi cã 1 tû ng−êi nh−ng ®Õn năm 1999
đà tăng lên 6 tỷ ngời, trong đó trên 1 tû ng−êi trong ®é ti tõ 14 - 24 tuổi.
Mỗi năm dân số thế giới tăng thêm khoảng 78 triệu ngời. Theo dự tính đến
năm 2015, dân số thế giíi sÏ ë møc 6,9 - 7,4 tû ng−êi vµ đến năm 2025 dân số
sẽ là 8 tỷ ngời. 95% dân số tăng thêm nằm ở các nớc đang phát triển, do đó
các nớc này sẽ phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng cả về kinh tế, xÃ
hội, đặc biệt là môi trờng sinh thái. Việc giải quyết những hậu quả do dân số
tăng của những nớc này có lẽ còn khó khăn gấp nhiều lần những xung đột về
chính trị trên thế giới[16].
2.1.1.6. Sự suy giảm đa dạng sinh học
Các loài động thực vật qua quá trình tiến hoá hàng trăm triệu năm đà và
đang góp phần quan trọng trong việc duy trì sự cân bằng môi tr−êng sèng trªn

8


trái đất, ổn định khí hậu, làm sạch các nguồn nớc, hạn chế xói mòn đất, làm
tăng độ phì nhiêu đất. Sự đa dạng của tự nhiên cũng là nguồn vật liệu quý giá
cho các ngành công nghiệp, dợc phẩm, du lịch, là nguồn thực phẩm lâu dài
của con ngời và là nguồn gien phong phú để tạo ra các giống loài mới. Tuy
nhiên, nhân loại đang phải đối mặt với một thời kỳ tuyệt chủng lớn nhất của
các loài động và thực vật. Thảm họa này tiến triển nhanh nhất và có hậu quả
rất nghiêm trọng. Theo tính toán, trên thế giới có 492 chủng quần thực vật có

tính chất di truyền độc đáo đang bị đe doạ tuyệt chủng. Sự đe doạ không chỉ
riêng đối với động thực vật hoang dại mà trong nhiều thập kỷ gần đây với
cuộc cách mạng xanh trong nông nghiệp, công nghiệp hoá đà làm biến mất
nhiều giống loài địa phơng quý hiếm, 1.500 giống lúa địa phơng đà bị tuyệt
chủng trong 20 năm qua ở Inđônêxia. Đối với vật nuôi trên toàn cầu, đà có
474 giống vật nuôi đợc coi là quý hiếm và tổng cộng đà có 617 giống vật
nuôi đà tuyệt chủng[16].
Ngoài ra còn xuất hiện nhiều vấn đề môi trờng khác nữa nh sức
khoẻ và định c, ô nhiễm biĨn, quan hƯ kinh tÕ qc tÕ, an ninh vµ môi
trờng...
2.1.2. Thực trạng môi trờng Việt Nam
Cũng nh nhiều nớc đang phát triển khác trên thế giới có thu nhập
thấp với dân số đông, Việt Nam đang đối đầu với những vấn đề gay cấn do tài
nguyên thiên nhiên bị xuống cấp và sự sa sút của chất lợng môi trờng. Sự
chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang một nền kinh tế
hớng theo thị trờng đà đẩy nhanh sự tăng trởng kinh tế. Việc giải phóng
sức sản xuất nông nghiệp, công nghiệp cũng nh việc phát triển nền kinh tế
dịch vụ, việc mở cửa cho đầu t nớc ngoài, đẩy mạnh xuất khẩu và tham gia
vào nền thơng mại khu vực và quốc tế, đà tạo nên thành tựu lớn về kinh tế và
xà hội cho nhân dân Việt Nam. Nền kinh tế tăng trởng tơng đối nhanh,
nhng đồng thời nớc ta cũng đang phải đối đầu với một số vấn đề gay cấn

9


trong khi thực hiện mục tiêu phát triển của mình là vấn đề môi trờng. Các
gay cấn đó về môi trờng đặc biệt khó giải quyết, vì sự tăng trởng kinh tế và
việc bảo vệ môi trờng cho ngày nay và cho thế hệ mai sau, thờng mâu thuẫn
trực tiếp với nhau[1].
Hiện nay có nhiều vấn đề về môi trờng mà Việt Nam đang phải đối

đầu, trong đó những vấn đề nghiêm trọng nhất là phá rừng, sự khai thác quá
mức tài nguyên sinh học, tài nguyên khoáng sản, sự xuống cấp của tài nguyên
đất, việc bảo tồn nớc ngọt kém hiệu quả, nạn thiếu nớc ngọt và nạn ô nhiễm
gia tăng, đó là cha kể đến tác động lâu dài của chiến tranh đến môi trờng...
Những vấn đề rắc rối nói trên đang ngày càng trầm trọng hơn do dân số tăng
nhanh và nạn đói nghèo còn cha giải quyết đợc một cách cơ bản. Tuy nhiên
trong khuôn khổ đề tài, chúng tôi chỉ đề cập đến thực trạng, nghiên cứu của
các nhà khoa học và nguyên nhân của việc ô nhiễm môi trờng đất và môi
trờng nớc ở Việt Nam.
2.1.2.1. Ô nhiễm môi trờng đất
Ô nhiễm đất đợc xem là tất cả các hiện tợng làm nhiễm bẩn môi
trờng đất bởi các chất gây ô nhiễm. Đất bị ô nhiễm có thể phân loại theo
nguồn gốc phát sinh, hoặc các tác nhân gây ô nhiễm: do chất thải sinh hoạt,
do hoạt động công nghiệp, do hoạt động nông nghiệp, do chất độc hoá học...
Ô nhiễm đất sẽ làm đảo lộn cân bằng sinh thái, các chất dinh dỡng và phá
huỷ cấu trúc của đất, dới đây là một số nguyên nhân chủ yếu gây ô nhiễm
đất:
Ô nhiễm do tác nhân sinh học
Những tác nhân sinh học có thể làm ô nhiễm đất, gây ra bệnh ở ngời và
động vật nh trực khuẩn lỵ, thơng hàn hoặc amip, ký sinh trùng (giun, sán...).
Sự ô nhiễm này phát sinh là do những phơng pháp đổ bỏ chất thải hoặc sử
dụng phân bắc tơi, bùn ao tơi, bùn kênh dẫn chất thải sinh hoạt bón trực tiếp
cho đất.

10


Hiện nay, ở các vùng nông thôn miền Bắc, tập quán sử dụng phân bắc
và phân chuồng tơi trong canh tác vẫn còn phổ biến. Chỉ tính riêng trong nội
thành Hà Nội, hàng năm lợng phân bắc thải ra khoảng 550.000 tấn, trong khi

đó, công ty Vệ sinh môi trờng chỉ đảm bảo thu đợc 1/3, số còn lại đợc
nông dân chuyên chở về bón cho cây trồng gây mất vệ sinh và gây ô nhiễm
đất. ở các vùng nông thôn phía Nam, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu
Long (ĐBSCL), phân tơi ở một số nơi còn đợc coi là nguồn thức ăn cho
cá[16].
Tại vùng trồng rau Mai Dịch (Từ Liêm, Hà Nội) mật độ trứng giun đũa
là 27,4 trứng/100g đất; trứng giun tóc là 3,2 trứng/100g đất[16]. Theo điều tra
của Viện Thổ nhỡng - Nông hoá (1993 - 1994), tại một số vùng trồng rau,
nông dân chủ yếu sử dụng phân bắc tơi với liều lợng khoảng tõ 7 - 12
tÊn/ha. Do vËy, trong 1 lÝt n−íc mơng máng khu trồng rau có tới 360 E. coli,
ở nớc giếng công cộng là 20, còn trong đất lên tới 2.105/100g đất. Chính vì
thế, khi điều tra sức khoẻ ngời trồng rau thờng xuyên sử dụng phân bắc tơi
cho thÊy cã tíi 60% sè ng−êi cã tiÕp xóc víi phân bắc từ 5 - 20 năm; 26,7%
tiếp xúc trên 20 năm làm cho 53,3% số ngời đợc điều tra có triệu trứng
thiếu máu (nam 37,5%; nữ 62,5%); 60% số ngời bị bệnh ngoài da (nam:
27,8%; nữ: 72,2%). Nh vậy ở Việt Nam, tình hình đất bị nhiễm trứng giun ký
sinh, nhiƠm vi sinh vËt vÉn nỉi lªn ë tõng nơi, từng lúc, nhất là ở vùng nông
thôn và vùng trồng rau hàng hoá[16].
Ô nhiễm đất do chất thải công nghiệp
Các chất thải công nghiệp có thể ở dạng lỏng, khí hoặc dạng rắn, có
thể là chất vô cơ, hữu cơ, xà phòng, thuốc nhuộm, kiềm hoặc axit... Đặc
biệt nguy hiểm là các kim loại nặng nh chì, thuỷ ngân, asen...
Ô nhiễm đất do nớc thải sinh hoạt, nớc thải công nghiệp, rác thải,
bụi, khói ở một số vùng sản xuất nông nghiệp ven đô Hà Nội, Nha Trang,
thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Cần Thơ, khu công nghiệp Việt Trì... đÃ

11


đợc ghi nhận là đang trở thành vấn đề môi trờng cấp bách và đang gia tăng

theo tốc độ đô thị hoá và phát triển công nghiệp. Hiện trạng ô nhiễm đất xung
quanh các lò gạch, ngói, gốm sứ, nhà máy luyện kim mà theo kết quả nghiên
cứu bớc đầu của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trờng (KHCN&MT) (1995)
trớc đây đà cho thấy các chất độc hại nh cacbonmonooxyt, asbestos, berillum,
thuỷ ngân, asen, KLN... tích luỹ trong đất theo hớng ngày càng tăng, xâm
nhập vào nông sản, thực phẩm... gây ô nhiễm môi trờng.
Đất càng ở gần trung tâm công nghiệp, nhà máy thì khả năng bị ô
nhiễm càng lớn. Khi đất bị ô nhiễm, thực vật, nớc uống cho vật nuôi bị
nhiễm độc rồi gây ảnh hởng ®Õn con ng−êi. NhiỊu loµi sinh vËt trong ®Êt,
trong n−íc bị tiêu diệt nh: giun đất, côn trùng có ích, vi sinh vật đất...[2].
Đất của một số vùng kế cận một số khu công nghiệp ở Hà Nội, Thái
Nguyên, khu hoá chất Đức Giang, khu công nghiệp Văn Điển, Việt Trì, Biên
Hoà... đà có hiện tợng bị ô nhiễm do các loại chất thải. Ví dụ, đất ở quanh khu
vực nhà máy pin Văn Điển, hoá chất Đức Giang, hàm lợng sunphat tích luỹ
trong đất một phần có nguồn gốc từ khói nhà máy, bụi, khói xăng của các
phơng tiện giao thông cơ giới[2].
Ô nhiễm đất do phân hoá học
Do áp lực của sự gia tăng dân số, nguồn tài nguyên đất bị thu hẹp, cộng
với xu thế giảm độ phì của đất đà dẫn đến việc tăng số lợng sử dụng phân bón
để đạt đợc sản lợng nông nghiệp lớn hơn. Việt Nam là một nớc đang phát
triển, có bình quân thu nhập trên đầu ngời thấp, nông nghiệp chiếm một vai trò
quan trọng với 75% lao động và 80% dân số sống về nông nghiệp do vậy việc
sử dụng phân bón trong nông nghiệp, đặc biệt phân hoá học ngày một tăng lên.
Lợng phân hoá học ở Việt Nam đợc sử dụng ở mức trung bình là 62,7
kg/ha vào năm 1985 và 73,5 kg/ha vào năm 1990. Hiện nay mức sử dụng phân
hoá học ở Việt Nam cha cao, tuy nhiên ở một số vùng sản xuất rau thâm
canh, phân hoá học đà bị lạm dụng quá mức, gây mất cân đối dinh dỡng đối

12



với cây trồng, làm giảm chất lợng nông phẩm và làm suy thoái đất vùng sản
xuất rau nh ở Hà Nội, Đà Lạt...[12].
Trong việc sử dụng phân hoá học, nếu biết dùng đúng loại phân, đúng
cách, đúng đất thì sẽ cho hiệu quả cao, nhng thực ra phân hoá học thiếu tác
dụng tổng hợp toàn diện và bền vững nh phân hữu cơ. Bởi vì phân hoá học
chỉ chứa một vài chất dinh dỡng cần thiết chiếm 5 - 10% hoặc nhiều lắm là
20 - 30% lợng phân đem bón. Phần còn lại là những chất không cần cho cây
trồng mà có khi còn gây độc cho cây hoặc làm chai cứng đất nhất là khi dùng
quá liều. Ví dụ, phân lân là loại phân hoá học khó hoà tan trong nớc, chỉ có
khoảng 10% lân bón vào đất là có thể hoà tan đợc cho cây hút. Hơn 90%
lợng phân bón vào đất không hoà tan trong nớc đợc tích trữ lại trong đất là
nguồn gây ô nhiễm môi trờng đất. Chúng làm thay đổi thành phần và tính
chất đất, nếu sử dụng không hợp lý sẽ làm chai cứng đất, làm chua đất, làm
thay đổi cân bằng dinh dỡng giữa đất với cây trồng. Mặt khác khi đất đà bÃo
hoà các chất, chúng sẽ xâm nhập vào nguồn nớc, vào khí quyển gây ô
nhiễm[12].
Các loại phân đạm và phân kali thì ngợc lại, dễ hoà tan, có thể
hoà tan trong nớc để tới cho cây, nhng cũng chỉ có một phần đạm và
kali đợc cây sử dụng, phần thừa của phân mà cây không cần dùng nh
các gốc sunphat sẽ bị giữ lại trong đất cũng làm cho đất chua thêm hoặc
bị trôi thấm vào đất, vào nớc, làm ô nhiễm nguồn đất, nguồn nớc gây
độc hại cho sản xuất và sinh hoạt.
Ô nhiễm đất do hoá chất bảo vệ thực vật
Trong cả nớc, bình quân từ năm 1976 - 1980 đà sử dụng hoá chất bảo
vệ thực vật 5.100 tấn/năm, từ 1981 - 1985 bình quân 3.920 tấn/năm, ớc tính
hiện nay khoảng 50.000 tấn/năm. Mức độ sử dụng hoá chất bảo vệ thực vật
thay đổi theo vùng cây trồng (lúa, rau, cây công nghiệp). Vùng trồng rau sư
dơng HCBVTV víi tÇn st lín gÊp nhiỊu lÇn so víi vïng trång lóa. VÝ dơ, ë


13


vùng trồng rau Mai Dịch và Tây Tựu (Từ Liêm, Hà Nội), Đà Lạt (Lâm
Đồng) trong mỗi vụ rau trung bình phun từ 28 - 30 lần, ở vùng trồng lúa của
đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) mỗi vụ lúa phun thuốc từ 1 - 3 lần, ở vùng
trồng lúa ĐBSCL mỗi vụ phun thuốc từ 2 - 5 lần[12].
Đa số các HCBVTV phân huỷ trong nớc rất chậm (từ 6 - 24 tháng), tạo
ra d lợng đáng kể ở trong đất. Trung bình có khoảng 50% lợng thuốc trừ
sâu đợc phun đà rớt xuống đất và lôi cuốn vào chu trình đất - cây - động vật ngời. Theo Lichtenstein (1961) 1 năm sau khi phun, DDT còn 80%, Lindan
còn 60%, Aldrin còn 20%; sau 3 năm DDT còn 50%, Aldrin còn 5%. Clo hữu
cơ tồn tại trong đất từ 4 - 15 năm, cacbonat từ 1 - 2 năm[12].
Việc tăng cờng sử dụng các chất hoá học có tác động mạnh đến môi
trờng đất, gây hại đến nhiều cho hệ sinh vật sống trong đất, các loài động
thực vật sống trên đất làm nhiễu loạn cân bằng sinh học. Đất thiếu sinh vật
sống trở nên môi trờng trơ, gây cản trở cho việc sử dụng đất lâu dài và gián
tiếp tác động tiêu cực đến cây trồng.
Ô nhiễm đất do chất độc hoá học
Theo thống kê của chính phủ Mỹ, gần 50% diện tích rừng và đất canh
tác ở miền Nam Việt Nam đà bị rải chất độc hoá học từ 1 lần trở lên. Mỹ đà sử
dụng 72 triệu lít chất làm rụng lá và diệt cỏ có nồng độ cao, trong đó chất độc
màu da cam có chứa dioxin chiếm 60%, chất trắng chiếm 13% và chất xanh
chiếm 27%. Cùng với 15 triệu tấn bom đạn cũng đợc thả xuống đà huỷ diệt
hàng triệu ha rừng và ®Êt trång trät, nhiƠm ®éc nhiỊu ngn n−íc, g©y tỉn hại
nghiêm trọng về số lợng và chủng loại các sinh vật, về chế độ khí hậu thuỷ
văn dòng chảy, đặc biệt gây hậu quả nghiêm trọng về sức khoẻ con ngời[12].
2.1.2.2. Ô nhiễm môi trờng nớc
Ô nhiễm nớc mặt, nớc ngầm và nớc ven bờ ngày càng trở nên rõ rệt
ở Việt Nam. Hạ lu các con sông chính của Việt Nam có chất lợng nớc xấu
trong khi đó các ao, hồ, kênh mơng nội thị thì đang nhanh chóng biÕn thµnh


14


các bể chứa nớc thải. Các tầng chứa nớc dới đất cũng có dấu hiệu ô nhiễm
và nhiễm mặn ở một vài nơi. Nớc ven bờ cũng đang bị ô nhiễm do các nguồn
ô nhiễm trên đất liền, các hoạt động xây dựng cảng, sự cố tràn dầu và xói lở
bờ biển.
Ô nhiễm nguồn nớc mặt
Số liệu về chất lợng nớc mặt của Việt Nam còn rất ít, các kết quả
thực nghiệm còn cha đợc thực hiện nhiều, nhng cũng cho thấy mức ô
nhiễm ở hạ lu của một số con sông chính ngày càng tăng.
Chất lợng nớc ở vùng thợng lu của hầu hết các con sông chính
còn khá tốt, trong khi ở vùng hạ lu đà có dấu hiệu bị ô nhiễm do ảnh
hởng của các vùng đô thị và các cơ sở công nghiệp. Mạng quan trắc môi
trờng quốc gia đà tiến hành quan trắc ở 4 con sông chảy qua các khu đô
thị chính của Việt Nam là sông Hồng (Hà Nội), sông Cấm (Hải Phòng),
sông Hơng (Huế) và sông Sài Gòn (TP. Hồ Chí Minh). Tuy nhiên cũng có
một số sông ở các vùng khác nhau đợc quan trắc nh sông Cầu, sông Hàn
và sông Thị Vải. Kết quả cho thấy, giá trị đo đợc của 2 thông số ô nhiễm
cơ bản là amôni (NH4+) và nhu cầu oxy sinh hoá (BOD) dao động khá nhiều
và vợt mức tiêu chuẩn cho phép (TCCP) về chất lợng nớc loại A của
Việt Nam một vài lần. Tình trạng ô nhiễm càng trở nên trầm trọng hơn vào
mùa khô, khi mà các dòng chảy sông ngòi hạ thấp. Ngày càng có nhiều các
kênh, ngòi, mơng và ao hồ ở nội đô trở thành nơi chứa nớc thải công
nghiệp và sinh hoạt. Hầu hết các hồ ở Hà Nội có lợng BOD rất cao. Tơng
tự, 4 sông nhỏ ở nội đô Hà Nội và 5 con kênh ở thành phè Hå ChÝ Minh cã
nång ®é DO rÊt thÊp (0 - 2 mg/l), và nồng độ BOD ở mức cao (50 - 200
mg/l)[24].
Ngoài nguồn thải sinh hoạt từ con ngời, công nghiệp và các nguồn

thải khác cũng góp phần gây ô nhiễm. Mỗi ngày các khu công nghiệp và
các khu chÕ xt ë khu vùc kinh tÕ träng ®iĨm phÝa Nam thải trên 137.000

15


m3 nớc thải có chứa gần 93 tấn chất thải các loại ra các hệ thống sông
Đồng Nai, Thị Vải và Sài Gòn. Trong khi đó chỉ có 2 trong 12 khu công
nghiệp và khu chế xuất của Thành phố Hồ Chí Minh, 3 trong 17 khu công
nghiệp và khu chÕ xt cđa §ång Nai, 2 trong sè 13 khu của Bình Dơng,
và không có khu nào của Bà Rịa - Vũng Tàu có hệ thống xử lý nớc thải.
Theo tính toán, để giải quyết ô nhiễm môi trờng ở khu vực kinh tế trọng
điểm phía Nam cần phải đầu t khoảng 6 nghìn tỷ đồng (380 triệu đôla Mỹ)
đến năm 2005 và 13 nghìn tỷ đồng (812 triệu đôla Mỹ) đến năm 2010[24].
Khoảng 70 khu công nghiệp đà và đang đợc xây dựng, và hơn 1.000
bệnh viện trên cả nớc mỗi ngày thải ra hàng triệu m3 nớc thải cha qua
xử lý. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trờng, có khoảng 4.000 cơ sở sản xuất
gây ô nhiễm, trong số đó 439 cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng cần phải di
dời, đóng cửa hoặc phải chấp nhận áp dụng các công nghệ sạch và tiến
hành xử lý nớc thải[24].
Ô nhiễm nguồn nớc ngầm
Nớc ngầm là nguồn cung cấp nớc rất quan trọng cho sinh hoạt, nông
nghiệp và công nghiệp. Chất lợng nớc ngầm vẫn còn tốt, tuy vậy nhiều nơi
đà có dấu hiệu bị ô nhiễm. Ô nhiễm do các bể xí tự hoại, các bÃi chôn lấp rác
thải không đợc xử lý tốt, nớc thải công nghiệp cũng nh việc khai thác quá
mức đà thể hiện ở mét sè vïng nh− Hµ Néi, thµnh phè Hå ChÝ Minh và
ĐBSCL. Một nghiên cứu ở Hà Nội đà cảnh báo về tình hình ô nhiễm amôni
trong nớc ngầm ở phía Nam Hà Nội. Nồng độ amôni trong nớc đà qua xử lý
của 3 nhà máy nớc cao hơn TCCP 2 - 8 lần. Các nhà khoa học ớc tính với
mức khai thác 700.000 m3/ngày nh hiện nay sẽ dẫn đến nguy cơ hạ thấp mực

nớc ngầm kéo theo sự lún mặt đất và hiện tợng ô nhiễm nguồn nớc ngầm
sẽ phổ biến ở Hà Nội[24].
Việc hạ thấp mực nớc ngầm đà làm tăng sự xâm nhập của nớc mặn,
nớc thải sinh hoạt và nớc thải công nghiệp, thậm chí gây ra lún đất. Nhiễm

16


mặn nớc ngầm ngày càng gia tăng và là mối nguy hại cho nguồn cung cấp
nớc sạch sinh hoạt, đặc biệt là ở các vùng ĐBSH, duyên hải miền Trung và
ĐBSCL. ở vùng ĐBSH, nồng độ nhiễm mặn cao hơn 3% đà thâm nhập vào
sâu hơn 60 km trong đất liền kéo đến tận phía Bắc Hải Dơng và Nam tỉnh
Nam Định. ở vùng ĐBSCL, nớc bị nhiễm mặn đà đợc ghi nhận trên một
nửa diện tích cả vùng[24].
Suy thoái và ô nhiễm nớc ngầm xảy ra mạnh mẽ ở các khu vực đô thị,
nhất là ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp, khu trồng cây công nghiệp
cần nhiều nớc sinh hoạt và nớc tới. ở vùng đồi núi, mặc dù mức độ ô nhiễm
về nguồn nớc còn cha đáng lo ngại, nhng đang có xu thế giảm dần trữ lợng
và hạ thấp mực nớc ngầm do mất rừng.
ô nhiễm nớc biển và ven biển
Việt Nam có bờ biển dài hơn 3260 km, với đặc điểm có nhiều vùng đất
ngập nớc và nhiều kiểu hệ sinh thái biển, với khoảng 100 hệ thống cửa sông
lớn nhỏ. Nhìn chung, chất lợng nớc ở các vùng ven biển vẫn còn nằm trong
giới hạn cho phép của các tiêu chuẩn quốc gia, trừ một số vùng cửa sông. Mối
đe doạ đối với chất lợng nớc ven biển bao gồm các nguồn ô nhiễm trên đất
liền đợc xả thải qua các hệ thống sông và cống rÃnh, sử dụng thuốc độc (nh
xyanua) để đánh bắt cá, các hoạt động du lịch không đợc quản lý, phát triển
giao thông và xây dựng cảng, ngành công nghiệp dầu khí. Sự cố tràn dầu gây
ô nhiễm rất lớn đến các vùng biển ven bờ. Khoảng 30% hàng hoá cập tại các
bến cảng là dầu. Các hoạt động khai thác ngoài khơi cũng tăng lên hàng năm.

Từ năm 1996 đến năm 2002, sản xuất dầu thô tăng từ 8,8 lên 17 triệu tấn/năm.
Mỗi năm có khoảng 772.000 tấn dầu bị rò rỉ ra vùng biển Đông từ các hoạt
động khai thác dầu. Trong giai đoạn 1995 - 2002 có ít nhất 35 vụ tràn dầu lớn
đà xảy ra trên biển. Uớc tính có khoảng 92.000 tấn dầu từ các sự cố tràn dầu
này chảy ra môi tr−êng biĨn vµ ven biĨn[24].

17


2.2. Tình hình ô nhiễm môi trờng làng nghề

Sự phục hồi và phát triển của các làng nghề trong những năm gần đây
đà góp phần đáng kể trong việc tạo thu nhập, giải quyết lao động, xoá đói
giảm nghèo ở nông thôn, song cũng đang gây những tác động bất ổn đến môi
trờng sống.
Theo kết quả điều tra quy hoạch phát triển ngành nghề thủ công của
Cục chế biến nông lâm sản và ngành nghề nông thôn (Bộ nông nghiệp và phát
triển nông thôn), Việt Nam hiện có trên 2000 làng nghề thủ công thuộc 11
nhóm nghề thủ công chính nh cói, sơn mài, mây tre đan, gốm sứ, thêu ren,
dệt, gỗ, đá, giấy, tranh dân gian và kim khí. Những làng nghề này hiện thu hút
khoảng 1,3 triệu hộ gia đình tham gia lao động[23].
Làng nghề tập trung phần lớn ở các tỉnh phía Bắc (1.594 làng nghề,
chiếm 79% tổng số làng nghề trong cả nớc). Những làng nghề thủ công ở
khu vực này có truyền thống lâu đời, phát triển tơng đối đồng đều, chiếm tỷ
trọng cao trong thủ công nghiệp địa phơng. Một số địa phơng tập trung
đông làng nghề là Hà Tây, Bắc Ninh, Hng Yên, Thái Bình, Nam Định. Các
tỉnh phía Nam và Nam Trung Bé cã 312 lµng nghỊ, chiÕm 15,5% tËp trung
chđ u ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng NgÃi, Vĩnh Long và TP Hồ Chí Minh.
Nhiều tỉnh, thành phố khác không có làng nghề hoặc số lợng làng nghề
không đáng kể, các tØnh miỊn Trung cã 111 lµng nghỊ chiÕm 5,5% tỉng số

làng nghề trong cả nớc[23].
Do các hoạt động sản xuất nên hàm lợng bụi, khí độc, tiếng ồn và
nớc thải tại các làng nghề đều vợt quá TCCP, gây hại nghiêm trọng cho sức
khoẻ ngời dân. Tỷ lệ bệnh tật chung ở các làng nghề là 13 - 60%, trong khi
tại các xà thuần nông tỷ lệ này là 11%[27].
Theo kết quả phân tích của Trung tâm khoa học công nghệ môi trờng
Trờng đại học Bách khoa (Hà Nội) khi lÊy mÉu n−íc th¶i tõ 6 x−ëng s¶n xt
giÊy thc xà Phú Lâm (Bắc Ninh) từ 5 đến 9 chỉ tiêu phân tích có hàm lợng

18


cao hơn TCCP, trong đó có các chỉ tiêu H2S, SO4, và CuO cao hơn TCCP từ 5
đến 14 lần gây ra mùi khó chịu, hạn chế quá trình quang hợp ôxy của các sinh
vật thuỷ sinh[27].
ở làng rèn Đa Hội, tập trung hơn 600 hộ sản xuất cơ khí, trong đó 100
hộ cán thép, 22 hộ đúc phôi, 130 hộ cắt, đột dập, 138 hộ rút thép và nhiều hộ
sản xuất cơ khí khác... mức độ ô nhiễm môi trờng càng nặng. Mỗi tháng các
cơ sở sản xuất tiêu thơ 18.000 tÊn s¾t vơn, 30.000 tÊn than, 4.000 tÊn dầu mỡ,
phụ liệu khác. Các xởng sản xuất cơ khí ở làng rèn Đa Hội thải ra hàng chục
nghìn tấn xỉ than, xỉ sắt không qua xử lý đổ ra sông Ngũ Huyện Khuê. Khối
lợng bụi và nhiệt năng đợc tạo ra từ quá trình sản xuất, từ sự lu thông quá
tải của lu lợng ngời và xe cộ trong ngày khiến cho môi trờng không khí
trở nên ô nhiễm nặng. Hiện tợng bụi đo đợc ở đây từ 2,18 đến 3,7 mg/m3,
cao hơn TCCP từ 5 đến 12 lần. Nhiệt độ thờng xuyên cao hơn nhiệt độ môi
trờng từ 40 C đến 50 C, có nơi lên tới 100 C. Tiếng ồn đo đợc ở các cơ sở cán,
cắt sắt vợt TCCP từ 18 đến 20 lần, các cơ sở sản xuất khác là 17 lần. ở các
khu vực sản xuất đồ gỗ nh các làng nghề Đồng Kỵ, Phù Khê, Hơng Mạc...
hàm lợng bụi, các-bon, nhiệt độ, tiếng ồn tuy có thấp hơn so với khu vực sản
xuất cơ khí nhng vẫn vợt so với TCCP từ 2 đến 3 lần. Nồng độ pH và lợng

ôxy hoà tan trong nớc quá thấp (1,8 đến 2,1 mg/m3). Trong khi hàm lợng
dầu mỡ lại cao vợt chỉ tiêu cho phép từ 2,2 đến 2,6 lần. Điều đáng nói là,
hàm lợng bụi ở đây chủ yếu là bụi sắt và bụi gỗ, nên tác hại của nó đối với
sức khoẻ con ngời lớn hơn nhiều so với bụi khác. Kết quả kiểm tra mới đây
cho thấy tỷ lệ ngời dân Đa Hội mắc các bệnh về tai, mũi, họng, hô hấp, mắt,
thần kinh... chiếm từ 48% đến 62%. Tỷ lệ này có chiều hớng tăng lên theo
thời gian. Tại Đình Bảng (Bắc Ninh), nơi tập trung các xởng sản xuất bia hơi,
nguồn nớc thải mang nồng độ axít và lợng các-bon cao gây ô nhiễm toàn bộ
hệ thống kênh tiêu trong khu vực, huỷ diệt các sinh vật sống và bốc mïi h«i
thèi[27].

19


XÃ Nam Cao huyện Kiến Xơng, Thái Bình là nơi có nghề dệt tơ tằm
nổi tiếng, với năng suất khoảng 250.000-300.000 m tơ đũi mỗi tháng. Tuy
nhiên, để có đợc những tấm tơ lụa nõn nà ấy, các hộ sản xuất phải sử dụng
khoảng 20 tấn hoá chất/năm nh các loại oxy già, silicat, cacbonat, xà
phòng... dùng trong nấu tẩy nguyên liệu và sản phẩm. Lợng nớc thải đà ô
nhiễm mỗi ngày ở Nam Cao là 40 - 50 m3. Vì vậy bên cạnh sự sôi động của
một làng dệt ăn nên làm ra thì ngời dân Nam Cao đang phải gánh chịu môi
trờng ô nhiễm. Các chất ô nhiễm ngấm sâu vào lòng đất khiến cho các giếng
đào xung quanh không thể sử dụng đợc[18].
Làng nghề Dơng Liễu, huyện Hoài Đức, Hà Tây, nơi có 300 hộ sản
xuất bún, miến, tinh bột, kẹo mạch nha, mỗi ngày tiêu thụ 500 - 600 kg bột đÃ
làm môi trờng ô nhiễm nặng. Đó cũng là tình trạng của làng gốm Bát Tràng
(Hà Nội), nơi có mật độ dân số 2.500 - 3.000 ngời/km2, song lại có tới 1.100
lò lớn nhỏ hoạt động ngày đêm, hàng năm tiêu thụ hết 7 vạn tấn than và xử lý
10 vạn tấn dầu nguyên liệu và hàng ngày có khoảng 300 lợt xe lớn nhỏ chạy
qua[18].

Trên đây là một trong số ít các làng nghề đợc điều tra, nghiên cứu về
tình hình ô nhiễm, ngoài ra còn hàng nghìn các làng nghề khác cũng trong
tình trạng tơng tự, chủ yếu là do các nguyên nhân sau:
* Do điều kiện tự nhiên và xà hội:
Thực tế cho thấy những vùng nông thôn có làng nghề phát triển là
những vùng có mật độ dân c đông đúc, đất thổ c chật chội, đất canh tác ít.
Vì vậy các làng nghề thiếu mặt bằng sản xuất, các nhà xởng sản xuất phải
nằm xen lẫn trong khu vực dân c, trong nhà hoặc vờn của các hộ; không đủ
mặt bằng để bố trí khu chứa và xử lý chất thải. Mặt khác, một số ao hồ làm
nhiệm vụ điều hòa nớc thải, điều hòa khí hậu, xử lý ô nhiễm đà bị san lấp để
làm nhà ở, làm cơ sở sản xuất, số còn lại thì quá tải, tù đọng, vì vậy mức độ ô
nhiễm ngày càng tăng. Trong mùa ma, do tiêu thoát kém nên tình trạng ngập

20


úng kéo dài, gây nên ô nhiễm môi trờng nghiêm trọng và bệnh tật phát
triển... Ngoài ra, do thời tiết nóng ẩm đà tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình
phân huỷ, lên men của các chất hữu cơ, phát sinh các loại nấm mốc và vi
khuẩn gây bệnh. Một nguyên nhân nữa là do nhận thức của cộng đồng về bảo
vệ môi trờng còn thấp kém, xuất phát từ nền sản xuất nhỏ, đơn lẻ, nên ý thức
của ngời dân về giữ gìn vệ sinh, bảo vệ môi trờng thấp, khi sản xuất đợc
mở rộng thì các thói quen đó khó sửa và nh thế ô nhiễm càng gia tăng.
* Công nghệ và quy trình sản xuất thô sơ, lạc hậu:
Phần lớn sản xuất ở các làng nghề là do tự phát, sản xuất theo từng hộ
đơn lẻ nên vốn đầu t cho sản xuất nhỏ, các công nghệ sản xuất thô sơ lạc
hậu, chủ yếu làm bằng thủ công đà dẫn đến không tận dụng hết tinh chất của
vật liệu. Đặc biệt là ở các làng nghề chế biến lơng thực thực phẩm, bà thải
sau khi sản xuất vẫn chứa một lợng lớn các chất tinh bột, dầu... nên vừa lÃng
phí vật liệu vừa gây ô nhiễm môi trờng do sự phân huỷ các chất hữu cơ. Ví

dụ nh làng nghề sản xuất tinh bột ở Dơng Liễu, Cát Quế (Hà Tây), trong
công đoạn tách tinh bột khỏi bà ngời lao động phải làm bằng các biện pháp
thủ công nh dẫm, vò nên rất vất vả và lợng tinh bột còn lại trong bà thải vẫn
còn rất lớn. Hoặc tại Bát Tràng, nhiều lò nung hiện nay rất lạc hậu, không đảm
bảo tiêu chuẩn kỹ thuật nên không tận dụng đợc năng lợng, tạo ra nhiều bụi
than độc hại cho môi trờng xung quanh, tỷ lệ phế phẩm còn cao.
* Thiếu quy hoạch và quản lý các làng nghề:
Mặc dù tổ chức sản xuất ở các làng nghề theo từng hộ đơn lẻ nhng quy
mô sản xuất tăng nhanh, trong khi đó công tác quy hoạch quản lý các làng
nghề cha đợc quan tâm đúng mức, mặt bằng sản xuất bố trí phân tán, manh
mún. Hầu hết các làng nghề đều không có vị trí chứa chất thải, tiện đâu đổ
đấy, chất thải có thể đổ xuống ao, mơng, góc vờn, đầu ngõ càng làm cho
nguy cơ ô nhiễm cao hơn... Do không có quy hoạch, nên không có cơ sở hạ
tầng nh cống rÃnh thoát nớc, nơi thu gom phế thải rắn nên diện ô nhiễm tràn

21


lan. Điều này không chỉ tác động đến sức khoẻ của con ngời mà còn ảnh
hởng đến mỹ quan làng xà và nhiều ngành sản xuất khác. Cũng do thiếu quy
hoạch phát triển nên cha tận dụng đợc các phế thải để sản xuất ra các sản
phẩm phụ nh xỉ than ở các làng nghề sản xuất gốm sứ có thể tận dụng để sản
xuất gạch xỉ, rải đờng nông thôn; bà thải của các làng nghề chế biến lơng
thực thực phẩm có thể sử dụng để chăn nuôi, chế biến phân hữu cơ...[28].
2.3. Nghiên cứu kim loại nặng trên thế giới và Việt Nam

2.3.1. Nghiên cứu ô nhiễm kim loại nặng trên thế giới
Nguồn cung cấp đầu tiên các nguyên tố khoáng và có vai trò quan trọng
trong việc tích luỹ các KLN trong đất là đá mẹ. Trong những điều kiện xác
định, phụ thuộc vào các loại đá mẹ khác nhau mà các loại đất đợc hình thành

có chứa hàm lợng các KLN khác nhau.
Bảng 2.1 cho thấy hàm lợng của một số KLN trong thạch quyển và
trong đất đà đợc các nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu. Theo Lindsay
(1979) thì hàm lợng Cu có trong thạch quyển khá cao, khoảng 70 mg/kg, còn
trong đất dao động từ 2 - 100 mg/kg, hàm lợng Pb dao động từ 2 - 200
mg/kg.
Bảng 2.1: Hàm lợng của một số kim loại nặng trong thạch quyển và đất
Đơn vị: mg/kg
Nguyên
tố
Cu
Pb
Zn
Cd

Thạch
quyển

Trong
đất

70
2 - 100
16
2 - 200
80
10 - 300
0,2 0,01 - 0,7
*
*

* Lindsay (1979)[39]; ** Sposito

Hàm lợng trung bình
trong một số loại đất
-

-

Đất lúa
ĐBSMK

Đất lúa
châu á

30
25
23
33
10
19
50
60
82
66
0,06
0,35
*
**
***
***

(1989)[43]; *** Domingo and Kuyma

(1983)[33]

22


Đồng đợc phân bố rộng rÃi trong đất và trong khoáng, khoáng chứa Cu
quan trọng nhất là Chacolite Cu2S và Chacopyrite CuFeS2. Trong các loại đất
thiếu Cu, Cu tổng số chØ cã 2 - 3 ppm, cã mét sè ®Êt d− Cu cã thĨ ®Õn 200
ppm. Trong ®Êt, Cu cã trong nhiều loại khoáng khác nhau, và có khả năng
đợc giữ trong các sản phẩm tồn d của thực vật nhờ quá trình khép vòng
càng cua. Cu có khả năng trao đổi trong các loại đất chua và đợc cố định
dới dạng phức chất trong đất kiềm. Hàm lợng Cu trong đất ít, nếu đất bị oxy
hoá và ẩm ớt lâu, một số khoáng bị phong hoá và đặc biệt chất hữu cơ bị
phân huỷ thì Cu có thể bị hoà tan[31].
Chì là nguyên tố khá phổ biến trong tự nhiên, trong đá phún xuất phụ
thuộc vào từng loại thì hàm lợng Pb dao động trong khoảng 0,1 - 40 mg/kg.
Hàm lợng Pb trong đất vào khoảng 10 - 84 mg/kg phụ thuộc vào đá mẹ, phụ
thuộc vào thành phần cơ giới đất, và loại đất. Thế nhng trong thực tế thì ô
nhiễm Pb khá phổ biến, đặc biệt là lớp đất mặt và cũng rất khó xác định đợc
hậu quả do hoạt động của con ngời, trong đất càng xuống sâu thì hàm lợng
Pb càng thấp. Nghiên cứu về chì thờng không có nhiều phức tạp, sự tồn tại
trong đất và nớc của kim loại này thờng ở dạng hợp chất bền với các anion
(kiểu CO32-, Cl-, SO32-...). Theo kết quả nghiên cứu của Brockis (1978)[31] thì
hàm lợng chì trong đất biến động khá lớn và phụ thuộc vào vùng ô nhiễm rất
rõ ràng.
Kẽm trong đất có ở trong các khoáng nguyên sinh và trong sét, Zn đợc
chất hữu cơ và sét hấp phụ chặt, ngoài ra một ít Zn có ở dạng kết tủa dới
dạng hydroxyt hoặc các muối photphat, cacbonat và silicat ở các loại đất chua

nhẹ đến kiềm[28].
Thông thờng Zn có trong các công nghệ hàn, luyện kim thiếc và chì,
công nghệ pin, công nghiệp điện tử và cao su... Các làng nghề kim khí truyền
thống cũng có thể là một nguồn thải ra môi trờng các bụi Zn. Khi thải ra
trong môi trờng đất, Zn trở nên rất hoạt tính dới dạng ion kẽm hoá trÞ 2

23


(Zn2+). Ion này có thể nằm trong các thành phần hữu cơ hay hấp thụ trong
khoáng sét của đất và các muối photphat. Do đó, Zn có thể nằm trong các tầng
của phẫu diện đất nhng đặc biệt tìm thấy ở tầng mặt. Cân bằng Zn trong đất
phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó nổi bật là hàm lợng chất hữu cơ, khả
năng khoáng hoá, điện thế oxy hoá khử và pH của đất[42].
Trong quá trình hình thành đất hàm lợng Cd không vợt quá 0,3
mg/kg. Hàm lợng Cd trong đất vào khoảng 0,05 - 1,2 mg/kg. Đối với các loại
đất khác nhau thì hàm lợng Cd tồn tại trong đó cũng khác nhau, bên cạnh đó
hàm lợng của Cd phụ thuộc vào thành phần đá mẹ, chất hữu cơ, tỷ lệ sét và
các sét dioxit. Khả năng hấp phụ Cd của các chất trong đất giảm dần theo thứ
tự: hyđroxyt và oxyt sắt nhôm, halloysit > allophane > kaolinit, axit humic >
montmorillonit. Quá trình hấp phụ Cd trong đất xảy ra khá nhanh, 95% Cd
đa vào bị đất hấp phụ trong vòng 10 phút và 100% trong vòng 1 giờ. Thông
thờng Cd tồn tại trong đất ở dạng hấp phụ trao đổi chiếm 20 - 40%, dạng các
hợp chất cacbonat là 20%, hydroxyt và oxyt là 20%. Phần liên kết các hợp
chất hữu cơ chiếm tỷ lệ nhỏ. Cadimi rất độc với động vật, con ngời và cũng
gây độc cho con ngời, Quá trình tích luỹ nhiều Cd sẽ làm cho động kinh,
giảm sinh sản... kể cả ngời, động vật và thực vật[31].
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học thì cũng cần chú ý rằng thực tế
lợng kim loại nặng (Cu, Pb, Zn, Cd, Hg...) có nguồn gốc phát sinh từ hoạt
động của con ngời lớn hơn 3 lần lợng phát sinh từ nguồn gốc tự nhiên[15].

Ngày nay với tốc độ phát triển mạnh mẽ của công nghiệp và hình thành nhiều
thành phố lớn, vấn đề ô nhiễm môi trờng ngày càng nghiêm trọng. Khói từ
các nhà máy, từ xe cơ giới thải ra làm ô nhiễm bầu khí quyển. Nớc thải từ các
nhà máy, khu dân c đô thị làm ô nhiễm nguồn nớc. Trong nông nghiệp sử
dụng ngày một nhiều các loại thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ và một số loại phân
hoá học đà làm ô nhiễm nghiêm trọng nguồn tài nguyên đất.

24


Tất cả các nguồn gây ô nhiễm trên đều là nguyên nhân của sự tích tụ
quá mức hàm lợng KLN trong đất và nớc. Theo thống kê của các tổ chức
môi trờng thế giới, hàng năm các con sông của Châu á chuyển tải ra biển
50% các chất cặn lắng (tơng đơng với 13,5 tỷ tấn) của các con sông trên thế
giới, có tới 70% dòng xả vào Thái Bình Dơng không đợc xử lý. Hơn 40% ô
nhiễm trong khu vực bắt nguồn từ công nghiệp, nông nghiệp, sinh hoạt, đô thị
và giao thông vận tải. Tình hình ô nhiễm xảy ra ở hầu hết các nớc đang phát
triển. Hơn 90% cống rÃnh đô thị ở các nớc này không đợc xử lý và thải trực
tiếp ra các con sông, các cánh đồng lân cận. Các xí nghiệp, hầm mỏ đà thải
vào trong nớc rất nhiều KLN hoặc các chất độc, chất thải rắn.
Các nguyên tố KLN nh: Cu, Pb, Zn, Cd, Hg, Cr, As... th−êng chøa
trong phÕ th¶i cđa ngành luyện kim màu, sản xuất ôtô. Khi nớc thải chøa 13
mg Cu/l, 10 mg Pb/l, 1 mg Zn/l ®· gây sự ô nhiễm đất nghiêm trọng. Hàm
lợng Cd trong ®Êt Thơy Sü cã thĨ lªn tíi 3 mg/kg trong vòng 20 - 30 năm tới.
Tính di động gây độc của các KLN còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố nh: sự
thay đổi điện thế oxy hoá khử, pH, số lợng muối và các phức chất... có khả
năng hoà tan những KLN đó ở trong đất[45].
ở ấn Độ, nồng độ các chất nh Pb, Cd và Hg cao bất thờng, đợc phát
hiện ở nhiều lạch sông Thane thuộc bờ biển thành phố Bom Bay, các trạm
quan trắc ngoài khơi cũng đợc báo cáo có chứa Pb với hàm lợng đáng kể. ở

Pakistan, ngời ta cũng đà phát hiện thấy nồng độ đáng kể các KLN trong
nớc và các cặn lắng ở vùng ven bờ khu vực sông Indus[45].
Nghiên cứu của Kabata và Henryk (1985)[38] cho thấy: ở Anh, hàm
lợng Cd lớp đất mặt xung quanh vùng khai thác kẽm lên tới 2 - 336 mg/kg. ở
Mỹ, những vùng đất lân cận các nhà máy chế biến kim loại, hàm lợng Cd đạt
đến con số khổng lồ 26 - 1.500 mg/kg.

25


×