Tải bản đầy đủ (.pdf) (146 trang)

Giao trinh Ban do hoc dai cuong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.06 MB, 146 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>BẢN ĐỒ HỌC ĐẠI CƯƠNG LỜI NÓI ĐẦU Ngay từ những này đầu thành lập Khoa Địa lí, giáo trình Bản đồ học đã được xác định là một trong những giáo trình chính của chương trình đào tạo. Trong quá trình phát triển của khoa, giáo trình luôn được biên soạn lại để phù hợp với nhiệm vụ và mục tiêu đào tạo từng thời kì. Năm 1968, giáo trình "Địa đồ học" được tác giả Ngô Đạt Tam biên soạn dùng cho hệ ba năm. Năm 1976, các tác giả Phạm Ngọc Đĩnh, Vũ Tuấn Cảnh, Lâm Quang Dốc, Lê Huỳnh, Hoàng Xuân Lính, Đỗ Thị Minh Tính biên soạn giáo trình "Bản đồ học" dùng cho hệ bốn năm. Để phục vụ cải cách đại học, năm 1984 và 1986, Nhà xuất bản Giáo dục cho xuất bản cuốn "Bản đồ học" dùng chung cho các trường đại học và cao đẳng sư phạm do các tác giả Ngô Đạt Tam, Lê Ngọc Nam, Nguyễn Trần Cầu, Phạm Ngọc Dĩnh biên soạn. Năm 1995, chương trình đào tạo theo hai giai đoạn, giáo trình "Bản đồ học" được các tác giả Lâm Quang Dốc, Phạm Ngọc Đĩnh, Lê Huỳnh biên soạn lại. Qua các lần biên soạn, giáo trình đã ngày một hoàn thiện và đã đáp ứng được các mục tiêu đào tạo đặt ra. Ngày nay, các bộ môn đào tạo của trường Đại học Sư phạm được thực hiện theo các học phần. Bộ môn Bản đồ được tách ra ba học phần: Bản đồ học đại cương, Bản đồ địa hình và đo vẽ địa phương, Bản đồ giáo khoa. Nội dung chương trình được cấu trúc lại và có giáo trình riêng cho mỗi học phần. Các giáo trình được biên soạn lại phù hợp với chương trình và thời lượng đào tao. Giáo trình Bản đồ học đại cương là tài liệu chính thức của học phần Bản đồ học đại cương, có nhiệm vụ trang bị những kiến thức cơ bản của Bản đồ học cho sinh viên. Giáo trình được biên soạn trên cơ sở kế thừa những nội dung khoa học của các giáo trình bản đồ học đã xuất bản ở trong và ngoài nước, nhưng được cấu trúc lại, bổ sung, mở rộng, nâng cao và cập nhập những kiến thức bản đồ học hiện đại. - Về cấu trúc: Giáo trình được cấu trúc hệ thống và hợp lí hơn. Những kiến thức chung về thiên văn, Trái đất có quan hệ chặt chẽ với cơ sở toán học của bnả đồ ở các giáo trình trước đây được xếp thành chương riêng, nay được đưa chung vào chương Cơ sở toán học của bản đồ, tránh sự trùng lặp và bảo đảm tính lôgic khoa học. Những chương mục có quan hệ với Bản đồ học đại chương nhưng thuộc kiến thức Bản đồ địa hình và Bản đồ giáo khoa không còn được đề cập trong giáo trình này nữa vì chúng đã đưa về các giáo trình chuyên ngành mình. Toàn bộ giáo trình đựoc cấu trúc thành 8 chương, 6 chương đầu là những kiến thức lí luận chung, trình bày có hệ thống các khái niệm cơ bản của Bản đồ học và Bản đồ địa lí, 2 chương sau là các lí luận và phương pháp thành lập và sử dụng bản đồ. - Về nội dung: Giáo trình đã bổ sung, nâng cao nhiều cơ sở lí luận và kiến thức hiện đại của Bản đồ học như lí luận về Phương pháp bản đồ - Phương pháp nghiên cứu cơ bản của Bản đồ học, về ngôn ngữ bản đồ, khái quát hóa những đặc trưng cơ bản của Bản đồ địa lí. Đặc biệt hai chương Thành lập.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> bản đồ và Sử dụng bản đồ mang tính ứng dụng, không chỉ nâng cao các kiến thức lí luận mà được trình bày rất sâu sắc, cụ thể các phương pháp mang tính truyền thống và tiếp cận các phương pháp và phương tiện hiện đại. Giáo trình Bản đồ học đại cương được biên soạn trên cơ sở mục tiêu và chương trình đào tạo giáo viên Địa lí của trường Đại học Sư phạm Hà nội, trang bị những kiến thức cơ bản về bản đồ học cho sinh viên đại học, song cũng có thể là tài liệu tham khảo có giá trị với các hệ cao đẳng, thạc sĩ Địa lí, các giáo viên giảng dạy Địa lí ở các trường phổ thông và những ngành khác có quan hệ với các kiến thức bản đồ. Mặc dầu giáo trình đã được biên soạn rất nghiêm túc, công phu, song không thể tránh khỏi những mặt hạn chế. Các tác giả mong mốn nhận được những ý kiến đóng góp, bổ sung của các nhà khoa học bản đồ, các đồng nghiệp và anh chị em sinh viên để cho giáo trình tái bản hoàn chỉnh hơn. Các tác giả bày tỏ lòng cảm ơn đến các nhà khoa học: GS.TS Nguyễn Viết Thịnh, PGS.TS Nhữ Thị Xuân, TS Đỗ Thị Minh Tính về những ý kiến đóng góp và sự giúp đỡ trong quá trình biên soạn giáo trình..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> MỤC TIÊU HỌC PHẦN 1.Cung cấp cho sinh viên hệ thống kiến thức cơ bản về bản đồ học, bản đồ địa lí, các phương pháp thành lập và sử dụng bản đồ địa lí. 2. Sinh viên các trường Đại học sư phạm học xong chương trình bản đồ học cần phải có các kĩ năng: . . . Về lí luận, nắm chắc hệ thống khái niệm bản đồ học, bản đồ địa lí. Trong đó, đi sâu nghiên cứu và hiểu một cách đầy đủ về cơ sở toán học, ngôn ngữ bản đồ, tổng quát hoá bản đồ, phân loại bản đồ và quy trình trong hệ thống thành lập – sử dụng bản đồ địa lí. Về kĩ năng, nắm được kĩ năng về phương pháp bộ môn. Đó là phương pháp bản đồ ; phương pháp so sánh, phân tích và tổng hợp…bản đồ địa lí ; biết sử dụng ngôn ngữ bản đồ trong thành lập và sử dụng bản đồ. Mỗi sinh viên thực hiện biên tập một bản đồ địa lí. Biết sử dụng bản đồ địa lí để nghiên cứu khoa học, nhằm không ngừng nâng cao trình đồ chuyên môn đáp ứng đồi hỏi ngày càng cao của xã hội. ĐIỀU KIỆN TIÊN QUYẾT. Để học tập tốt môn bản đồ học đại cương, cần phải có các điều kiện sau: - Về thầy giáo:   . Hiểu biết đầy đủ và sâu sắc giáo trình bản đồ học đại cương Có tinh thần trách nhiệm trong dạy học môn bản đồ học Hướng dẫn sinh viên thực hành đầy đủ các chủ đề trong cuốn “Thực hành bản đồ học” in hàng năm của trường ĐHSP Hà Nộ. - Về học sinh: .   . Có đầy đủ tài liệu lí thuyết và thực hành bản đồ học đại cương (ngoài ra, có càng nhiều tài liệu bản đồ khác đã công bố ở trong và ngoài nước về bản đồ học càng tốt) và các trang thiết bị cá nhân dùng cho học tập môn bản đồ học. Đọc có phân tích và nhận xét các tài liệu đó khi học từng chương, mục. Thực hành ở lớp và ở nhà các chủ đề mà giáo viên yêu cầu Lên lớp đủ giờ quy định. Tỉ lệ thời gian học ở lớp và ở nhà nên là 1/1. - Về điều kiện trang thiết bị và các điều kiện khác:   . Thư viện có đầy đủ sách học bộ môn Có đầy đủ các thể loại bản đồ để giảng dạy và học tập Các trang thiết bị truyền thống và hiện đại dùng cho việc dạy học môn bản đồ học có đầy đủ.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Đề cương bài giảng Chương I. Bản đồ học. 1. Định nghĩa 2. Đối tượng và nhiệm vụ của Bản đồ học 3. Những bộ môn cơ bản của khoa học bản đồ 4. Mối quan hệ giữa Bản đồ học với các bộ môn khoa học và nghệ thuật 5. Phương pháp bản đồ 6. Lịch sử phát triển Bản đồ học 6.1. Bản đồ học thời cổ đại 6.2. Bản đồ học thời trung cổ và thời kỳ phục hưng 6.3. Bản đồ học ngày nay.. 7. Lịch sử phát triển ngành đo vẽ ở Việt Nam Câu hỏi ôn tập chương I Chương II. Bản đồ địa lý 1. Định nghĩa và những tính chất cơ bản của bản đồ địa lý 1.1. Bản đồ thành lập trên cơ sở toán học 1.2. Bản đồ sử dụng ngôn ngữ hình ảnh - ký hiệu 1.3. Bản đồ có sự tổng quát hoá. 2. Các yếu tố cấu thành bản đồ địa lý 3. Vai trò và ý nghĩa của bản đồ Câu hỏi ôn tập chương II Chương III. Cơ sở toán học của bản đồ 1. Những khái niệm cơ bản 1.1. Trái đất - Hình dạng và kích thước 1.2. Những điểm và đường cơ bản trên Elipsoid Trấi Đất 1.3. Toạ độ địa lý 1.4. Toạ độ cực cầu 1.5. Toạ độ vuông góc. 2. Cơ sở toán học của bản đồ địa lý 2.1.Cơ sở trắc địa thiên văn 2.2. Tỷ lệ bản đồ 2.3. Phép chiếu hình bản đồ 2.4. Những phép chiếu dùng cho bản đồ có số hiệu 2.5. Cách nhận biết phép chiếu 2.6. Lựa chọn phép chiếu trong thiết kế, biên tập và thành lập bản đồ.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> 2.7. Các yếu tố khác trong cơ sở toán học của bản đồ địa lý Câu hỏi ôn tập chương III Chương IV. Ngôn ngữ bản đồ 1. Khái quát về ngôn ngữ bản đồ 2. Ký hiệu bản đồ. 2.1. Hệ thống ký hiệu bản đồ là thành phần cơ bản, là hệ thống ký hiệu đặc thù của ngôn ngữ bản đồ 2.2. Cái "vỏ" không gian và "nhân" ý nghĩa nội dung 2.3. Tính xác định không gian và sự thay đổi theo thời gian 2.4. Tính xác định nội dung và sự thay đổi theo thời gian 3. Chữ viết trên bản đồ 3.1. Chữ viết và ghi chú trên bản đồ 3.2. Địa danh và sự viết chuyển các địa danh trên bản đồ 4. Các phương pháp biểu hiện bản đồ 4.1. Phương pháp ký hiệu 4.2. Phương pháp ký hiệu dạng đường 4.3. Phương pháp biểu đồ định vị 4.4. Phương pháp chấm điểm 4.5. Phương pháp đường đẳng trị 4.6. Phương pháp nền chất lượng 4.7. Phương pháp vùng phân bố 4.8. Phương pháp ký hiệu đường chuyển động 4.9. Phương pháp bản đồ biểu đồ (phương pháp Cartodiagram) 4.10. Phương pháp bản đồ đồ giải (phương pháp Cartogram) 4.11. Vận dụng và phối hợp các phương pháp biểu hiện bản đồ Câu hỏi ôn tập chương IV Chương V: Tổng quát hoá bản đồ 1. Khái niệm 2. Tổng quát hóa và ngôn ngữ bản đồ 3. Tổng quát hóa không gian 4. Tổng quát hóa nội dung 5. Tỉ lệ nội dung Câu hỏi ôn tập chương V Chương VI. Phân loại bản đồ địa lí tập bản đồ địa lí 1. Ý nghĩa - nguyên tắc của sự phân loại bản đồ.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> 2. Các hệ thống phân loại bản đồ chủ yếu 2.1. Phân loại bản đồ theo lãnh thổ biểu hiện (không gian biểu hiện) 2.2. Sự phân loại bản đồ theo nội dung biểu hiện 2.3. Phân loại bản đồ theo tỉ lệ 2.4. Sự phân loại theo mục đích 3. Tập bản đồ địa lí (átlát) và sự phân loại 3.1. Khái niệm 3.2. Phân loại các tập bảnđồ Câu hỏi ôn tập chương VI Chương VII. Thành lập bản đồ địa lí 1. Khái quát chung 2.Thiết kế bản đồ 2.1. Nghiên cứu đặc điểm địa lí khu vực 2.2. Phân tích và đánh giá tài liệu 2.3. Thiết kế mô hình bản đồ 3. Thu thập thông tin 3.1. Thu thập thông tin nguyên thủy 3.2. Thông tin tài liệu 4. Biên vẽ bảnđồ 4.1. Khái niệm 4.2. Nội dung các bước trong quá trình biên vẽ theo công nghệ truyền thống 5 Các phương pháp cơ bản thành lập bản đồ 5.1. Phương pháp đo đạc trực tiếp từ thực địa 5.2. Phương pháp ảnh hàng không 5.3. Phương pháp viễn thám 5.4. Phương pháp biên vẽ từ tài liệu bản đồ 5.5. Phương pháp thống kê Câu hỏi ôn tập Chương VII Chương VIII: Sử dụng bản đồ địa lí 8.1. Khái niệm 8.2. Các pương pháp sử dụng bản đồ 8.3. Các hình thức sử dụng bản đồ 8.4. Phân tích bản đồ Câu hỏi ôn tập chương VIII.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> CHƯƠNG I: BẢN ĐỒ HỌC 1.1 ĐỊNH NGHĨA Định nghĩa chặt chẽ và hoàn chỉnh do Giáo sư K.A. Salishev đưa ra, được nhiều người thừa nhận: “Bản đồ học là khoa học về sự nghiên cứu và phản ánh sự phân bố không gian, sự phối hợp và sự liên kết lẫn nhau của các hiện tượng tự nhiên và xã hội (cả những biến đổi của chúng theo thời gian) bằng các mô hình kí hiệu hình tượng đặc biệt - sự biểu hiện bản đồ”. - Phân tích: + Định nghĩa đã bao hàm trong nó những bản đồ địa lí về Trái Đất và bản đồ các hành tinh khác. + Mở rộng đối với tất cả các sản phẩm bản đồ khác như Quả cầu địa lí, bản đồ nổi, biểu đồ khối, bản đồ số v.v.... + Định nghĩa này không những xác định "Bản đồ học" là một khoa học độc lập thuộc lĩnh vực các khoa học tự nhiên mà còn chỉ ra Phương pháp bản đồ là một dạng đặc biệt của mô hình hoá. - Năm 1995, tại Bacxêlôna - Tây Ban Nha, đại hội lần thứ 10 Hội Bản đồ thế giới đã đưa ra định nghĩa: "Bản đồ học là ngành khoa học giải quyết những vấn đề lí luận, sản xuất, phổ biến và nghiên cứu về bản đồ". Với định nghĩa này, vai trò và chức năng của Bản đồ học được phản ánh rõ ràng và mở rộng hơn. - Phân biệt khái niệm: + “Bản đồ học” và “Bản đồ” không phải là đồng nhất. + Bản đồ học là một môn khoa học trong đó có hệ thống kiến thức lí luận được tạo ra với sự tham gia của các nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau, là các tác phẩm khoa học + Bản đồ là sự hiện diện điều kiện rất cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của Bản đồ học. Định nghĩa chặt chẽ và hoàn chỉnh do Giáo sư K.A. Salishev đưa ra, được nhiều người thừa nhận: 1.2 ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA BẢN ĐỒ HỌC - Đối tượng + Bản đồ học có đối tượng nhận thức là không gian cụ thể của các đối tượng địa lí và sự biến đổi của chúng theo thời gian. + Bản đồ học là khoa học về các bản đồ địa lí. Bản đồ địa lí là đối tượng nhận thức của khoa học bản đồ. - Nhiệm vụ + Chức năng của Bản đồ là phương tiện truyền tin bằng đồ hoạ, vai trò chủ yếu của nó là giao lưu (D.Morisơn, Arth. Rolimson, L. Ratajski, M.K. Botrarov). + Nhiệm vụ của Bản đồ học là nghiên cứu và hoàn chỉnh phương pháp truyền tin. + R Jolliffe - nhà bản đồ học Australia với góc độ thông tin lại cho rằng Bản đồ là phương tiện.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> ghi nhận, truyền tin và phổ biến thông tin không gian. + Nhiệm vụ của Bản đồ học là nghiên cứu cấu trúc không gian, phản ánh các qui luật của hệ thống không gian địa lí các hiện tượng và đối tượng tự nhiên, kinh tế - xã hội xét về mặt phân bố, mối tương quan và quá trình phát triển. +Bản đồ là sản phẩm khoa học của Bản đồ học để phản ánh những kết quả nghiên cứu của khoa học địa lí. Bản đồ tạo ra những tri thức mới về thiên nhiên và xã hội. - Phương pháp nghiên cứu + Bản đồ học có phương pháp nghiên cứu riêng - "Phương pháp bản đồ". + Phương pháp bản đồ là phương pháp nhận thức của khoa học bản đồ. + Phương pháp bản đồ nghiên cứu phương pháp luận bản đồ . + Nghiên cứu phương pháp thành lập và sử dụng bản đồ. Tóm lại, Bản đồ học có đối tượng nhận thức là không gian cụ thể của các đối tượng, hiện tượng thực tế khách quan. Đối tượng của Bản đồ học là các sản phẩm bản đồ. Nhiệm vụ của Bản đồ học là nghiên cứu cấu trúc không gian, các qui luật phân bố và quá trình phát triển của các đối tượng, hiện tượng địa lí, và phản ánh lên bản đồ bằng những phương pháp và ngôn ngữ đặc biệt.. 1.3 NHỮNG BỘ MÔN CƠ BẢN CỦA KHOA HỌC BẢN ĐỒ . Ngành Bản đồ học lí thuyết: Nghiên cứu cơ sở lí luận chung, phương pháp luận bản đồ, lịch sử phát triển, ngôn ngữ và sự tổng quát hoá bản đồ, đặc điểm, tính chất và nội dung các thể loại bản đồ, những nguyên tắc và phương pháp thành lập bản đồ, sử dụng bản đồ..... . Ngành Toán bản đồ: Nghiên cứu lí luận và vận dụng các thuật toán chuyển bề mặt elípsoid Trái đất sang mặt phẳng bản đồ, lí thuyết sai số, đặc điểm các dạng lưới chiếu, sự lựa chọn và sử dụng các phép chiếu, cũng như những yếu tố thuộc các cơ sở toán học khác.. . Ngành Đồ bản: Nghiên cứu các phương pháp, kĩ thuật thể hiện, lí luận thiết kế các kí hiệu, các nguyên tắc trình bày bản đồ, ứng dụng các phương tiện, công nghệ xây dựng và sản xuất bản đồ v.v.... Sự phân chia thành các ngành như trên chỉ có ý nghĩa tương đối xét trên góc độ khoa học. Trên thực tiễn, chúng có mối quan hệ với nhau rất chặt chẽ. Bản đồ học lí thuyết không thể tách rời toán bản đồ và kĩ thuật bản đồ (đồ bản). Lí thuyết bản đồ là cơ sở khoa học của sự phát triển ngành đồ bản. Toán bản đồ và ngành đồ bản tạo nên sự phát triển và hoàn thiện của lí thuyết bán đồ..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> 1.4 MỐI QUAN HỆ GIỮA BẢN ĐỒ HỌC VỚI CÁC BỘ MÔN KHOA HỌC VÀ NGHỆ THUẬT Bản đồ học có quan hệ chặt chẽ với nhiều môn khoa học - kĩ thuật và nghệ thuật. Bản đồ học đã có quan hệ chặt chẽ với Toán học, Trắc địa học, Địa lí học, Thiên văn học và Nghệ thuật, với nhiều ngành kĩ thuật liên quan như kĩ thuật sản xuất giấy, kĩ thuật in, với nhiều lĩnh vực khoa học - kĩ thuật mới ra đời như Lí thuyết thông tin, Lí thuyết hệ thống, GIS, Geomatics, Điện tử - tin học, Tự động hoá v.v, ... Bản đồ học như được chắp thêm đôi cánh nhờ ứng dụng những thành tựu khoa học - kĩ thuật mới đó. Bản đồ học không thể giải quyết đúng đắn các vấn đề phương pháp luận của mình mà không dựa vào các cơ sở triết học, vào lí luận nhận thức biện chứng để nghiên cứu và nhận thức đúng đắn thực tế khách quan, để xây dựng lí luận về tổng quát hóa bản đồ, về ngôn ngữ bản đồ và phương pháp nhận thức bản đồ. - Bản đồ học – Nghệ thuật: Bản đồ không phải là một tác phẩm nghệ thuật đơn thuần mà là một tác phẩm khoa học mang tính nghệ thuật cao. Các tác phẩm bản đồ phải đảm bảo tính mĩ thuật. Từ phương pháp biểu hiện đến sự thể hiện và phối hợp các đường nét , màu sắc, hình vẽ, chữ viết, trình bày bố cục bản đồ đều phải đảm bảo tính mĩ thuật. Chính vì thế, trong Bản đồ học đã xuất hiện bộ môn trình bày bản đồ nhằm nghiên cứu các phương pháp và phương tiện trình bày bản đồ. Bản đồ học – Toán học: + Eratosphen đã ứng dụng toán học để đo và tính toán kích thước Trái Đất. + Grippor đã dùng Toán học và Thiên văn học để xác định toạ độ địa lí các điểm trên mặt đất và vẽ các đường kinh tuyến, vĩ tuyến. + Cở sở lí luận chuyển mặt elipxoit Trái Đất sang mặt phẳng và xây dựng các phép chiếu bản đồ đều do các nhà toán học, như K.Ptôlêmê, Mercator, Larange, Gauss,v.v... xây dựng. + Ngày nay, khoa học bản đồ phát triển nhanh và ngày càng hoàn thiện nhờ sự ứng dụng rộng rãi nhiều lĩnh vực khác nhau của toán học như Toán thống kê, Lí thuyết thông tin, hình học phẳng, đại số quan hệ, v.v… + Toán học là cơ sở tồn tại và phát triển của Bản đồ học và Bản đồ học là một trong những mảnh đất tạo điều kiện cho một số ngành toán học ứng dụng ra đời và phát triển. - Bản đồ học – Trắc địa học: + Trắc địa học có mối quan hệ trực tiếp với Bản đồ học – Xác định hệ qui chiếu không gian trên hành tinh chúng ta. + Trắc địa học cung cấp cho Bản đồ học những số liệu về hình dạng, kích thước Trái Đất và các hành tinh + Số liệu về toạ độ của các điểm, mạng lưới khống chế đo vẽ trên bề mặt đất, nhằm xác định.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> được chính xác vĩ độ, kinh độ, độ cao tuyệt đối của các đối tượng địa lí. + Đặc biệt là bằng phương pháp tính toán chuyển từ bề mặt vật lí của Trái Đất sang elipxoit Trái Đất làm cơ sở để chuyển bề mặt lồi lõm của Trái Đất sang mặt phẳng bản đồ. -Bản đồ học - Địa hình học: + Địa hình học nghiên cứu chi tiết bề mặt Trái Đất về mặt hình thái, nghiên cứu các phương pháp đo tính và biểu thị bề măt đó lên mặt phẳng ở dạng biểu đồ khối hoặc bản đồ địa hình. + Môn Địa hình học sử dụng các phương pháp và phương tiện đo đạc, tính toán và định vị không gian của Trắc địa học và sử dụng các phép chiếu bản đồ, các nguyên tắc và phương pháp tổng quát hoá, hệ thống ngôn ngữ (kí hiệu) và các phương pháp biểu hiện của Bản đồ học. + Địa hình học là môn nằm giữa Bản đồ học và Trắc địa học. - Bản đồ học – Tin học: Các kĩ thuật đo đạc và thu thập, xử lí, quản lí và hiển thị thông tin Trái Đất được ứng dụng tin học ở mức cao và được diễn đạt bởi các thuật ngữ "Geomatics" và "Geoformatics", là lĩnh vực có mối quan hệ hết sức gắn bó với Bản đồ học hiện đại. - Bản đồ học - Địa lí học: + Hai môn khoa học này ra đời trong một cái nôi bản đồ học thời cổ do Eratosphen đặt tên. + Địa lí học nghiên cứu những qui luật phát sinh và phát triển, các mối quan hệ giữa các đối tượng và hiện tượng địa lí (tự nhiên và kinh tế - xã hội) trong không gian địa lí. Địa lí học cung cấp những tri thức cần thiết về bản chất, sự phân bố và các mối quan hệ tương hỗ của các đối tượng, hiện tượng địa lí trên lãnh thổ khác nhau, là cơ sở thành lập các bản đồ địa lí. Các khoa học về Trái Đất phát triển đã tạo nên sự phong phú về chủ đề của các bản đồ. + Đến lượt mình, Bản đồ học cung cấp cho các nhà Địa lí một phương tiện nghiên cứu đặc biệt Bản đồ địa lí và phương pháp nghiên cứu đặc thù - Phương pháp bản đồ. + Nhà địa lí học nổi tiếng Xtrabôn (63TCN- 21SCN) đã nói: “Bản đồ dựa trên kết quả đo đạc. Đó là điều chủ yếu đối với các nhà địa lí, cần phải làm cho anh ta tin vào điều đó”. + K.Ptôlêmê, (90- 168) nhà Địa lí học, Thiên văn học Cổ đại, trong tác phẩm gồm 8 tập Địa lí học đã viết: “Địa lí học là sự thể hiện khoảng cách của tất cả các phần đã biết của Trái Đất trong mối quan hệ của nó . Nó cho chúng ta khả năng nhằm bao quát cả Trái Đất trong một bức tranh cũng như chúng ta có thể bao quát trực tiếp tất cả bầu trời sao quay trên đầu chúng ta”. + Nhà địa lí sử dụng bản đồ như một phương tiện để nhận thức khoa học và hoạt động thực tế, dùng ngôn ngữ bản đồ và phương pháp bản đồ để nghiên cứu và thể hiện các kết quả nghiên cứu. Chính vì thế, ngôn ngữ bản đồ đã trở thành ngôn ngữ thứ hai của khoa học địa lí. + Các nhà bản đồ không những có kiến thức và kĩ năng bản đồ tốt mà còn phải có những kiến thức địa lí rộng và sâu ở mức cần thiết. + Thành lập bản đồ cần có sự tham gia của các nhà chuyên môn thuộc nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau như Bản đồ học, Trắc địa học, Địa lí học, Mĩ thuật, Kĩ thuật, Thông tin, Kĩ thuật in, v.v....

<span class='text_page_counter'>(11)</span> 1.5 PHƯƠNG PHÁP BẢN ĐỒ - Đế quốc La Mã (thế kỉ II - I TCN) xây dựng bản đồ đường sá dài 6,82 mét để phục vụ đi lại, thu thuế các vùng đất cai trị. - Xtrabôn (63 TCN - 21 SCN) - nhà địa lí học thời Cổ đại nổi tiếng đã nói: "Những người cầm đầu các quốc gia xem bản đồ có thể hiểu dễ dàng các hiện tượng thiên nhiên, các lớp lưỡng cư, các động vật và thực vật trên mặt đất cũng như trên biển. Điều quan trọng hơn nữa là những hiểu biết đó sẽ giúp người cầm quân bố trí doanh trại, nơi phục kích hoặc thực hiện một cuộc hành quân - Có thể nói, suốt chiều dài lịch sử phát triển Bản đồ học, các nhà bản đồ đã thực hành phương pháp bản đồ, song chưa cảm nhận được khái niệm của thuật ngữ này. - Mãi đến năm 1948 khái niệm "Phương pháp bản đồ" mới được nhà bản đồ học nổi tiếng K.A. Xalishev nêu lên trong công trình mang tên "Phương pháp nhận thức quá trình vận động của các hiện tượng bằng bản đồ". Nhà bản đồ học Ba Lan L. Rataixki đã đề cập nhiều đến Phương pháp bản đồ và đưa ra sơ đồ “Phương pháp bản đồ nhận thúc thực tế”. Theo sơ đồ phương pháp bản đồ của L. Rataixki, có thể chia "Phương pháp bản đồ nhận thức thực tế" thành 4 quá trình: . Nhận thức thông tin từ thực tế khách quan và chọn lọc thông tin.. . Biến đổi thông tin thành dạng bản đồ.. . Truyền thông tin ở dạng bản đồ đến người dùng.. . Tái tạo trong nhận thức người dùng thông tin về thực tế khách quan. Sơ đồ của L.Rataixki được xem như sơ đồ mẫu về Phương pháp bản đồ nhận thức thực tế và được nhiều nhà bản đồ bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh. - Năm 1968, Viện sĩ thông tấn Viện Hàn Lâm khoa học Liên Xô A.F.Axlanhikashvili đã xây dựng khái niệm “Phương pháp bản đồ nhận thức” và coi đó là phương pháp lôgic để nhận thức, được nhiều nhà bản đồ nghiên cứu và ứng dụng. - Năm 1978, trong tác phẩm “Phương pháp bản đồ để nghiên cứu”, nhà bản đồ học A.M Berliant đã đưa ra tập hợp các biện pháp và nội dung phân tích bản đồ. Để nhấn mạnh ý nghiã và vai trò của Phương pháp bản đồ, A.M Berliant viết: “Phương pháp bản đồ để nghiên cứu là một bộ phận của Bản đồ học, nghiên cứu các vấn đề thành lập và sử dụng bản đồ để nhận thức các hiện tượng”. - Trong phương pháp bản đồ, sự nhận thức được thực hiện theo hai quá trình khép kín: Từ thực tế khách quan, tùy thuộc vào yêu cầu và nội dung nghiên cứu, nhà bản đồ học phân tích, chọn lọc những đối tượng, hiện tượng trong thực tế khách quan và phản ánh lên bản đồ thông qua ngôn ngữ bản đồ. Với bản đồ, người dùng bản đồ nghiên cứu các đối tượng và hiện tượng đã được biểu hiện trên bản đồ, rút ra những tri thức cần thiết hiểu biết thực tế..

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Hình 2: Sơ đồ Phương pháp bản đồ để nhận thức thực tế R: Thực tế khách quan; R1: Phần thực tế khách quan được thành lập bản đồ; 1. Người nghiên cứu : thu thập và xử lí thông tin (đánh giá, phân loại, tính toán); T1: Các thông tin đã xử lí để lập bản đồ; T; 2. Người lập bản đồ: thành lập bản đồ (lập mô hình); C: Bản đồ; 3. Người đọc bản đồ: đọc, suy giải bản đồ, xử lí thông tin bản đồ; T2: Thông tin nhận được từ bản đồ; 4. Giải thích thông tin và hình thành khái niệm địa lí. R2: Phần thực tế khách quan đã được nhận thức. - Tất cả các nhà khoa học nghiên cứu về bản đồ, về khái niệm phương pháp bản đồ đều nhất trí Phương pháp bản đồ nhận thức thực tế khách quan là một phương pháp luận khoa học: Thứ nhất, thành lập bản đồ là xây dựng những mô hình không gian của bộ phận thực tế khách quan được nghiên cứu, nhờ những kiến thức tích luỹ được trong quá trình nghiên cứu. Thứ hai, sử dụng bản đồ là nghiên cứu mô hình ( các bản đồ ) nhằm thu nhận các kiến thức về thực tế khách quan. 1.6. Lịch sử phát triển Bản đồ học 1.6.1 BẢN ĐỒ HỌC THỜI CỔ ĐẠI. - Những người Tahiti trên các đảo Thái bình dương, những người Exkimô vùng Bắc cực và những người du mục ở các sa mạc Trung Á, đã vẽ những bản đồ phức tạp, với phạm vi lãnh thổ rộng lớn - Một trong những bản đồ thế giới được xếp vào loại cổ nhất khoảng 2.500 năm trước Công nguyên là bản vẽ trên tấm đất sét được tìm thấy khi khai quật thành phố Gasur (Phía bắc Babylon). - Bản đồ các mỏ khai thác vàng ở Ai Cập từ 1.400 năm trước công nguyên đã được tìm thấy ở Ai Cập, trên đó thể hiện rõ những núi quặng, những hố khai thác, đường giao thông. - Những biểu hiện bản đồ cổ nhất còn tìm thấy trên các vật liệu khác như một bình bằng bạc chạm các sông chảy từ dãy Capcadơ ra biển đã đào được trong ngôi mộ cổ ở Maikôp (Miền Cuban) và chín đỉnh cổ của Trung Quốc từ thời Hạ Vũ có khắc bản đồ.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> - Những bản đồ đạc điền đầu tiên đã được những người Ai Cập cổ đại thể hiện là ở vùng thung lũng sông Nin - nơi bị ngập lụt hàng năm.. - Nhà bác học cổ đại Eratosphen đã ứng dụng vào đo đạc khoảng cách giữa Alecxandri (tức Ixcandaria ngày nay) và Xyen (tức Axuan ngày nay) để tính ra chiều dài của một độ kinh tuyến. - Đế quốc La Mã phát triển mạng lưới đường sá nhằm cai quản đất đai và thu tô, do đó bản đồ đường sá được ra đời, trong đó có tấm bản đồ đường sá dài 6,32m, rộng 0,33m. Bản đồ chưa có lưới chiếu, không có kinh, vĩ tuyến nhưng rất có giá trị về quân sự và hành chính, được xem là tấm bản đồ “vĩ đại” nhất của thời Cổ đại. - Người có ý niệm đầu tiên biểu hiện toàn bộ thế giới Cổ đại là Aximan (610- 546 TCN), sau đó là Eratosphen (271- 195 TCN) và Xtrabôn (63 TCN – 21 SCN). Trong 17 cuốn sách viết về Địa lí học, Xtrabôn đã dành nhiều phần nói về bản đồ. Ông đã xây dựng phép chiếu hình trụ giữ đều khoảng cách và đưa ra cách thể hiện các đối tượng địa lí (Ngôn ngữ bản đồ). - Người có công lớn nhất phát triển môn bản đồ cổ đại phải kể đến là K.Ptôlêmê (87- 150) - nhà thiên văn học nổi tiếng. Tám tập “Địa lí học” của K.Ptôlêmê được coi là tác phẩm nổi tiếng nhất thời kì này (được dịch ra tiếng La tinh và in vào năm 1472). Trong tác phẩm, có nhiều trang viết về Bản đồ học. Đặc biệt K.Ptôlêmê đã lập 27 bản đồ thế giới, trong đó châu Âu, châu Á, châu Phi có hình dạng bờ biển tương đối chính xác, nhất là vùng Địa Trung Hải và Tây Nam Á..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Các bản đồ thế giới của K.Ptôlêmê đã đưa ra một số đường kinh vĩ tuyến và cho rằng sự biểu hiện mặt cầu Trái Đất sang mặt phẳng bản đồ không thể không có biến dạng. Những khái niệm đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị. - Vào thế kỉ thứ III, nhà bác học Trung Quốc Bùi Tú (234 - 271) đã thành lập bản đồ lãnh thổ Trung Quốc và đề ra 6 nguyên tắc đo vẽ bản đồ là Phân xuất (Tỷ lệ); Chuẩn vọng (phương hướng); Đạo lí (khoảng cách); Cao hạ ( cao thấp); Phương tà (góc độ) và Vu trực (cong thẳng). Những nguyên tắc này có ý nghĩa thực tiễn rất lớn, đặc biệt đối với việc đo vẽ các bình đồ. Cùng thời gian này Trung Quốc làm ra giấy viết (năm 105), đã góp phần đáng kể vào sự phát triển của Bản đồ học. 1.6.2 BẢN ĐỒ HỌC THỜI TRUNG CỔ VÀ THỜI KỲ PHỤC HƯNG - Thời Trung cổ với sự thống trị của Nhà thờ, những tiến bộ khoa học của nền văn hoá Cổ đại bị huỷ hoại và lãng quên, thế giới quan tôn giáo ngự trị, tất cả chỉ tin vào “Điều khám phá của Nhà thờ”. Bản đồ được biểu hiện ở giữa là Jeruzalem, phía trên là Thiên đường. - Cuối thế kỉ XIII, Trung Quốc phát minh ra địa bàn, đã mở ra bước phát triển mới cho các phát kiến địa lí và sự phát triển của Bản đồ học. Phát minh này đã tạo điều kiện cho ngành hàng hải phát triển. Nhiều bản đồ thể hiện các đường bờ biển ra đời. Những bản đồ này được gọi là “Portulan” (bản đồ địa bàn, bản đồ biển). Đặc điểm của bản đồ này là trên bản đồ có các tâm được xem như các “bông hồng”. Từ các bông hồng toả ra 16 tia có ghi hướng..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Trên các bản đồ này dần dần được bổ sung lưới kinh vĩ tuyến, tỉ lệ tuyến tính. Bản đồ địa bàn phát triển chủ yếu ở Italia, vùng bờ biển Địa Trung hải, trung tâm buôn bán thời bấy giờ. Bản đồ địa bàn thịnh hành đến thế kỉ XVII, XVIII, được xem là tiền thân của bản đồ hàng hải và là bước quá độ chuyển từ Bản đồ học thời Cổ đại sang Bản đồ học thời Phục hưng.. - Thế kỉ XV, XVI, các cuộc thám hiểm lớn của các nhà địa lí như Cristôp Côlông (1492 - 1504 - tìm ra châu Mĩ), Vaxcô đơ Gama (1497 - 1499 - phát hiện thêm các chi tiết vùng bờ biển Nam Phi trên đường sang Ấn Độ); Majenlăng (1519 - 1522 - thám hiểm vòng quanh thế giới) đã cho nhiều hiểu biết để vẽ bản đồ các châu lục và thế giới. - Cùng với những phát kiến mới, sự tiến bộ của các ngành khoa học liên quan như Thiên văn học, Toán học, Vật lí học, Địa lí học và các ngành kĩ thuật, đặc biệt là sự phát minh ra ngành In (1456) đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của Bản đồ học. Cũng trong thế kỉ XV, Italia đã xây dựng bản đồ châu Phi bằng những kí hiệu qui ước thay cho những dấu hiệu hình tượng phức tạp trước đây trên các bản đồ, đã tạo nên sự biến đổi về chất trong sự biểu hiện bản đồ..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> - Người có công lớn nhất đối với Bản đồ học thời kì này phải kể đến nhà bản đồ học người Hà Lan G.Mercator (thế kỉ XVI). Những công trình lớn của G. Mercator là bản đồ châu Âu, chữa những chỗ sai trên bản đồ của Ptôlêmê (Địa Trung Hải), cải tiến hệ thống chữ viết, đưa kiểu chữ in nghiêng vào bản đồ thay thế kiểu chữ Gô tích. Hai công trình nổi tiếng nhất của G.Mercator là đưa toán học vào Bản đồ học, chuyển mạng lưới kinh, vĩ tuyến từ mặt hình cầu Quả đất sang mặt phẳng bản đồ và thành lập tập bản đồ (Atlat). Tiêu biểu cho những công trình này là bản đồ hàng hải thế giới (1569), vẽ theo phép chiếu hình trụ thẳng đồng góc, đảm bảo vẽ các đường tà hành là đường thẳng. Và tuyển tập bản đồ với tên “Atlat” (tên của nhà vua huyền thoại xứ Libi) gồm 107 bản đồ được xuất bản đầy đủ năm 1602. G.Mercato được coi như người sáng lập ra ngành Bản đồ học hiện đại. 1.6.3 BẢN ĐỒ HỌC NGÀY NAY - Từ cuối thế kỉ XVII nền kinh tế và khoa học kĩ thuật trên thế giới bước vào thời kỳ phát triển mới. Nhiều Viện Hàn lâm khoa học đã được thành lập ở các nước: Pháp (Paris 1666), Đức (Berlin 1700) Nga (Pêterburg - 1724). Sự thành lập các bản đồ đã trở thành nhu cầu khoa học, kinh tế, quân sự của nhiều quốc gia. Phạm vi biểu hiện của bản đồ không chỉ còn giới hạn quanh các tuyến đường thám hiểm và các bờ biển mà ngày càng mở rộng vào sâu trong các lục địa, với những địa hình phức tạp. - Một số nước châu Âu đã thành lập các Cơ quan bản đồ nhà nước như ở Anh (1791), Pháp (1817) và từ đó xuất hiện các loại bản đồ “Tôpô” với sự bắt đầu bằng việc xây dựng hệ thống Tam giác nhà nước, làm cơ sở khống chế toạ độ thống nhất quốc gia, như ở Nauy (1779- 1882 ), Thuỵ Điển (1805 - 1919), Phần Lan (1830- 1913) v.v… Một số nước đã thành lập bộ bản đồ tỉ lệ lớn toàn quốc như Nhật Bản (1:50.000), Pháp (1:80.000), Nauy (1:100.000)v.v... Đến cuối thế kỉ XIX, hầu hết các.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> lãnh thổ châu Âu, phần lớn châu Mĩ và một phần châu Á, châu Phi đã được vẽ lên bản đồ và nhiều nước đã in ấn trọn bộ các bản đồ địa hình quân sự tỉ lệ lớn . - Thế kỉ XVIII là thế kỉ xuất hiện nhiều công trình toán bản đồ của các nhà toán học, bản đồ học như Bonn, J.Lambert (1728- 1777), K.Wollweide (1774- 1825) , Fr.Gauss (1775- 1855) … đã góp phần nâng cao tính chính xác toán học của bản đồ. - Từ cuối thế kỉ XIX và nửa đầu thế kỉ XX khi các ngành khoa học như Toán học, Thiên văn học, Vật lí học phát triển đến trình độ cao đã tạo cho khoa học Bản đồ phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt với sự phát triển của các ngành khoa học nghiên cứu Trái Đất như Địa chất học, Khí hậu học, Địa mạo học... đã đặt ra cho khoa học Bản đồ những nhiệm vụ mới, nội dung biểu hiện bản đồ không chỉ giới hạn những đối tượng phân bố trên mặt đất mà còn những đối tượng nằm sâu trong lòng đất và cả các hành tinh khác. - Ngày nay, nhờ những thành tựu của khoa học kĩ thuật mới (chụp ảnh máy bay, ảnh vệ tinh, các máy chụp nhiều màu, máy tính, công nghệ tin học, v.v…) công việc đo vẽ, biên tâp, vẽ và sản xuất bản đồ, atlat được thuận lợi, nhanh chóng. Do đó các sản phẩm bản đồ ngày càng phong phú và đa dạng cả về nội dung và hình thức. 1.7 LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN NGHÀNH ĐO VẼ BẢN ĐỒ Ở VIỆT NAM - Sự đo vẽ bản đồ đã được ông cha ta tiến hành từ những năm đầu công nguyên nhằm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Năm 43 sau công nguyên, đã đo đạc và dựng các mốc đồng dọc biên giới và năm 724 đo vẽ bản đồ để đắp cao hệ thống đê phòng thủ Đại La. Tác phẩm bản đồ tiêu biểu và có giá trị khoa học nhất còn để lại đến nay là “Tập bản đồ Hồng Đức” được thành lập ở triều vua Lê Thánh Tông (1460- 1497). Các bản đồ này đã thể hiện hình dạng nước ta công bố chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa . - Về cơ sở lí luận, thế kỉ XVII, nhà bác học Lê Quý Đôn (1726- 1783) trong pho sách “Kho hiểu biết quý giá” gồm 9 tập đã dành 1 tập viết về Bản đồ học cùng với 2 tập khác viết về Vũ trụ học và Địa lí học..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> - Từ giữa thế kỉ XVII, các nước châu Âu mở rộng sự truyền giáo và xâm chiếm thuộc địa, nhiều nhà truyền giáo và nhà quân sự đã đến vẽ bản đồ nước ta. - Năm 1650 nhà truyền giáo Alexandre đơ Rhodex đã lập bản đồ "Vương quốc An Nam" và cùng thời gian này (1666) nhà hàng hải Pieter Goos lập bản đồ bờ biển vùng bờ biển nước ta. Cuối thế kỉ XVII để chuẩn bị cho sự xâm chiếm thuộc địa , nhiều sĩ quan Pháp đã đến quan sát và lập bản đồ bờ biển nước ta như bản đồ Hàng hải Nam Kỳ (1818), bản đồ Địa lí An Nam (1838)....

<span class='text_page_counter'>(19)</span> - 1872 – 1873: Đo đạc và lập các bản đồ tỉ lệ lớn như Bộ bản đồ Nam Kì, tỉ lệ 1: 125.000, gồm 20 mảnh của thuyền trưởng Bigrel. Những năm 1874-1875, lập mạng lưới tam giác Bắc Bộ với đường đáy qua Đồ Sơn và năm 1881 xuất bản bản đồ toàn Đông Dương của Dutreull Rhin với các địa danh được Pháp hoá. - 1886-1895: Thành lập Cơ quan chuyên trách: “Văn phòng đo đạc Ban tham mưu quân đội viễn chinh Đông dương”, Xây dựng được "Hệ thống khoá tam giác" - cơ sở khống chế đo vẽ chi tiết địa hình và thành lập hệ thống bản đồ địa hình với các tỉ lệ: 1/100.000 và 1/200.000 đối với Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ: bản đồ 1/100.000 toàn Đông Dương, bản đồ 1/25000 và 1/50.000 các vùng đồng bằng và vùng mỏ, 1/10.000 và 1/5000 các thành phố và thị xã. - Sau cách mạng Tháng Tám, nước ta đã thành lập "Phòng bản đồ Bộ tổng tham mưu quân đội nhân dân Việt Nam" - Ngày 14/12/1959 Nhà nước đã thành lập “Cục Đo đạc và Bản đồ " trực thuộc Phủ Thủ tướng. Trải qua nhiều thay đổi tổ chức như: "Cục đo đạc và Bản đồ Nhà nước" "Tổng cục Địa chính", nay (theo Nghị Định 19 - 2002/CP ngày 11/11/2002) là "Cục đo đạc và Bản đồ" trực thuộc Bộ Tài nguyên Môi trường. Ngành Đo đạc và Bản đồ nước ta khi mới ra đời đã xác lập lại mạng lưới tam giác khống chế Miền Bắc và chỉnh lí hệ thống bản đồ địa hình. Sau khi thống nhất đất nước, tiếp tục xác lập mạng lưới khống chế Miền Nam. Đến nay nước ta đã hoàn chỉnh hệ thống mạng lưới tam giác khống chế toàn quốc từ cấp I đến cấp IV lập lưới tọa độ quốc gia Việt Nam 2002 và hệ thống bản đồ địa hình, làm cơ sở thành lập các bản đồ khác. - Ngoài Cục Đo đạc và Bản đồ nhà nước, nhiều Bộ, Ngành như Tổng cục Địa chất, Bộ Nông nghiệp , Bộ Lâm nghiệp, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã lập các cơ quan bản đồ ngành để thành lập các bản đồ chuyên ngành. Những bản đồ chuyên đề đầu tiên như bản đồ Địa chất Miền Bắc Việt Nam, bản đồ Thổ nhưỡng Miền Bắc Việt Nam, bản đồ Dân số Miền Bắc Việt Nam, tỉ lệ 1/5000000. Ngày nay tất cả các ngành khoa học có liên quan đến bản đồ và nhiều ngành kinh tế - xã hội đã xây dựng các bản đồ chuyên đề phục vụ nghiên cứu và sản xuất. Nhiều ngành, nhiều tỉnh đã xuất bản tập bản đồ. - Công trình bản đồ đồ sộ nhất, tiêu biểu cho sự phát triển của khoa học Bản đồ nước ta là tập "Atlat Quốc gia Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam", xuất bản năm 1996. - Sự đào tạo cán bộ chuyên ngành Đo đạc - Bản đồ được mở rộng, các trường Đại học Mỏ - Địa chất , Đại học Sư phạm, Đại học Khoa học Tự nhiên đã có các Khoa, Bộ môn bản đồ. Đặc biệt là Bản đồ học và các ngành khoa học có liên quan đã nhanh chóng ứng dụng công nghẹ hiện đại vào việc thành lập và sử dụng bản đồ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG I 1. Bản đồ học là gi? Bản đồ học có đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu thế nào?.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> 2. Bản đồ học gồm những ngành nghiên cứu chuyên sâu nào? Chức năng, nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu của chúng, 3. Phân tích mối quan hệ giữa Bản đồ học với Địa lí học, Trắc địa học và các môn khoa học khác. 4. Nhận xét về quá trình hình thành và phát triển của khoa học bản đồ qua các thời kì lịch sử trên thế giới và của Việt Nam? 5. Phương pháp bản đồ là gì? Phân tích sơ đồ Phương pháp bản đồ của K. A. Xalisev. Tại sao nói phương pháp bản đồ là phương pháp luận cơ bản của khoa học bản đồ.. CHƯƠNG II: BẢN ĐỒ ĐỊA LÍ 2.1 ĐỊNH NGHĨA VÀ NHỮNG TÍNH CHẤT CƠ BẢN CỦA BẢN ĐỒ ĐỊA LÍ -Từ lâu bản đồ địa lí đã được định nghĩa: "Bản đồ là hình vẽ thu nhỏ trên giấy, tương đối chính xác về một khu vực hay toàn bộ bề mặt Trái Đất". -Phân tích: + Thứ nhất, định nghĩa như vậy xác thực với mọi bản vẽ về bề mặt Trái Đất, như bức tranh phong cảnh biểu hiện địa phương bằng các phương pháp và phương tiện của nghệ thuật tạo hình, hoặc một bức ảnh chụp địa phương. + Thứ hai, nó chỉ giới hạn ở sự biểu hiện bề mặt Trái Đất, trong khi đó những bản đồ hiện nay có khả năng biểu hiện nhiều đối tượng, hiện tượng tự nhiên, kinh tế - xã hội không chỉ nhìn thấy như núi, sông, rừng, biển mà còn cả những hiện tượng không nhìn thấy như nhiệt độ, áp xuất không khí, các mối quan hệ giữa các hiện tượng và những hiện tượng không cảm thấy như từ trường Trái Đất. Không chỉ biểu hiện những đối tượng, hiện tượng phân bố trên bề mặt đất mà cả những đối tượng nằm sâu trong lớp vỏ Trái Đất (cấu tạo địa chất - khoảng sản), trong lớp khí quyển và cả những biến đổi của chúng theo thời gian. Phương pháp biểu hiện bản đồ cũng không giống với các phương pháp biểu hiện các tranh ảnh địa lí. +K. A. Xalishev: “Bản đồ địa lí là những biểu hiện thu nhỏ, được qui dịnh về mặt toán học, có tính chất hình ảnh kí hiệu và được khái quát hoá bề mặt Trái Đất lên trên mặt phẳng. Những biểu hiện này trình bày sự phân bố, tình trạng và các mối liên hệ của những hiện tượng tự nhiên và xã hội khác nhau, cả những biến đổi của chúng theo thời gian, đã được lựa chọn và nêu đặc trưng phù hợp với mục đích của từng bản đồ cụ thể ”. Phân tích định nghỉa trên: 2.1.1 Bản đồ được thành lập trên cơ sở toán học Để chuyển được bề mặt tự nhiên của Trái Đất sang mặt phẳng bản đồ, phải thực hiện:.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> +Thứ nhất, chiếu bề mặt Trái Đất vốn có địa hình rất phức tạp và những đối tượng cần hoạ đồ rất đa dạng lên bề mặt elípxoit Trái Đất. +Thứ hai, thu nhỏ kích thước elipxoit Trái Đất và biểu hiện bề mặt elipxoit đó lên mặt phẳng. +Để làm điều này phải sử dụng phương pháp toán học, gọi là phép “Chiếu hình bản đồ”. Phép chiếu hình bản đồ qui định sự phụ thuộc hàm số nhất định giữa toạ độ của những điểm trên bề mặt elipxoit Trái đất và toạ độ của những điểm tương ứng trên mặt phẳng bản đồ. Nhờ đó bản đồ bảo đảm được tính đồng dạng và sự tương ứng không gian của các đối tượng được biểu hiện. 2.1.2 Bản đồ sử dụng ngôn ngữ đặc biệt -Sự biểu hiện bản đồ sử dụng ngôn ngữ đặc biệt - hệ thống kí hiệu đặc thù. Các kí hiệu bản đồ đã biểu hiện được các đối tượng, hiện tượng khác nhau trên bản đồ. Sự biểu hiện bằng hệ thống kí hiệu đã làm cho bản đồ khác với những biểu hiện của bức ảnh hàng không và tranh phong cảnh cùng một địa phương. -Bản đồ với các kí hiệu, ấn tượng ban đầu có thể cho cảm giác xa lạ, không trực quan như những bức ảnh, bức tranh, nhưng thực tế, sự biểu hiện bằng kí hiệu đã tạo cho bản đồ có những ưu thế mà không một bức ảnh, bức tranh địa phương nào có thể có được. Sự sử dụng các kí hiệu bản đồ cho phép : . Một bản đồ có thể thể hiện bao quát được cả một không gian rộng lớn, trên đó vẫn thể hiện và làm nổi bật được những đối tượng, những đặc trưng của địa phương dù những đối tượng đó có kích thước nhỏ bé như thế nào. Với một bức ảnh hàng không, điều đó hoàn toàn không thể có được, chúng sẽ bị biến mất khi thu nhỏ theo cùng một tỉ lệ. Kí hiệu cho phép trình bày địa hình mặt đất trên mặt phẳng mà không làm mất đi những đặc điểm lồi lõm, có thể nhận biết và tính toán được độ cao thấp của địa hình (bằng các đường bình độ).. . Kí hiệu không chỉ phản ánh dáng vẻ bên ngoài của các đối tượng, hiện tượng ở trên bản đồ, mà còn đưa ra được những đặc tính bản chất bên trong của các đối tượng, những biến đổi của chúng theo không gian và thời gian, đưa ra được nhiều mặt của đối tượng. Ví dụ một bức ảnh hàng không chụp địa phương, cho ta thấy rất rõ các điểm quần cư nhưng không thể đưa ra được những đặc điểm dân cư ở những điểm quần cư đó như số dân, mật độ dân số, kết cấu dân số, v.v… Với bản đồ, bằng kí hiệu, điều này hoàn toàn có thể biểu hiện được.. . Có khả năng thể hiện được sự phân bố và các đặc điểm của cả những hiện tượng mà giác quan ta không tri giác được (ví dụ: sự phân bố từ trường, sự dị thường trọng lực, v.v…) và làm hiện lên rõ ràng những mối quan hệ giữa các sự vật (lượng mưa với chế độ nước sông, nguồn nguyên liệu với các xí nghiệp chế biến, v.v…).. . Cho phép chọn lọc, lược bỏ những khía cạnh, những bộ phận riêng lẻ, ít giá trị của sự vật, khái quát thành những dấu hiệu chung có tính bản chất, đặc trưng cơ bản của đối tượng, tức.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> là sự trừu tượng hoá (ví dụ dựa vào dân số và ý nghĩa hành chính, đưa ra đặc trưng của các điểm dân cư, bỏ qua được sự truyền đạt qui hoạch đơn thuần của các điểm quần cư). 2.1.3 Bản đồ có sự tổng quát hoá -Bản đồ không thể thể hiện tất cả các đối tượng, hiện tượng địa lí có ở địa phương, vì bản đồ là sự biểu hiện thu nhỏ, tỉ lệ càng nhỏ, mức độ thu nhỏ càng lớn. Mặt khác, mỗi bản đồ được thành lập đều nhằm phục vụ một mục đích và chủ đề nhất định nào đó. Vì thế những đối tượng, hiện tượng đưa lên bản đồ phải được chọn lọc có ý thức, phải loại bỏ những đối tượng và những khía cạnh không cần thiết, chỉ giữ lại và nêu bật những đối tượng, hiện tượng với những nét đặc trưng chủ yếu, điển hình, quan trọng nhất trên cơ sở mục đích, chủ đề, tỉ lệ bản đồ và đặc điểm điạ phương. Quá trình chọn lọc đó là sự “Tổng quát hoá bản đồ”. -Tổng quát hoá chỉ giữ lại và làm nổi bật những khía cạnh, những nét đặc trưng nhất của đối tượng, cho phép phân biệt được trên bản đồ những cái chủ yếu, cái thứ yếu, tìm thấy ở những đối tượng riêng lẻ những đặc tính chung, cho phép ta hiểu được những hình ảnh rõ ràng và sâu sắc của địa phương. Tổng quát hoá, trừu tượng hoá bản đồ để nhận thức, đem đến cho bản đồ một phẩm chất mới, làm cho những bản đồ với mục đích, chủ đề, tỉ lệ khác nhau có nội dung khác nhau. Gần đây, Đại hội lần thứ 10 Hội Bản đồ thế giới (Bacxêlôna, Tây Ban Nha) đã đưa ra định nghĩa rộng hơn, phù hợp với tình hình hiện nay: "Bản đồ là hình ảnh của thực tế địa lí, được kí hiệu hóa, phản ánh các yếu tố hoặc các đặc điểm một cách có chọn lọc, kết quả từ sự nỗ lực sáng tạo trong lựa chọn của tác giả bản đồ và được thiết kế để sử dụng chủ yếu liên quan đến các mối quan hệ không gian". 2.2 CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH BẢN ĐỒ ĐỊA LÍ 2.2.1. Yếu tố nội dung - Nội dung bản đồ là lượng thông tin về các đối tượng, hiện tượng địa lí được biểu hiện trên bản đồ. - Trên từng nhóm bản đồ địa lí nội dung được thể hiện khác nhau. Nhóm bản đồ đại cương, nội dung biểu hiện bề ngoài các đối tượng địa lí tự nhiên, kinh tế - xã hội có trên bề mặt đất nhưng ở mức độ chi tiết khác nhau do tỉ lệ bản đồ qui định. Nhóm bản đồ chuyên đề, nội dung biểu hiện bên trong một vài đối tượng có hoặc không có trên bản đồ địa lí chung, nhưng ở mức chi tiết và sâu hơn, chúng được phân ra thành phần chính, phụ. 2.2.2. Cơ sở toán học - Cơ sở toán học bao gồm lưới chiếu , tỉ lệ , bố cục bản đồ và mạng lưới điểm khống chế trắc địa. - Bản chất của phép chiếu hình bản đồ là biểu thị sự phụ thuộc giải tích giữa toạ độ các điểm của mặt Elipxôit Trái Đất và sự biểu hiện trên mặt phẳng bản đồ. Sự xây dựng các bản đồ phải bắt đầu từ việc thành lập hệ thống lưới toạ độ - mạng lưới kinh vĩ tuyến. Mạng lưới kinh vĩ tuyến là cơ sở.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> của tất cả các bản đồ, thuộc vào những thành phần bắt buộc của bản đồ địa lí. - Hệ thống điểm khống chế trắc địa đảm bảo cho sự xác định chính xác vị trí mạng lưới toạ độ địa lí và phân bố chính xác các yếu tố nội dung trong hệ tọa độ mặt phẳng quốc gia. Mạng lưới khống chế trắc địa không thể thiếu trên các bản đồ địa lí chung. - Tỉ lệ bản đồ qui định kích thước chung của sự biểu hiện bản đồ. Tỉ lệ còn tham gia vào xác định mức độ chi tiết của nội dung bản đồ và phương pháp biểu hiện bản đồ, sự phân mảnh và lập danh số (số hiệu) các bản đồ trong hệ thống bản đồ nhiều tờ. - Bố cục bản đồ là sự xác định phạm vi của khu vực lập bản đồ và sự sắp xếp các phần nội dung của bản đồ, bao gồm khung bản đồ, sơ đồ bảng chắp mảnh, sơ đồ trình bày bên trong và ngoài khung bản đồ. 2.2.3. Yếu tố hỗ trợ - Bản chú giải - Biểu đồ đo bản đồ - Tài liệu tra cứu 2.2.4. Yếu tố bổ sung - Bản đồ phụ - Lát cắt, biểu đồ, đồ thị... 2.3 VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA BẢN ĐỒ -Nói về vai trò, ý nghĩa của bản đồ địa lí, nhà địa lí học nổi tiếng N.N. Baranxki của Liên Xô trước đây đã khái quát một cách tài tình trong câu nói đầy hình ảnh: “Nếu như các nhà sinh vật học để nghiên cứu những vật thể nhỏ bé, trước hết phải quan tâm thu nhận sự biểu hiện phóng đại chúng qua kính hiển vi. Ngược lại, các nhà địa lí phải nghĩ để có được sự biểu hiện thu nhỏ bề mặt Trái Đất - Cái đó chính là bản đồ”. -Bản đồ địa lí khác với bài viết địa lí. Bản đồ địa lí cho ta khái niệm “Bề mặt” lãnh thổ (không gian hai chiều, ba chiều), còn bài viết địa lí cho ta sự mô tả địa lí về lãnh thổ đó. Vì vậy, trong nghiên cứu cũng như giảng dạy địa lí phải coi bản đồ và bài viết là hai "Kênh thông tin (hình và chữ)" bổ sung cho nhau. Một bài viết địa lí có tính khoa học là bài viết được hướng vào bản đồ và một bản đồ có giá trị là phải dựa trên cơ sở địa lí, làm sáng tỏ những qui luật địa lí. -Trong thực tiễn, bản đồ địa lí được sử dụng một cách rộng rãi để giải quyết nhiều nhiệm vụ khác nhau, những nhiệm vụ gắn liền với sự khai thác, sử dụng lãnh thổ. Sự thăm dò các khoáng sản có ích, điều tra tài nguyên rừng, đánh giá đất nông nghiệp, v.v… đều phải dựa trên cơ sở bản đồ . Những công trình kĩ thuật như thiết kế, xây dựng các công trình thuỷ lợi, mạng lưới giao thông,v.v... đều được vạch ra trên bản đồ. -Trong một nền sản xuất phát triển có kế hoạch, công cuộc phát triển kinh tế gắn chặt với sự phân.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> bố hợp lí lực lượng sản xuất, sử dụng khôn ngoan và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, chống ô nhiễm môi trường, cải tạo tự nhiên. Muốn vậy điều kiện đầu tiên và cơ bản là phải điều tra tổng hợp lãnh thổ, thu thập đầy đủ và có hệ thống các điều kiện tự nhiên - tài nguyên thiên nhiên, điều kiện kinh tế – xã hội, lực lượng sản xuất của lãnh thổ. -Thiếu bản đồ không thể giải quyết được những nhiệm vụ như phân bố lực lượng sản xuất, tổ chức lãnh thổ nền sản xuất xã hội, kế hoạch hoá sự phát triển tổng hợp nền sản xuất các miền, các vùng. -Với giao thông, du lịch và quốc phòng, bản đồ là phương tiện dẫn đường đáng tin cậy nhất. Những phi công yên ổn trên bầu trời, thuỷ thủ vững lái ngoài biển khơi là nhờ có bản đồ. Bản đồ là “mắt thần” của các nhà quân sự, các cán bộ tham mưu. Bản đồ địa hình quân sự là cơ sở để thành lập các bản đồ chiến lược, chiến thuật, là phương tiện lãnh đạo, chỉ huy tác chiến, hành quân, bố trí lực lượng, hợp đồng binh chủng. -Bản đồ địa lí không thể thiếu trong nghiên cứu khoa học, nó là phương tiện nghiên cứu của các ngành khoa học về Trái Đất. Bản đồ giúp các nhà khoa học tìm hiểu những qui luật phân bố của các đối tượng, sự lan truyền của các hiện tượng và những mối tương quan của chúng trong không gian, cho phép phát hiện những qui luật tồn tại và dự đoán con đường phát triển của chúng trong tương lai. Bất cứ một sự nghiên cứu địa lí nào cũng phải bắt đầu từ bản đồ và kết thúc bằng bản đồ (bản đồ là anpha và Ômêga của địa lí ). -Đ.N.Anusin- nhà địa lí kinh điển của Liên Xô trước đây đã viết: “Mức độ nhận thức về mặt địa lí một nước được xác định bởi độ hoàn hảo của bản đồ hiện có của nước đó”. -N.N.Baranxki nói: “Tuy nhiên không phải cái gì cũng có thể đưa vào bản đồ, chỉ có thể và phải là những đối tượng quan sát địa lí mang tính khoa học, tất nhiên tất cả những cái không được đưa vào bản đồ, biết chắc rằng không phải là địa lí ”. -Trong giảng dạy và học tập địa lí, bản đồ vừa là nội dung vừa là phương tiện đặc thù không thể thiếu trong giảng dạy và học tập địa lí. -Bản đồ là một phương tiện có hiệu quả để phổ biến các tri thức, nâng cao trình độ văn hoá chung cho mọi người, cung cấp những hiểu biết về quê hương, đất nước, về các quốc gia trên thế giới, giáo dục lòng yêu nước, yêu quý thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Bản đồ là phương tiện sản xuất, phục vụ đời sống con người. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG II 1. Định nghĩa Bản đồ địa lí? Các đặc điểm cơ bản của Bản đồ địa li? 2. Bản đồ địa lí được cấu thành bởi những yếu tố nào? Chức năng và nội dung của chúng? 3. Phân tích vai trò và ý nghĩa của Bản đồ địa lí trong nghiên cưua khoa học, giảng dạy - học tập địa lí, trong thực tiễn sản xuất, đời sống và quốc phòng..

<span class='text_page_counter'>(25)</span> CHƯƠNG III: CƠ SỞ TOÁN HỌC CỦA BẢN ĐỒ 3.1. Những khái niệm cơ bản 3.1.1 TRÁI ĐẤT - HÌNH DẠNG VÀ KÍCH THƯỚC - Năm 1873 nhà Vật lý học người Đức Lixtinh đã đưa ra khái niệm Geoid. Mặt Geoid là mặt nước biển trung bình yên tĩnh trải rộng xuyên qua các lục địa tạo thành một mặt cong khép kín. - Tại bất kỳ một điểm nào trên bề mặt này, đường pháp tuyến đi qua điểm đó cũng trùng với phương của dây dọi. - Trong thực tiễn Trắc địa - Bản đồ, người ta lấy mặt Elipxôid quay có hình dạng và kích thước gần giống Geôid làm bề mặt toán học thay cho Geôid. - Elipxôid có khối lượng bằng khối lượng Geôid, tâm trùng với trọng tâm của Trái Đất, mặt phẳng xích đạo trùng với mặt phẳng xích đạo Trái Đất. - Có hai dạng Elipxôid được nghiên cứu và sử dụng là Elipxôid Trái Đất và Elipxôid Quy chiếu. + Elipxôid xoay quanh mặt phẳng xích đạo, có tâm trùng với tâm của mặt phẳng xích đạo và tâm của Trái đất, biểu diễn chính xác tới mức tối đa bề mặt của Geoid ở tỉ lệ nhỏ gọi là Elipxôid Trái Đất. + Elipxôid, mà trên bề mặt của nó được thực hiện các tính toán về trắc địa thiên văn, địa hình… và có hình dạng gần với bề mặt Geoid hơn tại một vùng nào đó trên Trái Đất gọi là Elipxôid Quy chiếu. - Mỗi quốc gia lại sử dụng một Elipxôid Quy chiếu riêng. Các Elipxôid này khác nhau về kích thước của các bán trục. - Cùng với sự xác định hình dạng, các nhà khoa học đã tiến hành đo kích thước Trái Đất, cụ thể là xác định bán trục lớn (a) và bán trục nhỏ (b) của Elipxôid Trái Đất trên cơ sở đo đạc Trắc địa, Thiên văn và Trọng lực. Từ kích thước bán trục lớn và bán trục nhỏ đã đo được, tính độ dẹt (a) của Elipxôid. - Ở nước ta, từ năm 2000 trở về trước hình Elipxôid Trái Đất của Kraxovxki được lấy làm trị số chính thức trong đo đạc. Từ năm 2000 trở lại đây, sau khi hệ qui chiếu VN 2000 được ban hành trên toàn quốc, các tính toán trắc địa của nước ta được thực hiện theo Elipxôid WGS 84, là Elipxôid được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay trên thế giới. - Do độ dẹt của Elipxôid Trái Đất rất nhỏ, chưa bằng một phần ba trăm, chỉ tương tương đương với 21,36km, nên đối với một số tính toán trong Bản đồ hoặc lập mô hình Trái Đất (Quả cầu địa lí) có thể coi Trái Đất như một khối cầu, có đường kính gần trùng với trục quay Trái Đất. Bán kính của khối cầu có diện tích bề mặt bằng bề mặt của Elipxôit Trái Đất theo FN Kraxovxki: R = 6371,116 km..

<span class='text_page_counter'>(26)</span> 3.1.2 NHỮNG ĐIỂM VÀ ĐƯỜNG CƠ BẢN TRÊN ELIPXÔIT TRÁI ĐẤT - Cực Trái Đất: Các giao điểm giữa bán trục nhỏ của Elipxôid với mặt của Elipsoid gọi là các cực Bắc (PB) và Nam (PN). - Kinh tuyến: Các giao tuyến của mặt Elipxôid với các mặt phẳng đi qua trục quay là những Elipxôid bằng nhau và gọi là các vòng kinh tuyến. Nửa vòng Elipxôid chứa hai cực gọi là kinh tuyến. - Vĩ tuyến: Các vòng tròn được tạo ra do các mặt phẳng vuông góc với trục nhỏ đồng thời cắt Elipxôid gọi là các vĩ tuyến. Vĩ tuyến lớn nhất nằm trên mặt phẳng đi qua tâm Elipxôid gọi là đường xích đạo. Đường xích đạo là vòng tròn có bán kính bằng a. 3.1.3 TỌA ĐỘ ĐỊA LÍ - Toạ độ địa lí được xác định bằng kinh độ (λ) và vĩ độ (φ). + Kinh độ địa lí của một điểm là trị số góc nhị diện hợp bởi mặt phẳng chứa kinh tuyến gốc và mặt phẳng chứa kinh tuyến đi qua điểm đó. Phân biệt:. + Kinh độ Đông (k.đ. Đông) + Kinh độ Tây (k.đ. Tây). + Kinh tuyến gốc (0˚) - Vĩ độ độ địa lí của một điểm là trị số của góc hợp bởi đường pháp tuyến đi qua điểm đó với mặt phẳng xích đạo..

<span class='text_page_counter'>(27)</span> Phân biệt: + Xích đạo (0˚) + Vĩ độ Bắc (v.B) + Vĩ độ Nam (v.N) 3.1.4 TỌA ĐỘ CỰC CẦU - Các đường cơ bản trong hệ thống toạ độ cực cầu không phải là kinh tuyến và vĩ tuyến mà là vòng thẳng đứng và vòng đồng cao. - Vòng thẳng đứng là vòng tròn lớn của hình cầu Trái Đất đi qua một trong các đường kính của hình cầu Trái Đất. Đường kính này chính là đường kính QQ’ đi qua cực Q của hệ toạ độ cực cầu. - Vòng đồng cao là những vòng tròn nhỏ; mặt phẳng của nó vuông góc với đường kính QQ’. Vị trí của một điểm A bất kỳ trong hệ toạ độ cực cầu có cực là Q được xác định bằng khoảng cách thiên đỉnh Z và góc phương vị α. . Z là độ lớn của cung vòng thẳng đứng QA, bằng góc ở tâm QCA tính ra độ. Z = const cho các vòng đồng cao.. . α là góc nhị diện hợp bởi đường kinh tuyến PQ đi qua điểm Q và vòng thẳng đứng đi qua điểm A. α = const cho các vòng thẳng đứng.. Phụ thuộc vào vị trí của điểm cực Q, người ta chia ra ba hệ thống toạ độ cực cầu: a. Hệ thống thẳng khi cực Q của toạ độ cực cầu trùng với cực P của toạ độ địa lí φo = 90°. b. Hệ thống ngang khi cực Q nằm trên đường xích đạo φo = 0° c. Hệ thống xiên khi cực Q là một điểm bất kỳ trên mặt cầu Trái Đất 0°<φo<90°. 3.1.5 TỌA ĐỘ VUÔNG GÓC.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> - Vị trí địa lý của một đối tượng được xác định trong hệ toạ độ vuông góc phẳng gọi là toạ độ vuông góc của điểm đó, được ký hiệu là A(x,y). Giá trị x là giá trị theo hướng Bắc Nam và thường đặt lên trước; giá trị y là giá trị theo hướng Đông Tây.. - Đối với hệ toạ độ Đề Các, các giá trị dương đồng thời của x và y chỉ có được ở góc một phần tư bên phải phía trên của hệ toạ độ. Tại các góc phần tư còn lại, hoặc x, hoặc y, hoặc cả x và y phải nhận giá trị âm. Để tránh các giá trị âm khi xác định toạ độ ô vuông của các đối tượng trong hệ toạ độ vuông góc, người ta dịch gốc toạ độ sang phái Tây và xuống phía Nam một số km nào đó để các giá trị nhận được đều là giá trị dương. - Hệ toạ độ vuông góc thường chỉ đựoc xây dựng ở những bản đồ tỷ lệ lớn. - Ví dụ, trong Hệ VN 2000, sử dụng phép chiếu UTM, múi chiếu 6°. Mỗi múi chiếu có một hệ toạ độ vuông góc. Gốc toạ độ là giao điểm của kinh tuyến giữa của múi chiếu đó với xích đạo. Trục tung là kinh tuyến giữa của múi chiếu mang giá trị x (trong bản đồ sử dụng trục tung là hướng Bắc Nam); trục hoành là xích đạo mang giá trị y. Để tránh có giá trị âm, gốc toạ độ được dịch chuyển sang phía Tây 500km (gốc toạ độ thật cách rìa múi một khoảng xấp xỉ 333km). Vì Việt Nam nằm ở Bắc Bán Cầu nên các giá trị x đều mang giá trị dương, vì vậy không cần dịch chuyển gốc toạ độ xuống phía Nam..

<span class='text_page_counter'>(29)</span> Toạ độ vuông góc của điểm P (x = 2150000m, y = 48572000m) được hiểu là điểm P cách xích đạo 2150000m và cách kinh tuyến 105° Đông (kinh tuyến giữa của múi 48) về phía Đông 72000m. 3.2 CƠ SỞ TOÁN HỌC CỦA BẢN ĐỒ ĐỊA LÍ Để biểu diễn hình của Trái đất lên mặt phẳng bản đồ, phải thỏa mãn ít nhất ba điều kiện sau đây: - Xác định được cơ sở trắc địa thiên văn cho bản đồ cần thành lập - Biểu diễn mức độ thu nhỏ của bề mặt Trái Đất lên mặt phẳng bản đồ - Trải bề mặt dạng cầu của Trái đất lên mặt phẳng bản đồ. 3.2.1 CƠ SỞ TRẮC ĐỊA THIÊN VĂN Hệ thống toạ độ trắc địa bao gồm các yếu tố sau: . Các thông số về Elipxôid quy chiếu (Bán trục lớn a hoặc bán trục nhỏ b và độ dẹt α).. . Độ chênh cao của Geoid so với Elipoôid quy chiếu tại điểm gốc của hệ toạ độ.. . Các số liệu trắc địa ban đầu (Kinh tuyến và vĩ tuyến của điểm gốc; góc phương vị của điểm gốc đến điểm định hướng).. Việt Nam hiện nay sử dụng hệ quy chiếu VN2000, trong đó các thông số được ghi nhận như sau: . Elipxôid WGS 84 có a = 6378137.0 m, α = 1 : 298.257223563..

<span class='text_page_counter'>(30)</span> . Vị trí Elipxôid quy chiếu quốc gia: Elipxôit WGS-84 toàn cầu được xác định vị trí (định vị) phù hợp với lãnh thổ Việt Nam trên cơ sở sử dụng điểm GPS cạnh dài có độ cao thuỷ chuẩn phân bố đều trên toàn lãnh thổ.. . Điểm gốc toạ độ quốc gia: Điểm N00 đặt tại Viện Nghiên cứu Địa chính thuộc Bộ Tài nguyên Môi trường, đường Hoàng Quốc Việt, Hà Nội.. . Hệ thống toạ độ phẳng: Hệ toạ độ phẳng UTM quốc tế, được thiết lập trên cơ sởlưới chiếu hình trụ ngang, đồng góc với hệ số k = 0,9996 cho múi 6° và k = 0,9999 cho múi 3°.. 3.2.2 TỈ LỆ BẢN ĐỒ - Tỷ lệ bản đồ là một yếu tố toán học xác định mức độ thu nhỏ của các đại lượng tuyến tính khi chuyển từ bề mặt Trái Đất (Elipxôid) lên mặt phẳng bản đồ. - Phân biệt: + Tỷ lệ chính của bản đồ phản ánh mức độ thu nhỏ độ dài trên bề mặt đất lên bản đồ ở nơi không có sai số chiếu hình ( μo= 1) Tỷ lệ chính được thể hiện dưới ba dạng: + Tỷ lệ số được xác định bằng một phân số, có tử số là một và mẫu số thường là một số chẵn thể hiện số lần được thu nhỏ trên bản đồ của một đoạn s so với khoảng cách S ngoài thực địa. + Tỷ lệ chữ cụ thể hóa tỉ lệ số bằng lời: 1cm trên bản đồ ứng với bao nhiêu m (km) trên thực địa. + Tỷ lệ thước (thước tỷ lệ thẳng, thước tỷ lệ xiên). Xem hình vẽ. + Tỷ lệ riêng : Tỉ lệ bản đồ lớn hơn hoặc nhỏ hơn tỉ lệ chính, không phản ánh chính xác mức độ thu nhỏ của bản đồ so với thực địa. +Tỷ lệ đồng nhất ghi trên bản đồ địa hình tỉ lệ rất lớn 3.2.3. Phép chiếu hình bản đồ 2.3.1 KHÁI NIỆM VỀ PHÉP CHIẾU BẢN ĐỒ - Phép chiếu bản đồ là sự biểu diễn bề mặt Elipxôid hay mặt cầu của Trái Đất lên mặt phẳng bằng các quy tắc toán học xác định. - Các quy tắc này được xác định thông qua phương trình của phép chiếu bản đồ, thưòng gọi tắt là phương trình chiếu. Có bốn hệ phương trình thưòng gặp nhất tương ứng với hai hệ toạ địa lí và hệ toạ độ cực cầu khi biểu diễn trên mặt phẳng bằng hai hệ toạ độ vuông góc và hệ toạ độ cực phẳng. a. Từ hệ toạ độ địa lí, ta có: x = f1 (φ, λ) y = f2 (φ, λ) và ρ = f3 (φ, λ) δ = f4 (φ, λ).

<span class='text_page_counter'>(31)</span> trong đó φ, λ là toạ độ địa lí của một điểm nào đó trên bề mặt được chiếu ; x, y là toạ độ vuông góc và ρ, δ là toạ độ cực phẳng tương ứng của điểm đó trên mặt phẳng chiếu. b. Từ hệ toạ độ cực cầu, ta có: x = f5 (Z, α) y = f6 (Z, α) và ρ = f7 (Z, α) δ = f8 (Z, α) trong đó Z, α là toạ độ cực cầu của một điểm nào đó trên bề mặt được chiếu; x, y là toạ độ vuông góc và ρ, δ là toạ độ cực phẳng tương ứng của điểm đó trên mặt phẳng chiếu. -Toạ độ của một điểm trong hệ toạ độ cực cầu Z, α có thể tính chuyển sang φ, λ của hệ toạ độ địa lí bằng công thức chuyển đổi đã nêu trong mục hệ thống toạ độ cực cầu. - Cũng có thể chuyển đổi toạ độ của một điểm từ hệ toạ độ cực phẳng sang hệ toạ độ vuông góc phẳng và ngược lại theo công thức chung: x = ρ.cosδ y = ρ.sinδ - Từ đó, người ta đưa ra một hệ phương trình chung nhất cho các phép chiếu bản đồ là hệ phương trình sau: x = f1 (φ, λ) y = f2 (φ, λ) - Các hàm số f1 và f2 là những hàm số đơn trị và liên tục, ngoại trừ một số điểm có các toạ độ φ, λ bị chặn bởi khung của tờ bản đồ. Tính chất của các phép chiếu phụ thuộc vào tính chất và đặc điểm của các hàm số f1 và f2. Có bao nhiêu hàm f1, f2 thì có bấy nhiêu loại phép chiếu. - Mỗi một phép chiếu bản đồ lại có một dạng kinh vĩ tuyến riêng của nó. Các kinh vĩ tuyến được biểu diễn trên bản đồ được gọi là lưới bản đồ. Phương trình chiếu cho ta biết đặc điểm định dạng của hệ thống lưới bản đồ này. Hệ thống lưới bản đồ có hình dáng đơn giản nhất khi phương trình chiếu có dạng x = f1 (φ), y = f2 (λ). Lúc đó, kinh tuyến và vĩ tuyến đều được biểu diễn thành những đường thẳng vuông góc với nhau. Nếu x = f1 (φ), y = f2 (φ, λ) thì vĩ tuyến được biểu diễn thành những đường thẳng song song với trục Y, kinh tuyến là những đường cong. Nếu x = f1 (φ, λ), y = f2 (λ) thì kinh tuyến được biểu diễn thành những đường thẳng song song với trục X, vĩ tuyến là những đường cong.Nếu x = f1 (φ, λ), y = f2 (φ, λ) thì ta có thể nhận được vô số phép chiếu có lưới bản đồ khác nhau. Hình dáng của chúng phụ thuộc vào f1 và f2..

<span class='text_page_counter'>(32)</span> 3.2.3.3 SAI SỐ TRONG PHÉP CHIẾU BẢN ĐỒ a. Khái niệm hình học của sai số - Khái niệm về elip sai số (elip biến dạng) + Trên bề mặt của Elipxôid, ta lấy một hình tròn có bán kính vô cùng bé. Hình chiếu của nó lên trên mặt phẳng bản đồ sẽ bị biến dạng. Gọi m và n là tỷ lệ độ dài theo kinh tuyến và vĩ tuyến, ta có: x’ = mx y’ = ny Ta biết phương trình của vòng tròn là x2 + y2 = r2 Lại có x = x’/m; y = y’/n. Suy ra (x’/m)2 + (y’/n)2 = r2 Hay (x’/mr)2 + (y’/nr)2 = 1 trong đó mr là bán trục lớn của elip a; nr là bán trục nhỏ của elip b. Vì vậy phương trình có dạng: x’2/a2 + y’2/b2 = 1. Đây là phương trình elip. Hình dạng và kích thước của các elip sai số trong các phép chiếu khác nhau thì khác nhau. + Tại mỗi điểm, tỷ lệ riêng của độ dài có thể thay đổi phụ thuộc vào phương hướng. Có hai hướng vuông góc với nhau tại một điểm bất kỳ cho trước mà trong đó, một hướng có tỷ lệ riêng của độ dài lớn nhất và hướng kia có tỷ lệ riêng của độ dài là nhỏ nhất. Hai hướng đó được gọi là những hướng chính, thường ký hiệu là a, b. b. Các dạng sai số trên bản đồ. - Có ba loại biến dạng thường được nói đến trong toán bản đồ, đó là biến dạng về góc, biến dạng về diện tích và biến dạng về độ dài. Có những phép chiếu không có biến dạng về diện tích và có những phép chiếu không có biến dạng về góc. Nhưng không có phép chiếu nào không có biến dạng độ dài. Chỉ có những phép chiếu mà độ dài không biến dạng ở một số điểm hay một vài đường nào đó trên lưới chiếu. - Tỷ lệ chính của bản đồ chỉ được bảo toàn tại một số điểm hoặc đường nào đó khi diễn giải bề mặt Elipxôit lên mặt phẳng bản đồ. Tỉ lệ riêng của bản đồ có thể nhỏ hơn hoặc lớn hơn tỷ lệ chính . Nếu ta coi tỷ lệ chính của bản đồ là 1 thì độ chênh lệch giữa tỷ lệ chính và tỷ lệ riêng sẽ là đại lượng để xác định sai số trên bản đồ. Đối với biến dạng độ dài, ta có các khái niệm sau: Tỷ lệ riêng của độ dài là tỷ số giữa độ dài của một đoạn vô cùng bé trên bản đồ với khoảng cách tương ứng của nó trên bề mặt Elipxôit Trái Đất. μ = ds’/ds Như vậy, ds’ ≠ ds; chỉ khi μ = 1 = μ0, khi đó ds’ = ds. Tỷ lệ riêng của độ dài là một hàm số với các biến là toạ độ địa lí của điểm cần xác định và góc phương vị theo hướng mà ta muốn xác định tỷ lệ riêng của điểm đó. μ = F1 (φ, λ, α). Sai số độ dài (νμ): Là hiệu số giữa tỷ lệ riêng của độ dài và 1, được biểu diễn dưới dạng phần.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> trăm. Ví dụ: m = 1,30 νm = (m – 1) 100% = +30% n = 0,80 νn = (n – 1) 100% = -20% Tương tự như trên, ta có các công thức để tính tỷ lệ riêng của diện tích, sai số diện tích và sai số góc. Tỷ lệ riêng của diện tích là tỷ số của một diện tích vô cùng bé trên bản đồ so với diện tích tương ứng của nó trên bề mặt Elipxôit Trái Đất. p = dp’/dp Thông thường thì dp’ ≠ dp. Chỉ trong trường hợp phép chiếu bản đồ được sử dụng là phép chiếu đồng diện tích, khi đó tại mọi điểm dp’ = dp. Đây cũng chính là điều kiện để xây dựng các phép chiếu đồng diện tích. Tỷ lệ riêng của diện tích phụ thuộc vào vị trí địa lí của các yếu tố cấu thành diện tích đó. p = f2 (φ, λ) Sai số diện tích (νp) là hiệu số của tỷ lệ riêng diện tích với 1, được biểu diễn dưới dạng phần trăm. νp = (p-1) 100% Ví dụ: p = 2,13 thì νp = +113% Không tồn tại khái niệm tỷ lệ riêng của góc mà chỉ có sai số góc. Sai số góc (Δu) là hiệu số của đại lượng góc trên bản đồ (u’) với đại lượng góc tương ứng trên bề mặt Elipxôit Trái Đất (u). Thông thường thì u’ ≠ u. Chỉ trong trường hợp phép chiếu bản đồ được sử dụng là phép chiếu đồng góc, khi đó tại mọi điểm u’ = u. Đây cũng chính là điều kiện để xây dựng phép chiếu đồng góc. Ta có: Δu = u’ – u. Để đánh giá mức độ biến dạng góc, người ta thường sử dụng sai số góc lớn nhất tại điểm có độ biến dạng góc lớn nhất. Δumax = ωCác đại lượng sai số là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá mức độ hoàn hảo của một phép chiếu bản đồ. 3.2.3.3 PHÂN LOẠI PHÉP CHIẾU BẢN ĐỒ Toán chiếu hình bản đồ còn tìm mọi cách ứng dụng linh hoạt các phương pháp chiếu hình cơ bản bằng cách thay đổi vị trí tiếp xúc của các mặt chiếu hình để hạn chế đến mức thấp nhất sai số biến dạng của các vùng lãnh thổ được vẽ lên bản đồ. Lúc đó mạng lưới kinh vĩ tuyến sẽ thay đổi khác dạng tiêu chuẩn, nhưng hình dáng các đường sai số chiếu hình vẫn phân bố theo quy luật các loại.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> lưới chiếu ở dạng tiêu chuẩn. Theo vị trí tiếp xúc giữa mặt Elipxôid và mặt chiếu hình, các phép chiếu hình được chia ra phép chiếu đứng, phép chiếu ngang và phép chiếu nghiêng.. . Phép chiếu đứng (hay còn gọi là phép chiếu thẳng, ngay) là phép chiếu mà trục của bề mặt hỗ trợ trùng với trục của Elipxôid Trái Đất; trong phép chiếu phương vị, mặt phẳng chiếu vuông góc với trục quay của Elipxôid..

<span class='text_page_counter'>(35)</span> . Phép chiếu ngang là phép chiếu mà trục của bề mặt hỗ trợ nằm trong mặt phẳng xích đạo của Elipxôid Trái Đất và vuông góc với trục quay của Elipxôid; trong phép chiếu phương vị, mặt phẳng chiếu vuông góc với đường pháp tuyến nằm trên bề mặt của mặt phẳng xích đạo.. . Phép chiếu nghiêng là phép chiếu mà trục của bề mặt hỗ trợ trùng với đường pháp tuyến ở giữa cực và mặt phẳng xích đạo của Elipxôid Trái Đất; trong phép chiếu phương vị, mặt phẳng chiếu vuông góc với đường pháp tuyến này.. Trong phép chiếu ngang và nghiêng, lưới bản đồ khác với lưới trong phép chiếu đứng. Trong phép chiếu đứng, lưới chuẩn (hay còn gọi là lưới thẳng đứng – là lưới toạ độ có dạng đơn giản nhất) chính là lưới kinh vĩ tuyến, còn trong phép chiếu ngang và nghiêng, hệ thống lưới chuẩn là lưới của vòng thẳng đứng và vòng đồng cao.. Phép chiếu hình nón thường chỉ được dựng trong trường hợp đứng.Trong các phép chiếu được xây dựng có dạng phép chiếu đứng, bề mặt hỗ trợ có thể tiếp xúc với Elipxôid tại một vĩ tuyến hoặc cắt Elipxôid theo hai vĩ tuyến nào đó. Trên các vĩ tuyến này, tỷ lệ độ dài được bảo toàn. Người ta gọi các vĩ tuyến này là các vĩ tuyến chuẩn.Ngoài ra, với sự biến đổi các công thức chiếu hình, có thể tạo nên các dạng phép chiếu khác như phép chiếu hình trụ giả, phép chiếu hình nón giả, phép chiếu phương vị giả hay phép chiếu đa nón, bằng cách dàn xếp mạng lưới kinh vĩ tuyến có lợi để diễn đạt tốt khu vực định thiết kế cho một mục đích nhất định nào đó.Việc phân loại trên đây chỉ là tương đối, vì hiện nay, khi khảo sát phép chiếu, người ta dùng phương pháp số nên có nhiều hình chiếu mới với những dạng toạ độ khác nhau không nằm trong cách phân loại trên..

<span class='text_page_counter'>(36)</span> Trên thực tế, người ta thường kết hợp các dấu hiệu phân loại với nhau và tên gọi của phép chiếu đôi khi gắn liền với các đặc điểm phân loại đó, ví dụ như phép chiếu phương vị nghiêng đồng khoảng cách, phép chiếu hình nón đứng đồng diện tích hay phép chiếu hình trụ ngang đồng góc… Tên gọi của các phép chiếu bản đồ còn được đặt theo tên của người đã thiết lập ra loại phép chiếu đó. Ví dụ: Phép chiếu Mercator, phép chiếu M ollweide…. Trên thực tế có nhiều cách để phân loại phép chiếu bản đồ. Trong khuôn khổ giáo trình, chúng tôi giới thiệu hai trong những cách phân loại phổ biến nhất mà ta thường gặp là phân loại theo độ biến dạng hay còn gọi là đặc điểm sai số và phân loại theo phương pháp chiếu hình. Phép chiếu hình nón là phép chiếu mà bề mặt của Elipxôid được biểu diễn lên trên bề mặt của hình nón tiếp xúc hoặc cắt Elipxôid. Sau đó hình nón được cắt theo chiều từ đỉnh xuống đáy và trải phẳng, ta được hình ảnh của phép chiếu hình nón..

<span class='text_page_counter'>(37)</span> Phép chiếu hình nón đứng là phép chiếu mà kinh tuyến được biểu diễn thành những đường thẳng đồng quy tại một điểm dưới một góc tỷ lệ với hiệu số kinh độ; vĩ tuyến là những cung tròn đồng tâm, mà tâm chính là điểm hội tụ của các kinh tuyến. Trong phép chiếu này có hai hệ toạ độ phẳng: hệ toạ độ cực với δ = α.λ – góc ở cực, ρ = f (φ) – bán kính cực, và hệ toạ độ vuông góc với gốc toạ độ là giao điểm của kinh tuyến giữa với vĩ tuyến thấp nhất ở phía nam (đối với Bắc bán cầu) của lãnh thổ thể hiện. x = q – ρ.cosδ, y = ρ.sinδ, q – ρ(Nam)..

<span class='text_page_counter'>(38)</span> Tỷ lệ và độ biến dạng chỉ phụ thuộc vào φ nên các đường đẳng biến trùng với vĩ tuyến và có. dạng là những cung tròn đồng tâm.. Hệ số tỷ lệ α là một đại lượng xác định góc ở cực (0< α <1). Trong trường hợp α = 1, phép chiếu hình nón trở thành phép chiếu phương vị. Hãy hình dung nếu như điểm hội tụ của kinh tuyến ở xa vô cực, lúc đó các cung vĩ tuyến được duỗi thẳng và phép chiếu hình nón trở thành phép chiếu hình trụ. Phép chiếu hình nón giả là phép chiếu mà các vĩ tuyến được biểu diễn thành những cung tròn đồng tâm; kinh tuyến giữa là đường thẳng; các kinh tuyến còn lại là những đường cong đối xứng nhau qua kinh tuyến giữa..

<span class='text_page_counter'>(39)</span> Không có phép chiếu hình nón giả đồng góc. Chỉ có các phép chiếu đồng diện tích và tự do. Đối với phép chiếu này, cũng như đối với phép chiếu hình nón, người ta sử dụng hai hệ toạ độ phẳng có dạng như sau: - toạ độ cực : δ = f1 (φ, λ) ; - toạ độ vuông góc: x = q – ρ.cos δ ;. ρ = f2 (φ) y = ρ.sin δ,. trong đó q = ρ(Nam). Các đường đẳng biến là những đường cong đối xứng qua kinh tuyến giữa và xích đạo ở mức độ tương đối. Phép chiếu này được sử dụng rộng rãi để thành lập bản đồ các tỷ lệ khác nhau của từng quốc gia. vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Hiện nay, người ta rất ít sử dụng đến loạ i phép chiếu này.. Phép chiếu đa nón là phép chiếu mà vĩ tuyến được biểu diễn thành những cung tròn khác tâm; tâm của các cung tròn nằm trên đường kinh tuyến giữa; kinh tuyến giữa là đường thẳng, các kinh tuyến còn lại là những đường cong, đối xứng nhau qua kinh tuyến giữa và xích đạo. Phương trình chung của phép chiếu này cũng giống như trong phép chiếu hình nón giả, chỉ khác là khoảng cách q là đại lượng thay đổi, phụ thuộc vào vĩ độ φ.

<span class='text_page_counter'>(40)</span> toạ độ cực : δ = F (φ, λ). ;. ρ = f1 (φ). toạ độ vuông góc: x = q – ρ.cos δ. ;. ; q = f2 (φ) y = ρ.sin δ. Theo đặc điểm biến dạng, phép chiếu đa nón có nhiều dạng khác nhau, nhưng hay sử dụng hơn cả là phép chiếu tự do. Các đường đẳng biến trong phép chiếu này là những đường cong có hình dạng phức tạp, đối xứng nhau qua kinh tuyến giữa và xích đạo.Phép chiếu phương vị là phép chiếu mà bề mặt của Elipxôid được biểu diễn lên trên mặt phẳng tiếp xúc hoặc cắt Elipxôid..

<span class='text_page_counter'>(41)</span> Phép chiếu phương vị đứng là phép chiếu mà kinh tuyến được biểu diễn thành những đường thẳng đồng quy tại một điểm dưới một góc bằng hiệu số kinh độ tương ứng; vĩ tuyến là những đường tròn đồng tâm mà tâm là điểm hội tụ của kinh tuyến. Toạ độ cực phẳng được tính như sau: δ = λ – góc ở cực,. ρ = f (φ) – bán kính cực.. Gốc toạ độ vuông góc là điểm giao nhau của các đường kinh tuyến. Khi đó: x = ρ.cos δ. ;. y = ρ.sin δ.. Khoảng cách giữa các vĩ tuyến được xác định dựa vào điều kiện vế sai số biến dạng đặt ra cho phép chiếu (đồng góc, đồng diện tích, tự do). Với loại phép chiếu phương vị, ta còn có thể dựng bằng phương pháp hình học dựa trên nguyên tắc phối cảnh tuyến tính. Các phép chiếu này còn được gọi là phép chiếu phối cảnh. Đây là trường hợp đặc biệt của phép chiếu phương vị. Trong trường hợp dựng phép chiếu phối cảnh, ta phải coi bề mặt được chiếu (bề mặt Trái Đất) là mặt cầu, xác định vị trí điểm nhìn và mặt phẳng chiếu (còn gọi là mặt phẳng tranh). Phụ thuộc vào vị trí của điểm nhìn, người ta chia phép chiếu phối cảnh ra các loại: tâm cầu, trực giao, ngoài mặt cầu và lập thể. Các công thức chung để tính cho lưới chuẩn của phép chiếu phối cảnh cũng giống như phép chiếu phương vị, nhưng giá trị của bán kính cực ρ được dựng bằng phương pháp hình học. Tỷ lệ và độ biến dạng của phép chiếu phương vị cũng như phối cảnh chỉ phụ thuộc vào φ, nên các đường đẳng biến trùng với vĩ tuyến và có dạng là những đường tròn đồng tâm. Phép chiếu phương vị giả là phép chiếu mà vĩ tuyến được biểu diễn thành những đường tròn.

<span class='text_page_counter'>(42)</span> đồng tâm; kinh tuyến là những đường cong, ngoại trừ hai cặp kinh tuyến vuông góc và đối xứng với nhau.. Phương trình chung của phép chiếu có dạng như sau: δ = f1 (φ, λ) ; ρ = f2 ; y = ρ.sin δ.. Đường đẳng biến trong phép chiếu này có dạng là những đường ô van.. ; x = ρ.cos δ.

<span class='text_page_counter'>(43)</span> Trong ba loại phép chiếu kể trên, phép chiếu phương vị đứng để thiết kế bản đồ các khu vực gần cực; phép chiếu hình nón đứng để biểu diễn các lãnh thổ nằm trong khoảng vĩ độ trung bình và phép chiếu hình trụ đứng dùng cho các khu vực gần xích đạo. 3.2.4 Những phép chiếu dùng cho bản đồ có kí hiệu 3.2.4.1 PHÉP CHIẾU DÙNG CHO BẢN ĐỒ THẾ GIỚI 1: 1.000.000 Năm 1909, Hội nghị Địa lí Thế giới họp tại Luân Đôn, các nhà khoa học qui định phép chiếu trên đây là phép chiếu nhiều hình nón, được dùng như phép chiếu nhiều mặt; bản đồ được phân mảnh và đánh số theo một quy ước chung. Bề mặt Trái Đất được coi như bề mặt Elipxôid quay, được chia nhỏ bởi các đường kinh vĩ tuyến và tạo thành những hình thang. Các hình thang này được biểu diễn trên những mảnh bản đồ riêng biệt trong cùng một phép chiếu. Các tờ bản đồ của phép chiếu này ở tỷ lệ 1: 1 000000 có kích thước xác định. Đối với các mảnh bản đồ nằm trong phạm vi từ vĩ tuyến 60° (Bắc, Nam) trở về xích đạo, kích thước theo kinh độ là 6° và vĩ độ là 4°. Các mảnh nằm trong phạm vi từ vĩ độ 60 đến vĩ độ 76 được ghép đôi theo chiều kinh độ và các mảnh từ vĩ độ 76 trở lên được ghép bốn. Tất cả các mảnh nằm trong một dải 4° vĩ độ tạo thành một đai. Mỗi đai có ký hiệu riêng bằng chữ cái La tinh bắt đầu từ A, B,C… tính từ xích đạo về hai cực. Kinh độ được chia ra làm 60 phần, mỗi phần gọi là một múi có trị số là 6°; được ký hiệu bằng chữ số ả rập từ 1 đến 60; múi thứ nhất bắt đầu từ kinh độ 180° Đông đến 174° Tây..

<span class='text_page_counter'>(44)</span> Mỗi mảnh bản đồ tỷ lệ 1: 1 000000 có một ký hiệu cố định, gọi là số hiệu của mảnh bản đồ đó; bao gồm chữ cái biểu thị đai và chữ số biểu thị múi. Ví dụ E-48; D-49; P-39,40… Các vĩ tuyến biên đều là những cung tròn có bán kính r = N x ctg φ; tâm của cung tròn nằm trên đường kéo dài của kinh tuyến giữa. Hai vĩ tuyến biên của mỗi mảnh hình thang đều không có biến dạng độ dài. Các kinh tuyến là những đường thẳng; trên hai kinh tuyến đối xứng và cách kinh tuyến giữa 2° không có biến dạng độ dài.. Đối với mảnh ghép đôi thì khoảng cách từ kinh tuyến giữa. đến hai kinh tuyến này là 4°; mảnh ghép bốn là 8°. Trong mỗi mảnh bản đồ, biến dạng độ dài không vượt quá 0,10%, biến dạng diện tích nhỏ hơn 15% và biến dạng góc nhỏ hơn 5’. Tại Hội nghị Địa lí Thế giới không đưa ra phương pháp cụ thể để dựng các vĩ tuyến còn lại. Những vĩ tuyến này được dựng qua các điểm chia toàn bộ kinh tuyến ra bốn phần bằng nhau. Lưới bản đồ được dựng với kinh sai và vĩ sai là 1°. Đối với các tờ bản đồ ghép đôi, kinh sai là 2°; đối với.

<span class='text_page_counter'>(45)</span> các tờ bản đồ ghép bốn, kinh sai là 4°. Theo đó trên mỗi tờ bản đồ tỷ lệ 1: 1000000 thể hiện 5 vĩ tuyến và 7 kinh tuyến. 3.2.4.2 PHÉP CHIẾU DÙNG CHO BẢN ĐỒ VIỆT NAM Bản đồ Việt Nam tỷ lệ 1: 1000000 và nhỏ hơn được xây dựng bằng phép chiếu hình nón đứng đồng góc với hai vĩ tuyến chuẩn là 11° và 21°. Bản đồ không có sai số chiếu hình trên hai đường vĩ tuyến chuẩn φ1 = 11° và φ2 = 21°. Phép chiếu thuộc nhóm đồng góc. Sai số diện tích (p-1) có giá trị nhỏ nhất là -0,75% trên vĩ tuyến 16° 01'; giá trị của sai số diện tích ở biên cực Bắc và Nam phần đất liền lãnh thổ Việt Nam là +0,90%. Phép chiếu này thuận lợi để xây dựng bản đồ Việt Nam; có thể mở rộng ra các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không ảnh hưởng đến sai số chiếu hình. Với kinh tuyến là những đường thẳng, bản đồ vẽ theo phép chiếu này rất thuận lợi cho việc chia mảnh và chọn kinh tuyến giữa tuỳ ý, trình bày ngay ngắn trong một tập bản đồ. Bản đồ địa hình Việt Nam tỷ lệ 1: 1000000 của chúng ta được thiết kế theo phép chiếu hình này từ năm 1968. Phép chiếu này được dùng với bản đồ tỷ lệ nhỏ để thể hiện lãnh thổ Việt Nam cho tới nay. Phép chiếu Gauss được thiết lập vào những năm 1820-1830. Lí thuyết của phép chiếu này được phổ biến rộng rãi lần đầu tiên vào năm 1866. Sau đó, phép chiếu được Kruger nghiên cứu và hoàn thiện vào những năm 1912-1919. Từ đó đến nay phép chiếu được mang tên Gauss-Kruger. Ở Việt Nam, chúng ta quen gọi phép chiếu này là phép chiếu Gauss. Trong phép chiếu Gauss, bề mặt Elipxôid Trái Đất được biểu diễn theo từng múi kinh tuyến. Theo vĩ độ, múi lấy từ cực này đến cực kia, còn theo kinh độ, múi sẽ rộng hẹp tuỳ theo độ tăng của sai số khi càng cách xa trung tâm của múi và tuỳ theo độ dễ dàng của việc tính toán sai số. Nếu lấy múi kéo dài theo 3° kinh độ thì trên các biên của múi chiếu, sai số chiều dài trên xích đạo đạt được 1/3200; khi múi kéo dài 6° kinh độ thì sai số lớn nhất bằng 1/750; sai số ở các vĩ độ trung bình nhỏ hơn nhiều. Bề mặt của Elipxôid Trái Đất được chia ra các múi có số kinh độ bằng nhau: 60 múi 6° hoặc 120 múi 3°. Số múi được tính bắt đầu từ kinh tuyến Greenwich. Đây là phép chiếu hình trụ ngang đồng góc. Kinh tuyến giữa là đường thẳng. Các kinh tuyến còn lại là đường cong, chiều lõm hướng về kinh tuyến giữa. Lãnh thổ Việt Nam nằm trên 2 múi 6° có kinh tuyến giữa là 105° và 111°. Đó là các múi 18, 19. Xích đạo là một đường thẳng, vuông góc với kinh tuyến giữa. Các vĩ tuyến đều là những đường cong, chiều lõm hướng về phía cực gần với vĩ tuyến đó hơn. Kinh vĩ tuyến đối xứng nhau qua kinh tuyến giữa hoặc qua xích đạo. Phép chiếu không có biến dạng về góc. Tỷ lệ độ dài không đổi trên kinh tuyến giữa và có giá trị.

<span class='text_page_counter'>(46)</span> bằng 1 ( Hằng số k=1). Tỷ lệ này không đổi trên các cặp đường thẳng song song với kinh tuyến giữa và đối xứng nhau qua kinh tuyến giữa. Tại mỗi múi có hệ thống toạ độ vuông góc riêng. Gốc toạ độ của mỗi múi là điểm giao nhau của xích đạo với kinh tuyến giữa của múi đó. Để tránh có toạ độ âm, người ta lùi gốc toạ độ về phía Tây của kinh tuyến giữa 500 km. Phép chiếu được sử dụng nhiều trong các trường hợp thiết kế bản đồ có số hiệu. Bản đồ địa hình của nhiều nước trên thế giới đều dùng phép chiếu này. Hệ toạ độ Hà Nội 72 sử dụng phép chiếu Gauss với Elipxôid Kraxôpxki (1940) cho toàn cầu. a = 6378245m ; α = 1/298,3 Phép chiếu UTM (Universal Transverse Mercator) được xây dựng dựa trên nền tảng của phép chiếu hình trụ ngang Mercator (Transverse Mercator – TM). Phép chiếu này còn được gọi là phép chiếu Gauss-Boag. Phép chiếu đã được quân đội Mỹ đưa vào sử dụng năm 1940. Về cơ bản thì phép chiếu này giống với phép chiếu Gauss, chỉ khác hệ số k của phép chiếu UTM là 0,9996 trong khi hệ số k của Gauss là 1. Ở Việt Nam, chúng ta sử dụng cả hệ số k=0,9999 đối với múi 3 độ cho bản đồ địa hình tỉ lệ lớn. Trong phép chiếu UTM, bề mặt Elipxôid Trái Đất được chia ra thành 60 múi theo chiều kinh tuyến; mỗi múi 6°. Múi đầu tiên được đánh số 1 từ kinh tuyến 180° Tây đến 174° Tây. Các vĩ tuyến được lấy từ 80° Nam đến 84° Bắc. Lãnh thổ Việt Nam nằm trên 2 múi 6° có kinh tuyến giữa là 105° và 111°. Đó là các múi 48 và 49. Tại mỗi múi có hệ thống toạ độ vuông góc riêng. Gốc toạ độ của mỗi múi là điểm giao nhau của xích đạo với kinh tuyến giữa của múi đó. Để tránh có toạ độ âm, người ta lùi gốc toạ độ về phía Tây của kinh tuyến giữa 500 km. Đây là phép chiếu hình trụ ngang đồng góc. Kinh tuyến giữa là đường thẳng. Các kinh tuyến còn lại là đường cong, chiều lõm hướng về kinh tuyến giữa. Xích đạo là một đường thẳng, vuông góc với kinh tuyến giữa. Các vĩ tuyến đều là những đường cong, chiều lõm hướng về phía cực gần với vĩ tuyến đó hơn. Kinh vĩ tuyến đối xứng nhau qua kinh tuyến giữa hoặc qua xích đạo. Phép chiếu không có biến dạng về góc.Tỷ lệ độ dài tại kinh tuyến giữa nhỏ hơn 1 (Hệ số k = 0,9996). Tỷ lệ độ dài là không đổi (k = 1) trên hai đường thẳng song song và đối xứng nhau qua kinh tuyến giữa và cách kinh tuyến giữa 180 km. Tỷ lệ biến dạng nhỏ hơn một trong khoảng giữa hai đường không biến dạng và lớn hơn ở ngoài hai đường đó. Phép chiếu được sử dụng nhiều trong các trường hợp thiết kế bản đồ có số hiệu. Bản đồ địa hình của nhiều nước trên thế giới đều dùng phép chiếu này. Quân đội Mỹ sử dụng phép chiếu này cho bản đồ quân sự. Lưới chiếu UTM của quân đội Mỹ, tuỳ theo từng khu vực khác nhau dùng Elipxôid khác nhau..

<span class='text_page_counter'>(47)</span> Phần đất liền khu vực Việt Nam (trước năm 1975) tính theo Elipxôid Everest (1930). a = 6377276 m; α = 1/300,8 - Hiện nay, bản đồ địa hình Việt Nam được thành lập trong Hệ VN2000, với phép chiếu UTM theo thể Elipxôid WGS-84 định vị phù hợp với lãnh thổ Việt Nam. 3.2.5 CÁCH NHẬN BIẾT PHÉP CHIẾU Để xác định chính xác phép chiếu của một bản đồ cho trước, người ta thường dựa vào các đặc điểm của lưới bản đồ như hình dạng của kinh vĩ tuyến, cũng như độ lớn của các góc hợp bởi các đường kinh vĩ tuyến đó, hay góc hợp bởi các đường kinh tuyến, sự thay đổi độ dài của các cung vĩ tuyến (trong đó có cả đường xích đạo) giữa hai kinh tuyến liền nhau, hay độ dài của các cung kinh tuyến giữa hai vĩ tuyến liền nhau; hoặc sự thay đổi khoảng cách ngắn nhất giữa từng cặp vĩ tuyến. Cách nhận biết phép chiếu theo những đặc điểm này chỉ tiến hành trong phạm vi bản đồ thể hiện một lãnh thổ lớn (bản đồ thể giới, các lục địa, đại dương…), vì rằng lưới bản đồ thể hiện trên những lãnh thổ nhỏ ở các phép chiếu khác nhau tương đối giống nhau và rất khó phân biệt. Lưới bản đồ của các phép chiếu đứng ở các nhóm phân loại khác nhau tương đối dễ phân biệt. Chẳng hạn nếu kinh tuyến trên bản đồ được biểu diễn thành những đường thẳng song song cách đều nhau, vĩ tuyến là những đường thẳng song song và vuông góc với kinh tuyến thì bản đồ đó được thành lập trên cở sở phép chiếu hình trụ dứng; nếu vĩ tuyến là những đường thẳng song song, kinh tuyến giữa là một đường thẳng vuông góc với các vĩ tuyến, các kinh tuyến còn lại là những đường cong có chiều lõm hướng vào kinh tuyến giữa thí đó là phép chiếu hình trụ giả; nếu kinh tuyến là một chùm đường thẳng xuất phát từ một điểm, vĩ tuyến là những cung tròn đồng tâm, vuông góc với các kinh tuyến thì đó là phép chiếu hình nón đứng. Đôi khi, ta cũng có thể xác định phép chiếu của bản đồ cho trước không thuộc nhóm đồng góc hay đồng diện tích. Ví dụ nếu như hai hình thang cầu liền nhau tạo bởi hai vĩ tuyến liền nhau với các kinh vĩ tuyến cắt các vĩ tuyến tạo thành hai hình thang cầu đó có diện tích khác nhau thì phép chiếu không phải là đồng diện tích; hoặc kinh tuyến và vĩ tuyến tại một vài điểm nào đó khi cắt nhau không tạo thành một góc vuông thì phép chiếu đó không phải là phép chiếu đồng góc. Ngoài ra, người ta còn dùng phương pháp đo đạc trên bản đồ để xác định sai số của bản đồ rối từ đó, dựa vào các đặc điểm của kinh vĩ tuyến mà đưa ra nhận biết chính xác về phép chiếu trên bản đồ thành lập. 3.2.6 LỰA CHỌN PHÉP CHIẾU TRONG THIẾT KẾ, BIÊN TẬP VÀ THÀNH LẬP BẢN ĐỒ Ba tiêu chí lựa chọn phép chiếu bản đồ: - Thứ nhất, vị trí địa lí, kích thước và hình dạng của lãnh thổ ..

<span class='text_page_counter'>(48)</span> - Thứ hai, mục đích thành lập, chuyên đề, tỷ lệ và nội dung bản đồ... - Thứ ba, sai số trong phép chiếu (đồng góc, đồng diện tích hay đồng khoảng cách, tự do…) Ví dụ: -Bản đồ đòi hỏi độ chính xác cao, sai số độ dài và sai số diện tích không vượt quá 0,2-0,4% - Khi các thông tin trên bản đồ được đánh giá hoàn toàn bằng mắt, không cần thiết đến đo đạc (như bản đồ treo tường, bản đồ trong sách giáo khoa, …) thì sai số độ dài và diện tích 10-12%, góc 1012°. 3.2.7 CÁC YẾU TỐ KHÁC TRONG CƠ SỞ TOÁN HỌC CỦA BẢN ĐỒ ĐỊA LÍ Kích thước và bố cục bản đồ - Kích thước của bản đồ bao gồm các kích thước của khung trong, khung ngoài và kích thước của tờ giấy in bản đồ. - Khung bản đồ là những đường kẻ bao quanh nội dung bản đồ. Khung bao gồm khung trong và khung ngoài. Khung trong của bản đồ là những đường thẳng giới hạn nội dung thể hiện của bản đồ. Trên đó có thể đánh dấu các vạch chia độ, phút giây hoặc km phụ thuộc vào yêu cầu và nguyên tắc chung khi thành lập bản đồ. Khung ngoài là những đường bao trùm ra ngoài khung trong. Khung ngoài là khung trang trí. Nó có thể là những đường thẳng vuông góc, hình thang hoặc đường cong (hình tròn, elip). - Bố cục của bản đồ là sự trình bày vị trí của lãnh thổ thể hiện so với khung bản đồ; cách bố trí tên, bản chú giải, bản đồ phụ hoặc đồ thị của bản đồ..

<span class='text_page_counter'>(49)</span> Một số sơ đồ bố cục bản đồ thường gặp Hệ thống lưới toạ độ trên bản đồ Trên bản đồ ở các tỷ lệ và mục đích sử dụng khác nhau, người ta đưa ra các mật độ lưới bản đồ khác nhau. Đối với những bản đồ cần thiết cho công tác đo đạc trên đó thì mật độ lưới thường dày hơn nhiều so với các bản đồ chỉ phục vụ cho mục đích quan sát hiện tượng như bản đồ treo tường hoặc bản đồ giáo khoa. Các loại bản đồ này thường có mật độ lưới bản đồ cách nhau từ 15-20 cm. Các lưới bản đồ đều được ghi chú ở giữa khung trong và khung ngoài của tờ bản đồ. Hệ thống lưới bản đồ giúp chúng ta xác định vị trí toạ độ địa lí của đối tượng một cách nhanh chóng cũng như đảm bảo đặt đúng vị trí địa lí cho một đối tượng nào đó muốn đưa lên bản đồ. . Phân mảnh theo lưới bản đồ thường áp dụng với hệ thống bản đồ địa hình và một số loại bản đồ chuyên đề. Cách phân mảnh này cho phép xác định chính xác vị trí địa lí của từng tờ bản đồ trên bề mặt Trái Đất theo toạ độ địa lí của các góc khung. Hạn chế của cách phân mảnh này là kích thước của các tờ bản đồ thay đổi theo các đai vĩ độ. Càng xa xích đạo thì.

<span class='text_page_counter'>(50)</span> tờ bản đồ càng trở nên hẹp hơn theo chiều ngang (chiều vĩ tuyến). Vì vậy, ở những vĩ độ cao, các tờ bản đồ có cùng tỷ lệ có thể được ghép đôi, ghép ba, thậm chí ghép bốn theo chiều kinh tuyến. . Phân mảnh theo lưới vuông góc thường ít được sử dụng. Cách phân mảnh này bảo đảm được kích thước của tờ bản đồ theo khung trong và thuận lợi cho việc cắt dán các tờ bản đồ trong phạm vi một khu vực nhỏ; phù hợp với bình đồ của thành phố.. . Phân mảnh theo đường hỗ trợ thường áp dụng cho các bản đồ tỷ lệ nhỏ với kích thước lớn. Cách phân mảnh này giúp chúng ta có thể sử dụng từng tờ bản đồ riêng biệt, hoặc một nhóm vài tờ bản đồ tạo thành một vùng riêng biệt hay một khu vực riêng biệt.. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG III 1. Trình bày các khái niệm: Kinh tuyến, vĩ tuyến, kinh độ, vĩ đô? 2. Phân biệt các hệ tọa độ: địa lí, cực câu, ô vuông? 3. Tỉ lệ bản đồ là gì? Tỉ lệ bản đồ được trình bày trên bản đồ ở những dạng nào? Cách thể hiện các dạng đó? 4. Chiếu hình bản đồ (chiếu đồ) là gì? Tại sao các bản đồ địa lí phải được thành lập trên cơ sở phép chiếu hình bản đồ? 5. Nguyên nhân nào dẫn đến trên một bản đồ địa lí có tỉ lệ không thống nhất? Thế nào là tỉ lệ chính, tỉ lệ riêng? 6. Phân tích các loại sai số trong phép chiếu bản đồ? 7. Nếu căn cứ vào bề mặt hình học hỗ trợ, có thể chia các phép chiếu hình bản đồ thành những phép chiếu cơ bản nào? Trình bày những nét chính của các phép chiếu đó? 8. Cách nhận biết phép chiếu? Trong thành lập và sử dụng bản đồ tại sao phải lựa chọn phép chiếu? Dựa trên các cơ sở nào để lựa chọn?. CHƯƠNG IV: NGÔN NGỮ BẢN ĐỒ 4.1 KHÁI QUÁT VỀ NGÔN NGỮ BẢN ĐỒ Ngôn ngữ mà nhờ nó khoa học biểu thị được đối tượng nhận thức của mình được gọi là ngôn ngữ “ Nhân tạo” . Ngôn ngữ nhân tạo của khoa học bản đồ là ngôn ngữ bản đồ - hệ thống ký hiệu đặc thù, nhờ nó biểu thị được đối tượng nhận thức của khoa học bản đồ - không gian cụ thể của các đối tượng và hiện tượng trong hiện thực khách quan và sự thay đổi của nó theo thời gian. Sự biểu thị thực hiện bằng ngôn ngữ này được gọi là Bản đồ. Trong đời sống xã hội loài người, bản đồ có vai trò thật to lớn. Nhờ bản đồ, con người có thể am hiểu mối quan hệ không gian của các đối tượng và hiện tượng trong hiện thực khách quan, phát hiện.

<span class='text_page_counter'>(51)</span> và nêu ra các quy luật trong những mối liên kết không gian và những thay đổi theo thời gian của chúng, xác định thái độ của mình đối với những mối liên kết này và sắp xếp tổ chức không gian hoạt động có lợi cho con người. Hiện thực khách quan trong bản đồ được phản ánh bằng những phương tiện ngôn ngữ đặc biệt và toàn bộ chúng trong tác phẩm bản đồ được gọi là ngôn ngữ bản đồ và được xem như hệ thống ký hiệu đặc thù. Ngôn ngữ bản đồ ra đời và phát triển từ lâu, song những công trình nghiên cứu về nó còn chưa được bao nhiêu và hiểu biết về nó chưa được cặn kẽ. Việc nghiên cứu khoa học các hệ thống ký hiệu và đề ra lí thuyết chung về chúng trên cơ sở triết học thống nhất là phạm vi nghiên cứu của bộ môn ký hiệu học - một ngành khoa học hiện nay đang trong thời kỳ phát triển. Song mỗi hệ thống ký hiệu cụ thể nói riêng cần được nghiên cứu chi tiết hơn bằng một khoa học đã sản sinh ra nó, sử dụng nó và căn cứ theo mức độ hoạt động thực tiễn của mình đang hoàn thiện nó. Đối với ngôn ngữ bản đồ thì lĩnh vực bản đồ học là khoa học như vậy. Nhưng ngôn ngữ bản đồ như là một hệ thống ký hiệu đặc thù, vẫn chưa được tìm hiểu sâu về mặt khoa học cả từ phía môn bản đồ lẫn từ phía ký hiệu học. Trên quan điểm khoa học bản đồ, việc xác định rõ bản chất ngôn ngữ bản đồ đưa ra cơ sở lí luận và nêu được vai trò nhận thức của nó là việc làm cần thiết. 4.2. Ký hiệu bản đồ. 4.2.1 THÀNH PHẦN CƠ BẢN, HỆ THỐNG KÝ HIỆU ĐẶC THÙ CỦA NGÔN NGỮ BẢN ĐỒ Những phương tiện mà nhờ chúng tri thức địa lí được biểu thị trên bản đồ là ngôn ngữ bản đồ. Chúng được gọi là các phương tiện thể hiện bản đồ. Thực tiễn môn đồ hoạ trong nhiều thế kỷ đã đề ra và hoàn thiện những phương tiện này, còn khoa học bản đồ thì đôi khi lại tổng hợp và quy chúng vào hệ thống thống nhất. Trong những công trình của N.N. Baranski , J.Bertin, M.I.Nikishov, K.A. Xalishev và nhiều tác giả khác đã nêu lên kinh nghiệm tổng hợp và sắp xếp các phương tiện thể hiện bản đồ vào hệ thống thống nhất. Bằng công việc này các tác giả đã khám phá và nghiên cứu sâu hơn bản chất của ngôn ngữ bản đồ và cơ sở lí luận của nó. Hệ thống thống nhất các phương tiện thể hiện bản đồ bao gồm: (1) Số lượng lớn các ký hiệu diễn đạt những ý nghĩa nhất định, biểu thị các đối tượng trong thực tế; (2) Các nguyên tắc và phương pháp sử dụng những ký hiệu này tương ứng với các đặc thù không gian - thời gian của hiện thực cần được biểu thị. Hệ thống thống nhất các phương tiện thể hiện bản đồ là hệ thống ký hiệu đặc thù trong bản đồ học, là thành phần cơ bản của “ngôn ngữ bản đồ”. Khác với ký hiệu của các hệ thống ký hiệu khác, các ký hiệu của ngôn ngữ bản đồ được gọi là các ký hiệu bản đồ..

<span class='text_page_counter'>(52)</span> Ký hiệu bản đồ bề ngoài là sự thể hiện đồ hoạ - điểm, đường, diện, hình hình học, hình bằng chữ hoặc các hình có cấu trúc khác nhau, kích thước khác nhau, trình bày màu sắc khác nhau. Nhưng tất cả những cái đó chỉ là bề ngoài - một hình thức đồ hoạ còn phi nội dung , cho đến khi ở một trong chúng theo quy ước sẽ hiện ra ý nghĩa diễn đạt một đối tượng nhất định (đối tượng có thể là vật thể, hiện tượng, thuộc tính, quan hệ - có thực cũng như tưởng tượng). Sự thể hiện bằng đồ hoạ như thế cùng với ý nghiã thể hiện ra trong nó mới chỉ là ký hiệu chứ tuyệt nhiên chưa phải là ký hiệu bản đồ. Nó có thể biến thành ký hiệu bản đồ chỉ khi thực hiện chức năng ngôn ngữ đặc thù. Nằm ngoài chức năng này sẽ không có ký hiệu bản đồ, thậm chí trong cả các bảng chú dẫn bản đồ, ở đó đưa ra cách giải mã, tức là cách thuyết minh bằng các từ của ngôn ngữ viết có ý nghĩa được thể hiện (mã hoá) theo quy ước trong ký hiệu. Đặc thù của ký hiệu bản đồ ở chỗ nó thưc hiện chưc năng cơ bản của mình không phải bằng việc diễn đạt ý nghĩa như ký hiệu của tất cả mọi hệ thống ký hiệu khác, mà bằng việc biểu thị không gian của đối tượng mà nội dung của nó được biểu thị ra bằng ý nghĩa ký hiêụ. Ký hiệu bản đồ thực hiện chưc năng biểu thị không gian bằng “cách riêng”của mình, bằng “trạng thái” không gian của mình, đảm bảo ký hiệu hoàn toàn tương ứng với không gian của đối tượng cần biểu thị. Nằm ngoài sự tương ứng này, ký hiệu chẳng biểu thị cái gì trừ biểu thị chính mình và biểu thị ý nghĩa thể hiện đối tượng được gắn vào ký hiệu đó. Thậm chí, ý nghĩa đã được thể hiện ra trong ký hiệu cũng thật sự không được khởi sự cho đến khi ký hiệu tương ứng với không gian của đối tượng cần biểu thị. Thật đúng nếu gọi đặc thù này của ký hiệu bản đồ là phương tiện thể hiện “trạng thái” không gian tương ứng với không gian của đối tượng cần được biểu thị. Kí hiệu bản đồ hoạt động không chỉ trên tư cách cái thể hiện ý nghĩa mà còn trên tư cách đối tượng trong “trạng thái”không gian nhất định. Như vậy, khác với ký hiệu của các hệ thống ký hiệu khác, ở ký hiệu bản đồ có hai chức năng: nó thông báo về đối tượng chừng nào nó còn biểu thị không gian của đối tượng. Do vậy, với hệ thống ký hiệu bản đồ, sẽ không đúng nếu lộ ra cách nhìn chung đối với ký hiệu, cho rằng nội dung riêng của ký hiệu (các thuộc tính vật lí, cấu hình của nó, v.v... ) chỉ quan trọng để tri giác, nhận biết nó, phân biệt nó với các ký hiệu khác, còn đối với đối tượng được chỉ ra thì nội dung riêng này chẳng đóng vai trò gì. Trạng thái riêng của ký hiệu (cấu trúc, vị trí tương quan và “trạng thái” nói chung) chứ không chỉ có ý nghĩa được mã hoá trong đó đúng là vô cùng quan trọng đối với các ký hiệu bản đồ..

<span class='text_page_counter'>(53)</span> Trên hình vẽ biểu hiện hai ký hiệu bản đồ, một trong chúng cấu thành từ hình và ý nghĩa đã được mã hoá trong ký hiệu. Hình của ký hiệu thứ nhất - hình kẻ xiên, còn ý nghĩa “kinh tế á nhiệt đới”. Hình của ký hiệu thứ hai - đường đen đậm, còn ý nghiã “Nhiệt độ khí quyển trung bình từ các cực tiểu tuyệt đối”. Dưới dạng như vậy, những ký hiệu này (cũng giống như từ ngữ trong kho từ vựng) tuyệt nhiên không nói lên hiện thực được biểu thị. Ở chúng chỉ đưa ra cách giải mã được thừa nhận dưới dạng các khái niệm chung về đối tượng. Sự tương ứng giữa ký hiệu và hiện thực chỉ được xác lập với điều kiện ký hiệu tiếp nhận sự xác định không gian của đối tượng được biểu thị. Điều đó có nghĩa là ký hiệu phải lặp lại chính “trạng thái” không gian như đối tượng được biểu thị có trong hiện thực. Nói khác đi - ký hiệu phải tiếp nhận sự định vị không gian , hình dáng bề ngoài và sự định vị tương quan như đối tượng biểu thị vốn có. Như vậy bên cạnh hình dáng và ý nghĩa được mã hoá trong đó, do “trạng thái” không gian nào đó của mình, ký hiệu sẽ nhận được hình dáng mới và sự định vị tương ứng. Hình dáng không gian mới và sự định vị tương ứng này không phải là quy ước, mà sự tương ứng phù hợp với hiện thực khách quan.Vì vậy sẽ sai lầm nghiêm trọng nếu khẳng định rằng, bản đồ là “sự biểu hiện quy ước” của hiện thực. Lời khẳng định này sai lầm do đặt cơ sở dựa trên hình thức của vấn đề, tức là hình thức truyền đạt thông tin bằng ký hiệu. Việc coi bản đồ là sự biểu hiện quy ước đối với hiện thực, do toàn bộ nội dung hiện thực được trình bày bằng các ký hiệu quy ước, là một sự lầm lẫn ghê gớm. Bởi chỉ hệ thống mã các ký hiệu mới là quy ước chứ không phải “trạng thái” không gian của chúng khi chúng thực hiện các chức năng ký hiệu của mình. Nếu bản đồ là những biểu hiện quy ước, thì chúng không thể được sử dụng trong thiết kế xây dựng đường xá, kênh đào, đường hầm, bể chứa nước và nhiều công trình lớn khác cũng như trong giao thông đường thuỷ, quốc phòng, vv...

<span class='text_page_counter'>(54)</span> 4.2.2 CÁI "VỎ" KHÔNG GIAN VÀ "NHÂN"Ý NGHĨA NỘI DUNG Từ những điều trình bày trên suy ra rằng toàn bộ nội dung bản đồ có thể xem như sự thống nhất giữa các phương pháp biểu thị của hai mặt hiện thực: 1)Không gian và 2) nội dung. Mặt thứ nhất được phản ánh bởi “trạng thái” không gian của ký hiệu, mặt thứ hai bởi ý nghĩa được mã hoá trong đó. Không còn nghi ngờ nữa, ý nghĩa được mã hoá trong các ký hiệu có thể trình bày rộng hơn và chi tiết hơn ở mức độ bất kỳ bằng ngôn ngữ tự nhiên . Nhưng tính cụ thể mà các ký hiệu biểu thị ra bằng “trạng thái” không gian của mình thì không thể biểu thị được bằng thứ ngôn ngữ nào khác ngoài ngôn ngữ bản đồ. Giữa các mặt hiện thực này (không gian và nội dung ) tồn tại sự thống nhất biện chứng; chúng không thể có được nếu tách khỏi nhau. Không gian nằm ngoài nội dung vật chất là phi lí giống như nội dung vật chất nằm ngoài không gian. Tuy nhiên sự thống nhất này không ngăn cản chúng ta cảm thấy ở chúng có sự độc lập tương đối của không gian cũng như nội dung .Để thể hiện sự độc lập tương đối của các mặt hiện thực, chúng ta có thể tưởng tượng rằng, trên bản đồ thổ nhưỡng bỏ đi tất cả những gì được mã hoá trong phần chú giải của nó, tức là các màu sắc tương ứng với các loại đất. Trên bản đồ sẽ còn lại chỉ những đường viền dùng để phân biệt các vùng khác nhau. Những đường này phản ánh “không gian không có nội dung vật chất”. Điều đó chứng tỏ rằng các đường lưu lại trên bản đồ không tồn tại độc lập, tách khỏi ý nghĩa nội dung. Chúng được ghi vào bản đồ chừng nào mà các loại thổ nhưỡng tương ứng nhờ nằm sát kề nhau trong hiện thực đã quyết định đích thực “trạng thái” không gian của các đường này. Tuy nhiên, với sự quy ước nhất định có thể nói riêng về không gian (đường có cấu hình khác nhau - trong ví dụ trên ) và riêng về ý nghĩa nội dung (ý nghĩa được mã hoá qua các sắc màu - các loại đất). Vậy, ngay trong những khía cạnh lí thuyết và thực tế đều có thể nói đến cái “vỏ” không gian và đến cái “nhân” ý nghĩa nội dung . Đây là hai mặt của các phương tiện ngôn ngữ biểu thị ra không gian của các đối tượng mà chúng ta nghiên cứu. Giữa chúng có sự phân chia chặt chẽ các chức năng ngôn ngữ ; sự xác định không gian của đối tượng được biểu thị bằng “vỏ” không gian, còn sự xác định nội dung thì bằng “nhân” ý nghĩa nội dung. Sự phân chia như vậy các chức năng ngôn ngữ của các phương tiện thể hiện bản đồ cách đây không lâu đã được phản ánh ra trong các xuất bản phẩm bản đồ. Theo cách truyền thống, người ta cho rằng nội dung bản đồ, tức toàn bộ thông báo có trong đó về thực tế khách quan được truyền đạt bằng các ký hiệu bản đồ. Nhưng không thấy chỉ ra rằng các ký hiệu, tự chúng và với những ý nghĩa được mã hoá trong đó, chỉ nói lên “nhân” ý nghĩa nội dung và nó không có ý nghĩa nếu nằm ngoài “vỏ” không gian tương ứng; rằng chính “vỏ” này phản ánh cái thực chất vì nó mà tồn tại ngôn ngữ bản đồ, bản đồ và môn bản đồ với tính cách một khoa học. Vì vậy, cần coi rằng nội dung bản đồ được hợp thành từ “trạng thái” không gian của các ký hiệu đã được nhồi nhân bằng những ý nghĩa biểu thị các đối tượng..

<span class='text_page_counter'>(55)</span> Khi xác định nội dung bản đồ, người ta chỉ nhìn thấy ở bản đồ ý nghĩa của ký hiệu (“nhân” ý nghĩa nội dung ), bỏ tuột mất điều chủ yếu - không gian của nội dung được biểu thị (“vỏ” không gian ) mà thiếu nó thì nội dung có thể truyền đạt bằng ngôn ngữ tự nhiên. Việc để lọt mất cái chủ yếu làm giảm thiểu vai trò nhận thức độc lập của bản đồ đã dẫn tới những cách giải thích khác nhau trong vấn đề bản chất nhận thức của bản đồ và môn bản đồ. 4.2.3 TÍNH XÁC ĐỊNH KHÔNG GIAN VÀ SỰ THAY ĐỔI THEO THỜI GIAN Khi thực hiện các chức năng ngôn ngữ của mình, các ký hiệu bản đồ bộc lộ “ trạng thái” không gian mà nó được quy định bởi tính xác định không gian của hiện tượng được biểu thị. Tính xác định không gian được hình thành từ ba yếu tố sau đây: . Sự định vị không gian của đối tượng hay là sự xác định vị trí của nó so với hệ quy chiếu không gian được chấp nhận.. . Sự định vị tương quan của đối tượng hay là sự xác định vị trí của nó so với các đối tượng khác.. . Hình dạng bên ngoài của đối tượng hay là sự xác định những thay đổi không gian bao quanh nó.. Sự định vị không gian là yếu tố quan trọng nhất trong bản chất nhận thức bản đồ. Có thể gọi nó là tính xác định không gian của đối tượng nghiên cứu. Khái niệm này một mặt bao gồm trong nó hệ quy chiếu không gian, mặt khác bao gồm đối tượng được định vị trong đó. Hệ quy chiếu không gian cơ bản của hành tinh là hệ toạ độ địa lí với ba mặt gắn bó với nhau: Mặt xích đạo (đối với các vĩ độ “φ” ), mặt kinh tuyến gốc (đối với các kinh độ “λ” ) và mặt thuỷ chuẩn (đối với các độ cao tuyệt đối “ H” ). Tuy nhiên, do tính cực kỳ phức tạp của mặt này nên người ta sử dụng sự trừu tượng toán học của nó - mặt Elipxôit thực dụng tương ứng . Có thể biểu hiện bề mặt Elipxôit bằng các đường toạ độ với mật độ cần thiết. Sự thống nhất những đường này tạo nên mạng lưới kinh tuyến và vĩ tuyến trên mặt elipxoit gọi là lưới địa lí. Sự biểu hiện lưới này trên mặt phẳng gọi là lưới bản đồ , nó được xây dựng theo quy luật toán học nhât định. Tính chất toán học của lưới bản đồ cho phép sử dụng hai phép đo (bằng các toạ độ φ, λ). Phép đo thứ ba (độ cao so với mặt thuỷ chuẩn H) được chỉ ra bằng chữ số hoặc nhờ các đường đẳng cao. Sự định vị tương quan không phải là dạng định vị không gian khác về chất, bởi vì, tất cả mọi đối tượng được định vị đúng trong hệ quy chiếu chung đồng thời cũng được định vị với nhau. Thực tế định vị tương quan là tiêu chuẩn nói lên rằng sự biểu hiện bản đồ có phải là bản đồ dùng làm phương tiện để phát hiện ra những quy luật không gian của các đối tượng gắn bó với nhau hay không..

<span class='text_page_counter'>(56)</span> Hình dạng bên ngoài của đối tượng được biểu lộ ra bằng việc biểu thị sự khác biệt các mối tương quan không gian bên ngoài của nó. Sự biểu thị này tuỳ thuộc theo mức cần thiết có thể đầy đủ - ba chiều ( φ, λ, H) và không đầy đủ - hai chiều (φ, λ). Mặc dù hết sức đa dạng về hình thức định vị không gian của các đối tượng, nhưng chúng được nhóm thành ba dạng chung nhất: các đối tượng định vị theo điểm, theo tuyến và theo diện tích. Sự thay đổi theo thời gian của tính xác định không gian được biểu thị bằng ngôn ngữ bản đồ kết hợp với hệ quy chiếu thời gian. 4.2.4 TÍNH XÁC ĐỊNH NỘI DUNG VÀ SỰ THAY ĐỔI THEO THỜI GIAN Khi biểu hiện “trạng thái” không gian trong việc thực hiện các chức năng ngôn ngữ của mình, các ký hiệu bản đồ thể hiện tính xác định không gian của chính nội dung mã hoá trong chúng dưới dạng ý nghĩa. Khi nói về ý nghĩa của các ký hiệu, chúng ta chỉ đề cập đến cái đã được mã hoá trong đó. Nhưng ý nghĩa các ký hiệu của toàn bản đồ chưa phải là nội dung của chính bản thân bản đồ. Toàn bộ nội dung bản đồ hợp thành từ hai dạng tính xác định: 1) từ tính xác định không gian và sự thay đổi theo thời gian của nó và 2) từ tính xác định nội dung và sự thay đổi theo thời gian của nó (còn gọi là thuộc tính của đối tượng). Tính xác định nội dung là toàn bộ những mặt có thể có của các đối tượng, trừ không gian của chúng. Số lượng mặt nhiều vô hạn, nó phụ thuộc không chỉ vào đối tượng, mà còn vào các mục đích và chiều sâu của công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, số lượng các mặt của đối tượng có thể và cần phải phân nhóm. Xuất phát từ đó, trong ý nghĩa của ký hiệu cần mã hoá cái cơ bản nhất - bản chất của đối tượng hay là cái là nó. Không có bản chất sẽ không có nội dung gì hết, nội dung là cơ sở của mọi cơ sở của tất cả những mặt vô hạn còn lại của đối tượng. Ngoài bản chất, trong ý nghĩa của ký hiệu, tuỳ theo mức độ cần thiết có thể mã hoá: khả năng định tính, khả năng định lượng và cấu trúc định tính - định lượng của đối tượng. Khả năng định tính có thể trình bày dưới dạng: a) bản chất của sự phát triển (ví dụ: các kiểu dao động địa hình trên bản đồ địa mạo); b) Sự thống nhất giữa các mặt khác biệt (ví dụ, các kiểu khí hậu) và c) Sự thống nhất giữa các mặt đối lập (ví dụ, sự chuyên canh và đa canh trong sản xuất nông nghiệp). Sự thay đổi theo thời gian của tính xác định nội dung cũng là chuyên đề biểu thị hiện thực bằng bản đồ. Bên cạnh những thay đổi theo thời gian của tính xác định không gian thì sự xác định chất lượng, số lượng và cấu trúc cũng thay đổi hệt như việc biểu thị những thay đổi theo thời gian của tính xác định không gian, những thay đổi theo thời gian của tính xác định nội dung được phản ánh ra dưới dạng tính xác định cố định thời gian (ví dụ, nền định tính cho một ngày, tháng nào đó) hoặc dưới dạng tính xác định được định vị trong hệ quy chiếu thời gian (ví dụ, nền định tính được định vị.

<span class='text_page_counter'>(57)</span> theo niên đại địa chất trên bản đồ địa tầng). Tính xác định định lượng có thể bộc lộc ra qua các chỉ số tuyệt đối cũng như tương đối, ở thể tĩnh cũng như thể động. 4.3. Chữ viết trên bản đồ 4.3.1 CHỮ VIẾT VÀ GHI CHÚ TRÊN BẢN ĐỒ Kí hiệu trên bản đồ không chỉ có quan hệ với tư duy, với ý nghĩa nội dung đối tượng, mà còn có quan hệ mật thiết với chính bản thân đối tượng do kí hiệu chỉ ra (biểu hiện ở phần chữ và ghi chú). Bởi vì, đối tượng mà kí hiệu bản đồ chỉ ra và sự phản ảnh tổng quát đối tượng này trong ý nghĩa nội dung không phải là một. Ví dụ, Một vòng tròn nhỏ đồ họa được định vị rất chính xác trên bản đồ chỉ ra đối tượng "thị xã": về mặt cú pháp bản đồ, thì thị xã được định vị tại vị trí nào đó trên lưới tọa độ (hệ qui chiếu không gian) và mối tương quan của nó so với kí hiệu khác. Nhưng thị xã nào được biểu hiện thì chưa nói lên được. Để chỉ ra rõ ràng và chính xác thị xã nào cần phải đem lại cho kí hiệu vòng tròn một cái tên riêng của đối tượng được nó chỉ ra, nghĩa là cái biểu thị nó, chẳng hạn như "Ninh Bình". Như vậy, "Ninh Bình" là cái biểu thị (định danh) của kí hiệu vòng tròn. Điều đó rất quan trọng, vì ý nghĩa của tên đó là phương thức liên kết với đối tượng, là biện pháp đánh dấu đối tượng, là cách thông báo về đối tượng đầy đủ nhất. Như vậy, quan hệ kí hiệu bản đồ chỉ ra đối tượng duy nhất nhờ tên của nó. Ví dụ khác, kí hiệu cùng với ghi chú đặt trên hoặc cạnh kí hiệu (ghi chú có thể là chữ cái, chữ số, mũi tên, ...). về mặt cú pháp, kí hiệu bản đồ biểu hiện đối tượng ở trạng thái không gian nào đó trên lưới bản đồ, còn ghi chú bản đồ giải thích rõ hơn các khía cạnh nội dung của hiện tượng. Như vậy, với kí hiệu bản đồ, chữ viết trên bản đồ làm phong phú thêm nội dung bản đồ. Trên bản đồ, chữ viết thường là các thuật ngữ, các địa danh (tên gọi địa lí) và các ghi chú giải thích. Những chữ viết thường gặp trên bản đồ gồm các nhóm sau đây: Các thuật ngữ địa lí, xác định khái niệm về đối tượng như biển,(biển Đông), vịnh (vịnh Bắc Bộ), sông, (sông Hồng), hồ, (hồ Tây) … Các tên gọi đối tượng mà không được phản ánh bằng các kí hiệu, thí dụ như tên các loại cây gỗ, tên các cuộc thám hiểm, các cuộc viễn chinh, các đoàn khảo sát,... Ghi chú số lượng hoặc tính chất như độ cao các đỉnh núi, độ cao dòng thác, độ cao và độ dày, kích thước trung bình của cây cối, chiều rộng, độ sâu của sông suối, hướng dòng chảy, chiều rộng của đường, chiều dài và sức tải trọng của cầu, hướng vận chuyển, chất đất đáy sông (bùn, cát, vật liệu trải mặt đường (nhựa đá), v.v… Những ghi chú thời gian xảy ra các sự kiện như mốc thời gian của các cuộc thám hiểm, các cuộc khởi nghĩa và khung diễn biến của các hiện tượng theo mùa,.v..v....

<span class='text_page_counter'>(58)</span> Không phải ở bản đồ nào cũng có đủ các nhóm chữ viết và ghi chú như trên, mà tùy thuộc ở mỗi bản đồ, nhưng chữ viết nói chung thì không một bản đồ nào không có. Tuy chữ viết trên bản đồ làm rõ nội dung và định hướng bản đồ rõ ràng hơn, nhưng không được lạm dụng. Sự sử dụng chữ viết trên bản đồ nếu không có sự chọn lọc và giới hạn ở mức cần thiết sẽ làm cho bản đồ kém sáng sủa, khó đọc và che lấp những nội dung chính của bản đồ, làm biến chất bản đồ. Sự lựa chọn, giới hạn và bố trí chữ viết trên bản đồ có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng, tải trọng và tính mỹ thuật của bản đồ. Vì thế, bố trí chữ viết trên bản đồ cần bảo đảm các yêu cầu sau: . Mỗi chữ viết phải gắn với một đối tượng địa lí nhất định, không nên thiết kế chữ viết khó xác định nó thuộc vào đối tương nào, gây sự hoài nghi đối với người sử dụng bản đồ.. . Chữ viết trên bản đồ không được làm che lấp (hoặc làm gián đoạn) những chi tiết quan trọng của các đối tượng địa lí.. . Sự phân bố các tiêu đề trong sự tập hợp của chúng phản ánh được mật độ tương đối của các đối tượng tương ứng ở địa phương, bảo đảm được sự cân đối, hài hoà.. Chữ viết trên bản đồ ngoài chức năng dẫn đường, giải thích, bản thân chúng có khả năng phản ánh những đặc điểm đối tượng, thông qua hình thức biểu hiện như kiểu chữ, độ nghiêng của chữ và kích thước, màu sắc của chữ. Hiện nay như đã thành qui ước, người ta lấy kiểu chữ khác nhau kết hợp với màu sắc để thể hiện các loại đối tượng khác nhau. Kiểu chữ đứng màu đen hoặc đỏ cho các đối tượng hành chính – chính trị, kiểu chữ nghiêng xanh lam cho các đối tượng nước (thuỷ văn), kiểu chữ nghiêng màu nâu đối với các yếu tố địa hình. Để đặc trưng cho độ lớn hoặc giá trị, ý nghĩa của các đối tượng, người ta thường biểu hiện thông qua kiểu và kích thước của chữ , ví dụ như các cấp hành chính được thể hiện thông qua kiểu và kích thước chữ v.v… Như vậy, chữ viết là một yếu tố không thể thiếu trên bản đồ và tự nó đã đóng vai trò của một loại kí hiệu bản đồ,làm tăng thêm giá trị và chất lượng bản đồ. 4.3.2 ĐỊA DANH VÀ SỰ VIẾT CHUYỂN CÁC ĐỊA DANH TRÊN BẢN ĐỒ Trong hệ thống chữ viết trên bản đồ, địa danh chiếm phần lớn. Địa danh là một lĩnh vực rất phức tạp, việc nghiên cứu chúng một cách toàn diện (nguồn gốc, giá trị và ý nghĩa, sự phân loại chúng v.v…) thuộc bộ môn “Địa danh học” và "Ngôn ngữ học". Ở đây, trong giới hạn khoa học Bản đồ, chỉ đề cập đến một số vấn đề có liên quan đến địa danh, có quan hệ trực tiếp với bản đồ, đó là sự lựa chọn, sử dụng và chuyển dịch các địa danh trên bản đồ như thế nào. Như ta biết, các dân tộc, các quốc gia trên thế giới có rất nhiều ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết (văn tự) khác nhau. Do truyền thống và cách cấu tạo ngôn ngữ, mà mỗi dân tộc, mỗi nước có sự đặt.

<span class='text_page_counter'>(59)</span> tên và cách đọc, cách viết địa danh không giống nhau. Nhiều trường hợp, cùng một đối tượng có nhiều tên gọi khác nhau nhất là ở những nước có nhiều dân tộc và sử dụng nhiều thứ ngôn ngữ. Ví dụ ở Thuỵ Sĩ, một đất nước có đến vài ngôn ngữ quốc gia thì các quận Vô, Valê, Phribua được người Pháp dùng, nhưng người Đức lại gọi là Vaadt, Valix, Phrâybua. Ở nước ta, thủ đô Hà Nội cũng có những tên khác nhau qua các thời đại: Thăng Long; Đông Đô; Hà Nội, v.v… Sự khác tên cũng thường gặp ở những đối tượng chạy dài qua nhiều địa phương, nhiều quốc gia khác nhau. Mỗi địa phương, mỗi quốc gia gọi theo tên khác nhau. Ví dụ sông Hồng ở vùng Trung du gọi là sông Thao. Sông Đanuyp ở Đức gọi là Đônau, qua Hungari được gọi là Duna, Bungari và Nam Tư gọi là Đunap, Rumani gọi là Đunêria và Nga gọi là Đunai; Sông Tigrơ và sông Ơphrat người Ả rập gọi là Nakhr - Điđgiơla và El –Phurat, song người Thổ Nhĩ Kì lại gọi là Điđgiơlê và Phurat. Để giải quyết vấn đề này, trong thực tiễn, trên nhiều bản đồ đã được các nhà Bản đồ học vận dụng nguyên tắc lấy theo tên gọi của ngôn ngữ chính thống (ngôn ngữ nhà nước) của quốc gia đó. Với những nước có vài ngôn ngữ quốc gia thì sử dụng tên gọi theo ngôn ngữ của dân tộc chiếm ưu thế ở địa phương đó. Cách vận dụng như vậy là hợp lí, bảo đảm được nguồn gốc tên đối tượng ở nước có đối tượng. Trường hợp một đối tượng có nhiều tên gọi khác nhau qua các thời kì, thì bản đồ lập cho thời kì nào phải lấy địa danh được gọi ở thời kì đó (phổ biến là các bản đồ lịch sử). Phức tạp nhất là sự chuyển dịch và viết tên các địa danh của nước ngoài khi chúng ta thành lập các bản đồ thế giới, bản đồ địa lí của các nước ngoài, do trên thế giới sử dụng nhiều chữ viết (văn tự) và cách phát âm khác nhau. Để chuyển và viết các địa danh nước ngoài lên bản đồ theo chữ viết và ngôn ngữ của nước thành lập bản đồ, các nước trên thế giới thường sử dụng năm hình thái chuyển dịch: Hình thái chính thức ở địa phương, hình thái dịch hình, hình thái ngữ âm, hình thái dịch nghĩa và hình thái truyền thống. . Hình thái chính thức ở địa phương là cách viết tên gọi địa danh theo ngôn ngữ nhà nước của đất nước có đối tượng bằng bảng chữ cái đã dược thừa nhận của nước đó. Ví dụ Paris, v.v …Hình thái này mang tính chất vay mượn “ từ” trực tiếp, chỉ có thể dùng được đối với những quốc gia sử dụng cùng một bảng chữ cái, có ngôn ngữ gần nhau, như cùng sử dụng một bảng chữ cái La tinh, bảng chữ cái Slavơ, v.v… Ngay cả những nước dùng chung một bảng chữ cái cũng có những hạn chế, tuy đọc được nguyên dạng nhưng phát âm có thể khác nhau. Ví dụ cùng bảng chữ cái La tinh nhưng phát âm của Pháp và Anh khác nhau.. . Hình thái dịch hình là sự dịch chuyển từ chữ cái của bảng chữ cái này sang chữ cái tương ứng của bảng chữ cái khác, không chú ý đến sự phát âm. Theo hình thái này, các địa danh.

<span class='text_page_counter'>(60)</span> nước ngoài ví dụ như Kueb, Jyganewt, Toulouse, Geneve, chuyển sang chữ việt tương ứng là Kiev, Buđapest, Tuluxe, Geneve. . Hình thái ngữ âm là viết theo sự phát âm của địa phương có địa danh bằng chữ của một ngôn ngữ khác mà khi đọc lên đúng như phát âm của địa danh địa phương. Các chữ cái đó có thể trùng nhau hoặc khác nhau. Ví dụ các địa danh như Paris, Mockba, Idaho, Geneve, Newyork,... khi chuyển sang tiếng Việt sẽ được viết là Maxcơva, Aiđaho, Giơnevơ, NiuIooc. Hình thái này có ưu điểm là phát lại đúng (hoặc gần đúng) với sự phát âm của địa danh địa phương, nhưng khác với cách viết nguyên bản. Mặc dầu, với nhiều địa danh không thể đạt được sự đồng nhất (đúng như phát âm của địa phương ) về mặt phát âm, do những âm tố có trong ngôn ngữ này lại không có trong ngôn ngữ khác, nhưng hình thái ngữ âm là hình thái truyền đạt các tên gọi dựa theo âm hưởng là dễ nhận biết nhất so với các hình thái khác.. . Hình thái dịch nghĩa là gọi và viết địa danh theo nghĩa dịch cuả địa danh đó bằng ngôn ngữ của nước thành lập bản đồ. Ví dụ Thái Bình Dương (Ocean Pacifique), Mũi Hảo Vọng (Cap de boane Esperance), Đất lửa (Terre de feu)… Hình thái này chủ yếu gặp ở các đối tượng tự nhiên, khi mà địa danh đó được đặt tên theo nghĩa đã mang tính chất quốc tế.. . Hình thái truyền thống là sự truyền đạt tên gọi khác hẳn với nguyên bản (địa danh gốc) nhưng đã được sử dụng thành truyền thống trong ngôn ngữ hàng ngày, trong các văn bản nhà nước, trong văn học, chính trị, khoa học, mà nếu gọi và viết khác đi (trở về nguyên bản) sẽ gặp khó khăn, nhiều người không hiểu, vì chúng đã bắt rễ vững chắc, lâu dài, đã thành thói quen. Ở nước ta hình thái này khá phổ biến, đặc biệt là tên các quốc gia. Ví dụ tên các nước Trung Quốc, Nga, Ấn độ, Anh, Pháp…đã là những tên gọi truyền thống, nếu thay đổi bằng tên gọi nguyên bản: China, Russia, India, England, France… sẽ trở nên xa lạ khó được chấp nhận.. Trong năm hình thái viết chuyển địa danh như trên, hầu hết các nước trên thế giới sử dụng hình thái ngữ âm là chủ yếu, kết hợp với hình thái truyền thống và hình thái dịch nghĩa. Sự sử dụng kết hợp ba hình thái chuyển dịch này có nhiều ưu điểm. Thứ nhất, các địa danh chuyển dịch bảo đảm được sự gần giống về âm hưởng và dạng chữ địa danh nước ngoài, cho phép thông báo đúng đối tượng mang tên thuộc tất cả các loại ngôn ngữ khác nhau. Thứ hai, cho khả năng truyền đạt những địa danh không xác định được dạng nguyên gốc, những địa danh mà tên quá dài có hình thức như một ngữ, nếu viết theo ngữ âm rất phức tạp (Hợp chủng quốc Hoa Kỳ – Hoa Kỳ) và những địa danh mang tính quốc tế. Hiện nay ở nước ta, vấn đề chuyển dịch địa danh còn rất phức tạp, kể cả cách viết, chưa có một qui chuẩn nào mang tính pháp lí không những với bản đồ mà đối với cả các loại tài liệu văn bản.

<span class='text_page_counter'>(61)</span> khác. Ở nhiều nước trên thế giới, sự chuyển dịch các địa danh được giao cho các cơ quan chuyên môn như ở Liên Xô trước đây, được thực hiện bởi Ban phiên âm thuộc Viện nghiên cứu khoa học Trung ương về Trắc địa, Đo vẽ hàng không và Bản đồ. Hi vọng rằng ở nước ta cũng sẽ có các cơ quan như vậy. 4.4. Các phương pháp biểu hiện bản đồ 4.4.1 PHƯƠNG PHÁP KÍ HIỆU Phương pháp kí hiệu điểm được xem như một phương pháp biểu hiện bản đồ đặc biệt, được sử dụng để thể hiện những đối tượng có sự phân bố theo từng điểm cụ thể, riêng biệt hoặc các đối tượng chiếm một diện tích nhỏ mà khi biểu thị các kí hiệu không theo tỉ lệ bản đồ. Nói một cách khái quát, là phương pháp biểu hiện để thể hiện những đối tượng, hiện tượng được định vị theo các điểm. Ví dụ, thể hiện các mốc giới, các cây to đứng riêng biệt, các mốc chỉ đường... trên các bản đồ địa hình hoặc nhà máy, các trung tâm công nghiệp, dân cư các thị xã, thành phố, v.v... trên các bản đồ tỉ lệ nhỏ.. Hình thức biểu thị của phương pháp là dùng các kí hiệu đặt ở đúng vị trí của đối tượng. Các kí hiệu đó có thể là kí hiệu hình học, kí hiệu chữ, kí hiệu tượng hình. Phương pháp kí hiệu không những thể hiện chính xác sự phân bố (định vị) của các đối tượng biểu hiện mà còn có khả năng phản ánh được các đặc trưng về số lượng, chất lượng, cấu trúc và động lực.

<span class='text_page_counter'>(62)</span> của chúng. Các đặc trưng này được phản ánh thông qua hình dạng, kích thức, màu sắc của kí hiệu. a. Biểu hiện chất lượng đối tượng. Chất lượng đối tượng có thể được thể hiện bằng hình dạng và màu sắc của các kí hiệu. Hình dạng kí hiệu có thể là dạng hình học. Ví dụ hình vuông cho than đá, hình chữ nhật cho đồng, hình tam giác cho sắt, hình tròn cho các trung tâm công nghiệp.... Cũng có thể là dạng chữ như C cho than, Cu cho đồng, Fe cho sắt ... và cũng có thể là các kí hiệu tượng hình hoặc tượng trưng như ngôi sao cho nhà máy điện,v.v.. Trong ba dạng kí hiệu này, kí hiệu hình học có nhiều ưu điểm: dễ vẽ, phản ánh chính xác vị trí phân bố, dễ ứng dụng công nghệ hiện đại và có khả năng nêu được nhiều đặc trưng của đối tượng. Kí hiệu tượng hình, tượng trưng có tính trực quan cao, dễ nhận biết đối tượng, nhưng khó vẽ, khó thể hiện định lượng, sự chính xác địa lí hạn chế, khó áp dụng công nghệ tiên tiến, nên thường chỉ được thể hiện ở các bản đồ mang tính quảng bá như bản đồ du lịch và bản đồ giáo khoa cấp Tiểu học phù hợp với đối tượng sử dụng. Màu sắc được dùng phổ biến để nêu đặc trưng chất lượng do có độ tương phản cao, dễ nhận biết, phân biệt. Ví dụ màu đỏ cho công nghiệp cơ khí, màu vàng cho công nghiệp thực phẩm, màu nâu cho công nghiệp xây dựng, v.v... Sự sử dụng hình dạng hay màu sắc của các kí hiệu để phản ánh chất lượng hiện tượng, đối tượng, tuỳ thuộc vào từng trường hợp, từng bản đồ và thói quen truyền thống. Những bản đồ khoáng sản thường sử dụng dạng kí hiệu hình học để thể hiện các loại khoáng sản, còn ở các bản đồ kinh tế công nghiệp, các ngành sản xuất công nghiệp khác nhau lại được phản ánh phổ biến qua màu sắc. Nhưng nói chung hai hình thức này thường được sử dụng kết hợp, nhất là đối với những bản đồ có nhiều nội dung, thể hiện nhiều loại đối tượng và nhiều khía cạnh của đối tượng. b. Biểu hiện số lượng đối tượng: Ở phương pháp kí hiệu, số lượng đối tượng được biểu hiện thông qua kích thức kí hiệu. Mối tương quan này có thể theo những sự xác định toán học khác nhau và theo các kiểu phụ thuộc toán học khác nhau. Sự xác định toán học khác nhau sẽ cho mức độ chính xác về số lượng của đối tượng khác nhau. Sự xác định toán học có thể theo tính khả ước tuyệt đối hoặc theo tính khả ước tương đối. Nếu như kích thước kí hiệu biến đổi tương ứng với số lượng cụ thể của từng đối tượng, là sự biểu hiện theo khả ước tuyệt đối. Tính khả ước này cho sự chính xác toán học cao. Thông qua kí hiệu có thể xác định được số lượng của từng đối tượng ở mỗi điểm cụ thể. Theo tính khả ước tuyệt đối, các thang kí hiệu có thể là thang liên tục hoặc thang cấp bậc, tức là thang bị phân chia nhỏ thành các khoảng cách. Nếu là thang liên tục thì kích thước của các kí hiệu biến đổi liên tục tương ứng với sự biến đổi về số lượng của mỗi đối tượng. Nếu theo thang cấp bậc, nghĩa là các đối tượng có số lượng gần nhau được ghép thành các nhóm số lượng và mỗi nhóm được qui định một kích thước kí hiệu. Theo cách này thì kích thước của các kí hiệu không thay đổi trong giới hạn của một khoảng cách số lượng nào đó, sẽ tăng lên ngay khi khoảng cách tiếp sau. Các thang này có thể xây dựng theo nguyên tắc.

<span class='text_page_counter'>(63)</span> cấp số cộng, cấp số nhân hoặc tuỳ ý (hỗn hợp). Sự qui định các khoảng cách và chia theo nguyên tắc nào phải căn cứ vào đặc điểm đối tượng, hiện tượng và mục đích bản đồ (vấn đề này sẽ được trình bày rõ hơn ở phương pháp đồ giải). Thang cấp bậc không xác định tính toán học cao như thang liên tục, nhưng dễ tri giác hơn và cho phép khi nghiên cứu bản đồ có thể không phải dùng đến các phương tiện hỗ trợ như compa, thước kẻ cũng như các phương pháp tính toán số học phức tạp.. Nếu theo tính khả ước tương đối, đặc tính số lượng của đối tượng không còn được biểu hiện theo sự xác định toán học. Lúc này số lượng của các đối tượng, hiện tượng chỉ mang tính khái niệm như.

<span class='text_page_counter'>(64)</span> lớn, trung bình, nhỏ. Sự khả ước tương đối cho độ chính xác toán học về mặt định lượng của các đối tượng là rất thấp, vì thế rất ít được sử dụng đối với các bản đồ nghiên cứu, nhưng lại được dùng khá phổ biến ở các bản dồ giáo khoa treo tường cấp phổ thông hoặc các bản đồ tuyên truyền, cổ dộng. Sự lựa chọn kích thước cơ sở cho các kí hiệu cũng như các thang kí hiệu tương ứng với một số lượng nhất định nào đó của đối tượng, hiện tượng phải được lựa chọn trên cơ sở đặc trưng số lượng của các đối tượng, hiện tượng biểu hiện, sao cho vẫn đảm bảo được sự tri giác với các kí hiệu nhỏ nhất (có số lượng bé nhất) và không làm cho bản đồ quá tải vì những kí hiệu quá lớn (có số lượng lớn nhất). Để giải quyết mối quan hệ tương quan giữa số lượng hiện tượng với kích thước kí hiệu, có thể lựa chọn những kiểu phụ thuộc toán học khác nhau: phụ thuộc theo chiều dài, phụ thuộc theo diện tích và phụ thuộc theo thể tích. Cùng một số lượng, tuỳ thuộc vào các kiểu phụ thuộc toán học khác nhau này sẽ cho kích thước kí hiệu khác nhau. c. Kiểu phụ thuộc theo chiều dài. Theo kiểu phụ thuộc này, số lượng của đối tượng, hiện tượng được thể hiện tương ứng trực tiếp với cạnh dài của kí hiệu. Sự biến thiên của kí hiệu là sự biến thiên đường thẳng. Số lượng đối tượng tăng giảm như thế nào thì kích thước về chiều dài của kí hiệu tăng giảm cũng như vậy. Ví dụ: trên bản đồ công nghiệp, tổng sản lượng công nghiệp được thể hiện bằng kí hiệu cột với 1mm chiều dài tương ứng với giá trị một tỉ đồng, như vậy nếu cơ sở sản xuất có tổng giá trị là 10 tỉ đồng, thì kí hiệu cột sẽ có chiều dài là 10mm, nếu là 20 tỉ đồng thì kí hiệu chiều dài là 20mm. Theo kiểu phụ thuộc này, thông qua các kí hiệu nhận biết được rất rõ và nhanh chóng sự khác nhau về số lượng của đối tượng và có nhiều thuận lợi trong việc thành lập cũng như sử dụng bản đồ. Song nếu số lượng của các đối tượng biểu hiện có sự chênh lệch quá lớn (số lượng tối đa và tối thiểu) thì kích thước kí hiệu biến thiên mạnh, sự biểu hiện trên bản đồ sẽ rất khó khăn. Làm thế nào để những kí hiệu nhỏ nhất có được những kích thước dễ nhận biết và những kí hiệu lớn nhất đảm bảo được sự phù hợp địa lí trên bản đồ, không quá lớn, ảnh hưởng đến sự thể hiện các đối tượng khác và gây nên cảm giác quá tải của bản đồ. Vì thế, kiểu phụ thuộc này chỉ vận dụng trong trường hợp số lượng của các đối tượng được biểu hiện không khác nhau quá lớn. Trong những trường hợp biên độ số lượng có tính cực đoạn, người ta thường viện tới các kiểu phụ thuộc toán học khác, là phụ thuộc theo diện tích và thể tích. d. Kiểu phụ thuộc theo diện tích. Theo kiểu phụ thuộc này, số lượng của đối tượng, hiện tượng được thể hiện tương ứng với diện tích của kí hiệu. Sự biến thiên của kí hiệu là sự biến thiên theo diện tích kí hiệu và như vậy kích thước kí hiệu vẫn tăng và giảm theo số lượng đối tượng nhưng sự tăng giảm này nhỏ hơn, theo căn bậc hai của kí hiệu. Ví dụ hai số lượng chênh nhau 10 lần, diện tích các kí hiệu của chúng lớn nhỏ hơn nhau 10 lần, nhưng kích thước của kí hiệu chỉ chênh.

<span class='text_page_counter'>(65)</span> Theo kiểu phụ thuộc này, độ lớn của các kí hiệu được tính theo công thức: P = Qm2. P là diện tích của kí hiệu Q là số lượng của đối tượng m2 là đơn vị đo diện tích tương ứng với 1 đơn vị số lượng được qui định. Ví dụ: nếu qui định 1mm2 của kí hiệu tượng ứng với một giá trị số lượng là 1 tỉ đồng, thì giá trị số lượng là 100 tỉ đồng, sẽ có kí hiệu với diện tích là 100mm2. Sau khi đã có diện tích (P), sẽ tính được kích thước kí hiệu. Nếu kí hiệu là hình vuông, độ lớn cạnh sẽ là: a= Nếu kí hiệu là hình tròn, độ lớn đường kính sẽ là: d= Theo các công thức toán học, có thể xác định kích thước của các kí hiệu có các hình học khác nhau. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm, không nên chọn kí hiệu có các hình hình học phức tạp, sẽ khó khăn đối với cả người thành lập bản đồ và người sử dụng bản đồ. Kiểu phụ thuộc theo diện tích là kiểu phụ thuộc được vận dụng phổ biến. Tuy nhiên, trong trường hợp số lượng các đối tượng có sự chênh lệch quá lớn, trị số tối đa và tối thiểu về số lượng của các đối tượng có khoảng cách quá xa, có thể vận dụng kiểu phụ thuộc theo thể tích để làm giảm kích thước kí hiệu. e. Kiểu phụ thuộc theo thể tích: Theo kiểu phụ thuộc này số lượng đối tượng, hiện tượng được thể hiện tương ứng với thể tích của kí hiệu. Sự biến thiên của kí hiệu là sự biến thiên theo thể tích. Kí hiệu sẽ có dạng hình khối như khối cầu, khối lập phương, khối nón, v.v... Với kiểu phụ thuộc này, kích thước kí hiệu sẽ tăng giảm không lớn chỉ bằng căn bậc ba của thể tích kí hiệu. Ví dụ, hai đối tượng có số lượng lớn nhỏ hơn nhau 100 lần, nếu thể hiện chúng trên bản đồ với kiểu phụ thuộc theo thể tích, thì kích thước kí hiệu của chúng chỉ lớn nhỏ hơn nhau 4, 64 lần ( ). Công thức tính kích thước của kí hiệu như sau: a = (khối lập phương) a là cạnh của kí hiệu v là thể tích của kí hiệu. Với kiểu phụ thuộc này, khi số lượng của các đối tượng chênh nhau không nhiều thì kích thước của chúng khác biệt nhau rất ít, khó nhận biết. Vì thế, trong thực tế xây dựng bản đồ, để phản ánh số lượng các đối tượng theo phương pháp kí hiệu điểm, sự vận dụng kiểu phụ thuộc nào phải căn cứ vào đặc điểm số lượng cụ thể của các đối tượng hoạ đồ. Nếu số lượng của các đối tượng khác nhau không nhiều (giữa đối tượng có số lượng nhỏ nhất và đối tượng có số lượng lớn nhất) thì nên vận dụng kiểu phụ thuộc toán học theo chiều dài; nếu chúng khác nhau lớn thì nên vận dụng kiểu phụ.

<span class='text_page_counter'>(66)</span> thuộc toán học theo diện tích hoặc thể tích. Trong thực tiễn hoạ đồ, kiểu phụ thuộc toán học theo diện tích được dùng phổ biến nhất do có nhiều ưu điểm: Kích thước kí hiệu không biến thiên quá mạnh, dễ tính toán và thể hiện.. Sự tương quan về kích thước kí hiệu theo các kiểu phụ thuộc toán học khác nhau: a/ Theo chiều dài; b/ Theo diện tích; c/ Theo thể tích. Sự tương quan về kích thước kí hiệu theo các kiểu phụ thuộc toán học khác nhau: a/ Theo chiều dài; b/ Theo diện tích; c/ Theo thể tích. Trong nhiều trường hợp, ở cùng một địa điểm có vài ba đối tượng đồng loại hoặc chỉ một đối tượng nhưng muốn biểu hiện nhiều nhiều khía cạnh nội dung, của chúng, ví dụ như một khu công nghiệp gồm nhiều xí nghiệp công nghiệp, một điểm dân cư có nhiều dân tộc cùng chung sống, v.v..., nếu thể hiện mỗi khía cạnh hoặc mỗi thành phần bằng một kí hiệu riêng lẻ sẽ rất phức tạp và khó bảo đảm được tính chính xác địa lí. Vấn đề này thường được giải quyết theo các hướng: . . Nếu các đối tượng là đồng loại hoặc là các thành phần của một đối tượng thì kết hợp chúng trong một kí hiệu có tổng lượng chung, trong kí hiệu đó chia ra các phần theo tỉ lệ tương ứng được đặc trưng bằng màu sắc hoặc các nét chải khác nhau được gọi là kí hiệu cấu trúc. Với kí hiệu hình tròn, sẽ được chia thành các hình quạt, nếu kí hiệu là hình vuông được chia thành các ô vuông. Ví dụ một trung tâm công nghiệp có một số xí nghiệp công nghiệp ngành khác nhau, sẽ được biểu hiện bằng một kí hiệu hình tròn có giá trị tổng lượng. Mỗi hình quạt trong kí hiệu có tỉ lệ tương ứng với giá trị của các xí nghiệp ngành. Nếu các đối tượng là khác loại, tính chất và các chỉ số khó hợp nhất được, hoặc muốn nâng cao tính trực quan và trong điều kiện bản đồ cho phép (bản đồ tỉ lệ lớn, bản đồ giáo khoa treo tường), có thể thể hiện kí hiệu cho từng đối tượng riêng lẻ trong một kí hiệu hình tròn chung ở điểm tương ứng.. h. Biểu hiện động lực đối tượng Ngoài sự biểu hiện số lượng, chất lượng và cấu trúc, phương pháp kí hiệu còn có khả năng phản ánh sự biến động (động lực) của các đối tượng, hiện tượng được hoạ đồ trong quá trình phát triển ở.

<span class='text_page_counter'>(67)</span> những thời điểm nhất định. Ví dụ dân số của các điểm quần cư ở hai thời điểm tổng điều tra dân số, giá trị sản lượng công nghiệp của các trung tâm công nghiệp ở một số năm nào đó, v.v... Động lực phát triển này, được thể hiện bằng các “kí hiệu tăng trưởng”, tức là dùng một hệ thống các kí hiệu có kích thước khác nhau tương ứng với số lượng của đối tượng ở thời điểm biểu hiện đặt chồng lên nhau.. Phương pháp kí hiệu điểm là một phương pháp biểu hiện bản đồ có tính địa lí rất cao, cho phép phản ánh sự phân bố các đối tượng, hiện tượng hoạ đồ chính xác đến từng điểm cụ thể và có khả năng biểu hiện được tất cả các đặc trưng về số lượng, chất lượng, cấu trúc và động lực của đối tượng một cách chi tiết, rõ ràng. Tuy nhiên, để thành lập bản đồ bằng phương pháp kí hiệu điểm, đòi hỏi phải có những điều kiện sau đây:  . Trên bản đồ nền phải xác định được vị trí phân bố theo điểm cụ thể của từng đối tượng. Tài liệu thành lập bản đồ phải rất chi tiết, chính xác và đồng bộ đối với từng điểm phân bố của đối tượng.. Thiếu những điều kiện trên, phương pháp kí hiệu sẽ không thể thực hiện được. Phân biệt sự khác nhau trong hình thức biểu thị phương pháp ký hiệu của hai trang bản đồ dưới đây. Hình thức ký hiệu tượng hình và ký hiệu hình học..

<span class='text_page_counter'>(68)</span> 4.4.2 PHƯƠNG PHÁP KÝ HIỆU DẠNG ĐƯỜNG Phương pháp kí hiệu đường (phương pháp tuyến tính) là phương pháp biểu hiện có dạng đường, được dùng để truyền đạt các đối tượng địa lí phân bố theo những đường nhất định, chạy dài theo tuyến, mà chiều rộng của chúng khi thể hiện lên bản đồ không theo tỉ lệ bản đồ, như đường giao thông, sông ngòi, v.v... Cũng có thể phản ánh những đối tượng mà theo cách hiểu hình học, chúng được xem như những đường. Ví dụ: các đường chia nước, các đường đứt gãy kiến tạo, mạng lưới điện, thông tin liên lạc, đường bờ biển, ranh giới hành chính, v.v... Đôi khi các kí hiệu đường cũng được dùng để nhấn mạnh những hướng của các đối tượng phân bố theo diện nhưng có dạng chạy dài, ví dụ các hướng chủ yếu của các dải núi, thường thấy trên các bản đồ sơn văn.. Phương pháp kí đường có khả năng phản ánh các đặc điểm hình dạng, chất lượng, số lượng, động.

<span class='text_page_counter'>(69)</span> lực của đối tượng. Các đối tượng phân bố theo đường có dạng ngoại hình rất đa dạng, đặc biệt là những đối tượng tự nhiên như các đường bờ biển, các sông ngòi tự nhiên. Bằng kí hiệu đường, phương pháp kí hiệu đường vẫn có thể phản ánh trung thực những đặc điểm ấy. Qua sự biểu hiện dễ dàng nhận biết được đặc trưng đối tượng. Ví dụ các kiểu bờ biển có nguồn gốc hình thành khác nhau (bờ biển frio, bờ biển bồi tụ…), sông ngòi tự nhiên với những công trình thuỷ lợi nhân tạo,v.v… Các chỉ tiêu về chất lượng, số lượng và sự biến động của các đối tượng, được thể hiện trên bản đồ bằng màu sắc, chiều rộng của đường hoặc hình dạng kí hiệu đường. Trên bản đồ, các kí hiệu đường được thể hiện theo đúng sự phân bố của đối tượng, vì thế tính địa lí của bản đồ được đảm bảo. Tuy nhiên trong thực tế, không ít trường hợp đối tượng thể hiện có độ rộng lớn, việc xác định kí hiệu đường trên bản đồ rất khó khăn. Trong những trường hợp này, có nhiều cách giải quyết khác nhau. Ở các bản đồ địa hình tỉ lệ lớn, thường đặt các kí hiệu sao cho trục của kí hiệu trùng với vị trí thực tế của các đối tượng trên bản đồ. Trên các bản đồ chuyên đề có thể giải quyết theo nhiều cách, như đặt các băng màu hay băng khắc vạch dọc theo đường biểu thị vị trí của đối tượng, hoặc đặt kí hiệu về hẳn một phía của vị trí thực của đối tượng dưới dạng một đồ thị,v.v…. Để truyền đạt động lực (sự thay đổi vị trí) của đối tượng, phương pháp kí hiệu dạng đường được thể hiện bằng sự kết hợp của các kí hiệu đường - các đường này đặc trưng cho các thời điểm khác nhau. Kể tên các phương pháp dược sử dụng trong trang bản đồ. Có thể thay đổi độ rộng của các ký hiệu hình tuyến hoặc thay đổi màu sắc cho chúng không? Tại sao?.

<span class='text_page_counter'>(70)</span> Phương pháp ký hiệu và phương pháp ký hiệu hình tuyến. Có vì sự thay đổi đó chỉ mang tính hình thức; bản chất của phương pháp không thay đổi.. 4.4.3 PHƯƠNG PHÁP BIỂU ĐỒ ĐỊNH VỊ Những hịên tượng phân bố liên tục hoặc bao phủ trên một diện tích rất lớn và có sự biến đổi theo chu kì với những tần xuất nhất định, ví dụ như các yếu tố khí tượng, mà khi nghiên cứu thường được tiến hành theo những trạm quan trắc đặt trên các điểm đặc trưng, thì để biểu hiện chúng trên bản đồ, người ta sử dụng phương pháp Biểu đồ định vị.. Phương pháp Biểu đồ định vị là phương pháp dùng các biểu đồ đặt ở những điểm đặc trưng nhất định ttrên bản đồ để phản ánh những hiện tượng phân bố toàn bộ hoặc trên diện rộng nhưng có sự biến động theo mùa và có tính chất chu kì như nhiệt độ, mưa, gió, v.v… nhằm nêu lên những đặc.

<span class='text_page_counter'>(71)</span> trưng như tiến trình, tần xuất, cường độ, xác suất của hiện tượng. Ví dụ như tiến trình nhiệt độ không khí, lượng mưa các tháng trong năm, hướng gió, tần xuất và tốc độ gió, sự phân bố tổng lượng dòng chảy hàng năm của sông ngòi, v.v... Các biểu đồ biểu thị sự biến động về lượng của các hiện tượng theo thời gian, có thể được thể hiện với các hệ toạ độ và các dạng biểu đồ khác nhau. Những hệ toạ độ được sử dụng tương đối phổ biến là hệ toạ độ Đề Các (hệ toạ độ vuông góc) và hệ toạ độ cực với các dạng biểu đồ thường dùng như biểu đồ cột, biểu đồ đường và biểu đồ kết hợp (cột và đường),v.v…. Các biểu đồ “Hoa hồng” (dạng hoa) thường được dùng để biểu thị hướng gió, tần xuất, tốc độ gió diễn ra trong năm. Các biểu đồ “Hoa hồng” có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, thông thường là dạng tia xuất phát từ tâm: Hướng của tia chỉ hướng gió tính theo phần trăm (%), độ dài của tia chỉ tần xuất hướng gió, màu sắc các tia chỉ tốc độ trung bình của hướng gió tính bằng m/giây và tâm hoa hồng chỉ thời gian lặng gió (phần trăm). Về hình thức kí hiệu biểu đồ của phương pháp biểu đồ định vị rất gần gũi với các biểu đồ của phương pháp Bản đồ biểu đồ và các kí hiệu của phương pháp kí hiệu điểm, vì thế dễ dẫn đến sự lầm lẫn. Để phân biệt chúng, phải phân tích bản chất của phương pháp: Phương pháp kí hiệu điểm thể hiện các đối tượng phân bố độc lập từng điểm; phương pháp Bản đồ biểu đồ thể hiện tổng lượng đối tượng theo các lãnh thổ, còn phương pháp Biểu đồ định vị phản ánh đặc điểm hiện tượng phân bố.

<span class='text_page_counter'>(72)</span> toàn bộ hoặc trê. n diện rộng nhưng được đặc trưng ở những điểm nhất định. Hãy đọc và giải thích một biểu đồ có trong trang bản đồ. Cho biết biểu đồ được đặt ở đâu trong những phương án sau: a. Giữa lãnh thổ của một tỉnh, thành phố; b. Ủy ban nhân dân Tỉnh, thành phố; c. Trạm khí tượng thủy văn..

<span class='text_page_counter'>(73)</span> 4.4.4 PHƯƠNG PHÁP CHẤM ĐIỂM Phương pháp chấm điểm là phương pháp biểu hiện bản đồ được sử dụng để thể hiện đặc điểm các đối tượng, hiện tượng phân bố phân tán theo các cụm, các khối, như dân số của các nơi quần cư nông thôn, lượng đàn gia súc của các nơi chăn thả, diện tích các khu vực đất canh tác, v.v... Phương pháp chấm điểm được thể hiện bằng những điểm chấm (có thể là những vòng tròn rất nhỏ) có trọng số nhất định đặt theo các lãnh thổ phân bố của hiện tượng. Với phương pháp này, trên bản đồ được thể hiện bằng nhiều điểm chấm. Các điểm chấm này có thể phân bố đều trên lãnh thổ hoặc phân bố theo vị trí của đối tượng. Ở trường hợp đầu, bản đồ chỉ có ý nghĩa thống kê; trường hợp hai, bản đồ không những nêu lên được số lượng hiện tượng, mà còn đảm bảo được tính địa lí, phản ánh được sự phân bố của hiện tượng. Phương pháp chấm điểm chủ yếu đưa ra số lượng hiện tượng. Số lượng hiện tượng được xác định.

<span class='text_page_counter'>(74)</span> thông qua số lượng các điểm chấm mang những trọng số. Công thức chung để xác định số lượng là: Q = Pn Trong đó: Q là số lượng hiện tượng P là trọng số của điểm chấm n là số lượng điểm chấm. Với công thức trên ta thấy, số lượng hiện tượng được thể hiện trên bản đồ quan hệ chặt chẽ với trọng số của điểm chấm. Nếu điểm chấm có trọng số lớn thì số lượng điểm chấm (n) sẽ ít và ngược lại, nếu điểm chấm có trọng số nhỏ thì số lượng điểm chấm sẽ nhiều. Vì thế, ở phương pháp chấm điểm, vấn đề quan trọng nhất là việc lựa chọn “trọng số” của điểm chấm, tức là qui định số lượng của hiện tượng cho mỗi điểm chấm sao cho hợp lí, phù hợp với sự phân bố của hiện tượng trên bản đồ. Nếu cho các điểm chấm một trọng số (giá trị) lớn, số lượng điểm chấm sẽ giảm và như vậy đối.

<span class='text_page_counter'>(75)</span> với những địa điểm có số lượng hiện tượng lớn, việc bố trí các điểm chấm sẽ dễ dàng, nhưng lại không thuận lợi đối với những địa điểm có số lượng hiện tượng nhỏ hơn trọng số. Trường hợp này phải liên kết số lượng hiện tượng ở hai hoặc ba địa điểm để đủ số lượng của trọng số điểm chấm và đặt điểm chấm ở vị trí có số lượng lớn hơn, và như vây làm sai lạc về sự phân bố của hiện tượng. Nếu chọn trọng số có số lượng nhỏ, sẽ thuận lợi cho sự thể hiện đối tượng có số lượng nhỏ, nhưng lại rất khó khăn để thể hiện đối tượng có số lượng lớn vì số lượng điểm chấm quá nhiều, không đủ không gian thể hiện, các điểm chấm quá dày, thậm chí nhoà dính vào nhau rất khó đọc. Như vậy, sự xác định trọng số điểm chấm phải dựa trên đặc điểm phân bố về lượng của đối tượng, hiện tượng. Sự lựa chọn trọng số các điểm chấm còn phụ thuộc vào tỉ lệ bản đồ, vì có quan hệ đến số lượng điểm chấm có khả năng thể hiện được trên bản đồ. Bản đồ tỉ lệ nhỏ không thể chứa được nhiều điểm chấm, nên không thể xác định những điểm chấm có trọng số thấp. Sự lựa chọn trọng số các điểm chấm có ảnh hưởng đến mức độ sai số giữa số lượng thực của đối tượng và số lượng được biểu hiện trên bản đồ. Về nguyên tắc, mỗi điểm chấm được qui định một giá trị về lượng (trọng số) nhất định, điểm chấm có trọng số càng lớn, sai số về lượng giữa thực tế và bản đồ càng lớn. Vì thế, sự lựa chọn trọng số các điểm chấm không thể theo ý muốn chủ quan, mà phải căn cứ vào sự phân bố số lượng của đối tượng ở các địa điểm khác nhau của lãnh thổ có sự đồng đều hay chênh lệch như thế nào, vào tỉ lệ bản đồ và vào mức độ yêu cầu chính xác đến đâu. Để giải quyết vấn đề này, kinh nghiệm có vai trò hết sức quan trọng.. Nêu tên những phương pháp được thể hiện trên bản đồ để thể hiện các dữ kiện về dân cư. Phương pháp chấm điểm sử dụng mấy trọng số?.

<span class='text_page_counter'>(76)</span> Phương pháp ký hiệu có trọng số và phương pháp chấm điểm. Có 4 trọng số. Trường hợp sự phân bố về lượng của đối tượng ở các điểm khác nhau trên lãnh thổ quá chênh lệch, biên độ giữa chúng quá lớn, không thể chọn một trọng số chung cho tất cả các địa điểm được, có thể chọn vài ba cấp trọng số. Cấp trọng số lớn dùng cho những địa điểm có số lượng lớn và các cấp trọng số nhỏ hơn dùng cho những địa điểm có số lượng nhỏ. Song theo kinh nghiệm, tối đa không nên quá bốn cấp và tốt nhất nên áp dụng theo từng khu vực, hết sức hạn chế sự dùng xen kẽ. Những đối tượng mà sự phân bố về lượng có sự khác nhau theo từng vùng lãnh thổ một cách rõ rệt, như sự phân bố dân cư ở đồng bằng và miền núi, vận dụng trường hợp này rất có hiệu quả. Ở đồng bằng, dân cư tập trung cao, các điểm quần cư có số lượng dân lớn, nên dùng các điểm chấm có cấp trọng số lớn, ngược lại, ở miền núi, sự phân bố dân cư thưa thớt, các điểm quần cư số lượng dân không nhiều, thì dùng các điểm chấm có cấp trọng số nhỏ. Phương pháp chấm điểm còn có khả năng biểu hiện chất lượng, cấu trúc và động lực của đối tượng, hiện tượng.. Chất lượng của đối tượng thường được phản ánh qua màu sắc của điểm chấm và hình thức điểm chấm thể hiện động lực của đối tượng. Ví dụ: trên bản đồ dân số có tính đến cấu trúc dân số theo dân tộc và số dân ở các thời điểm khác nhau có thể thể hiện các điểm chấm có màu sắc khác nhau và hình thức điểm chấm khác nhau. Mỗi màu đặc trưng cho một dân tộc và mỗi hình thức điểm chấm (hình tròn, hình vuông...) đặc trưng cho một thời điểm. Số điểm chấm theo màu và hình thức đó tương ứng với số dân của dân tộc và ở thời điểm biểu hiện. Trong trường hợp này cần thể hiện kết hợp sao cho các đặc trưng của đối tượng.

<span class='text_page_counter'>(77)</span> cần biểu hiện (số lượng, chất lượng, động lực) có thể dễ dàng nhận biết, nhưng không ảnh hưởng đến đặc điểm (bản chất) của phương pháp chấm điểm và tính mĩ thuật của bản đồ. 4.4.5 PHƯƠNG PHÁP ĐƯỜNG ĐẲNG TRỊ Các đường đẳng trị (chữ Hilap “usos” có ý nghĩa bằng nhau, đồng nhất) là những đường cong mềm mại nối các điểm có cùng một trị số số lượng trên bản đồ. Chỉ số số lượng này đặc trưng cho hiện tượng hoạ đồ. Các đường đẳng trị có tính cổ điển là các đường bình độ hoặc các đường đẳng cao trên bản đồ địa hình - những đường cong nối các điểm có cùng độ cao trên bản đồ. Ngày nay chúng được sử dụng rộng rãi trong các bản đồ khí hậu, bản đồ từ trường, bản đồ địa chấn ..., là những bản đồ mà các hiện tượng được biểu hiện có sự phân bố rộng lớn liên tục và biến thiên từ từ trong không gian. Vì thế phương pháp đường đẳng trị được sử dụng chủ yếu và phổ biến trên các bản đồ thể hiện các hiện tượng có sự phổ biến toàn bộ, liên tục trên lãnh thổ và biến đổi từ từ về lượng từ nơi này đến nơi khác, không có những biến đổi đột biến, đứt quãng hoặc nhảy vọt. Tuỳ thuộc vào đối tượng được thể hiện, mà các đường đẳng trị có tên gọi khác nhau như đường đẳng cao (đường bình độ), đường đẳng nhiệt, đường đẳng áp, đường đẳng mưa, đường đẳng từ thiên, v.v.... Các đường đẳng trị được sử dụng để biểu hiện những hiện tượng phân bố liên tục, biến đổi về lượng dần dần trong không gian, cho phép người sử dụng bản đồ có thể xác định được số lượng của đối tượng ở những điểm bất kì trên bản đồ nằm ngoài các đường đẳng trị bằng phương pháp nội suy và thông qua khoảng cách giữa các đường đẳng trị, có thể biết được biên độ biến thiên (gradien) của hiện tượng. Cụ thể là trên các bản đồ địa hình, dựa vào các đường bình độ, có thể xác định độ cao của mọi địa điểm trên bản đồ, xác định được độ dốc địa hình và các dạng địa hình khác nhau. Đây là một ưu thế mà không một phương pháp biểu hiện địa hình nào có được. Vì thế phương pháp các đường đẳng trị được sử dụng phổ biến trên các bản đồ địa hình, và bản đồ khí hậu..

<span class='text_page_counter'>(78)</span> Để vẽ được các đường đẳng trị, trước hết, trên bản đồ phải xác định giá trị về lượng của đối tượng ở những điểm xác định. Về nguyên tắc, mật độ các điểm xác định này càng dày, tính xác thực của đường bình độ càng cao và sự thể hiện càng dễ dàng. Sau đó tính nội suy để tìm các đường có cùng giá trị và nối các điểm có cùng một trị số số lượng với nhau bằng những đường cong mềm mại - đó là các đường đẳng trị.. Bản đồ được thể hiện bằng phương pháp đường đẳng trị bao giờ cũng gồm một hệ thống các đường đẳng trị, vì thế vấn đề xác định biên độ (khoảng cách đều về lượng) các đường đẳng trị là cực kì quan trong, quyết định chất lượng bản đồ. Sự chính xác này có thể khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm đối tượng, vào sự biến thiên của đối tượng, vào mức độ đầy đủ, chính xác của tài liệu gốc. Ngoài ra còn phải căn cứ vào mục đích và yêu cầu của bản đồ, tỉ lệ bản đồ. Những yếu tố này là căn cứ để qui định biên độ giữa các đường đẳng trị (khoảng cách về lượng giữa các đường đẳng trị). Đối với các bản đồ dùng để tra cứu, thiết kế có tỉ lệ lớn, cần xác định các đường đẳng trị có biên độ hẹp hơn so với các bản đồ giáo khoa và các bản đồ có tỉ lệ nhỏ. Sự biến thiên của đối tượng chậm, biên độ các đường đẳng trị phải được xác định nhỏ hơn so với sự biến thiên nhanh. Ví dụ đối với bản đồ địa hình, biên độ các đường đẳng trị (khoảng cao đều) ở các vùng đồng bằng hoặc đồi núi thấp phải nhỏ hơn biên độ các đường đẳng trị ở các vùng núi cao, độ dốc lớn. Về nguyên tắc chung, trên cùng một bản đồ, các đường đẳng trị có cùng một biên độ là tốt nhất. Điều này sẽ thuận lợi cho sự đọc bản đồ, dễ dàng nhận biết đặc điểm khái quát của hiện tượng, đối tượng. Song thực tế, các hiện tượng có sự phân hoá theo không gian, có sự biến đổi về cường độ.

<span class='text_page_counter'>(79)</span> hoặc số lượng giữa nơi này với nơi khác. Vì thế, sự giữ đồng nhất một biên độ của các đường đẳng trị đôi khi không thích hợp, mà phải sử dụng một vài thang biên độ. Ví dụ: ở bản đồ địa hình, có thể sử dụng khoảng cao đều của các đường đẳng cao là 5m - 10m, cho vùng đồng bằng, vùng đồi núi là 25m, 50m và vùng núi cao có thể là 100m hoặc lớn hơn.. Để nâng cao tính trực quan và nhấn mạnh thêm các đặc trưng số lượng, trên cơ sở các đường đẳng trị, có thể kết hợp thêm nền màu. Các nền màu khác nhau giữa hệ thống các đường đẳng trị không những cho ta dễ nhận biết được đặc tính về lượng của đối tượng mà thông qua đó còn nhận thức và phân biệt được đặc tính về chất của đối tượng. Ví dụ, ở bản đồ nhiệt thế giới, với nền màu khác nhau giữa các đường đẳng nhiệt 00, 100, 200, 300... có thể nhận biết được một cách dễ dàng các đới khí hậu. Phương pháp các đường đẳng trị không trực tiếp biểu hiện chất lượng hiện tượng, mà ẩn dưới đặc trưng số lượng. Có thể thông qua đặc trưng số lượng tìm thấy đặc trưng chất lượng. Ví dụ qua sự phân bố các đường đẳng nhiệt, đẳng mưa, biết được đặc điểm khí hậu của lãnh thổ. Phương pháp các đường đẳng trị cũng có thể phản ánh động lực đối tượng theo thời gian bằng sự sử dụng các đường đẳng trị có màu khác nhau. Ví dụ sự khác nhau giữa các đường đẳng nhiệt, đẳng áp tháng Giêng và tháng Bảy, v.v... Phương pháp các đường đẳng trị thể hiện đơn giản, trực quan và không đòi hỏi những thuyết minh phức tạp trong phần chú giải, tiết kiệm diện tích thể hiện trên bản đồ. Trên cùng một bản đồ.

<span class='text_page_counter'>(80)</span> có thể sử dụng đồng thời nhiều hệ thống các đường đồng mức (phân biệt bằng màu) đặc trưng cho các đối tượng khác nhau hoặc cũng có thể phối hợp với các phương pháp biểu hiện khác. Ví dụ trên bản đồ khí hậu, có thể đồng thời biểu hiện cả đặc trưng nhiệt độ, lượng mưa, áp xuất khí quyển, gió, v.v... Quan sát 2 trang bản đồ và cho biết Hà nội có số ngày trong năm có nhiệt độ tối cao lớn hơn 35 độ C và số ngày trong năm có nhiệt độ tối thấp nhỏ hơn 15 độ C là bao nhiêu? Từ 10-20 và từ 80-100. 4.4.6 PHƯƠNG PHÁP NỀN CHẤT LƯỢNG Để biểu hiện đặc trưng định tính đối với các hiện tượng phân bố liên tục trên mặt đất (lớp phủ thực vật, thổ nhưỡng, khí hậu, địa chất...) hoặc các hiện tượng phân bố phân tán theo khối (dân cư, dân tộc ...) trên bản đồ, người ta thường sử dụng phương pháp nền chất lượng. Phương pháp nền chất lượng được dùng để đặc trưng sự khác nhau về chất của các hiện tượng hoạ đồ giữa các bộ phận (vùng) của lãnh thổ. Ví dụ sự phân bố các loại nham thạch khác nhau trên bản đồ địa chất, các quần thể thực vật khác nhau trên bản đồ thực vật, các loại đất khác nhau trên bản đồ thổ nhưỡng, các vùng cư trú của các dân tộc khác nhau trên bản đồ dân cư - dân tộc, các vùng sản xuất nông nghiệp khác nhau trên bản đồ kinh tế, v.v... Một bản đồ được thành lập bằng phương pháp nền chất lượng, trên bản đồ được phân chia thành những vùng theo những dấu hiệu nhất định nào đó và được giới hạn bởi những đường ranh giới cụ thể. Mỗi vùng được thể hiện bằng màu sắc khác nhau hoặc các nét chải khác nhau và cũng có thể là các tiêu đề, các chữ số qui ước. Với cách thể hiện này, về hình thức, phương pháp nền chất lượng rất dễ lầm lẫn với phương pháp vùng phân bố và phương pháp đồ giải (phương pháp Cartogam), nhưng về bản chất, phương pháp nền chất lượng hoàn toàn khác các phương pháp biểu hiện trên. Phương pháp đồ giải biểu hiện cường độ (về lượng) của hiện tượng, còn phương pháp nền chất lượng biểu hiện đặc tính (về chất) của hiện tượng. Phương pháp các vùng phân bố biểu hiện cụ thể các hiện tượng phân bố phân tán, riêng lẻ; mỗi khu vực của hiện tượng cô lập với nhau. Ranh giới các vùng phân bố có thể không được thể hiện hoặc thể hiện chồng chéo lên nhau, nếu như trên thực tế chúng có sự chồng chéo đó. Còn phương pháp nền chất lượng hoàn toàn khác, đường ranh giới giữa các vùng có sự phân định rõ ràng, không chồng chéo lên nhau, các vùng có sự khác nhau về chất nhưng vẫn có mối quan hệ với nhau, do chúng được phân chia theo những hệ thống phân loại nhất định. Vì thế, khi thành lập bản đồ theo phương pháp nền chất lượng, điều quan trọng nhất và thực hiên đầu tiên là khởi thảo sự phân loại hiện tượng biểu hiện. Tuỳ thuộc vào đối tượng, hiện tượng biểu hiện mà lựa chọn sự phân loại khác nhau: phân loại theo một dấu hiệu phân loại nhất định hoặc phân loại tổng hợp..

<span class='text_page_counter'>(81)</span> Phân loại theo một dấu hiệu phân loại nhất định thường được vận dụng trong trường hợp đối tượng biểu hiện là một hiện tượng cụ thể. Ví dụ ở bản đồ địa chất, đối tượng biểu hiện là cấu trúc địa chất của lãnh thổ, dấu hiệu phân loại được lựa chọn theo sự phân loại địa chất. Dấu hiệu chính được đưa ra đầu tiên là nham trầm tích và nham macma (theo nguồn gốc phát sinh), kế đó tiếp tục các cấp phân loại thấy hơn theo thành phần thạch học và thời kì hình thành. Ở bản đồ dân tộc, dấu hiệu phân loại chính là các dòng ngôn ngữ, dưới đó là các dân tộc.( Ví dụ Bản đồ phân bố dân tộc trong tập Atlat Quốc gia Việt Nam). Có thể dùng nét chải khác hoặc nền màu để biểu thị núi đá được không? Có lưu ý gì khi dùng nền màu khác? Có. Tránh các màu dễ lẫn với những màu đã thể hiện. Nên chọn màu đặc trưng hoặc nét chải khác. Phức tạp hơn là phân loại tổng hợp - sự phân loại dựa trên sự phối hợp nhiều dấu hiệu khác nhau. Ví dụ như bản đồ phân vùng nông nghiệp. Sự phân chia các vùng được thực hiện trên hàng loạt các chỉ tiêu kinh tế, theo sự tương quan giữa các ngành khác nhau của sản xuất nông nghiệp và tỉ lệ hàng hoá của các ngành đó.. Tuỳ thuộc vào chủ đề bản đồ, tính đầy đủ của các dấu hiệu cũng như. phương thức kết hợp các dấu hiệu đó mà lựa chọn dấu hiệu phân loại chính và từ đó xác định sự phân hoá không gian của đối tượng. Khi thành lập các bảng phân loại các kiểu hiện tượng cần đảm bảo sự thống nhất và tính liên tục của bảng phân loại. Cần phải lấy các dấu hiệu chính làm cơ sở cho sự phân loại. Như vậy sự khởi thảo và lựa chọn các dấu hiệu phân loại là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu khi thực hiện phương pháp nền chất lượng. Bước tiếp theo là trên cơ sở những chỉ tiêu của sự phân loại đã được xác định, vạch các đường ranh giới lãnh thổ phân chia các vùng có sự đồng nhất về mặt tính chất (chất lượng). Sự xác định các đường ranh giới trên bản đồ có thể thực hiện bằng sự đo vẽ thực địa (thường là các bản đồ tự nhiên), hoặc trên cơ sở các nguồn tài liệu bản đồ, ảnh máy bay, ảnh vệ tinh và các nguồn tài liệu văn bản khác. Việc vạch các đường ranh giới không mấy khó khăn, nếu như ranh giới của chúng trên thực địa đã có các mốc xác định (ranh giới phân chia chính trị - hành chính), hoặc có thể quan sát được cụ thể (giới hạn các loại đất đá ...). Phức tạp nhất là đối với những hiện tượng có sự thay đổi từ từ trong không gian qua một dải chuyển tiếp (khí hậu, thực vật, v.v…)..

<span class='text_page_counter'>(82)</span> Sau khi đã vạch được các đường ranh giới trên bản đồ công việc tiếp theo là tô màu hoặc dùng các nét chải khác nhau đã qui định, thể hiện theo các vùng xác định. Trên một bản đồ, có thể dùng kết hợp hai, hoặc thậm chí ba hệ thống nền chất lượng, tất nhiên không thể cùng dùng màu chồng phủ lên nhau, mà phải thay bằng sự thể hiện khác như nét chải chẳng hạn. Ví dụ ở bản đồ thổ nhưỡng, nền màu thể hiện sự phân chia các loại đất theo nguồn gốc, còn nét vạch thể hiện thành phần cơ giới của đất v.v... Phương pháp nền chất lượng dễ dàng dùng kết hợp với nhiều phương pháp biểu hiện khác. Điều.

<span class='text_page_counter'>(83)</span> này cho phép bản đồ phản ánh được nhiều hiện tượng khác nhau, nội dung bản đồ phong phú nhưng vẫn đảm bảo được tính sáng sủa, độ dễ đọc của bản đồ.. 4.4.7 PHƯƠNG PHÁP VÙNG PHÂN BỐ Thuật ngữ “Vùng phân bố” bắt nguồn từ gốc La tinh “Area” có nghĩa là diện tích, nên phương pháp vùng phân bố ở một số tài liệu còn được gọi là phương pháp Khoanh diện tích hoặc phương pháp Diện tích giới hạn. Trong các tác phẩm bản đồ, phương pháp vùng phân bố thường được dùng để biểu hiện những đối tượng, hiện tượng phân bố theo diện nhưng không đều khắp và liên tục trên lãnh thổ, mà chỉ có ở từng vùng, từng diện tích riêng lẻ nhất định. Ví dụ thể hiện sự phân bố các loài động vật, thực vật cụ thể trên bản đồ Động vật và địa thực vật, các vùng băng tuyết vĩnh cửu, các vùng băng hà cổ trên bản đồ khí hậu, v.v... Ở các bản đồ kinh tế - xã hội, như các bản đồ sử dụng đất, sự phân bố đất cày, đồng cỏ hoặc sự phân bố các cây trồng khác nhau, v.v... Các đối tượng, hiện tượng được thể hiện trên bản đồ với phương pháp vùng phân bố có thể là các vùng tuyệt đối hoặc tương đối, tập trung hoặc phân tán. Vùng tuyệt đối là vùng mà hiện tượng được biểu hiện chỉ phổ biến ở một khu vực, không gặp lại ở khu vực khác, ví dụ khu vực sinh sống của loài gấu trắng. Vùng tương đối là vùng mà hiện tượng được biểu hiện không chỉ phân bố ở một khu vực nhất định mà còn có mặt ở những khu vực khác. Vùng tập trung là vùng những hiện tượng được biểu hiện có sự phân bố dày đặc, liên tục trong khu vực, ví dụ khu vực một loại mỏ khoáng sản, được tạo nên bởi cùng một mẫu nham. Vùng phân tán là vùng hiện tượng biểu hiện không liên tục, xen kẽ hiện tượng khác. Ví dụ vùng xen kẽ lúa và ngô, lạc và đậu chẳng hạn. Trường hợp này không cần thiết khoanh riêng hàng loạt các khu vực nhỏ rời rạc, mà có thể thể hiện bằng khu vực phổ biến chung lúa ngô (cây lương thực), lạc đậu (cây công nghiệp ngắn ngày). Bản chất có tính nguyên tắc của các phương pháp các vùng phân bố là nêu lên sự phổ biến của một đối tượng, hiện tượng riêng lẻ nhất định nào đó dường như tách hẳn với các đối tượng, hiện tượng khác chung quanh. Sự tách rời đó được xác định bằng những đường giới hạn. Trong mỗi khu vực giới hạn đó, được thể hiện các màu hoặc nét chải khác nhau đặc trưng cho các đối tượng, hiện tượng tương ứng. Tuy nhiên, không phải đối tượng, hiện tượng nào cũng có thể xác định được chính xác các đường ranh giới trên bản đồ. Điều này còn phụ thuộc vào đặc điểm phân bố của đối tượng và sự chính xác của nguồn tài liệu. Có những đối tượng hoàn toàn xác định được ranh giới cụ thể khu vực phân bố như sự phân bố các loại khoáng sản, các loại cây trồng. Có những đối tượng khó xác định được ranh giới phân bố do đặc tính thiên nhiên, như các khu vực phổ biến của các loài cá, khu vực hoạt động, sinh sống của các loài động vật. Còn có những đối tượng phân bố xen lẫn với nhau trong cùng khu.

<span class='text_page_counter'>(84)</span> vực như sự luân canh của các cây trồng, v.v... Do đó, để truyền đạt các vùng phân bố những đối tượng, hiện tượng theo mức độ xác định địa lí khác nhau, các nhà Bản đồ học đã sử dụng những hình thức các vùng phân bố khác nhau: Những vùng phân bố xác định được ranh giới chính xác, cụ thể trên thực địa và trên bản đồ, được thể hiện bằng những đường viền (đường ranh giới) nét liền. Những vùng phân bố khó xác định được một cách chính xác hoặc kém xác định, được thể hiện bằng những đường viền nét đứt. Những vùng phân bố không xác định được ranh giới thì không thể hiện các đường giới hạn mà chỉ dùng màu, nét chải hoặc chữ viết phủ lên khu vực để chỉ ra khu vực phổ biến của hiện tượng.. Ở những bản đồ có mức độ khái quát cao, các vùng phân bố không còn được thể hiện theo diện nữa mà được thay bằng một kí hiệu tượng trưng cho sự phân bố của đối tượng, hiện tượng. Ví dụ khu vực trồng chè được thể hiện bằng một kí hiệu tượng trưng cây chè. Trường hợp này các vùng phân bố, về hình thức giống như phương pháp kí hiệu điểm. Sự khác nhau của chúng là ở bản chất của phương pháp: Phương pháp kí hiệu biểu hiện các đối tượng phân bố theo điểm, còn phương pháp vùng phân bố biểu hiện các đối tượng phân bố theo diện. Các kí hiệu của phương pháp kí hiệu thể hiện chính xác điểm phân bố của đối tượng, còn các kí hiệu của phương pháp vùng phân bố cho khái niệm vùng có đối tượng, đằng sau kí hiệu đó ẩn dấu một diện tích nhất định. Phương pháp vùng phân bố cũng rất dễ lầm lẫn với phương pháp nền chất lượng. Để phân biệt chúng, ngoài phân tích bản chất của chúng, có thể tìm thấy ở phương pháp vùng phân bố sự chồng chéo của các đường ranh giới hoặc phân bố không liên tục…, nhưng ở phương pháp nền chất lượng.

<span class='text_page_counter'>(85)</span> không cho phép điều đó. Về hình thức biểu hiện, phương pháp vùng phân bố cũng có thể phản ánh được đặc trưng số lượng và động lực của đối tượng thông qua sự kết hợp với các dấu hiệu phụ. Số lượng đối tượng có thể phản ánh bằng các chỉ số số lượng hoặc kí hiệu biểu đồ trong các vùng phân bố. Trong trường hợp này các biểu đồ được xây dựng như phương pháp Bản đồ biểu đồ và như vậy có thể nêu ra cả cấu trúc của đối tượng. Động lực của đối tượng được thể hiện bằng những đường viền có màu khác nhau đặc trưng cho các thời gian khác nhau. Song sự kết hợp này không phổ biến vì bản chất phương pháp các vùng phân bố là biểu hiện đặc trưng chất lượng.. Quan sát trang bản đồ này và bài tập đã làm ngay trước đó, hãy cho biết phương pháp vùng phân bố khác gì so với phương pháp nền chất lượng? Không cần phủ kín trên toàn bộ lãnh thổ thể hiện.. 4.4.8 PHƯƠNG PHÁP KÍ HIỆU ĐƯỜNG CHUYỂN ĐỘNG Sự biểu hiện bản đồ, không phải ở bản đồ nào cũng nêu lên sự phân bố, số lượng hoặc chất lượng của các đối tượng, hiện tượng, mà nhiều trường hợp sự vận động theo không gian và thời gian của hiện tượng mới là đặc trưng quan trọng của hiện tượng cần được phản ánh. Ví dụ sự di chuyển của các dòng biển, sự di cư của các loài chim, sự di dân, sự lưu chuyển hàng hoá, hướng hành quân,.

<span class='text_page_counter'>(86)</span> v.v… Đặc tính này có thể được biểu hiện qua nhiều phương pháp biểu hiện, nhưng phương pháp biểu hiện trực tiếp và có ưu thế nhất là phương pháp kí hiệu đường chuyển động - một phương pháp biểu hiện bản đồ đặc trưng cho sự vận động. Phương pháp kí hiệu đường chuyển động là phương pháp được sử dụng để thể hiện trên bản đồ sự dịch chuyển (chuyển động) của các đối tượng, hiện tượng địa lí. Các đối tượng, hiện tượng được biểu hiện có thể là các hiện tượng tự nhiên (các dòng hải lưu, hướng di cư của các loài chim …), các hiện tượng kinh tế - xã hội (nhưng sự di dân, sự trao đổi hàng hoá….), các mối liên hệ chính trị - lịch sử và các hướng tiến công trong các chiến dịch quân sự v.v… Phương pháp kí hiệu đường chuyển động được sử dụng đối với mọi đối tượng bất kể đối tượng đó tồn tại dưới dạng phân bố như thế nào: theo điểm (sự chuyển động của một con tàu), theo đường (sự chuyển dịch của các front), theo diện liên tục (sự di chuyển của các khối khí), theo diện phân tán (sự di trú của các đàn gia súc chăn thả), v.v… Phương pháp kí hiệu đường chuyển động có khả năng phản ánh mọi đặc tính chuyển động của các đối tượng hoạ đồ như đường chuyển dịch, hướng chuyển dịch, phương thức chuyển dịch, tốc độ chuyển dịch, cường độ chuyển dịch và chất lượng, cấu trúc của các hiện tượng chuyển dịch. Tuy nhiên không phải bất cứ hiện tượng nào cũng cần đặc trưng tất cả các mặt như vậy, mà tuỳ thuộc vào mục đích bản đồ, đặc điểm đối tượng, hiện tượng.. Với những đặc tính đó, phương pháp kí hiệu đường chuyển động được sử dụng rộng rãi trên nhiều bản đồ, cả bản đồ địa lí đại cương và bản đồ chuyên đề, đặc biệt trên các bản đồ lịch sử, bản đồ quân sự, bản đồ khí hậu và bản đồ các mối quan hệ kinh tế - xã hội..

<span class='text_page_counter'>(87)</span> Phương tiện chủ yếu của phương pháp kí hiệu đường chuyển động để biểu hiện sự chuyển dịch của các đối tượng, hiện tượng hoạ đồ là các vectơ (mũi tên). Thông qua hình thức của các vectơ có thể phản ánh hướng chuyển dịch, số lượng, chất lượng và cấu trúc của các đối tượng, hiện tượng biểu hiện. Số lượng hiện tượng được thể hiện bằng chiều dài hoặc chiều rộng của các vectơ. Chất lượng hiện tượng được thể hiện bằng màu sắc của vectơ và cấu trúc của hiện tượng được thể hiện theo các đoạn hoặc các dải trong vectơ có tỉ lệ tương ứng với các thành phần của đối tượng. Một phương tiện thể hiện khác cũng được dùng tương đối phổ biến, đặc biệt là ở các bản đồ “Các mối liên hệ kinh tế” là các dải băng. Các dải băng được đặt dọc theo tuyến di chuyển của hiện tượng kèm với mũi tên định hướng. Độ rộng của dải băng thể hiện số lượng của hiện tượng. Ví dụ trên bản đồ kinh tế giao thông, là lưu lượng hành khách hoặc lưu lượng hàng hoá vận chuyển trên tuyến đường. Chất lượng và cấu trúc bên trong của hiện tượng chuyển dịch được thể hiện bằng màu sắc hoặc các nét chải khác nhau.. Phương pháp kí hiệu đường chuyển động biểu hiện sự chuyển dịch của các hiện tượng, đối tượng có thể thể hiện ở các mức độ khác nhau: Truyền đạt chính xác các tuyến chuyển dịch từ điểm đầu đến điểm cuối và truyền đạt sơ lược. Sự truyền đạt chính xác được thể hiện bằng các vectơ hoặc các.

<span class='text_page_counter'>(88)</span> dải băng bố trí trùng với các đường di chuyển của hiện tượng (đường sắt, đường ô tô, đường thuỷ …) trên cả đoạn đường di chuyển. Truyền đạt sơ lược thường chỉ thể hiện các vectơ ở điểm xuất phát và điểm kết tthúc sự vận động của các đối tượng, hiện tượng. Quan sát trang bản đồ và cho biết, phương pháp đường chuyển động (hay ký hiệu chuyển động) khác cơ bản phương pháp ký hiệu hình tuyến ở chỗ nào? Chỉ cần điểm đầu và điểm cuối là chính xác về mặt vị trí.. 4.4.9 PHƯƠNG PHÁP BẢN ĐỒ BIỂU ĐỒ (CARTODIAGRAM) Trong những trường hợp thành lập bản đồ mà các tư liệu bản đồ chỉ đưa ra sự phân chia lãnh thổ (thường là lãnh thổ hành chính), không định vị được từng vị trí phân bố của đối tượng và các tài liệu đặc trưng cho đối tượng là các số liệu thống kê theo những lãnh thổ đó, hoặc yêu cầu của bản đồ thành lập chỉ dừng ở mức nêu lên tổng lượng của đối tượng trong mỗi đơn vị lãnh thổ, thì phương pháp biểu hiện được sử dụng phổ biến là phương pháp Bản đồ biểu đồ.. Phương pháp Bản đồ biểu đồ là phương pháp biểu hiện các đối tượng, hiện tượng hoạ đồ bằng các biểu đồ đặt trong các đơn vị phân chia lãnh thổ. Mỗi đơn vị lãnh thổ hoạ đồ được đặt một biểu đồ có giá trị tổng lượng theo số lượng thống kê của đối tượng phân bố trong lãnh thổ đó. Nếu trong một đơn vị lãnh thổ, muốn biểu hiện nhiều đối tượng khác nhau, có thể thể hiện nhiều biểu đồ khác nhau. Mỗi biểu đồ đặc trưng cho một đối tượng. Ví dụ như tổng diện tích canh tác, tổng giá trị sản.

<span class='text_page_counter'>(89)</span> lượng, v.v… Điều này cho phép kết hợp biểu hiện được nhiều nội dung và xác lập các mối tương quan số lượng của các đối tượng. Vì thế phương pháp này còn được gọi là phương pháp Bản đồ thống kê. Phương pháp Bản đồ biểu đồ được sử dụng rộng rãi đối với các bản đồ kinh tế - xã hội - những đối tượng được nghiên cứu gắn liền với thống kê. Phương pháp Bản đồ biểu đồ có khả năng phản ánh được nhiều đặc tính của đối tượng như số lượng, chất lượng, cấu trúc và động lực. Mỗi biểu đồ được xem như một kí hiệu đặt trong một đơn vị lãnh thổ, các đặc trưng của đối tượng được phản ánh qua biểu đồ. Số lượng đối tượng được thể hiện theo kích thước biểu đồ. Kích thước này có thể tính theo sự phụ thuộc theo đường, theo diện tích hoặc theo thể tích và theo sự khả ước tuyệt đối hoặc tương đối, có thể là sự khả ước tuyệt đối liên tục và cũng có thể là khả ước tuyệt đối theo thang bậc. Cấu trúc và chất lượng hiện tượng được thể hiện qua các thành phần của biểu đồ có tỉ lệ tương ứng với các thành phần của đối tượng bằng màu sắc khác nhau. Động lực hiện tượng được thể hiện bằng các biểu đồ đặt lồng lên nhau (biểu đồ hình tròn, hình vuông) hoặc đặt cạnh nhau (biểu đồ hình cột) (xem phần phương pháp kí hiệu điểm).. Ngoài những dạng biểu đồ phổ biến (hình cột, hình tròn, hình vuông …), để dễ nhận thức được số lượng đối tượng, giảm sự tính toán, so sánh, có thể dùng biểu đồ dạng tập hợp nhiều hình nhỏ như các điểm chấm (các hình tròn nhỏ, hình vuông nhỏ …) có cùng một giá trị nhất định đặt theo.

<span class='text_page_counter'>(90)</span> dạng biểu đồ. Dạng biểu đồ này gọi là biểu đồ tập hợp. Phương pháp Bản đồ biểu đồ và phương pháp kí hiệu điểm, về hình thức có những điểm giống nhau. Kí hiệu của phương pháp kí hiệu điểm và biểu đồ của phương pháp bản đồ biểu đồ rất giống nhau về hình dạng cũng như cách thể hiện. Vì thế dễ dẫn đến sự lầm lẫn giữa hai phương pháp. Thực chất, hai phương pháp này hoàn toàn khác nhau về bản chất cũng như sự biểu hiện. Phương pháp kí hiệu điểm biểu hiện đối tượng, hiện tượng phân bố cụ thể theo điểm. Mỗi đối tượng được đặc trưng bằng một kí hiệu đặt đúng vị trí phân bố của chúng trên bản đồ. Trên lãnh thổ có bao nhiêu đối tượng, phân bố ở vị trí nào, phải được biểu hiện bằng ngần ấy kí hiệu đặt đúng vào vị trí của chúng. Sự biểu hiện bản đồ không quan hệ trực tiếp đến sự phân chia lãnh thổ, không nhất thiết phải có đường ranh giới của các đơn vị lãnh thổ. Cơ sở của sự biểu hiện là các điểm phân bố cụ thể. Trái lai, phương pháp Bản đồ biểu đồ biểu hiện tổng lượng của đối tượng theo từng đơn vị lãnh thổ.. Phương pháp Bản đồ biểu đồ không thể hiện đến từng điểm phân bố của đối tượng, mà chỉ. thể hiện sự phân bố của đối tượng theo từng đơn vị lãnh thổ. Phương pháp Bản đồ biểu đồ gắn liền với sự phân chia lãnh thổ, đến các đơn vị lãnh thổ. Vì thế ở những bản đồ được biểu hiện bằng phương pháp Bản đồ biểu đồ, bắt buộc phải có sự phân chia lãnh thổ, được giới hạn bởi các đường ranh giới (thường là các đơn vị hành chính). Cơ sở của sự biểu hiện là các đơn vị lãnh thổ..

<span class='text_page_counter'>(91)</span> Điều này chính là cơ sở về mặt hình thức để phân biệt phương pháp kí hiệu điểm và phương pháp Bản đồ biểu đồ. Bản đồ được thành lập bằng phương pháp Bản đồ biểu đồ có tính địa lí không cao nhưng được sử dụng rất phổ biến, nhất là đối với các bản đồ kinh tế - xã hội vì phương pháp này có nhiều ưu thế. - Tài liệu thành lập bản đồ không đòi hỏi cao và chi tiết. Tài liệu cơ bản là các số liệu thống kê theo các đơn vị phân chia lãnh thổ (thường là đơn vị hành chính) và bản đồ nền có sự phân chia lãnh thổ theo các đơn vị tương ứng. - Sự thành lập bản đồ đơn giản, sử dụng bản đồ không phức tạp và dễ dàng so sánh, đối chiếu sự phân hoá của đối tượng, hiện tượng theo các đơn vị lãnh thổ. Quan sát trang bản đồ tài nguyên nước của các hệ thống sông, hãy cho biết biểu đồ nào chưa được thể hiện một cách đúng nhất phương pháp bản đồ biểu đồ? Tại sao? Đối với những lãnh thổ quá nhỏ, nên thể hiện biểu đồ như thế nào cho hợp lý?.

<span class='text_page_counter'>(92)</span> Hoàng Mai – Vị Giang. Đặt 1/2 biểu đồ ra ngoài lãnh thổ trong khi có thể sắp xếp để biểu đồ nằm gọn trong lãnh thổ. Có thể đặt biểu đồ ra ngoài lãnh thổ rồi chỉ mũi tên từ biểu đồ vào trung tâm lãnh thổ chứa dữ liệu tạo nên biểu đồ đó.. 4.4.10 PHƯƠNG PHÁP BẢN ĐỒ ĐỒ GIẢI (CARTOGRAM). Phương pháp Bản đồ đồ giải là phương pháp được dùng để biểu hiện cường độ trung bình (giá trị tương đối) của các đối tượng, hiện tượng địa lí theo các đơn vị lãnh thổ. Đơn vị lãnh thổ có thể là đơn vị hành chính, vùng tự nhiên, vùng kinh tế, nhưng thường gặp là các đơn vị hành chính. Ví dụ mật độ dân số trên 1km2, năng suất cây trồng trên 1km2 đất canh tác của xã, huyện, tỉnh, v.v… Cũng như phương pháp Bản đồ biểu đồ, phương pháp Bản đồ đồ giải được thành lập trên cơ sở của số liệu thống kê theo các đơn vị lãnh thổ, không chú ý đến đặc điểm phân bố cụ thể của đối tượng, hiện tượng..

<span class='text_page_counter'>(93)</span> Khác với phương pháp Bản đồ biểu đồ, phương pháp Bản đồ đồ giải chỉ thể hiện cường độ trung bình, những chỉ số tương đối của đối tượng, hiện tượng trong phạm vi lãnh thổ. Chỉ số này được hình thành từ mối quan hệ của hai chỉ số tuyệt đối nào đó trên cơ sở chia hai dãy số tuyệt đối trong cùng đơn vị lãnh thổ,hoặc từ việc tính toán các tỉ lệ phần trăm. Ví dụ mật độ dân số là kết quả tính.

<span class='text_page_counter'>(94)</span> được từ tổng số dân trên diện tích lãnh thổ; năng suất lúa là thương số của sản lượng lúa và diện tích canh tác, v.v… Các cường độ trung bình của đối tượng được biểu hiện trên các đơn vị lãnh thổ bản đồ không theo sự biến thiên liên tục, mà được chia ra các nhóm, tạo thành các thang cấp bậc. Mỗi thang cấp bậc được chọn một cường độ màu sắc hoặc nét chải. Khi thể hiện trên bản đồ, các đơn vị lãnh thổ của đối tượng có chỉ số tương đối thuộc thang bậc nào thì được thể hiện bằng màu sắc hoặc nét chải đã được xác định của thang bậc ấy. Đặc tính số lượng của đối tượng được thể hiện theo nguyên tắc thang bậc, nên vấn đề lựa chọn hợp lí hệ thống thang bậc có ý nghĩa rất quan trọng, quyết định chất lượng bản đồ. Việc lựa chọn thang bậc phải được tiến hành trên cơ sở phân tích hệ thống các chỉ số tương đối của đối tượng theo các đơn vị lãnh thổ, không chỉ trên cơ sở các số liệu thống kê mà còn phải tính đến cả mối quan hệ kinh tế, đặc trưng đối tượng . Chất lượng của phương pháp Bản đồ đồ giải phụ thuộc vào hệ thống phân chia các đơn vị lãnh thổ và hệ thống thang bậc thể hiện nội dung số liệu. Các đơn vị lãnh thổ càng nhỏ và biên độ (khoảng cách) số lượng của thang bậc càng nhỏ thì đặc trưng địa lí của các đối tượng, hiện tượng hoạ đồ và mức độ chi tiết của nội dung bản đồ càng cao. Tuy nhiên, nếu quá nhiều thang bậc thì sự phân biệt về màu sắc khó khăn, tính rõ ràng của bản đồ bị hạn chế. Vì thế, phải tuỳ theo mục đích thành lập bản đồ và đặc trưng các chỉ số tương đối của đối tượng mà chọn hệ thống các thang bậc thích hợp. Theo kinh nghiệm, một bản đồ không nên sử dụng quá 6 hoặc 7 thang bậc. Có thể chọn biên độ thang theo cấp số cộng, cấp số nhân hoặc thang hỗn hợp.. Thang cấp số cộng được tính theo nguyên tắc: a; a+b; a+b+b; ..... Ví dụ: nhỏ hơn 50 Từ 51 - 100.

<span class='text_page_counter'>(95)</span> Từ 101 - 150 Từ 151 - 200,v.v... Thang cấp số nhân được tính theo nguyên tắc: a; ak; ak2; ak3; Ví dụ: nhỏ hơn 100 Từ 101 - 1000 Từ 1001 - 10.000 Từ 10001 - 100.000,v.v... Thang hỗn hợp được tính tuỳ ý. Thang theo cấp số cộng thường được sử dụng khi cường độ các đối tượng thay đổi chậm với biên độ không lớn (các cường độ nhỏ nhất và lớn nhất chênh nhau không quá nhiều). Thang theo cấp số nhân thường được vận dụng khi cường độ các đối tượng thay đổi nhanh với biên độ lớn. Thang hỗn hợp thường được vận dụng khi cường độ các đối tượng biến đổi thất thường, đột biến, phân tán. Sau khi đã có hệ thống thang bậc hợp lí, trên bản đồ đánh số các đơn vị lãnh thổ có cường độ nằm trong các thang bậc đã xác định, sau đó thể hiện bằng màu sắc hoặc các nét chải đã qui định cho các thang bậc. Phương pháp Bản đồ mật độ sử dụng rất có hiệu quả trong việc nêu lên những số lượng tương đối của các đối tượng, hiện tượng địa lí phân bố theo các đơn vị lãnh thổ khác nhau của lãnh thổ hoạ đồ. Sự thành lập bản đồ tương đối đơn giản, dễ chế biến, sử lí số liệu và bản đồ có tính trực quan cao. Tài liệu thành lập bản đồ dễ thu thập, chỉ cần có các số liệu thống kê các đối tượng cần biểu hiện theo các đơn vị lãnh thổ và trên bản đồ nền có sự phân chia lãnh thổ tương ứng. Vì thế phương pháp này được sử dụng rất phổ biến ở cả các bản đồ địa lí tự nhiên và địa lí kinh tế - xã hội. Quan sát bản đồ và cho biết, cách nhận biết nhanh một bản đồ thể hiện bằng phương pháp bản đồ đồ giải khác phương pháp nền chất lượng cơ bản ở chỗ nào? Nhìn vào bản chú giải, nên màu trong phương pháp đồ giải luôn đi kèm với một chỉ số số lượng..

<span class='text_page_counter'>(96)</span> 4.4.11 VẬN DỤNG VÀ PHỐI HỢP CÁC PHƯƠNG PHÁP BIỂU HIỆN BẢN ĐỒ Qua sự phân tích các phương pháp biểu hiện bản đồ như đã trình bày, ta thấy các phương pháp biểu hiện bản đồ có những đặc điểm bản chất khác nhau, khả năng đặc trưng đối với các loại đối tượng, hiện tượng hoạ đồ khác nhau, những yêu cầu về các điều kiện thành lập (nguồn tư liệu) và sự thể hiện khác nhau. Vì thế khi vận dụng các phương pháp biểu hiện trong thành lập bản đồ, phải căn cứ vào nhiều yếu tố: đặc điểm của đối tượng, hiện tượng hoạ đồ, mức độ chi tiết và phong phú của các nguồn tài liệu có quan hệ với nội dung bản đồ, mục đích - yêu cầu của bản đồ thành lập và đặc điểm bản chất của phương pháp biểu hiện. Mỗi phương pháp biểu hiện có những ưu thế nhất định đối với sự biểu hiện các loại đối tượng, hiện tượng hoạ đồ, cũng như những đặc trưng của chúng. Có phương pháp biểu hiện phù hợp với loại đối tượng này, nhưng lại không phù hợp với loại đối tượng khác; có phương pháp biểu hiện phản ánh được nhiều đặc điểm của đối tượng, nhưng có phương pháp chỉ có khả năng nêu lên những đặc điểm nhất định nào đó của đối tượng (ví dụ chỉ có thể phản ánh đặc điểm định lượng hoặc định tính)..

<span class='text_page_counter'>(97)</span> Tuy nhiên cần phải hiểu rằng, không phải một phương pháp biểu hiện chỉ biểu hiện đối với một đối tượng, hiện tượng nhất định, mà có thể được vận dụng biểu hiện đối với nhiều đối tượng, hiện tượng và ngược lại một đối tượng, hiện tượng có thể được biểu hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau, tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu của bản đồ và nguồn tư liệu. Trong thực tế thành lập bản đồ, ở từng trường hợp cụ thể, trên mỗi bản đồ cụ thể, có thể sử dụng và phối hợp các phương pháp biểu hiện khác nhau để biểu hiện các đối tượng, hiện tượng. Cụ thể là: . . . . Để truyền đạt một đối tượng, hiện tượng, có thể sử dụng những phương pháp biểu hiện khác nhau. Ví dụ, ở bản đồ dân cư, để thể hiện sự phân bố dân số, có thể sử dụng phương pháp kí hiệu điểm, nếu như dân số có sự phân bố tập trung theo các điểm và bản đồ yêu cầu tính địa lí cao, nguồn tài liệu chi tiết đến từng điểm phân bố được định vị trên bản đồ. Có thể sử dụng phương pháp chấm điểm, nếu như dân số phân bố phân tán, yêu cầu tính địa lí không cao và có thể sử dụng phương pháp Bản đồ biểu đồ nếu như chỉ có số liệu thống kê dân số theo các đơn vị lãnh thổ và yêu cầu của bản đồ chỉ thể hiện tổng lượng dân của các đơn vị phân chia lãnh thổ. Để truyền đạt một đối tượng, hiện tượng có thể cùng sử dụng nhiều phương pháp biểu hiện để nêu lên nhiều đặc trưng của hiện tượng. Ví dụ, trên bản đồ khí hậu, có thể dùng phương pháp Biểu đồ định vị thể hiện các đài trạm khí tượng với những đặc trưng nhiệt độ, lượng mưa, tần suất gió; phương pháp các đường đẳng nhiệt thể hiện sự phân bố nhiệt độ trung bình năm; phương pháp kí hiệu vận động thể hiện sự di chuyển của các khối khí theo các mùa, v.v… Để truyền đạt một số đối tượng, hiện tượng khác nhau, có thể sử dụng cùng một phương pháp. Ví dụ, trên bản đồ kinh tế công nghiệp, có thể cùng sử dụng phương pháp kí hiệu điểm để thể hiện các mỏ khai thác khoáng sản, các trung tâm công nghiệp, các kho tàng, bến cảng, v.v… Song các kí hiệu cho một loại đối tượng phải có hình thức khác nhau, dễ nhận biết và phân biệt. Để truyền đạt nhiều đối tượng, hiện tượng trên bản đồ có thể sử dụng phối hợp nhiều phương pháp biểu hiện khác nhau. Ví dụ, trên bản đồ kinh tế chung, nền màu thường là các vùng chuyên môn hoá nông nghiệp được thể hiện bằng phương pháp nền chất lượng. Phương pháp kí hiệu biểu hiện các trung tâm, xí nghiệp công nghiệp, các điểm khai thác khoáng sản. Phương pháp vùng phân bố với các gam nét chải biểu hiện các vùng cây trồng, vật nuôi và phương pháp kí hiệu vận động biểu hiện sự giao lưu hàng hoá, v.v… Mặc dầu nhiều nội dung như vậy, nhưng bản đồ vẫn rất dễ đọc, do sự phối hợp các phương pháp biểu hiện bản đồ một cách khoa học, hợp lí. Song cần nhớ rằng, có những phương pháp biểu hiện bản đồ rất khó hoặc không thể phối hợp với nhau, vì bản chất chúng khác nhau, nhưng về hình thức thể hiện gần giống nhau, dễ gây nên sự lầm lẫn đối với người sử dụng và rất khó thể hiện. Ví dụ như phương pháp kí hiệu điểm với phương pháp vùng phân bố được khái quát cao; phương pháp nền chất lượng với phương pháp cactogram. Phương pháp kí hiệu điểm với phương pháp Bản đồ biểu đồ, v.v…. Vì thế, sử dụng phối hợp các phương pháp biểu hiện bản đồ không thể thực hiện tuỳ ý, phải dựa trên cơ sở bản chất của phương pháp biểu hiện và đặc điểm đối tượng, hiện tượng được biểu hiện, đồng thời lựa chọn hệ thống ngôn ngữ bản đồ một cách khoa học. Cho biết những phương pháp dùng để thể hiện nội dung chính của bản đồ. Phương pháp bản đồ đồ giải và phương pháp bản đồ biểu đồ. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG IV 1. Khái niệm ngôn ngữ bản đồ? Ý nghĩa của ngôn ngữ bnả đồ và những đặc trưng cơ bản của kí hiệu bản đồ?.

<span class='text_page_counter'>(98)</span> 2. Những nguyên tắc cơ bản trong sự thể hiện ngôn ngữ bản đồ trên bản đồ địa lí? 3. Tại sao sự biểu hiện các đối tượng, hiện tượng địa lí trên bản đồ phải vận dụng nhiều phương pháp biểu hiện khác nhau? Những phương pháp biểu hiện được sử dụng phổ biến là những phương pháp biểu hiện nào? Đối tượng của chúng? 4. Trong các phương pháp biểu hiện bản đồ, những phương pháp có hình thức thể hiện tương đối giống nhau? Cơ sở phân biệt chúng? Những phương pháp biểu hiện nào có thể chuyển đổi hoặc kết hợp được với nhau? 5. Sự vận dụng phương páp biểu hiện bản đồ dựa trên những cơ sở nào? Nêu một số trường hợp vận dụng và phối hợp phương pháp biểu hiện bản đồ trong thành lập các bản đồ địa lí? 6. Ý nghĩa của chữ viết trên bản đồ và việc sử dụng chúng? CHƯƠNG V: TỔNG QUÁT HÓA BẢN ĐỒ 5.1 KHÁI NIỆM D.D. Gorski, V.A. Shtoph, K.Bakradze, S.B.Certeli, và nhiều tác giả cho rằng: bên cạnh tổng quát hoá bản đồ còn có cả trừu tượng hoá. Đối tượng của hoạt động trừu tượng hoá bản đồ là một không gian cụ thể của các đối tượng địa lí. Cái trừu tượng không gian không ghi lại toàn bộ hiện tượng cụ thể mà chỉ ghi lại một mặt nào đó của nó. Cái trừu tượng đó lại chính là cái cụ thể ghi lại một mặt xác định của đối tượng, mặt đó đóng vai trò quan trọng trong toàn bộ đối tượng. Mối quan hệ giữa cái trừu tượng và cái cụ thể tương tự như cái chung và cái riêng, cái trừu tượng chỉ tồn tại trong cái cụ thể như là bộ phận, là một mặt và là phần bản chất của nó mà ta quan tâm nghiên cứu. Như vậy, mỗi sự tổng quát hoá đều bao hàm trong nó cả qúa trình trừu tượng hoá. Cho nên bản đồ là sự biểu thị thực tế địa lí vô cùng phong phú và đa dạng, là sự tổng quát hoá - trừu tượng hoá không gian và cấu trúc không gian của các đối tượng bằng ngôn ngữ bản đồ. Tổng quát hoá - trừu tượng hoá bản đồ là dạng trừu tượng hoá logic - đồ hoạ và tư duy cảm tính. Nó nằm trong cái riêng, cái cá biệt. Nhưng trong mỗi cái riêng thể hiện dưới dạng tổng quát - trừu tượng những dấu hiệu chung, thực chất, tiêu biểu và có tính quy luật. Không gian được trừu tượng hoá trong bản đồ biểu hiện sự thống nhất đặc trưng giữa cái riêng và cái chung. Cái riêng về không gian trong sự thống nhất với cái chung về nội dung trong biểu hiện bản đồ đạt được bởi "trạng thái" ký hiệu được "nhồi nhân" ý nghĩa nội dung. Như vậy, không gian của các đối tượng được biểu thị trong bản đồ luôn luôn được trừu tượng hoá, còn nội dung thì luôn luôn được tổng quát hoá. 5.2 TỔNG QUÁT HÓA VÀ NGÔN NGỮ BẢN ĐỒ Sự trừu tượng hoá không gian cụ thể có được chỉ chừng nào trong không gian phản ánh nội dung đối tượng trừu tượng hoá. Sự thống nhất giữa không gian cụ thể đã được trừu tượng hoá và nội.

<span class='text_page_counter'>(99)</span> dung đã được tổng quát hoá trong việc biểu thị là nét đặc trưng của nhận thức bản đồ, làm cho sự thống nhất nội tại giữa những mặt của hiện thực và thực tế phản ánh chúng bằng ngôn ngữ duy nhất - Ngôn ngữ bản đồ.. Nếu như sự tổng quát hoá không gian được thực hiện bằng đồ hoạ - ngôn ngữ bản đồ, thì sự tổng quát hoá nội dung được thực hiện bằng logic - Ngôn ngữ từ vựng. Tuy nhiên, ngôn ngữ bản đồ không phải không tham dự vào qúa trình tổng quát hoá nội dung, bởi vì mỗi ký hiệu chung, không có nội dung riêng của đối tượng biểu thị. Khi tổng quát hoá, tức là khi chuyển từ cái ít chung hơn sang cái chung hơn, ký hiệu bị thay đổi "trạng thái không gian" của mình. Ví dụ: trên bản đồ địa chất, ký hiệu chỉ ra 3 phần hệ jura: thượng, trung và hạ, sau khi tổng quát hoá logic nó được thay đổi bằng ký hiệu hệ jura có khoảng không gian bao trùm cả 3 phần hệ jura trên Hoạt động tổng quát hoá bản đồ trong quá trình xây dựng bản đồ làm cho việc thay thế các ký hiệu bản đồ từ đặc trưng ít chung hơn sang đặc trưng chung hơn. Sự thay thế này được thực hiện bằng các phương tiện biểu hiện bản đồ - ký hiệu..

<span class='text_page_counter'>(100)</span> - Các ký hiệu được định vị theo điểm biểu hiện bản chất đối tượng trên phương diện chất lượng, số lượng, cấu trúc và động lực của chúng. Tất cả mọi chỉ số, trừ cấu trúc, đều được trình bày dưới dạng cái chung không gian dựa trên một dấu hiệu chung nào đó, còn cấu trúc của đối tượng là cái chung chỉ đặc trưng cho mỗi đối tượng duy nhất đã biết. Do đó việc chuyển từ cấu trúc ít chung hơn sang cấu trúc chung hơn được thực hiện bằng cách thay thế sơ đồ chi tiết các đơn vị cấu trúc bằng sơ đồ khái quát, ít chi tiết hơn - ký hiệu tập hợp. - Các đường vận động thường biểu thị cái chung không gian của các đối tượng chuyển động theo tuyến. Cùng với bản chất của các đối tượng chuyển động, những đặc điểm chất lượng, số lượng được biểu hiện bằng đường chuyển động. Cấu trúc hiện tượng được biểu thị bằng đường vận động là cái chung nội dung. Vì vậy tổng quát hoá nội dung các đối tượng chuyển động theo tuyến tính.

<span class='text_page_counter'>(101)</span> cũng còn được thực hiện bằng cách chuyển từ cấu trúc ít chung hơn sang cấu trúc chung hơn. Do đó ký hiệu được định vị theo tuyến bị thay đổi chứ không phải là thay đổi "trạng thái không gian" của nó. Sự thay hình đổi dạng đó là do sự trừu tượng hoá đơn giản đối tượng được biểu hiện - tuyến tính - Các đường đẳng trị biểu hiện không gian định lượng (trừu tượng) chuyển từ chỉ số định lượng ít chung hơn sang chỉ số định lượng chung hơn. Nó được thay đổi không chỉ ý nghĩa của đường đẳng trị, mà còn thay đổi cả "trạng thái không gian" của chúng. Đó là nét đặc trưng của các đường đẳng trị, làm chúng khác với những ký hiệu khác định vị ở các tuyến - Đường biểu thị giới hạn hiện tượng dưới dạng các chỉ tiêu bản chất của chúng thì không thể tổng quát hoá hơn nữa mà có thể trừu tượng hoá không gian có thể dựa trên sự xác định số lượng nội dung của chúng. Nền chất lượng là phương tiện biểu thị bản đồ toàn năng. Đặc trưng của hiện tượng được biểu thị bằng nền chất lượng trong giới hạn khu vực không gian nào đó có thể đưa ra dưới dạng cái chung không gian. Trong thực tế, các đối tượng địa lí vô cùng phong phú và phức tạp, dựa vào yêu cầu thành lập bản đồ mà lựa chọn các đối tượng địa lí cho phù hợp.. 5.3 TỔNG QUÁT HÓA KHÔNG GIAN Mỗi đối tượng địa lí đều tồn tại hữu hình hoặc vô hình. Chúng luôn luôn chiếm một khoảng không gian nhất định. Sự biểu thị tổng quát đồng thời với sự biểu thị trừu tượng hoá khoảng không gian của các đối tượng địa lí là phương pháp trực tiếp tổng quát hoá không gian. Tổng quát hoá đồng thời với sự biểu thị trừu tượng hoá không gian Nội dung đối tượng biên vẽ bản đồ cũng tham gia vào qúa trình tổng quát hoá không gian. Nó đã được khái quát theo sơ đồ hệ thống phân loại, xác định số lượng, chất lượng và cấu trúc của tất cả.

<span class='text_page_counter'>(102)</span> mọi yếu tố cấu thành nội dung. Về phương diện bản đồ, điều đó có ý nghĩa là chuẩn bị bảng chú giải khái quát mới cho bản đồ sẽ thành lập.. Tuy nhiên, khi chuẩn bị bảng chú giải này nhà bản đồ đã có ý tưởng về bức hoạ đồ tương lai của không gian trừu tượng, làm cho việc tổng quát hoá không gian và lựa chọn phương pháp biểu thị hoạ đồ thực hiện dễ dàng. 1. Đưa nội dung đối tượng về sơ đồ phân loại chung hơn, tức là xác định nội dung đối tượng nào đó trong bản chú giải mới thu nhận bằng con đường tổng quát hoá bảng chú giải bản đồ lấy làm cơ sở của bản đồ sẽ thành lập. 2. Đưa đối tượng được biên vẽ bản đồ về bậc chung hơn của sơ đồ phân loại. Điều này được tiến hành khi bảng chú giải bản đồ vẫn giữ nguyên, còn đối tượng có khoảng không gian nhỏ bé do trừu tượng hoá lần nữa sẽ mất đi ý nghĩa độc lập hoặc sẽ bị biến mất. Nó chỉ được tính đến và biểu hiện một cách cường điệu khi xét trên từng địa phương cụ thể. 5.4 TỔNG QUÁT HÓA NỘI DUNG Cái chung của nội dung vừa thích hợp với trừu tượng hoá không gian vừa thích hợp với tổng quát hoá nội dung. Bởi vì nghiên cứu bản chất đối tượng địa lí luôn gắn liền với không gian của nó. Tổng quát hoá nội dung đối tượng dựa trên tài liệu thực tế hết sức đa dạng cả về chất lượng cũng như số lượng và cấu trúc hiện tượng. Nó còn đa dạng cả về không gian. Muốn biểu hiện chúng lên bản đồ thì phải tiến hành các phương pháp tổng quát hoá nội dung. Các phương pháp tổng quát hoá nội dung.

<span class='text_page_counter'>(103)</span> a. Tổng quát hoá chất lượng o o. Chuyển từ cấp phân loại thấp hơn sang cấp phân loại cao hơn. Ví dụ: chuyển từ các cấp tiểu vùng kinh tế thành các vùng kinh tế biểu hiện trên bản đồ tỷ lệ nhỏ hơn. Thay thế sơ đồ phân loại chi tiết bằng sơ đồ phân loại ít chi tiết hơn. Ví dụ: sơ đồ phân chia chi tiết các loại đất phù sa được thay thế bằng sơ đồ phân loại đất phù sa trong đê và đất phù sa ngoài đê.. b. Tổng quát hoá số lượng o o. o. Chuyển từ thang liên tục tuyệt đối sang thang nhiều bậc tuyệt đối và sau đó sang thang tự do (tuỳ ý): Nới rộng các bậc thang Ví dụ: trên bản đồ địa hình tỷ lệ lớn thang tầng độ cao là: 0 - 25 - 50 - 75 - 100 - 125 - 150 175 - 200m, v.v... Trên bản đồ địa hình tỷ lệ:1:2.000.000, thang tầng độ cao là: 0 - 50 - 200 500 - 1000 - 15000m. Trên bản đồ tỷ lệ 1:12000.000, thang tầng độ cao: 0 - 200 - 500 - 1000 - 2000 - 3000 - 4000. Trên bản đồ dân cư tỉnh Lai Châu, tỷ lệ: 1:6000.000, mật độ dân số: 1 - 10 - 25 - 50 - 100 150 - 200người /km2. Trên bản đồ dân cư Việt Nam, tỷ lệ: 1: 6000.000, mật độ dân số: 50 - 100 - 500 - 1000 - trên 1000 người/km2 Tăng "mức" hoặc "tải lượng" ký hiệu Ví dụ: Một điểm dân cư thành phố lớn trên bản đồ dân cư Việt Nam là 1.000.000 5.000.000 người. Một điểm dân cư siêu đô thị trên bản đồ dân cư thế giới là trên 8.000.000 người.. o. c. Tăng các đơn vị lãnh thổ thống kê o. o. Nới rộng các đơn vị cấu trúc Ví dụ: Bản đồ dân cư biểu hiện mật độ dân cư đến đơn vị xã, huyện, tỉnh tuỳ theo tỷ lệ lớn, nhỏ Liên kết các đơn vị khác nhau về chất theo một dấu hiệu chung đã xác định. Ví dụ: Liên kết các ngành công nghiệp khác nhau về chất lượng thành trung tâm công nghiệp..

<span class='text_page_counter'>(104)</span> Cái chung nội dung thu nhận được bằng cách thức như vậy sẽ được đưa vào trong không gian trừu tượng nhờ ký hiệu "phân bố" trong "cái vỏ" không gian này, còn cách diễn đạt bằng lời cái chung này sẽ được bố trí ở phần chú giải bản đồ như là ý nghĩa nội dung mã hoá trong ký hiệu đã được giải mã. 5.5 TỈ LỆ NỘI DUNG Hiện nay, trong Bản đồ học đang dùng tỉ lệ không gian là tỉ lệ bản đồ. Song không thể dùng một thước đo không gian để nhìn nhận cả thời gian, cả chất lượng lẫn số lượng và cấu trúc hiện tượng. Tất nhiên, tỉ lệ của tất cả những mặt phản ánh thực tế địa lí cần phải phối hợp lẫn nhau, bởi vì chúng được thể hiện một cách khách quan trong sự thống nhất biện chứng. Tỷ lệ mỗi mặt nội dung phù hợp với tỉ lệ không gian nhất định. Khác với tỉ lệ không gian nhất định, tất cả mọi tỉ lệ vận hành trong phạm vi nội dung được liên kết lại trong một khái niệm về tỉ lệ nội dung. Toàn bộ lịch sử nhiều thế kỉ biên vẽ bản đồ xác nhận rằng, mâu thuẫn cơ bản cần giải quyết, xét cho cùng chính là đi tìm mối tương quan tối ưu giữa các hệ thống tỷ lệ không gian và tỉ lệ nội dung. Mối quan hệ giữa tỉ lệ không gian và tỉ lệ nội dung trên bản đồ địa chất vùng Kavkaz. Tỉ lệ bản đồ (Tỉ lệ không gian). Tỉ lệ không gian Số lượng các đơn vị Tỉ lệ nội dung so với tỉ lệ của bản đồ địa tầng trong phần với tỉ lệ của bản đồ đầu tiên chú giải đầu tiên. 1: 500.000. 1,00. 38. 1,00. 1: 1.000.000. 0,50. 26. 0,95. 1: 2.500.000. 0,20. 21. 0,55. 1: 5.000.000. 0,10. 10. 0,26. 1: 7500.000 0,70 7 0,18 So sánh đơn giản cột thứ hai và cột thứ tư trong bảng trên ta thấy việc thu nhỏ tỉ lệ không gian khiến phải thu nhỏ tương ứng tỉ lệ nội dung. Có thể nói tỉ lệ nội dung là chỉ số nói lên mức độ tổng quát hoá. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG V 1. Tổng quát hóa bản đồ là gì? Mối quan hệ giữa tổng quát hóa bản đồ và ngôn ngữ bản đồ? Chứng minh rằng tổng quát hóa bản đồ mang ý nghĩa triết học sâu sắc? 2. Nêu những nguyên tắc và những nhân tố làm cơ sở cho sự tổng quát hóa bản đồ? 3. Trình bày những phương pháp tổng quát hóa không gian và tổng quát hóa các đặc trưng nội dung của các đối tượng địa lí trên bản đồ..

<span class='text_page_counter'>(105)</span> CHƯƠNG VI: PHÂN LOẠI BẢN ĐỒ ĐỊA LÍ TẬP BẢN ĐỒ ĐỊA LÍ 6.1 KHÁI QUÁT VỀ PHÂN LOẠI BẢN ĐỒ ĐỊA LÍ Bản đồ địa lí vô cùng phong phú và đa dạng cho nên cần phải phân chia chúng thành từng nhóm theo các dấu hiệu chung nào đó. Sự phân chia hệ thống bản đồ địa lí theo nhóm dựa trên những dấu hiệu nhất địnhgọi là sự phân loại bản đồ Phân loại khoa học các bản đồ địa lí nhằm:   . Nghiên cứu và xác định quy luật, xác định đặc điểm của các bản đồ riêng biệt Tìm cách phản ánh trong các tác phẩm bản đồ và tổ chức xuất bản bản đồ. Lập danh mục bản đồ và sắp xếp có hệ thống ở nơi lưu giữ bản đồ. Các bản đồ địa lí có thể được phân biệt theo nhiều dấu hiệu: sự bao trùm lãnh thổ, chủ đề, tỉ lệ, mục đích... Cơ sở khoa học phân loại bản đồ dựa bản đồ dựa trên dấu hiệu bản chất quy định nội dung và đặc điểm của các loại bản đồ địa lí. Sự phân loại khoa học bản đồ cần phải thoả mãn các yêu cầu lô gíc sau : . . . Đảm bảo tính liên tục khi chuyển từ khái niệm chung (lớp) sang khái niệm riêng (loại, kiểu), nghĩa là tuần tự phân chia khái niệm rộng sang khái niệm hẹp hơn. Ví dụ: tất các bản đồ địa lí được phân ra bản đồ địa lí chung và bản đồ chuyên đề. Đảm bảo tính nhất quán trong quá trình phân loại. Mỗi cấp phân loại cần sử dụng một dấu hiệu nhất định (cơ sở phân loại). Ví dụ: Bản đồ địa lí chung được phân ra bản đồ khái quát, bản đồ địa hình khái quát, bản đồ địa hình và bản đồ giáo khoa. Việc làm này là không đúng, vì trong phân loại đã sử dụng đồng thời hai dấu hiệu phân loại: theo tỉ lệ và theo mục đích. Khi phân chia khái niệm rộng ra các khái niệm hẹp hơn, tổng các khái niệm hẹp phải tương đương với dung lượng của khái niệm rộng. Ví dụ: Phân chia bản đồ địa chất ra 2 nhóm: bản đồ địa tầng và bản đồ kiến tạo là chưa đầy đủ. Bởi vì 2 nhóm này không bao trùm toàn bộ các bản đồ địa chất. Trong số các bản đồ địa chất còn có bản đồ trầm tích đệ tứ, bản đồ khoáng sản có ích…. 6.2 HỆ THỐNG PHÂN LOẠI BẢN ĐỒ CHỦ YẾU Nếu dựa vào tính chất của nội dung, thì tất cả các bản đồ địa lí có thể được phân thành hai nhóm lớn: Bản đồ địa lí chung và bản đồ chuyên đề. Nhóm bản đồ địa lí chung thể hiện những đối tượng tự nhiên, kinh tế, văn hoá, xã hội có trên bề mặt Trái Đất. Những đối tượng đo là thuỷ hệ, địa hình, đất, thực vật, quần cư, kinh tế, văn hoá, ranh giới hành chính - chính trị. Những đối tượng này được biểu hiện trên bản đồ bằng các dấu hiệu bề ngoài, biểu hiện một cách đồng đều, không ưu tiên đối tượng nào. Điểm đặc trưng cơ bản của bản đồ địa lí chung được xác định bởi tỉ lệ bản đồ. Dựa vào tỉ lệ bản đồ lớn hay nhỏ để phân chia bản đồ địa lí chung ra các bản đồ khác nhau: Bản đồ địa hình có tỉ lệ lớn, biểu hiện các đối tượng địa lí trên bản đồ một cách đầy đủ, chi tiết và chính xác nhất. Bản đồ địa hình khái quát có tỉ lệ trung bình, biểu hiện các yếu tố địa lí một cách khái quát bằng kí hiệu phi tỉ lệ. Bản đồ khái quát có tỉ lệ nhỏ, biểu hiện các yếu tố địa lí với mức độ tổng quát hoá cao..

<span class='text_page_counter'>(106)</span> Ngoài sự phân loại theo đề mục với các nội dung địa lí như trên ,các bản đồ chuyên đề còn căn cứ vào tầm mở rộng các đề mục và mức độ tổng quát hoá nội dung, chia thành các bản đồ là bản đồ phân tích, bản đồ tổng hợp, bản đồ đại cương, bản đồ bộ phận (ngành). a. Bản đồ phân tích là những bản đồ mà các chỉ số biểu hiện chưa được tổng quát hoá hoặc được tổng quát hoá rất thấp, cho ta những những đặc tính hầu như cụ thể của hiện tượng đồ hoạ. Ví dụ bản đồ nhiệt độ, bản đồ khí áp. b. Bản độ tổng hợp là những bản đồ cung cấp gần như hoành chỉnh đặc điểm của các hiện tượng riêng biệt khác nhau nhờ sự thống nhất khả ước các chỉ số quan trọng nhất. Bản đồ tổng hợp có mức độ tổng quát hoá cao. Bản đồ tổng hợp biểu diễn các chỉ số đã được tổng hợp từ hàng loạt các chỉ số cụ thể khác. Ví dụ bản đồ phân vùng kinh tế, phân vùng khí hậu... c. Bản đồ bộ phận: Bản đồ bộ phận còn gọi là bản đồ ngành, là những bản đồ có đề mục hẹp. Thuật ngữ bản đồ bộ phận thường được dùng cho các bản đồ tự nhiên, và bảna đồ ngành dùng cho các bản đồ kinh tế - xã hội. Bản đồ đại cương là những bản đồ có nội dung rộng hơn, nêu lên nhiều đặc điểm của hiện tượng, có tính khái quát cao hơn. Ví dụ: Bản đồ nông nghiệp, bản đồ các ngành trồng trọt được xem là bản dodò ngành còn bản đồ nông nghiệp chung được xem là bản đồ đại cương . Phân loại bản đồ theo tỉ lệ là sự phân loại căn cứ vào mức độ thu nhỏ của bản đồ so với thực tế, cùng đồng nghĩa với mức độ tổng quát hoá. Theo dấu hiệu tỉ lệ, các bản đồ được phân thành ba loại : - Bản đồ tỉ lệ lớn (tỉ lệ lớn hơn 1/.200 .000) - Bản đồ tỉ lệ trung bình, (tỉ lệ từ 1/ 200.000 – 1/1.000.000) - Bản đồ tỉ lệ nhỏ, (tỉ lệ nhỏ hơn 1/ 1000.000) Phân loại bản đồ theo mục đích nhằm phục vụ các đối tượng sử dụng bản đồ khác nhau, giải quyết những nhiệm vụ nhất định. Do đối tượng sử dụng ngày càng rộng rãi và lĩnh vức sử dụng bản đồ ngày càng đa dạng, hiện nay chưa có một sơ đồ phân loại bản đồ theo mục đích nào đầy đủ và được thống nhất thừa nhận, tuy nhiên về cơ bản có thể phân ra một số loại chính sau đây: - Những bản đồ phục vụ các nhu cầu khoa học, giáo dục, văn hoá. - Những bản đồ phục vụ nền kinh tế quốc dân. - Những bản đồ phục vụ quốc phòng, kỹ thuật. Về lí thuyết phân loại là như vậy, trong thực tiễn người ta thường sử dụng kết hợp các cách phân.

<span class='text_page_counter'>(107)</span> loại nói trên. Phân loại theo lãnh thổ thường được chọn là cách phân loại cơ bản, trong đó các bản đồ được sắp đặt theo đề mục. 6.3 TẬP BẢN ĐỒ ĐỊA LÍ (ATLÁT) VÀ SỰ PHÂN LOẠI Tập bản đồ là một hệ thống các bản đồ có sự liên hệ với nhau một cách hữu cơ và bổ sung cho nhau, được thành lập theo những chủ định và mục đích sử dụng nhất định. Các bản đồ trong tầp bản đồ được xây dựng theo một chương trình chung như một tác phẩm hoàn chỉnh. Hiện nay, nhiều tập bản đồ đã được thành lập phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau, với những chủ đề khác nhau, với quy mô lãnh thổ khác nhau và kích cỡ khác nhau. Vì thế các tập bản đồ cũng được phân loại để bảo đảm cho sự thành lập và sử dụng một cách khoa học và thuận tiện. 6.3.1 Tính hoàn chỉnh Tính hoàn chỉnh là phẩm cơ bản và quan trọng nhất của một tập bản đồ địa lí, được quy định bởi sự thống nhất đầy đủ bên trong của tập bản đồ. Một tập bản đồ được coi là hoàn chỉnh, đẩy đủ khi các bản đồ trong tập bản đồ phản ánh tới mức cần thiết và giải thích được đầy đủ tất cả các vấn đề thuộc về phạm vi đề mục theo mục đích của tập bản đồ. 6.3.2 Tính thống nhất Tập bản đồ là một tác phẩm bản đồ. Các bản đồ trong tập bản đồ phải bảo đảm được sự bổ sung, sự phù hợp và sự so sánh. Tập bản đồ không phải là một tập hợp các bản đồ được sắp xếp một cách cơ giới. Vì thế, tập bản đồ phải đảm bảo sự thống nhất bên trong của tập bản đồ về nguyên tắc biểu hiện, về cấu trúc và nhiều yếu tố khác nữa. Tính thống nhất được biểu hiện qua - Cơ sở toán học của bản đồ là sự lựa chọnhợp lí các phép chiếu hình bản đồ. Nên lựa chọn ít phép chiếu trong một tập bản đồ trên cùng một lãnh thổ. Tuy nhiên, các bản đồ được sử dụng chung một phép chiếu chỉ giới hạn ở một tỉ lệ nhất định và các tỉ lệ có thể dễ dàng thiết lập mối quan hệ với nhau (các tỉ lệ là bội số của nhau). - Phương pháp biểu hiện và kí hiệu bản đồ. Bảo đảm tính thống nhất của các phương pháp biểu hiện và các chỉ số thu nạp, sự tương đồng của các kí hiệu trên các bản đồ. - Tổng quát hoá đối tượng thống nhất về phương hướng - Sự ứng hợp của nội dung bản đồ với những thời kì nhất định. - Cấu trúc lôgíc, bố trí các bản đồ trong tập bản đồ đảm bảo tính liên tục, hệ thống. Hiện nay, nhiều tập bản đồ được thành lập phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau, với những chủ đề khác nhau, với quy mô lãnh thổ khac snhau và kích cỡ khác nhau. Vì thế các tập bản đồ cũng được phân loại để đảm bảo cho sự thành lập và sử dụng các tập bản đồ một cách khoa học và thuận tiện. Cụ thể sự phân loại các tập bản đồ như sau: a. Phân loại theo lãnh thổ: Với sự phân loại này, các tập bản đồ được phân thành: - Các tập bản đồ thế giới, biểu hiện những hiện tượng, đối tượng địa lí trên toàn hành tinh và các châu lục. - Các tập bản đồ quốc gia, phản ánh những đặc điểm địa lý của đất nước. Ví dụ: Tập bản đồ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Các tập bản đồ khu vực (có thể là vùng hoặc tỉnh) trình bày những đặc điểm địa lí của các bộ phận lãnh thổ của quốc gia, như tập bản đồ Tây Nguyên, tập bản đồ tỉnh Lai Châu. b. Theo nội dung (chủ đề) - Tập bản đồ địa lý đại cương, phản ảnh những đặc điểm địa lí chung, thường gặp là tập bản đồ địa lý đại cương thế giới ( tập bản đồ tra cứu thế giới của Liên Xô - 1967). - Các tập bản đồ địa lý tự nhiên, biểu hiện những đặc điểm địa lý tự nhiên chung hoặc địa lí tự nhiên bộ phận, như các tập bản đồ khí hậu, tập bản đồ địa lý động thực vật.v. v…. - Các tập bản đồ kinh tế – xã hội, có thể là tập bản đồ chung nền kinh tế quốc dân hoặc từng ngành kinh tế – xã hội, như tập bản đồ dân cư, tập bản đồ nông nghiệp..

<span class='text_page_counter'>(108)</span> - Các tập bản đồ địa lý tổng hợp, phản ảnh toàn bộ các đặc điểm địa lí lãnh thổ bao gồm tất cả các yếu tố tự nhiên và kinh tế – xã hội - chính trị (tập bản đồ quốc gia của các nước). c. Theo mục đích Theo dấu hiệu phân loại này, có các tập bản đồ giáo khoa, tập bản đồ nghiên cứu khoa học, tập bản đồ lịch sử, tập bản đồ du lịch, tập bản đồ quốc phòng v.v. d. Theo khuôn khổ, kích thước - Căn cứ vào khuôn khổ, kích thước của tập bản đồ chia ra: - Các tập bản đồ lớn (đại Atlat), kích thước khoảng 60cm x 45cm (tập bản đồ biển của Liên Xô; tập bản đồ quốc gia Việt Nam) - Các tập bản đồ cỡ trung bình, kích thước khoảng 40cm x 25 cm - Các tập bản đồ cỡ nhỏ (tiểu Atlat).. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG VI 1. Ý nghĩa và nguyên tắc của sự phân loại bản đồ địa lí? 2. Phân tích mục đích, ý nghĩa và nội dung của các hệ thống phân loại bản đồ địa lí?. CHƯƠNG VII: THÀNH LẬP BẢN ĐỒ ĐỊA LÍ 7.1 KHÁI QUÁT CÔNG TÁC THÀNH LẬP BẢN ĐỒ ĐỊA LÍ 7.1.1 Khái quát chung Các đối tượng trên mặt đất cũng như các quá trình trừu tượng, các hiện tượng gắn với sự định vị trong không gian đều có thể diễn đạt bằng bản đồ, thông qua quá trình thành lập bản đồ. Theo nghĩa rộng nhất, thành lập bản đồ là quá trình vận dụng ngôn ngữ bản đồ để chuyển đổi các thông tin không gian thành thông tin bản đồ, theo mục đích nào đó. Hoạt động thành lập bản đồ đã có lịch sử lâu đời gắn liền với lịch sử văn minh của loài người. Có thể lấy ví dụ, người thượng cổ đã biết vẽ hoặc khắc trên đá, trên đất nung các hình vẽ khu vực cư trú hoặc chỉ dẫn đường đi bằng các ký hiệu tượng hình, đó là những sản phẩm bản đồ sơ khai đầu tiên. Sự phát triển của các sản phẩm bản đồ luôn gắn liền với các bước phát triển khoa học công nghệ qua các thời kỳ, từ kỹ thuật đo - vẽ thủ công, cơ khí hoá đến điện tử hoá. Thuật ngữ “Thành lập bản đồ” trong tiếng Việt có thể hiểu tương đương với thuật ngữ “Mapping”, “Map making” trong tiếng Anh. Thành lập bản đồ là một bộ môn nghiên cứu rất rộng và quan trọng của bản đồ học, nhằm nghiên cứu các vấn đề khoa học và công nghệ để tạo ra các sản phẩm bản đồ. Đối tượng nghiên cứu của môn Thành lập bản đồ là xây dựng các tiêu chuẩn, phương pháp, công nghệ, và quy trình công nghệ..

<span class='text_page_counter'>(109)</span> Trong thành lập bản đồ hàm chứa nhiều khái niệm, phương pháp luận và công nghệ. Đây thực sự là một quá trình vận dụng tổng hợp tri thức bản đồ học cùng một số lĩnh vực khoa học có liên quan - Trắc địa, Viễn thám, Toán học, Mỹ thuật, Công nghệ in, Tin học, …, và các kiến thức chuyên đề của bản đồ cần thành lập - để thu thập, chế biến thông tin, định vị không gian và mô hình hoá chúng thành dạng mô hình bản đồ. Các phương pháp mô hình hoá thông tin có thể là: địa lí, toán học, thống kê, tin học, đồ họa, … và các phương pháp mang tính chuyên đề. Tính chất đa dạng của quá trình thành lập bản đồ Do tính chất đa dạng và phong phú của các thể loại bản đồ, cũng như phụ thuộc vào các mục đích sử dụng khác nhau, mà quá trình thành lập bản đồ cũng rất khác nhau về nhiều khía cạnh: mức độ phức tạp, quy mô tổ chức sản xuất, mức độ đầu tư, thời gian thực hiện, quy trình công nghệ… Có những bản đồ muốn thành lập phải đầu tư lớn và mất nhiều thời gian để thực hiện nhiều nhiệm vụ khó khăn và phức tạp như: đo đạc ngoài thực địa, tính toán và xử lí số liệu đo đạc, biên tập và in ấn. Với trình độ công nghệ của 15 - 20 năm trở về trước thì việc sản xuất có thể kéo dài hơn chục năm. Điển hình cho các loại này là việc thành lập những bản đồ tỷ lệ lớn (bản đồ địa hình, bản đồ địa chính, …) và những bản đồ chuyên đề trong các chương trình điều tra cơ bản (bản đồ địa chất, bản đồ thổ nhưỡng, bản đồ địa mạo, …). Trái lại, có rất nhiều bản đồ (thường là các bản đồ tỷ lệ nhỏ, bản đồ dùng cho mục đích tuyên truyền, quảng cáo, giảng dạy, …) việc thành lập rất mau chóng và đơn giản, chỉ cần một vài ngày là xong. Ngày nay nhờ ứng dụng công nghệ tin học mà các quá trình thành lập bản đồ được tự động hoá. Nhiều bản đồ có thể được thành lập chỉ trong vàì giờ (các tài liệu cần thiết đã được chuẩn hoá và có sẵn trong máy tính). Muốn thành lập bất kỳ một bản đồ nào, trước tiên cần làm rõ về mục đích và đối tượng sử dụng bản đồ. Tức là phải trả lời đúng câu hỏi: bản đồ dùng cho mục đích gì, những ai sử dụng, sử dụng như thế nào. Điều này sẽ ảnh hưởng chính đến việc định hướng nguồn tài liệu, xác định nội dung và thiết kế ký hiệu cho bản đồ. Sự hiểu biết về ngôn ngữ bản đồ và phương pháp trình bày đồ hoạ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đến công việc thiết kế và biên tập bản đồ. Ngày nay, trình độ hiểu biết về tin học càng làm cho chất lượng của những công việc này được nâng cao và giúp người làm bản đồ phát minh ra nhiều ý tưởng hay. Đối với các bản đồ chuyên đề, rất cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa kiến thức bản đồ học và kiến thức chuyên đề. Để giải quyết vấn đề này, một là đòi hỏi người làm bản đồ phải nghiên cứu và học hỏi để có hiểu biết đầy đủ về lĩnh vực chuyên đề của bản đồ. Tuy nhiên điều này khó thực hiện bởi vì một người làm bản đồ thường phải thực hiện nhiều thể loại bản đồ chuyên đề khác nhau, không thể có đủ khả năng hiểu thấu được tất cả các chuyên đề. Cách thứ hai phù hợp hơn là có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà bản đồ và chuyên gia thuộc từng chuyên đề. Sự phối hợp này đảm bảo cho việc thể hiện nội dung của bản đồ đúng với mục đích, yêu cầu của bản đồ và đúng với đặc điểm địa lí.

<span class='text_page_counter'>(110)</span> của hiện tượng chuyên đề đó. Tình hình tư liệu có thể thu thập và khai thác sử dụng ảnh hưởng rất nhiều đến việc tổ chức sản xuất, lựa chọn quy trình công nghệ và giá thành sản phẩm. Nếu tư liệu đã có sẵn ở các dạng bản đồ, văn bản, bảng số liệu, và đặc biệt là đã được lưu trữ trong các cơ sở dữ liệu của máy tính một cách có hệ thống thì quá trình thành lập bản đồ được rút ngắn rất nhiều, và giá thành sản xuất cũng rất rẻ. Trong trường hợp ngược lại, người ta sẽ phải triển khai các công việc điều tra, đo đạc, phân tích và xử lí số liệu trước khi biên vẽ bản đồ, là việc làm rất tốn công sức, tiền của và thời gian. Trình độ và mức độ đầu tư trang bị công nghệ của cơ sở sản xuất có ảnh hưởng đặc biệt đến chất lượng của bản đồ và mang lại hiệu quả cao về thời gian, hiệu quả đáng kể về kinh tế. Việc ứng dụng công nghệ tin học và các thiết bị tự động hoá ở nước ta hiện nay đã cho phép làm ra những sản phẩm bản đồ tinh xảo, hiện đại và chất lượng cao. Con người đóng vai trò tổ chức, chỉ đạo và thực hiện trong cả quá trình thành lập bản đồ, do đó nó rất quan trọng. Những người tham gia vào quá trình thành lập bản đồ phải có kiến thức và trình độ vững vàng về bản đồ học và những vấn đề có liên quan. Ngoài ra, những lĩnh vực kiến thức khác như tin học, toán học, địa lí học, … cũng hết sức có ý nghĩa. 7.1.2 Nội dung thành lập bản đồ Để làm ra một bản đồ phải thực hiện nhiều công việc khác nhau. Nhìn chung, quá trình thành lập bản đồ bao gồm bốn nhiệm vụ lớn: 1. 2. 3. 4.. Thiết kế bản đồ (thiết kế kỹ thuật) Thu thập thông tin Biên vẽ bản đồ Chế bản và in bản đồ. Trong thực tế, do nhiều yếu tố khác nhau (tình hình dữ liệu, yêu cầu và mục đích thành lập bản đồ, tỷ lệ, thể loại bản đồ, …) mà quá trình thành lập bản đồ có thể rất đơn giản hoặc rất phức tạp Trong mọi trường hợp, muốn thành lập bất kỳ bản đồ nào, trước tiên cần làm rõ về mục tiêu của bản đồ, tức là xác định bản đồ thành lập nhằm mục đích gì, những ai sử dụng, sử dụng như thế nào, Từ đó đặt ra yêu cầu đối với bản đồ: về thể loại, tỷ lệ, phạm vi, nội dung, độ chính xác, hình thức trình bày, chất lượng, số lượng in, … Người chủ thành lập bản đồ (chủ đầu tư, chủ nhiệm) cho dù tự thành lập hay giao cho người khác thực hiện cũng phải viết ra một bản đề cương khái quát, bao gồm những nội dung chính sau đây: + Tên bản đồ, chuyên đề, phạm vi khu vực, tỷ lệ; + Kích thước khung trong, số lượng mảnh; + Dạng thành phẩm (dạng tương đồng, bản đồ số, bản đồ nổi, …); + Cơ sở toán học; + Phương pháp thành lập, công nghệ; + Yêu cầu về tài liệu; + Yêu cầu về độ chính xác; + Yêu cầu về nội dung); + Yêu cầu về trình bày (màu sắc, ký hiệu, mỹ thuật); + Yêu cầu về in ấn (số lượng in, chế bản, giấy, …). Đề cương này sẽ là cơ sở để triển khai công việc của các quá trình thành lập bản đồ..

<span class='text_page_counter'>(111)</span> 7.2.Thiết kế bản đồ 7.2.1 KHÁI QUÁT CÔNG TÁC THIẾT KẾ Mỗi sản phẩm bản đồ ra đời, có đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng hay không, có gây được ấn tượng về tính thẩm mỹ và sự truyền cảm của ngôn ngữ bản đồ hay không, trước tiên phải khẳng định đó là kết quả hoạt động sáng tạo của nhà thiết kế bản đồ. Kết quả thiết kế bản đồ còn ảnh hưởng nhiều đến giá thành sản phẩm và thời gian thực hiện. Công tác thiết kế bản đồ có nhiệm vụ xây dựng các chuẩn cho bản đồ thành lập và xây dựng kế hoạch thành lập bản đồ. Sản phẩm của nhiệm vụ này là bản thiết kế kỹ thuật, trong đó nêu các quy định của thiết kế, các mẫu thiết kế, và quy trình thành lập bản đồ (hoặc kế hoạch biên tập). Nhiệm vụ này đòi hỏi người thiết kế bản đồ phải có trình độ bản đồ học vững vàng, có óc sáng tạo, trải qua thực tế sản xuất bản đồ, và trình độ thẩm mỹ cao; ngày nay còn đòi hỏi hiểu biết khá vững vàng về công nghệ bản đồ số. Để cho việc thiết kế đạt yêu cầu và hiệu quả cao, trước tiên người thiết kế cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng văn bản “Đề cương khái quát”, nắm vững mục đích và yêu cầu thành lập bản đồ, đồng thời tiến hành tìm hiểu tỉ mỉ nhu cầu và quan điểm của người sử dụng, kể cả những thị hiếu và thói quen của họ. Điều này có thể thấy rõ khi các nhà bản đồ học giáo khoa nêu yêu cầu về đảm bảo tính sư phạm, tâm lí lứa tuổi khi thành lập bản đồ giáo khoa. + Nghhiên cứu đặc điểm địa lí khu vực; + Phân tích và đánh giá tài liệu; + Thiết kế mô hình bản đồ; + Viết quy trình thành lập bản đồ. Kết quả nghiên cứu của bốn nội dung trên đây đồng thời cũng được viết thành nội dung của Bản thiết kế kỹ thuật. Đi từ bản chất của bản đồ là phản ánh thực tế địa lí được trừu tượng hoá và khái quát hoá, cho nên việc nghiên cứu đặc điểm địa lí khu vực có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó giúp cho người thiết kế nắm được đặc điểm địa lí của khu vực thành lập bản đồ, đặc điểm của các đối tượng cần đưa lên bản đồ, trạng thái, sự phân bố của chúng cùng các mối quan hệ giữa chúng trong không gian. Đó là cơ sở khách quan để người thiết kế nghiên cứu xây dựng các chuẩn của bản đồ, đặc biệt là việc xây dựng hệ thống phân loại nội dung, lựa chọn đối tượng, thiết kế ký hiệu, xác định các chỉ tiêu tổng quát hoá. Ngoài ra trong các công trình thành lập bản đồ còn có các nhiệm vụ thực hiện ở ngoài thực địa, việc nghiên cứu khu vực còn ở khía cạnh tìm hiểu các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, cơ sở hạ tầng, phong tục, tập quán và an ninh, … để tổ chức nơi làm việc, sinh hoạt và đi lại của các đơn vị sản xuất..

<span class='text_page_counter'>(112)</span> Việc nghiên cứu đặc điểm địa lí có thể thực hiện bằng hai cách: Một là trực tiếp điều tra và khảo sát thực địa; hai là nghiên cứu thông qua tài liệu (bản đồ, ảnh, sách, các văn bản báo cáo, tổng kết khoa học, …). Mức độ nghiên cứu có thể không đồng đều khi thành lập các thể loại bản đồ khác nhau. Khi thành lập các bản đồ bằng phương pháp thu thập thông tin và đo đạc trực tiếp từ thực địa rất cần phải nghiên cứu trực tiếp ngoài thực địa (có kết hợp với nghiên cứu tài liệu), có thể tổ chức các đoàn khảo sát đi theo tuyến, hoặc điểm. Khi nghiên cứu thực địa cần ghi chép tỉ mỉ các số liệu và thông tin cần thiết (thông tin định tính, định lượng, trạng thái, địa danh,…), có thể kết hợp vẽ sơ hoạ và chụp ảnh để minh hoạ. Trong trường hợp khu vực lập bản đồ có đủ tài liệu mô tả khu vực bản đồ thì không cần đi thực địa. Trường hợp này thường thấy khi thành lập các bản đồ tỷ lệ trung bình và nhỏ. 7.2.2 TÀI LIỆU TRONG THIẾT KẾ BẢN ĐỒ Khi được giao nhiệm vụ thu thâp tài liệu, người đi thu thập có thể khai thác từ nhiều nguồn khác nhau, miễn sao đủ lượng thông tin cần thiết cho nội dung của bản đồ cần thành lập. Tài liệu có thể rất nhiều và đa dạng, với độ chính xác, mức độ đầy đủ và khả năng sử dụng khác nhau. Do đó, việc tiến hành phân tích và đánh giá tài liệu là hết sức cần thiết. Công tác phân tích và đánh giá tài liệu có ý nghĩa quan trọng trước tiên là lựa chọn ra được những tài liệu cần thiết nhất đảm bảo tính đầy đủ và đúng đắn của các thông tin được biên vẽ lên bản đồ; tiếp nữa là thông báo các sai sót và khiếm khuyết của các tài liệu được lựa chọn để có biện pháp kỹ thuật khắc phục. 1. Mức độ đầy đủ dữ liệu so với yêu cầu về nội dung của bản đồ cần thành lập: Tài liệu có đủ những đối tượng (cả về mặt định tính, định lượng và mật độ của chúng) cần vẽ không. 2. Độ tin cậy của tài liệu: Cần xác định tính pháp lí và nguồn gốc của các thông tin dùng cho việc biên vẽ nội dung của bản đồ. 3. Độ chính xác của nội dung trong tài liệu có đảm yêu cầu của bản đồ thành lập không: Cần xác định độ chính xác hình học (vị trí, hình dạng, kích thước) của đối tượng; độ chính xác thuộc tính (đơn vị tính, bậc phân khoảng, đơn vị làm tròn, mức độ chi tiết, …), phương pháp được lựa chọn để biểu thị đối tượng. 4. Tính hiện thực của dữ liệu: Đó là mức độ phù hợp về thời gian có thể chấp nhận của dữ liệu có trong tài liệu so với yêu cầu của bản đồ thành lập. Thông thường đòi hỏi tài liệu cập nhật nhất (ví dụ, số liệu thống kê mới, ảnh hàng không mới chụp), cũng có trường hợp tài liệu đã cũ nhưng vẫn có ý nghĩa sử dụng (ví dụ, tài liệu dùng cho bản đồ các hiện tượng ít biến đổi hoặc mang ý nghĩa lịch sử)..

<span class='text_page_counter'>(113)</span> 5. Chất lượng tài liệu (chất lượng tờ bản đồ và độ co dãn của giấy, chất lượng hình vẽ và màu sắc): Cần đánh giá khả năng thuận lợi hoặc khó khăn khi sử dụng các tài liệu bằng các phương tiện kỹ thuật hiện có của cơ sở sản xuất (đọc hoặc can vẽ thủ công, xao hoặc chụp lại, nhập vào máy tính bằng máy quét, …). Tài liệu nếu được đánh giá toàn diện theo các tiêu chí nêu trên sẽ giúp ích cho việc lựa chọn ra các tài liệu tốt nhất, phù hợp với mục đích thành lập bản đồ và điều kiện trang thiết bị của cơ sở sản xuất. Từ kết quả phân tích và đánh giá cần phân loại tài liệu ra làm 3 loại: 1. Tài liệu gốc: là tài liệu dùng làm cơ sở để biên vẽ phần lớn nội dung của bản đồ thành lập. Đây thường là các tài liệu đo đạc thực địa (dạng bản vẽ gốc hoặc các tệp số liệu ghi trong các thiết bị nhớ), ảnh hàng không, hoặc các bản đồ có mức độ đầy đủ về nội dung, độ chính xác cao, thông tin mới. Thông thường tài liệu gốc phải đảm bảo cung cấp trên 60 % lượng thông tin cần biên vẽ. 2. Tài liệu bổ sung: là tài liệu dùng để vẽ bổ sung một khu vực hoặc một số yếu tố nội dung cho bản đồ thành lập, mà trong tài liệu gốc không có hoặc không đạt yêu cầu. Ví dụ, bản đồ bổ sung về mạng lưới đường sá, ảnh vệ tinh bổ sung về rừng, tài liệu thống kê bổ sung về dân số của các đô thị, …, hoặc là bản vẽ bổ sung cho một khu vực của bản đồ không có tài liệu gốc. Tài liệu tham khảo: Trong khi thành lập bản đồ rất cần đến nhiều tài liệu tham khảo để xác minh dữ liệu của tài liệu gốc hoặc tài liệu bổ sung, hoặc để tham khảo về các mối quan hệ không gian trong quá trình biên vẽ. 7.2.3 THIẾT KẾ BẢN ĐỒ Thiết kế mô hình là nội dung quan trọng và cơ bản nhất của công tác thiết kế bản đồ, là quá trình tư duy sâu và sáng tạo của nhà thiết kế để tạo ra các chuẩn, các tham số và quy định kỹ thuật của một mô hình bản đồ cụ thể, dựa trên cơ sở ban đầu là những định hướng cơ bản nêu trong bản Đề cương khái quát, và những nghiên cứu hỗ trợ của nhiệm vụ nghiên cứu đặc điểm địa lí khu vực và nhiệm vụ phân tích và đánh giá tài liệu. Thiết kế mô hình bản đồ bao gồm những nội dung sau: 1. Thiết kế bố cục của bản đồ 2. Xác định cơ sở toán học 3. Xác định nội dung của bản đồ.

<span class='text_page_counter'>(114)</span> 4. Thiết kế ký hiệu và chữ 5. Viết bản thiết kế kỹ thuật Thiết kế bố cục của bản đồ là các công việc: định hướng bản đồ; xác định giới hạn khu vực; quy định số mảnh của bản đồ cùng với khuôn khổ, kích thước và giới hạn của các mảnh; sắp đặt vị trí ở bên trong khung và bên ngoài khung. Bên trong khung quan trọng nhất là sắp đặt vị trí của phần nội dung chính (phần lãnh thổ với nội dung chính),sau đó đến những phần nội dung phụ (các bản đồ phụ, biểu đồ, hình ảnh, ghi chú thuyết minh, …) và vị trí bảng chú giải. Phần giữa khung trong và khung ngoài thường ghi chú về lưới tọa độ. Phần bên ngoài khung thường ghi tên bản đồ, tên khu vực, bảng chắp các mảnh bản đồ, và một số ghi chú về tác giả, nơi thành lập, nơi xuất bản, và tài liệu được sử dụng để biên tập bản đồ. Thiết kế khung của bản đồ cũng là một nội dung được đặt ra, thường yêu cầu về tính thẩm mĩ và độ đậm - mảnh, rộng - hẹp của khung sao cho làm nổi rõ không gian bản đồ. Thiết kế bố cục đòi hỏi sự bố trí khoa học hợp lí, thẩm mỹ và hài hoà, sao cho tất cả các mảng nội dung của bản đồ đều được đặt đúng chỗ. Cơ sở toán học của bản đồ gồm có: tỷ lệ, lưới chiếu và hệ toạ độ. 1. Tỷ lệ của bản đồ cần thành lập thường được xác định ngay từ khi có ý tưởng thành lập bản đồ hoặc khi xây dựng Đề cương khái quát của bản đồ. Trong một số trường hợp, người thiết kế cũng có thể đề xuất ý kiến khác nếu thấy qui định ban đầu không hợp lí. Ngoài ra, nếu bản đồ còn có một số bản đồ phụ đi kèm thì người thiết kế cần chủ động nghiên cứu lựa chọn tỷ lệ cho những bản đồ ấy, sao cho kích thước của bản đồ phụ vừa cho phép sắp đặt trong khoảng trống của bản đồ chính, vừa phản ánh được đầy đủ các nội dung của bản đồ đó. 2. Xác định lưới chiếu cho bản đồ cũng là điều cần thiết, nhưng trong từng tình huống cụ thể việc thực hiện sẽ rất khác nhau. Đối với những bản đồ tỷ lệ lớn được thành lập theo hệ thống lưới chiếu và phân mảnh quốc gia thì đã có các quy phạm nhà nước quy định rõ về lưới chiếu và các thông số kỹ thuật cần thiết để tính toán, thậm chí đã có các bảng toạ độ được tính sẵn, ví dụ, bản đồ địa hình Việt Nam tỷ lệ 1:50.000 được quy định sử dụng lưới chiếu UTM, Elipxôid WGS-84, chia múi 6 độ với kinh tuyến giữa có tỷ lệ bằng 0,9996. Người thiết kế chỉ cần nắm vững những quy định đó và ghi lại trong bản thiết kế để chỉ dẫn thực hiện tra bảng để lấy toạ độ góc khung và toạ độ các điểm lưới. Trường hợp hay gặp hơn cả là khi thiết kế phải lựa chọn lưới chiếu phù hợp với bản đồ cần thành lập. Hiện nay ở hầu hết các phần mềm vẽ bản đồ và phần mềm GIS có chức năng tính toạ độ các điểm lưới cho các lưới chiếu được lựa chọn. Trước đây, công việc phức tạp nhất xảy ra khi gặp trường hợp lưới chiếu của bản đồ tài liệu khác biệt nhiều so với lưới chiếu của bản đồ cần thành lập..

<span class='text_page_counter'>(115)</span> Người thiết kế không những phải giải bài toán tính toạ độ điểm lưới, mà còn phải tính chuyển vị trí của từng đối tượng địa lí từ bản đồ tài liệu sang bản đồ mới. Do đó, trong thiết kế người ta thường chọn các lưới chiếu giống với tài liệu gốc. Công nghệ thông tin đã giải toả khó khăn này, và làm cho những khó khăn trong khâu thiết kế lưới chiếu trở nên không đáng nói đến. 3. Kết quả của phép tính lưới chiếu sẽ cho ta vị trí của các điểm lưới toạ độ địa lí (φ, λ) hoặc toạ độ ô vuông (toạ độ kilômét x, y) trên mặt phẳng bản đồ. Người thiết kế cần quy định khoảng cách lưới cho phù hợp với bản đồ, và hướng dẫn cách chuyển lưới chiếu lên bản vẽ (nếu thấy cần thiết). Xác định nội dung của bản đồ không chỉ đơn thuần là quy định hoặc kể tên những yếu tố hoặc đối tượng cần được vẽ lên bản đồ, mà đây chính là bước xây dựng mô hình khái niệm của bản đồ. Toàn bộ các nội dung thông tin của bản đồ cần được trình bày ở đây. Trước tiên cần phân biệt, phần nội dung chính và phần những nội dung phụ. Phần nội dung chính là các đối tượng địa lí được vẽ trong phạm vi ranh giới của khu vực lập bản đồ, phần này còn gọi là bản đồ chính. Phần nội dung phụ là tất cả các bản đồ phụ, hình ảnh, sơ đồ, biểu đồ, … nhằm phản ánh một hoặc một số khía cạnh nào đó liên quan đến bản đồ chính. Người thiết kế phải xem xét mọi khía cạnh của các phần nội dung chính cũng như phụ, đi từ chung đến riêng, từ khái quát đến chi tiết. Công việc phải được tiến hành trên cơ sở của phương pháp phân loại đối tượng mang tính khoa học và hệ thống. Như vậy, công việc phân loại phải được tiến hành theo kiểu cây phân cấp, trước tiên là xác định các nhóm lớp đối tượng, tiếp theo là xác định các lớp đối tượng cùng các thuộc tính của nó (nhưng chỉ những thuộc tính nào cần thể hiện lên bản đồ). Thiết kế ký hiệu (theo nghĩa rộng là trình bày bản đồ) là một phần quan trọng trong quá trình xây dựng mô hình ký hiệu hình tượng của bản đồ, nhằm phản ánh các đối tượng địa lí đã được lựa chọn, bằng ngôn ngữ bản đồ. Nó đòi hỏi nhà thiết kế ngoài kiến thức bản đồ vững vàng còn phải có óc thẩm mỹ lẫn khả năng tư duy sáng tạo cao. Quá trình này có liên quan mật thiết với quá trình xây dựng nội dung, trong nhiều trường hợp nếu đồng thời cùng thiết kế nội dung và ký hiệu thì sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. Ví dụ, để thành lập các bản đồ có sự phân bậc, phân khoảng, ta đồng thời phải lựa chọn phương pháp biểu thị lẫn khảo sát các bậc phân khoảng sao cho phản ánh được đúng nhất đặc điểm của hiện tượng địa lí đó (thường gặp khi thành lập các bản đồ biểu đồ, đồ giải). 1. Lựa chọn các phương pháp ký hiệu chủ yếu để thể hiện các lớp hoặc nhóm lớp đối tượng nội dung của bản đồ. Trong nhiều trường hợp sự lựa chọn này đã được xác định ngay từ khi thiết kế nội dung (ví dụ các phương pháp: chấm điểm, vùng phân bố, đồ giải, …)..

<span class='text_page_counter'>(116)</span> 2. Thiết kế ký hiệu cho từng lớp đối tượng là sự lựa chọn và xác định hình dạng, kích thước, màu sắc, cấu trúc của kí hiệu. Khi gặp những bản đồ thể loại mới, đòi hỏi tính thẩm mỹ cao, hoặc nội dung dày đặc thì thường phải thiết kế ký hiệu theo một số phương án. Để thành lập bản đồ số, phải thiết kế các files chuẩn để vẽ các kí hiệu tương ứng, bao gồm: khung và lưới tọa độ, kí hiệu kiểu điểm, đường, vùng, chữ viết. Nếu các file chuẩn đó đã được lập sãn và đủ điều kiện để áp dụng, thì khi thiết kế cũng phải chỉ định rõ file nào dùng cho những kí hiệu nào. 3. Thiết kế chữ bao gồm sự lựa chọn các kiểu mẫu chữ, kích thước và màu sắc của chúng cho các ghi chú địa danh, ghi chú thuộc tính của đối tượng và ghi chú thuyết minh trên bản đồ. 4. Trình bày bảng chú giải là phần nhiệm vụ của cả khâu thiết kế nội dung lẫn thiết kế ký hiệu. Nó đòi hỏi sự sắp xếp các lớp đối tượng lẫn ký hiệu đặc trưng cho chúng mang tính hệ thống và lô gích cao, đồng thời phải rõ ràng, rành mạch sao cho người sử dụng có thể dễ dàng tra cứu nhận dạng đối tượng và các thông tin đi kèm với chúng. 5. Sự sắp xếp và trình bày các phần nội dung phụ và trình bày ngoài khung của bản đồ cũng là nhiệm vụ của khâu thiết kế ký hiệu. Các màu sắc, kiểu cỡ của ký hiệu và chữ ghi chú của chúng cũng như vị trí sắp đặt chúng cùng với bản đồ chính phải tạo nên bức tranh (mô hình bản đồ) hài hoà, hấp dẫn, tất cả các phần nội dung đều phải được thể hiện rõ ràng, nhưng nhất thiết phải làm nổi bật phần bản đồ chính. 6. Các thiết kế riêng rẽ đôi khi tưởng như rất hoàn hảo, nhưng khi kết hợp thể hiện chung trên bản đồ có thể sẽ xuất hiện những mâu thuẫn nào đó. Cho nên, một nhiệm vụ rất cần phải làm trong thiết kế là vẽ mẫu thử nghiệm trên một số vùng điển hình của bản đồ để trên cơ sở đó phân tích và đánh giá chúng một cách tổng thể trong mối quan hệ không gian. Điều này cho phép lựa chọn ra được những mô hình ký hiệu phù hợp và có tính diễn đạt cao. Tổng hợp các kết quả thiết kế được trình bày trong một văn bản được gọi là Bản thiết kế kỹ thuật (còn gọi là Bản kế hoạch biên tập), là văn bản mang tính pháp lí, được cơ quan chủ đầu tư (chủ bản đồ) phê duyệt, dùng để chỉ đạo toàn bộ tất cả các khâu trong quá trình thành lập bản đồ (quá trình chế bản và in bản đồ thực hiện theo thiết kế riêng của xí nghiệp in). Trong bản thiết kế kỹ thuật còn nêu những hướng dẫn kỹ thuật cần thiết, tương tự như một quy trình công nghệ chi tiết. 1. Quy định chung: tên bản đồ, thể loại, khu vực, tỷ lệ, dạng thành phẩm, nội dung chính, số lượng mảnh bản đồ, số lượng màu in, cơ số in, phương pháp thành lập, và một số điều khác nếu thấy cần thiết. 2. Mô tả đặc điểm địa lí khu vực..

<span class='text_page_counter'>(117)</span> 3. Quy định về sử dụng tài liệu: Đưa ra danh mục tài liệu, trong đó phân biệt rõ 3 loại tài liệu (tài liệu gốc, bổ sung, tham khảo), chỉ dẫn cách sử dụng (gia công, chỉnh sửa, chụp thu – phóng, số hoá, …). 4. Quy định về bố cục, cơ sở toán học, nội dung chi tiết và ký hiệu. 5. Quy định về tổng quát hoá 6. Quy trình công nghệ thành lập bản đồ: chỉ rõ phương pháp công nghệ, các thiết bị được sử dụng, yêu cầu kỹ thuật, độ chính xác, và sản phẩm trung gian (ví dụ, bản tác giả, bản gốc biên vẽ, bản gốc thanh vẽ, bản gốc biên vẽ dạng số) của từng khâu trong quy trình. 7. Quy định về kiểm tra, nghiệm thu và bàn giao sản phẩm. Kèm theo các quy định trên còn có các phụ lục như: sơ đồ bố cục bản đồ, sơ đồ tài liệu, mẫu biên vẽ, mẫu tổng quát hoá, bảng toạ độ góc khung và toạ độ lưới chiếu, bảng toạ độ các điểm khống chế trắc địa, bảng số liệu thống kê, và một số sơ đồ, biểu mẫu khác nếu thấy cần thiết. Tuỳ theo tình hình thực tế và mức độ khó khăn phức tạp mà công tác thiết kế và nội dung của bản thiết kế kỹ thuật có thể đơn giản hoặc phức tạp khác nhau đối với từng thể loại bản đồ khác nhau. Qua đây càng chứng tỏ công tác thiết kế có tầm quan trọng đặc biệt, nó quyết định chất lượng và hiệu quả của quá trình thành lập bản đồ. 7.3 THU THẬP THÔNG TIN Thông tin, là nguyên liệu đầu vào để xây dựng nội dung của bản đồ. Muốn biên tập một bản đồ, trước tiên ta phải tìm hiểu xem các thông tin cần thiết có thể khai thác từ đâu (từ bản đồ đã có, ảnh hàng không, ảnh vệ tinh, tài liệu, bảng biểu thống kê, trong các files dữ liệu,…). Nếu không ở đâu có thì phải nghĩ đến vấn đề tổ chức đo đạc và thu thập thông tin từ thực tế. Ngày nay, thu thập thông tin cho thành lập bản đồ hoặc các hệ thông tin địa lí rất được coi trọng. Nó được hiểu theo nghĩa rộng là một ngành khoa học về thu thập thông tin Trái Đất (hoặc thu thập thông tin không gian) dựa trên cơ sở khoa học và công nghệ tin học – GEOMATICS. Các phương pháp thu thập thông tin Trái Đất hiện đại được ra đời nhờ các thành tựu khoa học mới nhất của công nghệ tin học, thông tin và các ngành có liên quan, đặc biệt là công nghệ viễn thám và định vị vệ tinh. Mức độ đầy đủ và chính xác của việc thu thập thông tin có ảnh hưởng lớn đến chất lượng, giá thành và thời gian sản xuất bản đồ. Thu thập thông tin cũng là một quá trình rất khó khăn và phức tạp do tính chất đa dạng của thông tin, tài liệu. Xuất phát từ trạng thái của thông tin có thể phân biệt thông tin dùng cho mục đích thành lập bản đồ ra làm hai loại: + Thông tin nguyên thuỷ;.

<span class='text_page_counter'>(118)</span> + Thông tin tài liệu. Thông tin nguyên thuỷ là thông tin còn đang tiềm ẩn trong các thực thể địa lí, các hiện tượng tự nhiên và xã hội, chưa được thu thập và trình bày trong bất kỳ dạng tài liệu có sẵn nào. Nguồn thông tin này có ý nghĩa hết sức quan trong đối với công tác điều tra tài nguyên thiên nhiên, phân tích, đánh giá lãnh thổ, thám sát môi trường, và các hoạt động thực tiễn mang tính chuyên ngành. Các công trình thành lập bản đồ từ các nguồn thông tin nguyên thuỷ thường là những công trình lớn, mang tính quốc gia hoặc tính chuyên ngành rất cao, được thực hiện từ những dự án với nguồn ngân sách lớn và triển khai trong nhiều năm. Để thu thập thông tin nguyên thuỷ phải tiến hành các công tác: điều tra, khảo sát, đo đạc, trắc nghiệm, thống kê, … Các phương pháp thu thập thông tin nguyên thuỷ phải đảm bảo khả năng xác định chính xác vị trí, thông tin hình học và thông tin thuộc tính của đối tượng. 1. Phương pháp định vị vệ tinh toàn cầu – GPS (Global Positioning System) - cho phép xác định vị trí của một điểm trên mặt đất thông qua một số thiết bị đặt trên mặt đất thu tín hiệu của một số vệ tinh bay trên bầu trời. Các thiết bị GPS được sử dụng chủ yếu để xác định toạ độ trên mặt đất, do đó có thể dùng trong công tác đo lưới khống chế trắc địa nhà nước, lưới khống chế đo vẽ (trong thành lập bản đồ địa hình), xác định vị trí con tầu và điểm đo sâu (trong đo vẽ bản đồ địa hình đáy biển), xác định vị trí tâm ảnh (trong chụp ảnh hàng không), dẫn đường cho tầu biển hoặc máy bay, xác định ranh giới đất, thực vật, rừng, các kiểu sinh thái, cảnh quan, …(trong đo đạc chuyên đề), … Các thiết bị GPS có độ chính xác và giá thành rất khác nhau. Thiết bị dùng trong mục đích thành lập bản đồ địa hình có thể đạt độ chính xác đến vài cm và giá thành vài nghìn USD, trong khi đó các thiết bị dùng để xác định ranh giới tự nhiên (trong đo đạc chuyên đề) có thể cầm tay nhẹ nhàng, độ chính xác trên 3 m, và giá thành khoảng vài trăm USD. 2. Phương pháp đo sâu hồi âm được thực hiện trên nguyên lí thông qua tốc độ truyền âm (phát và thu) trong môi trường nước để tính ra độ sâu của điểm đo, được sử dụng trong đo đạc địa hình đáy biển, đo đạc chuyên đề biển. 3. Các phương pháp quan trắc (quan trắc khí tượng, thuỷ văn, địa chấn, ô nhiễm môi trường, …) thường được thực hiện trên cơ sở đặt các thiết bị quan trắc và đo đạc tại từng vị trí trong mạng lưới các điểm quan trắc được thiết kế hợp lí cho toàn khu vực. Theo tính chất của từng chuyên ngành, các dữ liệu quan trắc có thể phải tích luỹ trong nhiều năm, hoặc tức thời, được xử lí để thành lập các bản đồ chuyên đề có liên quan (thường là các bản đồ hiện tượng tự nhiên) bằng phương pháp ký hiệu điểm, biểu đồ định vị, hoặc đường đẳng trị,… 4. Các phương pháp trắc nghiệm, điều tra, thống kê thường gặp trong trường hợp thu thập thông tin kinh tế, văn hoá, xã hội theo các đơn vị hành chính hoặc các điểm dân cư hoặc các.

<span class='text_page_counter'>(119)</span> cơ sở kinh tế. Các bản đồ được thành lập từ những số liệu này mang tính chất là những bản đồ thống kê. 5. Phương pháp viễn thám là phương pháp sử dụng bức xạ điện từ (ánh sáng nhiệt, sóng cực ngắn) như một phương tiện để điều tra và đo đạc những đặc tính của đối tượng. Các loại vệ tinh chụp ảnh được thiết kế có thể phục vụ cho nhiều mục đích, chụp trong thời gian ngắn hoặc có thể chụp thường xuyên lâu dài bề mặt Trái Đất. Vệ tinh viễn thám bao gồm các loại: vệ tinh khí tượng, vệ tinh viễn thám biển, vệ tinh địa tĩnh, vệ tinh tài nguyên và các tầu vũ trụ có người điều khiển và các trạm vũ trụ. Trên thế giới các hệ thống viễn thám đang hoạt động là: LANDSAT, NOAA, GMS, SPOT, SOJUZ, ERS, RADASAT. Các vệ tinh viễn thám được trang bị máy chụp ảnh, hoặc máy quét, hình ảnh được truyền trực tiếp xuống trạm thu mặt đất (ở chế độ gián tiếp) khi bay qua trạm thu trung tâm. ảnh viễn thám chụp theo các bước sóng khác nhau (viễn thám trong dải sóng nhìn thấy và hồng ngoại, viễn thám hồng ngoại nhiệt, viễn thám siêu cao tần), và với độ phân giải khác nhau (từ vài chục mét đến 1 m), cho phép nhận biết các đối tượng địa lí trên Trái Đất. Thông tin viễn thám mang lại hiệu quả cao trong thành lập rất nhiều loại bản đồ chuyên đề khác nhau, và được ứng dụng hết sức rộng rãi, linh hoạt và hiệu quả. Thông tin nguyên thuỷ sau khi được thu thập sẽ được xử lí, chế biến, và mô hình hoá thành các dạng tài liệu khác nhau: + Bản đồ tương đồng các kiểu, loại; + ảnh hàng không, viễn thám; + Bản đồ số, cơ sở dữ liệu bản đồ; + Văn liệu (ấn phẩm, bảng biểu thống kê, văn bản ghi chép, …). Những dạng thông tin này được gọi là thông tin tài liệu. Chúng được lưu trữ ở khắp mọi nơi: các trung tâm thông tin, cơ quan, ban, ngành, công ty, chính quyền địa phương, thư viện, bảo tàng, … Phần lớn các bản đồ tỷ lệ trung bình và tỷ lệ nhỏ được thành lập từ thông tin tài liệu. Trong trường hợp này, việc thu thập thông tin được hiểu là quá trình tìm kiếm nguồn tài liệu, tra cứu, lựa chọn, sao chép những tài liệu phù hợp với mục đích của bản đồ cần thành lập. Bản đồ dạng tương đồng: Trong số các thông tin tài liệu thì thông tin bản đồ là quan trọng nhất và không thể thiếu được. Do tính chất trực quan của bản đồ tương đồng mà việc tìm kiếm và phân tích đánh giá thông tin trên đó rất thuận lợi. Từ trước đến nay thông tin bản đồ vẫn luôn đóng vai trò là nguồn tài liệu chủ yếu và quan trọng nhất để thành lập bản đồ các thể loại và các mục đích khác nhau. Bản đồ gồm rất nhiều thể loại, với mức độ chứa đựng thông tin rất đa dạng và phức tạp, độ chính xác, mức độ đầy đủ và chất lượng rất khác nhau, có thể được thành lập từ các nguồn thông tin.

<span class='text_page_counter'>(120)</span> nguyên thuỷ hoặc các dạng thông tin tài liệu khác. Do đó, chúng được sử dụng cho mục đích thành lập bản đồ mới ở những mức độ rất khác nhau: dùng làm tài liệu cung cấp lượng thông tin chính và chủ yếu để thành lập bản đồ mới (gọi là tài liệu gốc), dùng để cung cấp một phần thông tin khi tài liệu gốc cung cấp chưa đủ (gọi là tài liệu bổ sung), dùng để nghiên cứu tình hình khu vực, tìm hiểu đặc điểm địa lí khu vực, đặc điểm tài liệu và khai thác một số thông tin nào đó (gọi là tài liệu tham khảo). Ảnh hàng không, viễn thám (gọi chung là tài liệu dạng ảnh): Tài liệu dạng ảnh là sản phẩm của phương pháp thu thập thông tin nguyên thuỷ bằng chụp ảnh hàng không hoặc viễn thám, với các mức độ tiền xử lí rất khác nhau: chưa nắn chỉnh hình học, đã nắn chỉnh hình học, đã điều vẽ và giải đoán, lập thành ảnh trực giao hoặc bản đồ ảnh, … Các tài liệu ảnh như trên có thể lưu ở dạng phim âm, phim dương, giấy ảnh, hoặc các files ảnh số dạng raster. Ảnh hàng không mới chụp thường được dùng làm tài liệu gốc để thành lập bản đồ mới, như ta thường thấy như: bản đồ địa hình, bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất, nói chung là những bản đồ tỷ lệ lớn. Những ảnh đã chụp lâu năm thì có thể dùng làm tài liệu tham khảo. Tài liệu ảnh viễn thám được ứng dụng rất nhiều trong các mục đích thành lập bản đồ chuyên đề, nhưng phần lớn đóng vai trò là những tài liệu bổ sung. Ngày nay, những ảnh viễn thám độ phân giải cao có thể dùng làm tài liệu gốc để thành lập bản đồ mới. Trong trường hợp này, kỹ thuật giải đoán ảnh kết hợp với điều tra thực địa phải được tiến hành tốt. Bản đồ số, cơ sở dữ liệu bản đồ: Bản đồ số được hiểu là một tập hợp có tổ chức các dữ liệu bản đồ trên những thiết bị có khả năng đọc bằng máy tính và được thể hiện dưới dạng hình ảnh bản đồ. Các bản đồ số trong cùng một hệ thống, hoặc một khu vực, một xê ri được tổ chức lại thành những cơ sở dữ liệu bản đồ. Các dữ liệu của cơ sở dữ liệu và bản đồ số được tổ chức thành các thư viện, thư mục, tệp (files), lớp (layers, levels). Thông tin bản đồ số có ưu điểm nổi bật là rất chi tiết và cho phép khai thác sử dụng rất nhanh chóng và thuận lợi. Đặc biệt là nhờ các mạng thông tin hoặc Internet mà thông tin có thể được chuyển giao nhanh chóng, trên phạm vi rộng (khu vực, quốc gia hoặc quốc tế). Thông tin lưu ở dạng các tài liệu, văn bản cũng hết sức phong phú và đa dạng. Trong mục đích thành lập bản đồ, chúng có thể được sử dụng ở những mức độ rất khác nhau. Các tài liệu thống kê có thể dùng làm tài liệu gốc để thành lập các bản đồ thể loại thống kê. Phần lớn các thông tin tài liệu đóng vai trò là tài liệu tham khảo, dùng cho những mục đích như: 1. Tìm hiểu đặc điểm địa lí khu vực 2. Tìm hiểu đối tượng lập bản đồ 3. Kiểm nghiệm, đánh giá nguồn gốc, độ tin cậy, độ chính xác của các tài liệu và các nguồn thông tin về đối tượng lập bản đồ.

<span class='text_page_counter'>(121)</span> 4. Hỗ trợ các quá trình lập bản đồ: Thiết kế, tính toạ độ, biên vẽ và tổng quát hoá, tra cứu địa danh 5. Quy định, chỉ dẫn, hướng dẫn kỹ thuật 7.4. Biên vẽ bảnđồ 7.4.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TÁC BIÊN VẼ BẢN ĐỒ Biên vẽ bản đồ là quá trình lựa chọn và chuyển đổi thông tin từ các dạng tài liệu khác nhau sang dạng đồ hoạ và định vị chúng lên bề mặt bản đồ theo các quy tắc của bản đồ học (cơ sở toán học, phương pháp biên vẽ, phương pháp tổng quát hoá, phương pháp ký hiệu, và trình bày) và tuân theo các quy định của bản thiết kế kỹ thuật (hoặc bản kế hoạch biên tập) đã được duyệt. Sản phẩm của quá trình biên vẽ có thể là: Bản tác giả, Bản gốc biên vẽ, Bản gốc biên - thanh vẽ, Bản đồ số, Bản đồ mầu. Bản tác giả là bản vẽ do cơ quan hoặc người chủ của bản đồ (tác giả) thành lập, phản ánh nội dung chuyên đề và phương pháp thể hiện nội dung đó đúng như các quy định trong bản thiết kế kỹ thuật, nhưng chất lượng đồ hoạ có thể chưa cao, là hình ảnh của bản đồ chính thức sắp in ra, được dùng để trình duyệt, xin xuất bản, và để chỉ dẫn các quá trình kỹ thuật tiếp theo như biên vẽ, thanh vẽ, chế bản. Bản tác giả thích hợp với các công trình thành lập bản đồ chuyên đề, xuất phát từ đặc điểm của bản đồ chuyên đề là chúng rất đa dạng, phần lớn được thành lập theo một phương án thiết kế mới, không có chuẩn được lập sẵn như các bản đồ địa lí chung hoặc một số bản đồ chuyên đề mang tính chuyên ngành. Theo quy trình chung, sau khi thành lập bản tác giả, bước tiếp theo sẽ là thành lập bản gốc biên vẽ, rồi đến bản gốc thanh vẽ, … Nhưng trong ứng dụng thực tế, nếu bản tác giả được biên vẽ tốt, các phần tử đồ hoạ có chất lượng tương đương với bản gốc biên vẽ thì nó có thể thay thế bản gốc biên vẽ và bỏ qua quá trình làm bản gốc biên vẽ Bản gốc biên vẽ do cơ quan sản xuất thực hiện, là bản vẽ đầy đủ toàn bộ nội dung của bản đồ (nội dung chính cũng như nội dung phụ và mọi chi tiết cần thiết) theo đúng quy định kỹ thuật (về vị trí, hình dạng, kích thước ký hiệu, tiêu chuẩn tổng quát hoá và mối quan hệ về vị trí giữa các ký hiệu) nhưng màu sắc của bản vẽ thì có thể quy định khác với màu chính thức sẽ in ra vì lí do đảm bảo các điều kiện kỹ thuật của khâu chụp ảnh và chế bản. Ví dụ, màu lơ không bắt ánh sáng khi chụp ảnh, do đó các ký hiệu sau này sẽ in màu lơ thì trên bản gốc biên vẽ phải dùng màu khác – thường là màu lục. Bản biên vẽ có ý nghĩa là một mô hình nội dung đúng đắn của bản đồ tương lai, tiếp theo sẽ được vẽ lại với chất lượng cao (thanh vẽ). Bản gốc biên - thanh vẽ (còn gọi là bản gốc liên biên) là kết quả của quá trình biên vẽ chất lượng cao với nét vẽ và màu vẽ được thực hiện theo đúng tiêu chuẩn của quá trình làm bản gốc thanh vẽ. Trong công nghệ truyền thống trường hợp này được áp dụng khi công việc biên vẽ không quá khó khăn phức tạp, nội dung của bản đồ không quá dày đặc. Phương án này cũng thường được áp dụng.

<span class='text_page_counter'>(122)</span> khi thành lập các bản đồ chuyên đề khi đã có một bản tác giả tốt. Bản gốc thanh vẽ là bản vẽ sạch, chất lượng đồ hoạ cao (không cạo sửa, không gai nét, vẽ và chữ ghi chú đúng kích thước), vẽ bằng một màu đen đậm. Đây là những tiêu chuẩn kỹ thuật để đảm bảo cho quá trình chế bản và in bản đồ. Khi ứng dụng công nghệ số thì từ kết quả biên vẽ còn cho phép làm ra ngay các sản phẩm như: bản đồ số (ghi trên các phương tiện nhớ của máy tính), bản đồ mầu (in ra từ máy in, máy vẽ gắn liền với máy tính), bản phim chế bản (phim đã tạo các phần tử nét và màu theo từng màu in riêng biệt dùng để chế bản in). 7.4.2 NỘI DUNG CÁC BƯỚC BIÊN VẼ THEO CÔNG NGHỆ TRUYỀN THỐNG - Phổ biến nhiệm vụ và nội dung bản thiết kế cho người thực hiện. - Chuẩn bị tài liệu: gia công những khu vực chất lượng kém, tô vẽ mực màu theo yêu cầu chụp ảnh, tiếp nhận các tài liệu cần thiết. - Chuẩn bị vật tư, thiết bị: kiểm nghiệm máy, chuẩn bị dụng cụ vẽ, các vật tư cần thiết, làm đế bản vẽ (bồi giấy lên đế kẽm). - Tính toạ độ của các điểm góc khung và các điểm mắt lưới. - Triển điểm: Các điểm toạ độ góc khung và mắt lưới, các điểm của lưới khống chế trắc địa (nếu thấy cần thiết) được chuyển lên đế bản vẽ (đế bản vẽ có thể là phim nhựa trong mờ, hoặc bản kẽm bồi giấy, nhằm đảm bảo cho bản vẽ cố định và không bị co dãn, Những bản này có độ mỏng không quá 0,6 mm). Để lập bản gốc biên vẽ, trước tiên các hình ảnh của các đối tượng vẽ bản đồ cần được chuyển chính xác lên đế bản vẽ, bằng những phương pháp kỹ thuật sau đây: cơ ảnh, chiếu hình, lưới ô, thước tỷ lệ. - Cơ ảnh là kỹ thuật hiệu quả và hay được áp dụng nhất trong sản xuất bản đồ từ trước đến nay. Nó đảm bảo chuyển vẽ các đối tượng nội dung đạt độ chính xác yêu cầu. Đặc điểm cơ bản ở đây là chụp ảnh bản đồ được chọn là tài liệu gốc theo tỷ lệ cần thiết (thông thường là bản đồ tài liệu có tỷ lệ lớn hơn được chụp thu về tỷ lệ của bản đồ thành lập) và nhận được âm bản chụp. Từ âm bản này người ta chế ra nét màu lam trên giấy vẽ (trong sản xuất gọi là phơi lam). Giấy vẽ là giấy có chất lượng cao (bề mặt đanh nhưng không nhẵn bóng, sao cho khi vẽ dễ bám mực màu và khi cạo sửa giấy không bị bở hoặc sờn). Các bản lam chụp từ tài liệu gốc sẽ được ghép dán lên đế vẽ đã triển điểm, lấy các điểm đó làm mốc để ghép dán lam. Kỹ thuật ghép dán lam có ý nghĩa là sự nắn chỉnh hình học các bản lam chụp từ tài liệu (thường ít nhiều đã bị co dãn) về đúng cơ sở toán học của bản đồ cần thành lập. Nếu cơ sở toán học (lưới chiếu) của bản đồ tài liệu và bản đồ thành lập quá khác nhau thì việc nắn chỉnh gặp nhiều khó khăn và cần phải tìm thủ pháp khác hữu hiệu hơn. - Chiếu hình (còn gọi là quang học) là kỹ thuật chuyển hình ảnh từ bản đồ tài liệu lên bản biên vẽ.

<span class='text_page_counter'>(123)</span> nhờ máy chiếu hình quang học. Máy chiếu quang học có hai nguyên lí: chiếu phản xạ và chiếu xuyên. - Lưới ô là kỹ thuật biên vẽ rất đơn giản, không yêu cầu một máy móc chuyên môn nào. Người ta lấy các ô lưới toạ độ (toạ độ địa lí hoặc toạ độ ô vuông) tương ứng nhau trên bản đồ tài liệu và trên đế vẽ đã triển điểm, và chia nhỏ chúng ra thành những ô con tương ứng nhau, vẽ bằng nét chì. Kích thước của các ô con được xác định phụ thuộc vào mức độ chi tiết biên vẽ và vào yêu cầu về độ chính xác chuyển vẽ đối tượng. Việc chuyển vẽ được thực hiện bằng cách nhìn ước lượng vị trí của hình ảnh trên bản đồ tài liệu để xác định vị trí tương ứng của nó trên bản vẽ và vẽ bằng chì. Sau khi kiểm tra không có gì sai sót sẽ vẽ lại bằng mực màu. - Kẻ mốc lưới toạ độ và khung trong của mảnh bản đồ bằng chì. - Tô màu nền cho các đối tượng kiểu vùng (mặt nước sông, hồ, biển; các mảng rừng, …). - Vẽ các đối tượng kiểu điểm theo thứ tự từ cấp cao đến cấp thấp (ưu tiên hơn đến kém ưu tiên). - Vẽ các đối tượng kiểu đường theo thứ tự từ cao đến thấp. - Vẽ đường nét và cấu trúc ký hiệu của các đối tượng kiểu vùng. - Ghi chú địa danh và ghi chú thuyết minh bên trong bản đồ. - Kẻ mốc lưới toạ độ và khung trong của mảnh bản đồ bằng mực đen. - Sao biên và tiếp biên với các mảnh bên cạnh. - Vẽ và ghi chú khung, trình bày ngoài khung. - Kiểm tra và sửa chữa bản vẽ ở các cấp: tự kiểm tra, tổ kiểm tra, xí nghiệp kiểm tra. - Ghi lí lịch bản đồ. Thanh vẽ là bước công việc trung gian giữa nhiệm vụ biên vẽ và chế – in bản đồ. Các bản gốc đo vẽ, tác giả, biên vẽ mới đảm bảo vẽ đúng về nội dung và phương pháp thể hiện nội dung của bản đồ thành lập, còn chất lượng bản vẽ (màu sắc, ký hiệu, nét vẽ, chữ viết, …) thì chưa đạt yêu cầu thẩm mỹ và yêu cầu của kỹ thuật chế bản và in. Do đó trong công nghệ truyền thống còn có một bước công việc không thể thiếu là làm các bản thanh vẽ (còn gọi là bản gốc thanh vẽ). Thanh vẽ là bước vẽ lại các bản gốc đo vẽ hoặc bản gốc biên vẽ theo đúng hình ảnh nội dung của những bản gốc này với chất lượng cao trên đế vẽ không co dãn, theo đúng kiểu, cỡ ký hiệu và chữ ghi chú đã thiết kế, theo các quy định về tách màu để chế bản. Các bản thanh vẽ là những bản chỉ vẽ một màu đen chất lượng cao (màu đen đậm, không bóng), nét vẽ trơn tru và kích cỡ của ký hiệu cũng như chữ phải đảm bảo tiêu chuẩn như bản đồ khi in ra. Thanh vẽ phức tạp ở việc xây dựng phương án vẽ tách một hoặc một số đối tượng nội dung trên một bản vẽ sao cho phù hợp với phương án chế bản ở khâu tiếp theo. Thông thường, những đối tượng sẽ được in cùng một mực màu sẽ được vẽ trên cùng một bản. Trong công nghệ truyền thống, các nét vẽ đều được vẽ bằng tay, có sử dụng các bút vẽ đặc biệt (bút chân cong, bút kẻ thẳng, com pa, …), các chữ viết và một số ký hiệu kiểu điểm khó vẽ thì được chế sẵn trên giấy ảnh rồi cắt dán.

<span class='text_page_counter'>(124)</span> lên bản thanh vẽ. Ngày nay những bản thanh vẽ có thể thực hiện nhờ các thiết bị tin học (máy tính, máy vẽ). Các bản gốc thanh vẽ có thể được thực hiện bằng các kỹ thuật khác nhau: vẽ trên giấy vẽ bồi trên đế kẽm, vẽ trên đế phim mờ, khắc trên màng khắc được tráng trên đế phim trong. Làm bản hướng dẫn phân tô tách màu để trong khâu chế bản người ta tham khảo trong khi tiến hành công tác phân tô tách màu trên các phim chế bản. Đây là những bản có nền lam của bản gốc biên vẽ, trên đó chỉ tô mực màu cho những nét vẽ hoặc chữ viết sẽ được bố trí trên cùng một phim chế bản. Trong sản xuất, công tác thanh vẽ và phân tô tách màu thông thường được thực hiện trong cùng một phân xưởng với công tác biên vẽ. Đ5. Chế - in bản đồ Chế - in gọi đầy đủ là chế bản và in bản đồ, là quá trình gồm nhiều bước kỹ thuật tiếp theo sau quá trình thanh vẽ, nhằm làm ra sản phẩm cuối cùng là bản đồ mầu in trên giấy. 7.5. Các phương pháp cơ bản thành lập bản đồ 7.5.1 PHƯƠNG PHÁP ĐO ĐẠC TRỰC TIẾP Khi thành lập các bản đồ tỷ lệ lớn, đòi hỏi phải xác định chính xác vị trí của các đối tượng trên mặt đất, đồng thời không có một nguồn thông tin tài liệu nào khác đáp ứng các yêu cầu của bản đồ cần thành lập thì người ta phải thu thập thông tin nguyên thuỷ trực tiếp ngoài thực địa. Trong đo đạc thực địa, do đặc điểm phân bố của các thông tin cần thu thập cho bản đồ mà các thiết bị cũng như quy trình công nghệ được ứng dụng cho từng thể loại bản đồ cũng rất khác nhau. Đo đạc mặt đất. Thuật ngữ này dùng để chỉ các phương pháp đo đạc trên mặt đất để thành lập các bản đồ địa hình, địa chính, và một số bản đồ chuyên đề tỷ lệ lớn (thông thường ứng dụng cho các bản đồ tỷ lệ 1:10.000 và lớn hơn). Các phương pháp trắc địa được biết đến từ lâu để đo vẽ chi tiết các đối tượng mặt đất gồm có: phương pháp bàn đạc, phương pháp toàn đạc. Trong phương pháp bàn đạc, người ta sử dụng một tấm bảng gỗ phẳng có gắn giấy vẽ, và máy bàn đạc được đặt trên mặt giấy. Trong khi đo đạc ngoài trời, người đo đồng thời vẽ các hình ảnh đo được lên giấy vẽ bằng các dụng cụ vẽ như thước đo độ, thước kẻ thẳng, (gắn với máy đo), com pa, bút chì,... Phương pháp này ngày nay hầu như không được ứng dụng do tính chất thủ công và thời gian làm việc ngoài thực địa bị kéo dài nhiều ngày. Phương pháp toàn đạc: Phương pháp này sử dụng máy toàn đạc để đo góc và cạnh. Khi đo ở ngoài trời, toàn bộ các kết quả đo (bao gồm các giá trị góc và chiều dài cạnh cùng các thông tin thuộc tính) đều được ghi vào sổ đo, đồng thời trong sổ cũng vẽ sơ hoạ để ghi nhớ các điểm cần nối với nhau. Sau đó, ở điều kiện làm việc trong phòng người đo đạc sẽ đối chiếu các giá trị đo góc –.

<span class='text_page_counter'>(125)</span> cạnh và dùng các dụng cụ vẽ (quan trọng nhất là thước đo góc và cạnh) để vẽ các đối tượng đo được lên bản vẽ. Trong công nghệ cũ, phần ghi sổ và chuyển vẽ các đối tượng cũng mang tính thủ công. Phương pháp này chỉ hơn phương pháp bàn đạc ở chỗ rút ngắn thời gian làm việc ngoài trời. Ngày nay, do ứng kỹ thuật điện tử, phương pháp toàn đạc đã được cải tiến, tự động hoá ở mức cao, và được gọi là phương pháp toàn đạc điện tử. Các máy toàn đạc điện tử hiện nay có khả năng bắt điểm chính xác, tự động ghi các kết quả đo, các mã đối tượng, mã đo, các giá trị thuộc tính, … vào các thiết bị nhớ có sẵn trong máy hoặc nối với máy. Sau khi kết thúc đo đạc ngoài trời, những kết quả đo sẽ được truyền vào máy tính điện tử để tiến hành các bước tiếp theo (xử lí kết quả đo, dựng hình, vẽ bản đồ, …) với khả năng tự động hoá cao nhờ các phần mềm chuyên dụng. Việc thành lập bản đồ bằng phương pháp toàn đạc sẽ bao gồm những bước chung sau đây: 1. Khảo sát, thiết kế, xây dựng luận chứng kinh tế – kỹ thuật 2. Lập lưới khống chế trắc địa (lưới khống chế đo vẽ) làm cơ sở toạ độ để đo vẽ chi tiết, đảm bảo cho việc xác định vị trí của bản đồ trong hệ toạ độ nhà nước, bao gồm các công việc: Gắn mốc ngoài thực địa trên các điểm đã thiết kế, đo nối toạ độ của điểm với điểm cấp cao đã có tọa độ trong hệ toạ độ nhà nước, tính toán bình sai kết quả đo, chuyển toạ độ của các điểm lưới lên bản vẽ. 3. Đo đạc chi tiết ngoài thực địa: Đặt máy đo đạc lần lượt tại vị trí các điểm của lưới khống chế đo vẽ để tiến hành đo vẽ chi tiết các đối tượng xung quanh điểm đặt máy. Các kết quả đo cùng các dữ liệu có liên quan được tự động ghi vào bộ nhớ của máy. 4. Nhập số liệu vào máy tính (chế độ nhập tự động), tiền xử lí kết quả đo, xác định toạ độ của các điểm đo chi tiết, phân lớp đối tượng, dựng hình (nối các đối tượng dạng đường và ranh giới các đối tượng dạng vùng). Kiểm tra chất lượng đo, đi đo bù hoặc đo bổ sung nếu đo sai hoặc thiếu 5. Biên tập bản đồ (bản gốc đo vẽ thực địa): biên tập nội dung, biên vẽ ký hiệu, ghi chú và thực hiện các trình bày cần thiết theo quy định. 6. Kiểm tra, sửa chữa bản vẽ, hoàn thiện hồ sơ, nghiệm thu sản phẩm đo đạc thực địa và bản gốc đo vẽ. Các phương pháp đo đạc biển đồng thời cũng được áp dụng trong đo đạc các vùng nước nói chung như đại dương, sông, hồ. Để thành lập bản đồ địa hình đáy biển, bản đồ hàng hải hoặc một số bản đồ chuyên đề thuỷ văn. Vấn đề quan trọng nhất là xác định độ sâu của địa hình dưới nước, tiếp đến là xác định các tính chất và định lượng của các đối tượng lập bản đồ (các địa vật và công trình ngầm dưới nước, các quần thể động, thực vật, …). Thành lập bản đồ vùng nước, nhất là các khu vực đại dương xa bờ và ở độ sâu lớn là vấn đề rất khó khăn. Thông thường, để thành lập một bản đồ biển phải bao gồm 4 nội dung như sau: xác định toạ độ mặt phẳng, xác định độ sâu, xác định chất.

<span class='text_page_counter'>(126)</span> đáy, xử lí số liệu và biên tập bản đồ Việc xác định toạ độ mặt phẳng của bản đồ, cụ thể là của các điểm đo trên biển không thể thực hiện bằng cách lập lưới khống chế đo vẽ chi tiết như trong đo đạc mặt đất. Các thiết bị đo đạc biển được gắn trên tầu, máy bay hoặc các thiết bị kéo theo tầu. Do đó tính chất cơ bản của công tác định vị là xác định toạ độ của các vật thể chuyển động ở thời điểm đo. Các phương pháp kỹ thuật định vị cơ bản được áp dụng cho đến nay là: 1. Phương pháp giao hội góc bằng các máy kinh vĩ quang học 2. Phương pháp giao hội cạnh xác định toạ độ cực bằng các máy đo xa điện tử hoặc các máy kinh vĩ điện tử 3. Phương pháp giao hội sử dụng hệ định vị rađiô sóng cực ngắn 4. Phương pháp trắc địa vệ tinh DGPS. Định vị bằng trắc địa vệ tinh DGPS (Differential Global Positioning system – Hệ định vị vệ tinh toàn cầu cải chính phân sai) là phương pháp tiên tiến đang được áp dụng hiện nay, đặc biệt trong đo đạc biển. Phương pháp này dựa trên nguyên lí sử dụng kỹ thuật cải chính phân sai trong công nghệ định vị GPS. Với công nghệ DGPS, các trạm phát tín hiệu cải chính DGPS được xây dựng cố định trên các vị trí có toạ độ đã biết, thu tín hiệu vệ tinh, tính số cải chính phân sai và truyền tín hiệu cải chính phân sai cho bất kỳ máy di động nào nằm trong phạm vi phủ sóng Ưu điểm của phương pháp này là có độ chính xác khá cao (từ 1 – 5 m, kỹ thuật hiện nay cho phép đạt tới dm), tầm hoạt động không hạn chế (500 km) Khi cần thiết đo ở ngoài tầm 500 km vẫn có thể sử dụng giá trị định vị đo động GPS không cải chính phân sai với độ chính xác kém hơn (khoảng 50 m) để thành lập các loại bản đồ tỷ lệ nhỏ (1:500.000, 1:1.000.000). Ngoài những dụng cụ đo sâu cổ điển như sào, thước dây, quả dọi (để đo vùng biển nông ven bờ), thì để xác định độ sâu có nhiều cách thức và phương tiện khác nhau như: 1. Phương pháp sử dụng hệ thống laze gắn trên máy bay và các phương pháp viễn thám dùng ảnh vệ tinh 2. Phương pháp sử dụng các máy điện tử 3. Phương pháp đo sâu bằng sóng âm thanh Chất đáy địa hình đáy biển hiện nay được xác định theo 4 phương pháp: 1. Phương pháp lấy mẫu trực tiếp 2. Phương pháp phân tích tín hiệu phản hồi của các máy đo sâu 3. Phương pháp phân tích băng đo sâu 4. Phương pháp sử dụng các thiết bị siêu âm kéo theo tầu.

<span class='text_page_counter'>(127)</span> Xử lí số liệu và biên tập bản đồ hiện nay được tự động hoá đến mức tối đa nhờ các phần mềm đo đạc biển hiện đại. Các phần mềm này ngày càng được hoàn thiện với các chức năng tiện ích, thực hiện công tác đo đạc từ khâu thiết kế, đạo hàng (tính toán toạ độ và định hướng cho tầu đi trên biển), thu nhận số liệu đo đạc và các số liệu quan trắc ngoại vi khác, tính toán và xử lí số liệu đo, kiểm tra các thông tin thu nhận được, biên tập và vẽ bản đồ. Các tầu biển được trang bị các máy tính và phần mềm đo biển đủ mạnh để có thể tiến hành toàn bộ các công tác như trên ngay trên tầu đo biển. Có nhiều loại bản đồ chuyên đề cũng được thành lập bằng phương pháp thu thập thông tin và đo đạc trực tiếp trên thực địa, như bản đồ địa chất, địa mạo, thực vật, thổ nhưỡng, rừng, … Chúng phần lớn có tỷ lệ lớn hoặc trung bình. Nguyên tắc chung trong đo đạc chuyên đề là đi dã ngoại đến các các khu vực hoặc vị trí đã được định trước, tiến hành đo đạc và thu thập thông tin chuyên đề, đồng thời xác định vị trí của các điểm đó trong hệ toạ độ địa lí hoặc hệ tọa độ mặt phẳng (có thể là hệ toạ độ tự do hoặc hệ toạ độ nhà nước). Tuỳ theo đặc điểm của từng chuyên đề, người ta có thể đo và ghi chép thông tin theo điểm (ví dụ, vị trí các điểm đào phẫu diện đất), theo tuyến (ví dụ, các hào thăm dò địa chất, các đường địa mạo đặc trưng), hoặc theo vùng (ví dụ, ranh giới thực vật, rừng, đất, hệ sinh thái, …). Do những thể loại bản đồ này không đòi hỏi độ chính xác cao như bản đồ địa hình nên có thể đo đạc chiều dài hoặc khoảng cách của các đối tượng bằng các dụng cụ đo đơn giản (sào, thước dây), hoặc khi cần thiết có thể sử dụng máy đo đạc. Nếu bản đồ cần thành lập trong hệ toạ độ nhà nước thì cần phải áp dụng các phương pháp đo đạc và định vị chính xác, như: phương pháp toàn đạc (như đã nêu ở trên), phương pháp sử dụng công nghệ DGPS và các thiết bị GPS cầm tay. Các thiết bị GPS cầm tay có nhiều chủng loại, được bán trên thị trường rất rộng rãi, không đắt tiền, sai số vị trí đạt tới 1 - 3 m và được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, trong đó có mục đích đo vẽ thành lập bản đồ chuyên đề. Một số thiết bị chuyên dụng cho công tác bản đồ còn có kèm theo bàn phím và phần mềm để trong quá trình làm việc, người ta đồng thời vừa định vị, vừa nhập các mã lệnh (đo và nối tuyến), mã đối tượng, các thông tin hình học, thông tin thuộc tính và những dữ liệu cần thiết khác. Sau khi kết thúc quá trình thực địa, những thông tin này sẽ được nhập vào máy tính để biên tập thành bản đồ. 7.5.2 PHƯƠNG PHÁP ẢNH HÀNG KHÔNG Phương pháp ảnh hàng không cũng nhằm mục đích thu thập thông tin nguyên thuỷ, nhưng thông qua sản phẩm trung gian là ảnh hàng không (ảnh chụp từ máy bay). Phương pháp này ưu việt hơn phương pháp đo vẽ trực tiếp từ thực địa do khắc phục được những khó khăn của sản xuất trong điều kiện dã ngoại, cùng một lúc đo vẽ được một vùng rộng lớn, và rút ngắn thời hạn sản xuất. Độ chính.

<span class='text_page_counter'>(128)</span> xác đo vẽ bản đồ phụ thuộc vào tỷ lệ ảnh chụp. Ảnh hàng không chủ yếu được dùng để thành lập bản đồ địa hình (tỷ lệ từ 1:2.000 đến 1:50.000), ngoài ra còn dùng để thành lập một số bản đồ mang tính chất chuyên ngành tỷ lệ lớn, như bản đồ địa chính, bản đồ lâm nghiệp. Những thể loại bản đồ này do nhu cầu quản lí mang tính chuyên ngành mà được thành lập trên phạm vi cả nước và thường kỳ phải làm mới lại, do đó các cơ quan chủ quản tổ chức sản xuất bản đồ một cách quy mô, và công việc bay chụp ảnh thường kỳ được đặt ra. Thành lập các bản đồ chuyên đề bằng ảnh hàng không đương nhiên là rất tốt, nhưng với điều kiện là ảnh đã có sẵn, nếu phải bay chụp thì không hiệu quả về kinh tế. 1. Khảo sát, thiết kế, xây dựng luận chứng kinh tế kỹ thuật 2. Chụp ảnh hàng không: ảnh được chụp từ máy chụp ảnh chuyên dụng đặt ở bụng máy bay. Công nghệ chụp ảnh hàng không ở nước ta bắt đầu được ứng dụng từ đầu thập niên 60, và hiện nay cũng đã đạt được trình độ tiên tiến trên thế giới, như: chụp bằng máy chụp ảnh RMK - TOP 15, 30, máy bay có thiết bị định vị vệ tinh GPS dẫn đường và tự động xác định toạ độ tâm ảnh. 3. Lập lưới khống chế ảnh ngoại nghiệp. Các tờ ảnh sau khi bay chụp cần được xác định chính xác vị trí của nó trong hệ toạ độ mặt phẳng (x, y) và trong hệ độ cao nhà nước, nhờ lưới khống chế ảnh. Các điểm của lưới khống chế ảnh là những điểm thiết kế, được đánh dấu mốc trên mặt đất, và được nhận biết rõ trên ảnh. Toạ độ của những điểm này hoặc là đã có (nếu là những điểm trong lưới toạ độ nhà nước), hoặc được xác định nhờ đo nối với điểm đã có toạ độ (gọi là đo nối khống chế ảnh ngoại nghiệp) 4. Tăng dày để phục vụ cho quá trình đo vẽ trên ảnh và nắn ảnh thì các điểm khống chế ảnh được xác định ngoài thực địa như trên là không đủ. Tiếp theo, cần tiến hành tăng dày các điểm khống chế ảnh, tính toán toạ độ mặt phẳng và độ cao của những điểm này ở trong phòng nhờ các thiết bị đo vẽ ảnh. Tăng dày là kỹ thuật nhằm sử dụng một lượng tối thiểu điểm khống chế ảnh đo thực địa để xác định một số lượng cần thiết các điểm khống chế ảnh đo nội nghiệp, đồng thời xác định được vị trí và định hướng tờ ảnh. + Định hướng trong được tiến hành cho từng tờ ảnh nhằm xác định tọa độ 4 góc khung của 1 tờ ảnh trong hệ tọa độ ảnh + Định hướng ngoài bao gồm định hướng tương đối và định hướng tuyệt đối, nhằm tính ra tất cả các yếu tố định hướng ngoài của tất cả các tấm ảnh và tọa độ, độ cao mặt đất của tất cả các điểm ảnh đã đo, đưa mô hình về đúng hệ toạ độ nhà nước.

<span class='text_page_counter'>(129)</span> 5. Điều vẽ ảnh: Trong phương pháp thành lập bảnđồ bằng ảnh hàng không, các đối tượng địa hình mặt đất được nhận biết và đo vẽ lên bản đồ chủ yếu dựa trên cơ sở giải đoán và đo vẽ hình ảnh có trên ảnh. Quá trình xét đoán hình ảnh trên ảnh để nhận dạng đối tượng được gọi là điều vẽ ảnh. Điều vẽ ảnh thường được tiến hành trong phòng trước, sau đó tiến hành điều vẽ ngoài trời để xác định tính đúng đắn của quá trình giải đoán trong phòng. 6. Đo vẽ ảnh: Việc đo vẽ để thành lập bản đồ từ ảnh hàng không hiện nay thường được tiến hành theo một trong các phương pháp (hoặc phối hợp các phương pháp) sau đây: a. Phương pháp lập thể: ảnh chụp có độ phủ (độ phủ dọc khoảng 60%, độ phủ ngang khoảng 30%) cho nên hai tờ ảnh cùng hàng liền kề nhau sẽ tạo thành một mô hình lập thể (cho phép xác định được không gian 3 chiều của hình ảnh), được đưa lên máy đo vẽ lập thể để đo vẽ xác định vị trí, độ cao và hình ảnh của địa vật và hình thái địa hình lên mặt phẳng, bằng các máy đo vẽ toàn năng chính xác hoặc các máy đo vẽ ảnh giải tích. Phương pháp này được sử dụng cho mọi khu vực, mọi điều kiện địa hình, địa vật. b. Phương pháp tổng hợp bình đồ ảnh: Phần địa vật được vẽ trên cơ sở bình đồ ảnh, phần dáng đất (độ cao) có thể đo vẽ trực tiếp trên thực địa trên bình đồ địa vật. Bình đồ ảnh có thể là bình đồ cắt dán gọn theo mảnh bản đồ, hoặc là ảnh đơn. Phương pháp này thường chỉ sử dụng ở các khu vực bằng phẳng. c. Phương pháp đo vẽ ảnh số: Đây là phương pháp công nghệ tiên tiến nhất hiện nay. Địa vật và địa hình đều được đo vẽ lập thể trên cơ sở ảnh đã chuyển sang dạng số, trên trạm đo vẽ ảnh số (ImageStation). Trong thực tế, người ta thực hiện phương án hiệu quả hơn là đo vẽ lập thể địa hình trên trạm đo vẽ ảnh số, sau đó lập bình đồ ảnh trực giao và chuyển tệp tin (file) này sang nhiều máy tính PC để nhiều người có thể cùng một lúc vẽ các yếu tố địa vật. Phương pháp này được sử dụng cho mọi khu vực, mọi điều kiện địa hình, địa vật. d. Phương pháp lập bình đồ ảnh trực giao (bản đồ ảnh - pictomap): Người ta nắn ảnh trực giao, tạo khung cho một mảnh bản đồ hoàn chỉnh. Trên đó vẽ dáng đất và những yếu tố địa vật cần quan tâm. Như vậy, nội dung của bản đồ ngoài những ký hiệu thể hiện các đối tượng được đo vẽ, còn có nền ảnh, góp phần cung cấp thêm các thông tin chi tiết của khu vực. Phương pháp này rất thích hợp cho công tác thành lập các bản đồ chuyên đề tự nhiên cảnh quan, môi trường, thực vật, sử dụng đất, … 7.5.3 PHƯƠNG PHÁP VIỄN THÁM.

<span class='text_page_counter'>(130)</span> Phần này đề cập đến vấn đề thành lập bản đồ trên cơ sở các thông tin viễn thám. Trong phương pháp viễn thám, tính chất quang học về phản xạ và hấp thụ của vật trong các phổ sóng điện từ là yếu tố đầu tiên được chú trọng phân tích nhằm nhận dạng đối tượng để thành lập bản đồ. Các ảnh viễn thám được chia làm hai loại chính là ảnh chụp (camera) và ảnh quét (scan). Dạng ảnh chụp điển hình từ vũ trụ là ảnh COSMOS của Nga, dạng ảnh quét khá phổ biến trên thế giới là ảnh LANDSAT của Trung tâm NASA (Hoa Kỳ). Thông tin viễn thám có đặc điểm là được thu nhận tức thời, thường kỳ, phủ trên diện rộng, cung cấp nhiều tham số nhận dạng đối tượng khác nhau, và có độ chính xác và tính khái quát hoá phù hợp với các độ phân giải khác nhau. Do đó nó được ứng dụng rất có hiệu quả trong thành lập các loại bản đồ chuyên đề không hạn chế, và trong hiện chỉnh bản đồ địa hình. Việc thành lập bản đồ bằng thông tin viễn thám bao gồm những nội dung chính sau đây: - Công tác chuẩn bị - Suy giải ảnh vệ tinh - Các dấu hiệu điều vẽ ảnh (khoá ảnh) - Lập khoá mẫu suy giải - Bản đồ vệ tinh - Biên tập bản đồ Tư liệu viễn thám được lựa chọn để thành lập bản đồ có thể đang ở nhiều dạng khác nhau như ảnh số, ảnh tương tự đen – trắng hoặc mầu, chụp trên các kênh phổ hoặc độ phân giải khác nhau, do đó phải thực hiện một số công việc cần thiết: 1. Lựa chọn ảnh và gia công theo các tham số kỹ thuật phù hợp với yêu cầu khai thác thông tin trên ảnh theo đặc điểm, yêu cầu của từng chuyên đề, từng bản đồ, như loại ảnh, độ phân giải, tỷ lệ,… 2. Nắn chỉnh hình học và xác định toạ độ của ảnh trong hệ toạ độ của bản đồ. Nguyên tắc chung nắn chỉnh ảnh là đưa một số điểm chuẩn trên ảnh về vị trí tương đương đã được xác định toạ độ trong hệ toạ độ của bản đồ, bằng phương pháp nắn chỉnh quang cơ hoặc phương pháp số trên máy tính. Phụ thuộc vào đặc điểm, yêu cầu và độ chính xác thành lập bản đồ mà có thể dùng các điểm chuẩn để nắn chỉnh là những điểm được đo đạc chính xác ngoài thực địa, điểm giải tích, hoặc những điểm kém chính xác hơn, như các điểm ảnh có mốc rõ ràng, dễ nhận biết trên ảnh (địa vật độc lập, ngã ba hoặc ngã tư sông, đường, …). 3. Xử lí phổ và tăng cường chất lượng ảnh. Ảnh vệ tinh thu được dạng gốc ban đầu chưa được hiệu chỉnh phổ, có độ tương phản rất thấp, ảnh tối và mờ, giá trị các pixel chỉ ở trong khoảng từ 50 đến 140. Khoảng giá trị từ 0 đến 40 và từ 141 đến 225 không được sử dụng. Vì vậy cần thiết phải xử lí hình ảnh của ảnh thô để có được một hình ảnh rõ nét, có độ tương phản tốt, tận dụng được mọi giá trị trong khoảng cho phép. Động tác này gọi là xử lí phổ. Hiện nay các ảnh vệ tinh chủ yếu được.

<span class='text_page_counter'>(131)</span> xử lí bằng phương pháp số, có thể chia làm hai loại chính - Tăng cường chất lượng ảnh theo phương án chuẩn: lọc nét hình ảnh, tăng cường độ tương phản, hiệu chỉnh màu sắc. - Tăng cường chất lượng ảnh theo mục đích chuyên dụng: Tổng hợp màu giả, trộn ảnh toàn sắc phân giải cao với ảnh đa phổ, tổng hợp ảnh tựa màu tự nhiên, phân loại ảnh, các thể loại xử lí khác. Sau khi xử lí, ảnh được in ra ở dạng ảnh đơn hoặc cắt, ghép ảnh thành bình đồ ảnh dùng cho suy giải bằng mắt và xử lí số. Một tấm ảnh vệ tinh chứa đựng nhiều thông tin quý giá, có thể sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Tuỳ thuộc vào từng mục đích mà người suy giải sử dụng các phương pháp khác nhau để lấy ra những thông tin mà mình quan tâm. Mỗi chuyên ngành có phương pháp riêng của mình, nhưng về cơ bản quá trình suy giải đều dựa trên các dấu hiệu điều vẽ và sự thành lập các mẫu khoá ảnh. 1. Dấu hiệu điều vẽ trực tiếp gồm có: hình dạng, kích thước, sắc ảnh, màu. 2. Dấu hiệu điều vẽ gián tiếp có thể chia ra: sự kề cận của các đối tượng dễ nhận biết với các đối tượng cần suy giải, đối tượng bị che khuất bởi các đối tượng khác, các đối tượng hiện lên ảnh không đúng lúc vào thời điểm chụp ảnh. 3. Dấu hiệu điều vẽ tổng hợp, là tổng hợp những dấu hiệu điều vẽ theo những trật tự nhất định và phản ánh một cách khách quan tính chất của đối tượng. Biểu hiện của dấu hiệu điều vẽ tổng hợp là kiến trúc (cấu trúc) hình ảnh, được phân biết về hình học, về quang học, và về nội sinh. Khoá suy giải ảnh là hình ảnh đặc trưng tiêu biểu cho một đối tượng nào đó mang tính xác xuất nhận dạng cao nhất cho tập hợp hình ảnh đối tượng đó, trong vùng đã cho trên tấm ảnh, vào thời điểm chụp ảnh. Bằng cách đối chiếu hình ảnh đối tượng với khoá suy giải ảnh, có thể suy giải đa số các đối tượng cùng loại. Lập mẫu suy giải là chọn các khu vực hình ảnh đặc trưng cho các đối tượng, mô tả các đối tượng ngoài thực địa của các đối tượng trên khu vực nói trên. Điều vẽ ảnh vệ tinh chủ yếu tiến hành ở nội nghiệp. Những đối tượng nhận dạng không chắc chắn hoặc không xác định được ở trong phòng sẽ được tiến hành điều vẽ ở ngoài trời. Trước khi điều vẽ cần tiến hành khảo sát để xác định khoá suy giải ảnh. Bản đồ ảnh vệ tinh là một sản phẩm bản đồ, có nền là ảnh vệ tinh, trên đó vẽ lưới toạ độ, địa danh, ký hiệu của các đối tượng địa hình, địa vật, hoặc chuyên đề đã được suy giải, tuỳ theo mục đích và yêu cầu sử dụng. Các bản đồ ảnh vệ tinh cung cấp cho người sử dụng lượng thông tin phong phú và khả năng phân tích không gian thuận lợi hơn. Các bản đồ thành lập từ thông tin ảnh vệ tinh phần lớn là bản đồ chuyên đề. Nguyên tắc chung thành lập một bản đồ chuyên đề là xác định đối tượng chuyên đề và định vị chúng trên một nền cơ sở địa lí. Do đó việc thành lập bản đồ gồm hai mảng: một là biên vẽ bản nền cơ sở địa lí, hai là xác định và biên vẽ các đối tượng chuyên đề trên nền cơ sở địa lí..

<span class='text_page_counter'>(132)</span> 1. Biên vẽ bản nền cơ sở địa lí Trên bản đồ chuyên đề, các yếu tố nền cơ sở địa lí có ý nghĩa như một mạng lưới giúp ta định vị, sắp đặt, và nhận biết các đối tượng và hiện tượng chuyên đề trong không gian. Bản nền cơ sở địa lí thông thường gồm có những yếu tố cơ bản sau đây: lưới toạ độ bản đồ, thuỷ hệ, đường sá, điểm dân cư, ranh giới hành chính, ghi chú địa danh. Tuy nhiên, tuỳ theo đặc điểm của từng loại chuyên đề, tỷ lệ bản đồ, mật độ nội dung chuyên đề, mà những yếu tố như trên có thể được thể hiện tăng hoặc giảm. Ví dụ, trên các bản đồ chuyên đề về kinh tế – xã hội thì các yếu tố điểm dân cư và đường sá được thể hiện chi tiết hơn, còn trên bản đồ chuyên đề về tự nhiên thì các yếu tố thuỷ hệ được thể hiện chi tiết hơn, và trong nhiều trường hợp còn vẽ cả đường bình độ hoặc thực vật. Các yếu tố của lưới cơ sở địa lí thường được vẽ bằng các ký hiệu không lớn (nhỏ, mảnh) và màu sắc không nổi trội (thường dùng một hoặc hai màu) sao cho không lấn át các ký hiệu nội dung chuyên đề của bản đồ 2. Biên vẽ nội dung chuyên đề của bản đồ Bản nền cơ sở địa lí sau khi biên vẽ sẽ được sao chụp ra thành nhiều bản để thực hiện các công việc biên tập nội dung chuyên đề (thông thường là để biên vẽ bản tác giả, hoặc các bản vẽ trung gian) và biên vẽ bản gốc biên vẽ. Cũng có nhiều trường hợp người ta lấy bình đồ ảnh để biên tập nội dung chuyên đề, hoặc lấy bản đồ ảnh làm nền cơ sở địa lí. Trong quá trình biên vẽ, người ta chuyển vẽ các nội dung chuyên đề đã được điều vẽ trên ảnh sang bản nền cơ sở địa lí, bằng cách đối chiếu các hình ảnh trên ảnh vệ tinh với nền cơ sở địa lí. Trong phương pháp ảnh vệ tinh người ta hay dùng phương pháp chiếu hình, sử dụng các máy chiếu xuyên qua phim âm, hoặc các máy phản chiếu qua phim dương. Phương pháp tiên tiến hiện nay đang được ứng dụng khá phổ biến là số hoá nền cơ sở địa lí và các ảnh vệ tinh đã điều vẽ hoặc các bản vẽ chuyên đề, và chồng xếp chúng lên nhau, thực hiện phép tương tác người – máy để biên vẽ bản đồ trên máy tính. 7.5.4 PHƯƠNG PHÁP BIÊN VẼ TỪ TÀI LIỆU BẢN ĐỒ i.. Trong thực tế, rất nhiều bản đồ được thành lập từ các bản đồ đã thành lập, do các bản đồ đó có đầy đủ thông tin và đảm bảo các yêu cầu về thông tin (độ chính xác, tính chất thời gian, độ tin cây, …) cho bản đồ cần thành lập. Hầu hết các bản đồ tỷ lệ trung bình và tỷ lệ nhỏ, các đồ giáo khoa, bản đồ chuyên đề các loại trong atlat được thành lập bằng phương pháp này.. ii.. Để thành lập bản đồ, thông thường người ta lấy những bản đồ có tỷ lệ lớn hơn, chụp thu để biên vẽ thành bản đồ tỷ lệ nhỏ hơn cùng thể loại, như ta thường gặp khi thành lập các bản đồ địa lí chung. Bản đồ tài liệu được dùng làm gốc để biên vẽ phải có tỷ lệ lớn hơn nhưng không quá lớn so với tỷ lệ của bản đồ cần thành lập (thông thường yêu cầu không lớn quá 3.

<span class='text_page_counter'>(133)</span> lần). Cũng có trường hợp bản đồ tài liệu gốc là bản đồ cùng tỷ lệ hoặc tỷ lệ lớn hơn một chút (không lớn gấp hai lần) so với tỷ lệ của bản đồ thành lập. Phương án này được áp dụng khi các bản đồ cần thành lập có nội dung đơn giản, như trong trường hợp thành lập các bản đồ giáo khoa, du lịch, quảng cáo. Bản đồ tài liệu gốc phải là những bản đồ mang tính tra cứu. iii.. Trong cả hai trường hợp đều đòi hỏi tiến hành tổng quát hoá hết sức chuẩn xác và khéo léo. Người biên vẽ bản đồ phải nắm vững các chỉ tiêu và kỹ năng tổng quát hoá. Đối với những trường hợp biên vẽ các bản đồ địa hình nội dung dày đặc và bản đồ tài liệu phải chụp thu nhiều thì trong quá trình thiết kế phải lập các bản vẽ mẫu tổng quát hoá, hoặc cần bố trí những người biên vẽ có trình độ cao.. iv.. Một yêu cầu nữa cũng cần chú ý là việc lựa chọn các bản đồ dùng làm tài liệu gốc để biên vẽ. Những tài liệu đó ngoài yêu cầu về nội dung phải đảm bảo tính đầy đủ thông tin, độ chính xác và tính thời gian đáp ứng yêu cầu, còn phải đảm bảo chất lượng đồ hoạ cao đảm bảo khả năng chụp thu, nắn chỉnh hình học về đúng kích thước, và dễ dàng khai thác thông tin.. v.. Công nghệ thành lập bản đồ. Thành lập bản đồ bằng phương pháp biên vẽ hiện nay được thực hiện bằng hai dạng công nghệ: công nghệ truyền thống, và công nghệ số.. Thành lập bản đồ bằng phương pháp biên vẽ hiện nay được thực hiện bằng hai dạng công nghệ: công nghệ truyền thống, và công nghệ số. i.. Công nghệ truyền thống. - Chụp ảnh tài liệu gốc ở tỷ lệ của bản đồ cần thành lập, được phim âm, từ đó chế bản lam trên giấy vẽ chất lượng cao. - Chuẩn bị đế vẽ, chuyển các điểm khống chế trắc địa, điểm góc khung, điểm lưới toạ độ, dựa vào các điểm này để nắn chỉnh và ghép dán lam vẽ thành một nền vẽ hoàn chỉnh của bản biên vẽ. - Lần lượt biên vẽ, đồng thời tổng quát hoá các đối tượng nội dung của bản đồ và ghi chú. - Kiểm tra và sửa chữa lỗi, hoàn thành bản gốc biên vẽ. - Thanh vẽ, chế bản và in bản đồ. ii.. Công nghệ số. Trong công nghệ số cũng phân biệt hai phương án: một là phương án kết hợp giữa công nghệ truyền thống và công nghệ số, hai là phương án thuần tuý công nghệ số. Hai phương án này chỉ khác nhau ở chỗ: Trong phương án thứ nhất thì việc biên vẽ được người biên vẽ thực hiện thủ công bên ngoài máy tính. Phương án này được áp dụng khi việc biên vẽ có nhiều khó khăn phức tạp, và người biên.

<span class='text_page_counter'>(134)</span> vẽ chưa có kinh nghiệm biên vẽ trên máy. Trong phương án thứ hai thì việc biên vẽ được thực hiện trên màn hình máy tính theo tương tác người - máy. 1. Công tác chuẩn bị bao gồm các công việc: cài đặt, bảo trì phần mềm hệ thống và mạng cho máy tính, thiết lập các thư mục, các tệp tin, lập thủ tục làm việc (Project) của máy tính, các tệp tin chuẩn trong thành lập bản đồ; phân loại, phân lớp, mã hoá các đối tượng bản đồ và chuẩn bị các bảng dữ liệu. 2. Quét các tài liệu bản đồ. Trước khi quét, những bản đồ giấy có các nét in bằng màu không bắt ánh sáng thì cần phải được tô lại bằng màu khác, sau đó đưa lên máy quét (scanner). Tuỳ theo chất lượng tài liệu và yêu cầu mà có thể quét ở độ phân giải khác nhau. Kết quả ta được sản phẩm dạng raster của bản đồ quét, gọi là ảnh quét. Nếu các bản đồ tài liệu là bản đồ số thì không cần quét. 3. Nắn, ghép bản đồ. Tiếp theo, các ảnh quét cần được nắn và định vị về đúng vị trí và ghép với nhau theo phạm vi của tờ bản đồ cần thành lập (tạm gọi là bản nền tài liệu). Các điểm được dùng trong nắn ảnh quét, có thể là: các điểm góc khung, điểm trắc địa, điểm của lưới toạ độ. Nếu các bản đồ tài liệu có lưới chiếu khác với bản đồ thành lập thì phải dùng các điểm lưới toạ độ của bản đồ thành lập để nắn chỉnh 4. Biên vẽ theo phương án thứ nhất (vẽ thủ công): Từ các file ảnh nắn tạo ra bản nền màu lam trên giấy vẽ hoặc trên bản nhựa trong (diamat) để biên vẽ nội dung của bản đồ theo truyền thống, kiểm tra và sửa chữa bản biên vẽ. Sau đó quét bản gốc biên vẽ và nắn ảnh quét, thu được bản gốc biên vẽ ở dạng raster, cho nên nó cần được véc tơ hoá. 5. Biên vẽ theo phương án thứ hai (vẽ trên máy): Việc biên vẽ được tiến hành trên máy, dựa vào bản nền tài liệu (đã nắn chỉnh) dạng ảnh raster. Véc tơ hoá các đối tượng vẽ bản đồ trên ảnh rasrer, đồng thời lựa chọn đối tượng và khái quát hoá đường nét. Biên vẽ các đối tượng nội dung của bản đồ: gán ký hiệu, sắp đặt mối quan hệ vị trí giữa các đối tượng, gán màu sắc, ghi chú địa danh và ghi chú thuyết minh, … 6. Kiểm tra, chỉnh sửa trên máy, in phun trên giấy, kiểm tra và hoàn thiện bản gốc biên vẽ, lưu bản gốc biên vẽ trên đĩa CD. 7. Biên tập phim chế bản, tạo bản gốc số ghi trên đĩa CD và in ra phim. 8. Từ phim chế bản, chế khuôn in. 9. In bản đồ trên máy in offset. 7.5.5 PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ Phương pháp thống kê được áp dụng riêng cho thể loại bản đồ chuyên đề có nguồn thông tin chủ yếu là các số liệu thống kê. Phương pháp này có một phần giống và một phần khác với phương.

<span class='text_page_counter'>(135)</span> pháp biên vẽ từ bản đồ. Phần giống nhau là sự biên vẽ nền cơ sở địa lí cho một bản đồ chuyên đề, khác nhau ở dữ liệu chuyên đề được biên tập theo một số phương pháp ký hiệu phù hợp. Các phương pháp thường được áp dụng là: phương pháp đồ giải, phương pháp biểu đồ, phương pháp biểu đồ định vị, phương pháp chấm điểm. Các số liệu thống kê sau khi được chuyển đổi bằng các phép mô hình hoá toán học cũng có thể biểu diễn trên bản đồ bằng phương pháp đường đẳng trị (gọi là giả đẳng trị), hoặc nền định tính, nền định lượng, …. Khi thành lập bản đồ chuyên đề nói chung, bản đồ bằng phương pháp thống kê nói riêng, người ta thường hay áp dụng các bài toán phân tích dữ liệu để xử lí các số liệu thống kê và để mô hình hóa số liệu thống kê thành dạng bản đồ. Kết quả thường dẫn đến thành lập các bản đồ kiểu phân tích, tổng hợp, dự báo biến động theo không gian, hoặc thời gian, như: 1. Phân tích thống kê: để kiểm định, xử lí, chuẩn hóa các số liệu thống kê. 2. Phân tích tương quan: xác định mối tương quan giữa hai hoặc một số đối tượng, hiện tượng trong không gian. 3. Phân tích hồi quy: xác lập bề mặt thống kê liên tục (chiều cao thống kê) từ các số liệu thống kê rời rạc. 4. Phân tích cụm: phân bậc, phân khoảng các đơn vị lãnh thổ từ nhiều chỉ tiêu thống kê. 5. Phân tích nhân tố, thnàh phần chính: xác định các nhân tố và thành phần chính từ nhiều chỉ tiêu thống kê. Hiện nay, các bài toán phân tích và mô hình hóa lãnh thổ để thành lập bản đồ có thể dễ dàng thực hiện được nhờ các phần mềm GIS và một số phần mềm chuyên dụng (ví dụ, SPSS). CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG VII Câu hỏi: 1. Nêu và giải thích sơ đồ khái quát quá trình thành lập bản đồ? 2. Nêu tên các phương pháp thành lập bản đồ và đặc điểm của từng phương pháp? 3. Trình bày và phân tích sơ đồ chung các bước thành lập bản đồ chuyên đề bằng phương pháp biên vẽ từ các nguồn tài liệu? Bài tập: Tập thiết kế bản đồ chuyên đề treo tương dùng cho chương trình giảng dạy địa lí lớp 8 (khổ A0). Nội dung gồm: - Tên bản đồ, khu vực, tỉ lệ. - Tài liệu sử dụng. - Bố cục, cơ sở toán học. - Phân loại nội dung..

<span class='text_page_counter'>(136)</span> - Thiết kế kí hiệu. - Viết bản thiết kế kĩ thuật. CHƯƠNG VIII: SỬ DỤNG BẢN ĐỒ ĐỊA LÍ 8.1 KHÁI NIỆM Các vấn đề về sử dụng bản đồ đã chiếm vị trí đáng kể trong bản đồ học hiện đại. Nếu như trước kia cho rằng nhiệm vụ của bản đồ học chỉ giới hạn trong việc thành lập bản đồ, thì ngày nay đã rõ ràng rằng vấn đề sử dụng bản đồ cũng không kém phần quan trọng và cấp thiết. ở nước ngoài, trong các tiêu chuẩn nhà nước và bách khoa toàn thư, trong sách giáo khoa và từ điển, Bản đồ học được giải thích là một ngành khoa học và sản xuất mà phạm vi quan tâm của nó là thành lập và sử dụng bản đồ. Sử dụng bản đồ đã trở thành một bộ môn riêng của bản đồ học, trong đó nghiên cứu về: các đặc điểm và xu hướng ứng dụng các tác phẩm bản đồ trong các hoạt động thực tiễn như kinh tế, văn hoá, giáo dục, nghiên cứu khoa học, quốc phòng, …; thiết lập các phương pháp sử dụng bản đồ, và các phương pháp đánh giá độ tin cậy và tính hiệu quả của các kết quả thu được. Các hình thức sử dụng bản đồ rất đa dạng. Đã từ lâu, chúng được dùng để định hướng trên thực địa, vạch các tuyến hành trình trên đất liền và trên biển. Hiện nay bản đồ đã trở thành công cụ dẫn đường trên không và trong vũ trụ. Bản đồ được sử dụng rộng rãi trong ghi chép và truyền đạt những tri thức mà các khoa học về Trái Đất và xã hội đã nhận được, dùng làm tài liệu thiết kế các công trình, quy hoạch và kế hoạch hoá lãnh thổ trong các ngành kinh tế quốc dân. Người ta dựa vào bản đồ để lập kế hoạch nghiên cứu khoa học, phân tích, đánh giá, dự báo, và lập các biện pháp cải tạo môi trường, khai thác tài nguyên thiên nhiên. Bản đồ được sử dụng rộng rãi trong công tác giảng dạy và học tập ở các trường học, trong đời sống hàng ngày, trong tuyên truyền. Trong quốc phòng, bản đồ cũng được sử dụng nhiều, nhất là bản đồ địa hình. Trong công tác thành lập bản đồ, tài liệu bản đồ đóng vai trò hết sức quan trong, được dùng làm tài liệu gốc, tài liệu bổ sung hoặc tham khảo, cung cấp thông tin cho bản đồ cần thành lập. Trong phạm vi sử dụng bản đồ, đã thiết lập phương pháp nghiên cứu bằng bản đồ. Đó là phương pháp sử dụng bản đồ để nhận thức các đối tượng và hiện tượng trên bản đồ. Sự nhận thức đó được dựa trên cơ sở thu nhận từ bản đồ các đặc trưng định tính, định lượng của các hiện tượng, các mối quan hệ phụ thuộc và sự biến đổi của chúng theo thời gian và không gian. Về thực chất thì phương pháp nghiên cứu bằng bản đồ là nội dung chủ yếu của môn học “Sử dụng bản đồ”. Lí thuyết sử dụng bản đồ được phát triển dựa trên phương pháp luận chung của nhận thức khoa học. Việc thiết lập các phương pháp sử dụng bản đồ trước hết phải dựa trên cơ sở lí thuyết chung về mô hình hoá và quan điểm hệ thống. Mỗi bản đồ được thành lập đều xuất phát từ những mục đích đã đề ra, do đó ta biết được ý nghĩa của từng bản đồ. Khi ta biết rằng bản đồ là “Mô hình của hiện thực.

<span class='text_page_counter'>(137)</span> địa lí” thì có thể xuất phát từ nguyên tắc chung của mô hình mà xác định ý nghĩa của nó. Theo nghĩa rộng, bản đồ có ý nghĩa là mô hình được dùng làm phương tiện để nhận thức và truyền đạt kiến thức, để chứng minh, điều hành các hành vi, đồng thời cũng là thành phần trong các hệ thống kỹ thuật và hệ thống vận hành. Nhiệm vụ của bản đồ là chứng minh sự tương ứng của nó với hiện thực nào đó. Nhiệm vụ của sử dụng bản đồ là phân tích cái hiện thực đó. Nhiệm vụ của bản đồ còn có thể là thông tin kiến thức. Còn nhiệm vụ của sử dụng bản đồ là thu nhận những kiến thức đó. Tóm lại, bản đồ trong mọi trường hợp được coi là vật ghi thông tin và là mô hình của hiện thực địa lí. Sử dụng bản đồ có 5 nhiệm vụ, đồng thời cũng là 5 phương pháp. Mọi sự sử dụng bản đồ đều bắt đầu bằng đọc bản đồ, và kết thúc bằng sự đánh giá thực tế khách quan, lãnh thổ, hiện tượng, và đi đến kết luận để giải quyết một số vấn đề đặt ra trước khi bước vào sử dụng bản đồ. Tương ứng với các phương pháp sử dụng bản đồ, ta có các phương pháp: đọc bản đồ, suy giải bản đồ, so sánh bản đồ, đo đạc bản đồ, mô hình hoá bản đồ. 8.2 CÁC PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG BẢN ĐỒ Trong nhiều trường hợp, đọc bản đồ, đó là sự quan sát bằng mắt nhằm giải thích các hình ảnh bản đồ trong mối liên quan với các khái niệm về hiện thực. Nó có thể rất dễ dàng và chỉ giới hạn ở các phần tử chính của nội dung bản đồ hoặc của một khu vực, hoặc chỉ giới hạn ở một vài đối tượng. Nó sẽ phức tạp hơn khi đọc chi tiết trên bản đồ nhằm trả lời cho những câu hỏi đã định trước. Cho nên cần quan tâm đến việc xác định phương thức và khối lượng nội dung của bản đồ cần đọc. Kết quả của sự đọc bản đồ là mô tả được kiến thức và khái niệm về hiện thực địa lí để trả lời cho câu hỏi đã đặt ra và tìm ra các biện pháp cần thiết. Đọc bản đồ là một dạng sử dụng bản đồ chủ yếu để thu nhận kiến thức. Nó được thực hiện tuần tự như sau: - Lựa chọn bản đồ phù hợp. - Đọc tên bản đồ, làm rõ tỉ lệ và bảng chú giải của bản đồ. - Tìm khu vực cần quan tâm. - Suy giải các ký hiệu của bản đồ và các hiện tượng trong khu vực đó. - Đánh giá thực tại theo vấn đề đã nêu và theo mục đích đọc bản đồ. Sự đọc không đầy đủ hoặc không chính xác sẽ dẫn đến những nhận thức và kết luận sai. Chất lượng và kết quả đọc bản đồ phụ thuộc vào hiểu biết và trình độ của người sử dụng. Trong một số tài liệu có sử dụng khái niệm “Suy giải bản đồ” (Map Interpretation.) Thuật ngữ này được hiểu là: Sự giải thích khách quan về nội dung của bản đồ. Điều kiện để thu được các thông tin khách quan nằm trong sự “đọc bản đồ”. Hai khái niệm “đọc” và “suy giải” có thể phân biệt như sau: Đọc là sự đánh giá bằng mắt các thông tin trực tiếp (thông tin nhìn thấy được), mà bản đồ có.

<span class='text_page_counter'>(138)</span> thể cho biết về kiểu, vị trí, tính chất, quy mô (đại lượng), và trạng thái của từng đối tượng có hình ảnh trên bản đồ. Suy giải bản đồ chính là sự đánh giá bằng mắt đối với các thông tin gián tiếp về sự phân bố, cấu trúc, sự liên kết, mối quan hệ không gian, … Sự suy giải bản đồ nhằm lí giải những phần tử không gian lớn của hiện thực khách quan. Các hình ảnh riêng rẽ của hình ảnh bản đồ sẽ được đọc kỹ và được kết nối với nhau một cách có cân nhắc. Sự hiểu thấu về những thông tin đó phải ở mức cho phép chuyển từ sự định vị không gian sang sự bao quát tích hợp (tổng thể) không gian đó. Ngoài ra, đầu tiên phải nhận rõ được mối liên kết, đồng thời phải giải thích được nguyên nhân, nguồn gốc phát sinh, chức năng, hoặc cấu trúc của các dạng mới xuất hiện. Sự suy giải bản đồ có ý nghĩa lớn với tư cách là một phương pháp nghiên cứu và khảo sát địa lí. Theo E. Imkhof, khái niệm này được gọi là “Sự quan sát địa lí trên bản đồ”. Trong suy giải bản đồ, sự khái quát hoá thông tin có một ý nghĩa lớn. Tính chất quan trọng của bản đồ – vật ghi thông tin – có liên quan, một mặt với sự quan sát tổng thể thoáng qua toàn cảnh, mặt khác bằng sự phân tích của thị giác có thể nhanh chóng thâu tóm được một khối lượng thông tin lớn. Những gì ta nhìn thấy và suy giải trên bản đồ được ghi vào ký ức, lâu dài sẽ chuyển thành nhận thức, và chúng được chuyển thể sang ngôn ngữ tự nhiên (lời nói và chữ viết). Bản chất của sự suy giải bản đồ nằm ở trong sự tư duy về các thông tin có trên bản đồ trong một thể thống nhất, cũng như trong sự liên kết thể thống nhất đó với thông tin ghi trong bộ nhớ. Nhiệm vụ chủ yếu của phép đo bản đồ là đo góc, diện tích, chiều dài của các đường thẳng và đường cong, và cả tính số lượng các đối tượng trên bản đồ. Phép đo bản đồ tạo ra các phương án tối ưu trong đo đạc, có tính đến các đặc điểm như tính nhất quán của kích thước ký hiệu, đặc điểm lưới chiếu, độ chính xác hình học, mức độ chi tiết, mức độ đầy đủ, và độ tin cậy của nội dung bản đồ. Xác định bằng phép đo bản đồ là hình thức làm việc với bản đồ phổ biến nhất, trong đó có thể phân biệt những nhiệm vụ sau đây: 1. Xác định vị trí của các đối tượng so với lưới toạ độ bản đồ và các đối tượng khác. Thông thường người ta tính theo lưới toạ độ ô vuông hoặc tọa độ địa lí. 2. Tìm các số liệu chỉ dẫn, việc này cũng liên quan đến việc đo đạc theo lưới tọa độ. Để xác định tính chất của lưới chiếu bản đồ ta thường dùng các đồ thị. 3. Xác định kích thước của đối tượng, ví dụ, chiều dài của con sông hoặc con đường, diện tích một cái hồ hoặc một quốc gia, dung lượng lòng hồ, hoặc khối lượng quả núi. ở đây cũng có thể kể đến việc xác định độ dốc, mặt cắt, định lượng theo bậc phân khoảng của ký hiệu, … 4. Nhận ra các đặc điểm mới. Điều này có ý nghĩa đặc biệt trong nghiên cứu địa lí và thành lập bản đồ chuyên đề. Nhiệm vụ quan trọng nhất là xác định mật độ (ví dụ, mật độ mạng lưới.

<span class='text_page_counter'>(139)</span> sông, điểm dân cư, …) và các giá trị trung bình (chiều dài trung bình sông, độ cao trung bình, …), trên những bề mặt nào đó. Những đặc điểm này có thể tìm được nhờ các dụng cụ đo và cả sự đánh giá bằng mắt theo ô mẫu, hoặc nhờ các thiết bị đo điện tử, hoặc thực hiện trên bản đồ số nhờ máy tính điện tử và các phần mềm chuyên dụng. 5. Xác định các kết quả đo bản đồ để đánh giá chất lượng của chính bản đồ (kiểm tra về sự tương ứng tỷ lệ, độ cao, toạ độ phẳng, …), làm rõ ảnh hưởng của tổng quát hoá bản đồ, điều này đặc biệt cần thiết đối với trường hợp tự động hoá thành lập bản đồ. Sự đánh giá bản đồ yêu cầu khảo sát mức độ đầy đủ và độ tin cậy của chúng. Trong đó cần đánh giá mức độ hiện thời của nó (dựa theo năm xuất bản và tài liệu sử dụng), độ tin cậy và đầy đủ của nội dung, độ chính xác hình học và các tính chất đo đạc bản đồ khác. Sự khảo sát này thường đòi hỏi phải so sánh bản đồ cần khảo sát với các bản đồ khác thuộc cùng lãnh thổ, cùng hiện thực địa lí; với các nguồn thông tin khác (văn liệu, bảng số, số liệu thống kê, …), kể cả các dữ liệu trong các cơ sở dữ liệu của máy tính. So sánh bản đồ cũng là một phương pháp sử dụng bản đồ đặc thù. Khi so sánh các bản đồ phản ánh các thời kỳ phát triển của các hiện tượng ở các thời điểm khác nhau, cho phép ta tìm hiểu sự tiến hoá của các hiện tượng đó. Sự so sánh các bản đồ còn cho phép phân tích mối quan hệ giữa các hiện tượng. Trong phần lớn các trường hợp, bằng cách quan sát, hoặc bằng các phép đo bản đồ, ta có thể tìm ra và phân tích sự giống nhau và khác nhau của các hình ảnh bản đồ. Mô hình hoá bản đồ được hiểu là một quá trình bao gồm sự phân tích các đối tượng hoặc hiện tượng thể hiện trên bản đồ, tạo ra các hình ảnh bản đồ và đánh giá chúng. Nếu sự đánh giá đòi hỏi phân tích các hiện tượng thì trong khi sử dụng bản đồ quá trình này có thể lặp lại, cho đến khi đạt được mục đích. Nếu trong khi đọc, suy giải, và so sánh bản đồ nảy sinh ý định xử lí các thông tin đồ hoạ thì trong trường hợp này các thông tin có trên bản đồ phải được xử lí đồ hoạ bổ sung, hoặc bằng các phương pháp bản đồ để nêu bật các phần tử (yếu tố) bản đồ quan trọng, làm cho các quá trình xử lí tiếp theo được dễ dàng. ở đây có thể phân biệt 4 mức: nhấn mạnh, bổ sung, tiếp tục, và biến đổi. Nhấn mạnh. Để nâng cao khả năng phân biệt và làm nổi bật những hiện tượng quan trọng có trên bản đồ thì cần phải làm rõ hình ảnh của chúng bằng cách tô đậm thêm hoặc tô bằng những mầu nổi trội hơn (ví dụ, nhấn mạnh những đường đứt gẫy địa chất, những cấu trúc sơn văn, …). Bổ sung. Có thể chuyển vẽ bổ sung lên bản đồ một số phần của đối tượng đã có (vẽ tiếp nhánh sông, dòng sông, đoạn đường, …), hoặc vẽ mới một số đối tượng, hiện tượng chưa có trên bản đồ để nhằm hoàn chỉnh một số khái niệm, giúp ích cho sự phân tích được tốt hơn. Tiếp tục. Trong trường hợp cần thiết, có thể tiếp tục lựa chọn thông tin tương tự như bản đồ đang sử dụng nhưng được lưu trữ ở các tài liệu khác, các nơi khác..

<span class='text_page_counter'>(140)</span> Biến đổi. Sự cần thiết phải biến đổi bản đồ nảy sinh khi ta sử dụng chúng với tư cách là phương tiện nghiên cứu. Thực tế là sẽ lập ra bản đồ mới, hoặc là bằng cách thay đổi phương pháp biểu thị bản đồ khác (ví dụ, thay phương pháp khoanh vùng bằng phương pháp đường đẳng trị, hoặc thay phương pháp chấm điểm bằng phương pháp đồ giải), hoặc bằng cách xác lập và đo vẽ những đặc trưng mới của bản đồ (ví dụ, lập bản đồ độ dốc sườn và năng lượng dáng đất trên cơ sở bản đồ địa hình). Đôi khi để giảm bớt một số chi tiết ta có thể tiến hành tổng quát hoá. 8.3 CÁC HÌNH THỨC SỬ DỤNG BẢN ĐỒ Trong chức năng này, bản đồ được dùng để truyền đạt thông tin và thực hiện các chứng minh. Các hình ảnh trực quan của bản đồ bao giờ cũng có sức truyền đạt thông tin nhanh và sự thu nhận thông tin dễ dàng. Sự truyền đạt kiến thức bao giờ cũng đi liền với sự nhận thức. Khi sử dụng bản đồ giáo khoa treo tường, giáo viên truyền đạt kiến thức, còn học sinh thì nhận thức. Nhà thiết kế sử dụng bản đồ kèm theo việc vạch lên đó các dự án nhằm thông báo lên đó các thông tin chi tiết, còn các nhà lãnh đạo thì tìm hiểu các thông tin trên bản đồ để làm cơ sở đưa ra những kết luận cần thiết. Trong các ấn phẩm khoa học, trước tiên là địa lí, các tác giả sử dụng bản đồ để định vị những thông tin mới, tức là truyền đạt tri thức đến người đọc. Khả năng truyền đạt và nhận thức thông tin nhanh đặc biệt nhận thấy rõ ở các bản đồ du lịch, giao thông, tuyên truyền. Những ví dụ trên đây cho thấy rằng việc dùng bản đồ với tư cách là tài liệu trực quan là rất đa dạng và thường đồng hành với sự sử dụng chúng. Trước hết, điều đó thoả mãn nhu cầu nhận thức bằng tư duy, và một phần nữa là nhu cầu về đào tạo. Trong nghiên cứu lãnh thổ, sự phân tích mang tính kiểm kê được coi là chủ yếu, tức là nghiên cứu các hiện tượng trong phạm vi khu vực được lập bản đồ. Thường người ta cố gắng thoả mãn những điều kiện đã biết (đã định), hoặc những tính chất đặc trưng đã được nêu. Sau đó dựa vào những mục đích đã xác định mà đánh giá vùng đó. Nếu mục đích nghiên cứu là phân vùng thì việc nghiên cứu lãnh thổ được đi sâu bằng cách suy giải tổng hợp thể không gian đó kết hợp với sự phân tích mối liên kết bằng mắt hoặc bằng đo đạc bản đồ. Sự nghiên cứu từng hiện tượng, đối tượng hoặc phần tử hình ảnh bản đồ thường có liên quan đến một lãnh thổ, và như vậy nó dường như là một phần của sự phân tích không gian. Việc dùng các bản đồ chuyên đề làm phương tiện nghiên cứu thường được giới hạn trong phạm vi một chuyên đề đã định, một số hiện tượng cụ thể, hoặc một số nhóm hiện tượng nào đó (dân cư, địa chất, sử dụng đất, …). Sự nghiên cứu bắt đầu từ phân tích các đặc trưng về số lượng và chất lượng, các dạng, hình dạng, kích thước của các đối tượng (phương pháp đọc bản đồ), và cả mật độ phân bố của chúng. Tính quy luật của sự phân bố không gian được làm rõ bằng cách nghiên cứu mối liên kết, quan hệ qua lại và sự phụ thuộc vào các hiện tượng khác (bằng phương pháp so sánh các bản đồ). Sự đánh giá bằng.

<span class='text_page_counter'>(141)</span> phương pháp đo đạc bản đồ có thể được bổ sung bằng phương pháp phân tích tương quan luỹ tiến, từ đó tìm ra các đặc trưng mới về lượng.. Để nghiên cứu sự tiến hoá (biến động) của các hiện. tượng, người ta thường sử dụng các bản đồ phản ánh trạng thái của các hiện tượng ở các thời điểm khác nhau (so sánh các bản đồ thống kê). Trong rất nhiều trường hợp bản đồ được dùng làm tài liệu cho công tác thành lập bản đồ mới (bản đồ thứ sinh). Bản đồ được sử dụng theo các mục đích sau: - Làm tài liệu gốc để biên tập nội dung. - Làm tài liệu bổ sung thông tin còn thiếu. - Làm tài liệu tham khảo, tra cứu, nghiên cứu. - Làm tài liệu thiết kế. Các bản đồ địa hình (trong đó có bản đồ địa hình quân sự) và nhiều loại bản đồ chuyên đề (bình đồ thành phố, bản đồ du lịch, bản đồ giao thông, bản đồ hàng không, bản đồ hàng hải, …) được sử dụng trước tiên làm phương tiện dẫn đường, định hướng tìm vị trí, mục tiêu cần đi đến, xác định vị trí và hướng của địa điểm đang đứng. Ngay cả trong các hình thức sử dụng khác như để giảng dạy, nghiên cứu, làm việc, … thì tính chất định hướng cũng rất cần thiết. Bản đồ, với tư cách là tài liệu để làm việc, mang một ý nghĩa đặc biệt. Nhờ nó mà người ta tổ chức quản lí lãnh thổ hoặc các quá trình công tác; tổ chức khai phá, chinh phục và đưa chúng vào đời sống. Việc sử dụng các bản đồ chuyên đề như những phương tiện làm việc trong quá trình ra quyết định chỉ đạo đã được nhiều tài liệu đề cập đến. Vai trò tổ chức của bản đồ xuất hiện không chỉ trong quá trình lãnh đạo, mà còn trong quá trình triển khai các biện pháp tương ứng. Từ quan điểm sử dụng bản đồ, quá trình thống nhất đó có thể phân chia ra làm 3 giai đoạn: lập kế hoạch, lập dự án, triển khai dự án. ở thời điểm ban đầu và kết thúc của mỗi giai đoạn đều cần đến bản đồ. Bản đồ phản ánh hiện trạng là tài liệu gốc. Trong khi phân tích nó, người ta xác định các điều kiện và các khả năng triển khai dự án, đánh dấu các phương án và các hướng giải quyết. Kế hoạch triển khai được vạch lên bản đồ. Hình vẽ của các phương án kế hoạch làm cho sự đánh giá được dễ dàng, đặc biệt khi duyệt dự án. ngoài ra, hình ảnh bản đồ còn chứa đựng các thông tin về các thông số kỹ thuật (ví dụ, về diện tích), về các tác động lên các hiện tượng khác. Bản đồ cho phép mô hình hoá và chính xác hoá dự án. Nó trở thành cơ sở để tiến hành triển khai dự án. Như vậy, bản đồ trở thành tài liệu gốc, tài liệu so sánh, và tài liệu kiểm tra trong quá trình đưa kế hoạch vào đời sống. Sau khi kết thúc quá trình này, cần phải kiểm chứng, và sau đó đưa lên bản đồ chính thức những sửa đổi nảy sinh. Bằng cách đó, bản đồ được hiệu chỉnh và được chuẩn bị cho kỳ lập kế hoạch của năm sau. Các bản đồ kỹ thuật (bao gồm cả bản đồ dự án) được sử dụng trong các ngành: giao thông, liên lạc, điện lực, xây dựng, dầu khí, thuỷ lợi, trắc địa,…, để lập các thiết kế triển khai nhiệm vụ, lắp đặt công trình và thiết bị. Trong các ngành kinh tế nông - lâm nghiệp bản đồ được dùng để quy hoạch.

<span class='text_page_counter'>(142)</span> khu vực sản xuất, lập kế hoạch hàng năm và thực hiện sử dụng đất (luân canh, khai thác gỗ,…). Các bản đồ địa chính, bản đồ chuyên đề, và các atlat là công cụ quy hoạch lãnh thổ. Khi giải bài toán tối ưu, phân bổ ngân sách, và các nhiệm vụ khác, người ta áp dụng tất cả các phương pháp sử dụng bản đồ. 8.4 PHÂN TÍCH BẢN ĐỒ Trong phạm vi sử dụng bản đồ đã thiết lập phương pháp nghiên cứu bằng bản đồ. Để nghiên cứu bằng bản đồ thì phải sử dụng các phương pháp phân tích khác nhau. Phân tích bản đồ tức là lấy sự biểu hiện trên bản đồ làm đối tượng nghiên cứu, căn cứ vào những thông tin về các thực thể khách quan được thể hiện trên bản đồ để tiến hành nghiên cứu nhằm chỉ ra các quy luật phân bố, các mối liên hệ, các quá trình biến đổi, … của các đối tượng và hiện tượng và dự báo sự biến đổi của chúng trong tương lai. Nói một cách ngắn gọn, phân tích bản đồ là lấy bản đồ làm mô hình không gian, dùng các phương pháp khác nhau để phân tích và lí giải sự biểu hiện bản đồ. Việc phân tích bản đồ được tiến hành phụ thuộc vào mục đích sử dụng bản đồ. Quá trình phân tích bản đồ hoàn chỉnh bao gồm những bước như sau: - Trước hết đọc bản đồ để hiểu được nội dung thể hiện trên bản đồ. - Tiến hành phân tích bản đồ: + Xác định rõ mục đích phân tích; + Chọn các phương pháp phân tích thích hợp; + Thu nhận kết quả phân tích và giải thích các kết quả đó; + Xác định độ chính xác và độ tin cậy của kết quả phân tích; + Đưa ra các kết luận. 1. 2. 3. 4.. Phương pháp mô tả Phương pháp đồ giải Phương pháp đồ giải - giải tích Phương pháp mô hình hoá bản đồ. Mô tả là phương pháp phân tích trên cơ sở đọc bản đồ, qua đó có thể tiện lợi và nhanh chóng thu nhận được những khái niệm chung về tính chất và quy luật phân bố của các đối tượng nghiên cứu. Những kết quả thu được chính là những kết luận định tính có tính chất mô tả, được trình bày ở bài viết. Phân tích mô tả chủ yếu là phân tích định tính nhằm chỉ ra sự khác biệt của các đối tượng và hiện tượng cần nghiên cứu, đặc điểm phân bố và những mối liên hệ giữa chúng. Để nâng cao tính xác thực của sự mô tả, đôi khi cũng sử dụng các số liệu đọc được từ trên bản đồ để bổ sung cho những lời mô tả. Phân tích mô tả bao giờ cũng phải theo trình tự từ chung đến riêng, từ tổng thể đến cục bộ. Tức là, đầu tiên phải mô tả những đặc điểm cơ bản chung, sau đó mới phân tích tỉ mỉ những đặc tính cá biệt và cục bộ, cuối cùng nêu lên những kết luận một cách rõ ràng. Mô tả cần phải gọn, rõ ràng, chặt chẽ, có đầy đủ các tư liệu chân thực. Trong mô tả cần phải sử dụng các số liệu, biểu đồ thống kê để bổ sung cho lời mô tả. Khi phân tích, đánh giá chất lượng bản đồ bằng phương pháp mô tả cần phải xét đến tính khoa học, tính nghệ thuật, tính tư tưởng chính trị, giá trị thực dụng của bản đồ. . Tính khoa học của bản đồ được xem xét trên các khía cạnh: tính chân thực của hiện tượng được biểu thị, tính hoàn thiện của nội dung, tính hiện thời, độ chính xác, tính thống nhất hài hoà của bản đồ..

<span class='text_page_counter'>(143)</span>  . . Tính nghệ thuật của bản đồ bao gồm các khía cạnh: tính trực quan của các phương pháp biểu thị và ký hiệu, tính dễ đọc các thông tin, năng lực biểu đạt của đồ hình bản đồ, tính mĩ thuật. Tính tư tưởng chính trị của bản đồ nằm trong sự phản ánh các hiện tượng tự nhiên và xã hội phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tôn trọng sự chân thực lịch sử và các quy ước quốc tế. Trong đó cần đặc biệt chú ý đến việc ghi chú địa danh và sự thể hiện các đường ranh giới quốc gia. Giá trị thực dụng của bản đồ được thể hiện ở chỗ là bản đồ có giải quyết được những vấn đề tương ứng hay không, tức là giá trị của bản đồ trong nghiên cứu khoa học và ứng dụng thực tiễn như thế nào.. Theo phương pháp này thì trước hết căn cứ trên bản đồ tiến hành dựng các dạng đồ hình hai chiều hoặc ba chiều cần thiết cho sự nghiên cứu, ví dụ như mặt cắt, biểu đồ phân bố dạng “hoa hồng”, bản đồ khối (lập thể)…, rồi dựa vào các dạng đồ hình đã dựng được để tiến hành nghiên cứu. Phương pháp này nhằm phản ánh một cách trực quan những hiện tượng và quá trình được phân tích và sự phối hợp không gian giữa chúng mà trên bản đồ rất khó hoặc không phản ánh được. Những biến dạng của các mô hình đó thường làm mất đi tính đo đạc, nhưng nó được bù lại là tính trực quan và tính bao quát của hình ảnh đồ hoạ. Các mô hình đồ giải nêu trên không những phản ánh trực quan các đối tượng thực, mà cả những vấn đề trừu tượng khoa học, ví dụ như các bề mặt thống kê, các bề mặt phối cảnh. Các mô hình đó rất tiện lợi để thể hiện sự phân bố, cấu trúc, các mối liên hệ, sự biến đổi và động thái của các hệ thống được nghiên cứu. Ngày nay trong sự phát triển của các phương pháp đồ giải phân tích bản đồ và biến đổi hình ảnh bản đồ, ta thấy nổi lên hai xu hướng chính: Một là chú ý nhiều hơn đến sự ứng dụng các mô hình đồ giải 3 chiều và nhiều chiều. Hai là, cơ giới hoá và tự động hoá quá trình ứng dụng các mô hình đồ giải. Chính các nhân tố này làm cho các mô hình đồ giải càng gần lại với các mô hình đồ giải - giải tích, và các mô hình giải tích. Phương pháp này gồm các phép đo đạc bản đồ và đo đạc hình thái. Đo đạc bản đồ là từ trên bản đồ đo được các trị số như: toạ độ, độ dài, góc, diện tích, thể tích. Đo đạc hình thái là từ trên bản đồ đo được các trị số cần thiết, từ các trị số đó tính ra các chỉ số hình thái khác nhau như mật độ và các tỷ số khác, độ cong của các yếu tố đường nét, … Đo đạc trên bản đồ. Ta có thể đo được nhiều đại lượng khác nhau trên bản đồ, trong đó đo độ dài, nhất là độ dài đường cong là phức tạp nhất, nên dưới đây sẽ bàn đến vấn đề này. Khi đo độ dài đường cong bằng com pa hay bằng công cụ của phần mềm có ba vấn đề cần lưu ý xem xét: 1. Bước đo (độ mở com pa) bằng bao nhiêu là hợp lí: Bước đo là một đoạn thẳng nối hai đầu của một cung trên đường cong. Đường cong sẽ được xác định bằng một đường gấp khúc, độ dài của nó được tính bằng tổng của các bước đo liên tiếp nhau. Các kết quả nghiên cứu cho biết bước đo có thể trong khoảng 1 - 4 mm, phụ thuộc vào độ uốn của đường cong. 2. Làm thế nào để chuyển từ độ dài đường gấp khúc sang độ dài thực của đường cong: Cần tiến hành thực nghiệm trên một số dạng đường có độ cong khác nhau để tìm ra hệ số k, bằng cách tiến hành hai lần đo trên 1 đường cong với hai bước đo khác nhau, sẽ được hai giá trị l1 và l2. Đường cong thực lo có thể tính theo công thức thực nghiệm của Vôncov: lo = l1 + (l1 - l2 )k, Bằng thực nghiệm, sai số tương đối của lo tính được là 3 – 5 %. 3. Ảnh hưởng của tổng quát hoá đến độ dài của đường cong trên bản đồ: Vấn đề này có thể nghiên cứu thực nghiệm bằng cách so sánh với bản đồ địa hình tỷ lệ lớn hơn. Đo đạc hình thái Trong nghiên cứu địa mạo, địa chất, thổ nhưỡng, thuỷ văn và hải dương… thường phải căn cứ trên bản đồ để đo đạc phân tích hình thái. Các chỉ số đo đạc hình thái có rất nhiều, hơn nữa, đối với mỗi chuyên ngành khoa học lại có những chỉ số riêng. ở đây chỉ nhắc lại những chỉ số thông dụng.

<span class='text_page_counter'>(144)</span> nhất. Phương pháp mô hình hoá toán - bản đồ Từ trên bản đồ thu nhận các số liệu về các hiện tượng cần nghiên cứu rồi thiết lập mô hình toán gần đúng. Mô hình toán học đó phản ánh tính quy luật cơ bản của sự phân bố hoặc mối liên hệ của các hiện tượng. Cũng chính từ mô hình toán học đó ta có thể lập được bản đồ dẫn xuất. Đo đạc bản đồ và đo đạc hình thái tạo ra các dữ liệu để phân tích thống kê, để lập mô hình bản đồ toán. Mô hình toán - bản đồ được hiểu là sự kết hợp mang tính hệ thống của các mô hình toán và mô hình bản đồ để thành lập các bản đồ mới và mở rộng khả năng ứng dụng trong các mục đích nghiên cứu. Các bản đồ trong mô hình toán - bản đồ mang nhiều chức năng khác nhau. Thông thường nó đóng vai trò là những nguồn tài liệu gốc để khai thác thông tin và triển khai các phép xử lí tiếp theo. Mặt khác, bản đồ cũng là sản phẩm của các phép tính toán học trong các giai đoạn trung gian cũng như giai đoạn cuối cùng của phép mô hình hoá toán - bản đồ. Những bản đồ thành quả của phép mô hình hoá toán - bản đồ lại là phương tịên thuận lợi để phân tích địa lí các kết quả của phép mô hình hoá, để nhận thức trên cơ sở các thông tin được sản sinh trong quá trình mô hình hoá, trên cơ sở tính quy luật lãnh thổ, các đặc điểm cấu trúc, sự phát triển, và chức năng hoá các hiện tượng hoặc các quá trình địa lí nào đó. Chức năng chủ yếu của mô hình toán trong mô hình hoá toán - bản đồ là chế biến lại thông tin nguồn theo mục đích đã định. Xuất phát từ những nhiệm vụ đã đặt ra mà mức độ phức tạp của các phép chế biến thông tin có sự khác nhau, từ rất đơn giản (để thành lập các bản đồ thành phần) đến phức tạp (để thành lập các bản đồ tổng hợp). Các phép toán ứng dụng rất rộng: toán giải tích, toán thống kê, lí thuyết thông tin, lí thuyết đồ thị… Cùng một mục tiêu phân tích địa lí nhưng có thể áp dụng những mô hình toán khác nhau. Và ngược lại, cùng một mô hình toán học có thể được ứng dụng cho nhiều nguồn thông tin khác nhau. Việc phân tích bản đồ có thể tiến hành theo hai cách: phân tích bản đồ đơn tờ, và phân tích xêri bản đồ. Cách thứ nhất có ba dạng: không biến đổi biểu thị bản đồ, biến đổi biểu thị bản đồ, phân giải biểu thị bản đồ ra các thành phần. Cách thứ hai có 4 dạng: các bản đồ có đề tài khác nhau, các bản đồ thuộc thời gian khác nhau, các bản đồ tương tự, các bản đồ có tỷ lệ khác nhau. Trong phân tích bản đồ ta có thể áp dụng các biện pháp như: 1. Trực quan: Sự quan sát, phân tích và ước lượng các hình ảnh bản đồ hoàn toàn được thực hiện bằng mắt và khả năng nhận thức của người sử dụng. 2. Sử dụng dụng cụ và thiết bị: Từ các kết quả đo tính được trên bản đồ nhờ các thiết bị đơn giản hoặc thiết bị chuyên dụng mà tiến hành phân tích và nghiên cứu. 3. Sử dụng máy tính điện tử. Việc thu nhận thông tin và xử lí các thông tin bản đồ để đưa ra các kết luận có thể thực hiện trên máy tính bằng cách quét bản đồ để nhập vào máy tính, sử dụng các phần mềm chuyên dụng và khả năng tương tác người - máy để đo, tính và phân tích. Biện pháp này mang tính bán tự động. 4. Sử dụng GIS (hệ thông tin địa lí). Hiện nay, sử dụng GIS là hình thức nghiên cứu tiên tiến và hiệu quả nhất. Các phần mềm GIS ngày càng được trang bị những công cụ mạnh để phân tích địa lí. Các dữ liệu bản đồ dù đang được lưu trữ ở dạng số hay ở dạng tương tự (bản đồ giấy) đều có thể chuyển vào GIS một cách dễ dàng, được đo tính, phân tích, mô hình hoá, và đưa ra các kết luận theo mục đích của người sử dụng. Biện pháp này mang tính tự động hoá cao. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG VIII 1. Sử dụng bản đồ là gì? Phân tích năm nhiệm vụ và năm phương pháp sử dụng bản đồ. Cho ví dụ cụ thể. 2. Trình bày các hình thức sử dụng bản đồ..

<span class='text_page_counter'>(145)</span> 3. Phương pháp phân tích bản đồ là gì? Giải thích những nội dung cơ bản của bốn phương pháp phân tích bản đồ. Cho ví dụ. 4. Nêu quy trình sử dụng bản đồ trong quá trình giảng dạy một bài học địa lí.. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng việt: 1. Nguyễn Thị Thục Anh. Nghiên cứu thử nghiệm thành lập bản đồ địa hình 3D. Báo cáo khoa học - Hà Nội, 2004. 2. Bùi Tiến Diệu. "Nghiên cứu thành lập một số bnả đồ đánh giá lãnh thổ trên cơ sở ứng dụng mô hình toán học và thông tin bản đồ". Luận văn thạc sĩ kĩ thuật, Hà Nội, 2004. 3. Lâm Quang Dốc. Bản đồ học, NXB Đại học Sư phạm, 2004. 5. Phạm Ngọc Đĩnh (Chủ biên), Vũ Tuấn Cảnh, Lâm Quang Dốc, Lê Huỳnh, Hoàng Xuân Lĩnh, Đỗ Thị Minh Tính. Bản đồ học. Trung tâm sách Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I, 1976. 6. Ngô Đạt Tam. Địa đồ học. NXB Giáo dục, 1968. 7. Ngô Đạt Tam (Chủ biên), Lê Ngọc Nam, Nguyễn Trần Cầu, Phạm Ngọc Đĩnh. Bản đồ học. NXB Giáo dục, 1976 (tái bản 1986). 8. Triệu Văn Hiếu. "Phân tích bản đồ" (Bài giảng cho cao học ngành bản đồ). Hà Nội, 2001. 9. Quân đội nhân dân Việt Nam. "Cách sử dụng bản đồ địa hình". Phòng Bản đồ Bộ Tổng tham mưu, 1962. 10. Nguyễn Viết Thịnh. Nghiên cứu phân kiểu kinh tế - xã hội cấp tỉnh và cấp huyện nhằm phát hiện quy luật phân hóa lãnh thổ kinh tế - xã hội Việt Nam. Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ. Hà nội, 2002. 11. Vũ Bích Vân. "Bản đồ học điện toán", giáo trình cao học ngành bản đồ. Hà Nội, 2002. Tiếng nước ngoài.

<span class='text_page_counter'>(146)</span> 12. A.M. Berliant. Phương pháp nghiên cứu bằng bản đồ. Hoàng Phương Nga, Nhữ Thị Xuân (biên dịch). NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 2004. 13. L.X Garaevxkaia. Bản đồ học. Cục đo đạc và bản đồ nhà nước. 1979 (bản dịch của Nguyễn Trọng Mão và Lê Thế Hảo). 14. A.A Liutưi. Ngôn ngữ bản đồ: Bản chất, hệ thống, chức năng. Moskva. 1988. 15. K.A. Xalishev. Bản đồ học. Moskva. 1971 (Nguyên bản tiếng nga)..

<span class='text_page_counter'>(147)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×