Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Quan niệm của Nho giáo về đạo làm người và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.94 KB, 13 trang )

Quan niệm của Nho giáo về đạo làm người và ảnh hưởng của nó
ở Việt Nam hiện nay
1. Lý do chọn đề tài:
Trong mọi thời đại của sự phát triển xã hội, đạo đức luôn được coi là yếu tố gốc rễ
và quan trọng. Từ trước đến nay, có rất nhiều tư tưởng, học thuyết ảnh hưởng đến
đạo đức của con người. Và trong mỗi thời đại xã hội lại có mức độ ảnh hưởng khác
nhau. Nho giáo cũng là một trong những học thuyết như vậy.
Du nhập vào Việt Nam, Nho giáo được dung hợp và hòa đồng vào cuộc sống người
Việt, tạo thành một bộ phận của văn hóa truyền thống Việt Nam.
Những nguyên tắc đạo đức của Nho giáo như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín vừa là chuẩn
mực để điều chỉnh hành vi của con người, vừa là những biện pháp để bảo đảm cho
chính trị, nhân nghĩa được thực hiện. Bởi vậy, Nho giáo không đưa ra định nghĩa
nào về khái niệm "Đạo làm người", nhưng qua các tác phẩm kinh điển, qua tư
tưởng của các đại biểu Nho giáo có thể thấy, khái niệm "Đạo làm người" đã được
Nho giáo đi sâu khai thác
Việc ảnh hưởng của Nho giáo tới đạo làm người ở nước ta sẽ có những tác động
sâu rộng tới tất cả các lĩnh vực. Do đó, trong bài tiểu luận này, em xin đề cập tới
vấn đề “ Quan niệm của Nho giáo về đạo làm người và ảnh hươngr của nó ở Việt
Nam hiện nay” nhằm tìm ra những điểm tích cực và tiêu cực để có thể vận dụng
khai thác tốt điểm mạnh và hạn chế tối đa điểm yếu vào trong q trình thực tiễn
cơng việc.
2. Mục đích nghiên cứu:


Tiểu luận chỉ ra sự ảnh hưởng của đạo làm người trong Nho giáo để vận dụng tốt
vào quá trình công việc thực tế của bản thân.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Trình bày về quan niệm của Nho giáo về đạo làm người. Đồng thời, chỉ ra những
ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của Nho giáo ở Việt Nam hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy


vật lịch sử, tiểu luận còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương
pháp logic - lịch sử; so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê… Đặc biệt, trong tiểu
luận, em có sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể cơ bản, đó là: phương
pháp phân tích tài liệu, phương pháp quan sát thực tế
5. Đóng góp của tiểu luận:
Giúp bản thân có cách nhìn hồn thiện hơn về ảnh hưởng của Nho giáo tới Việt
Nam. Qua đó, rút ra những bài học để giúp chính bản thân và những người xung
quanh xây dựng những giá trị tốt đẹp của Nho giáo.
6. Kết cấu của đề tài:
Chương 1. Quan điểm về đạo làm người của Nho giáo.
1. Điều kiện kinh tế - xã hội đối với sự hình thành tưởng về đạo làm người trong
Nho giáo
2. Khái niệm đạo làm người trong Nho giáo.
3. Một số chuẩn mực của đạo làm người theo tư tưởng của Nho giáo
3.1. Tư tưởng Tam cương


3.2. Tư tưởng Ngũ thường
3.3. Tư tưởng Hiếu
3.4. Tư tưởng Tứ đức
Chương 2. Sự ảnh hưởng của đạo làm người trong Nho giáo tới Việt Nam hiện nay.
1. Sự ảnh hưởng của đạo làm người trong Nho giáo với với văn hóa
2. Sự ảnh hưởng của đạo làm người trong Nho giáo với với giáo dục
3. Sự ảnh hưởng của đạo làm người trong lĩnh vực duy trì trật tự kỷ cương, pháp
luật
4. Sự ảnh hưởng của đạo làm người trong lĩnh vực lựa chọn người tài trong bộ máy
nhà nước
5. 5. Sự ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo đối với Việt Nam
6. Sự vận dụng thực tiễn những ảnh hưởng của Nho giáo đối với bản thân trong
công việc hiện tại.


Chương 3. Kết luận
Phần 2. Nội dung
Chương 1. Quan điểm về đạo làm người của Nho giáo.
1. Điều kiện kinh tế - xã hội đối với sự hình thành về đạo làm người trong
Nho giáo


Nho giáo là học thuyết chính trị xã hội, đạo đức xuất hiện ở Trung Quốc thời cổ đại
do Khổng Tử sáng lập. Ra đời vào cuối thời kỳ Xuân thu (giữa thế kỷ VI TCN) và
trở thành học thuyết có ảnh hưởng lớn nhất ở Trung Quốc. Từ thời nhà Hán đến
thời nhà Thanh, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng giữ địa vị thống trị trong xã hội.
Đến thời Chiến quốc Nho giáo được Mạnh tử và Tuân tử phát triển theo 2 xu
hướng khác nhau. Ba nhà tư tưởng Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử là đại biểu tiêu
biểu của Nho giáo thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc.
Nền kinh tế với tư cách là cơ sở cho sự tồn tại của xã hội Trung Quốc thời bấy giờ
đang có sự chuyển biến mạnh mẽ từ thời đại đồ đồng sang đồ sắt., kéo theo là
nhiều biến đổi tích cực trong hoạt động sản xuất của cải vật chất của xã hội. Trong
thời kỳ này, Trung Quốc xuất hiện nhiều thành thị, nhiều trung tâm buôn bán nhộn
nhịp ở các nứơc Hán, Tề, Tần, Sở… Những thành thị này có một cơ sở kinh tế
đương đối độc lập, từng bước tác khỏi chế độ thành thị, thị tộc của quý tộc và dần
trở thành những đơn vị, khu vực kinh tế của tầng lớp địa chủ mới lên. Đây được
cho là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng xã tắc loạn lạc,
tình trạng trong thiên hạ “vua không ra vua,, cha không ra cha, con không ra con”
diễn ra phổ biến – một bối cảnh xã hội quan trọng đưa đến sự nảy sinh, hình thành
các học thuyết chính trị - xã hội, trong đó có học thuyết Nho giáo.
Các học thuyết tư tưởng thời đại bấy giờ đều đứng trên lập trường giai cấp, tầng
lớp của mình mà đưa ra và luận giải các biện pháp khác nhau nhằm đưa xã hội từ
loạn lạc đến trật tự, ổn định. Pháp gia cho rằng muốn trị nước phải dựa vào pháp
luật, còn Mặc gia khẳng định trị nước phải bằng “Kiêm ái” (cùng yêu thương nhau)

không kể sang hèn, giàu nghèo. Nho giáo lại chủ trương dùng đức trị, vì theo nhà
Nho, dùng đức trị thì dân mới phục, dùng sức mạnh thì mau thắng nhưng không
bền. Các nhà Nho cho rằng, sở dĩ xã hội loạn là do những con người “vô đạo”, là


do “quân bất quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử:. Bởi vậy, theo họ, để khắc
phụ và loại trừ những rối loạn trong xã hội thì phải khắc phục và loại trừ những
con người vô đạo, những hành vi vô đạo; phải dùng nhân trị, lễ trị; phải thực hiện
chính danh, trên dưới phân minh (vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con) thì
xã hội mới thịnh trị. Đây chính là cơ sở cho sự ra đời của những tư tưởng về đạo
làm người trong Nho giáo.
2. Khái niệm đạo làm người trong Nho giáo
Trong học thuyết của Nho giáo không đưa ra một khái niệm cụ thể nào về đạo làm
người. Nhưng xun suốt hệ tư tưởng chính trị đó thì có thể hiểu, đạo làm người là
các quy phạm, chuẩn mực đạo đức nhằm điều chỉnh hành vi của con người; chỉ rõ
trách nhiệm, quyền hạn của mỗi nguồ trong quan hệ với người khác từ trong gia
đình đến bên ngồi xã hội. Đứng trước một xã hội loạn lạc bởi chiến trinh, bởi
những mâu thuẫn và xung đột giai cấp dường như khơng thể điều hịa, Nho giáo
cũng đặt mục đích cho học thuyết của mình là xây dựng hệ thống chuẩn mực đạo
đức về đạo làm người để đưa xã hội trở thành xã hội ổn định thái bình, đại đồng,
mọi người sống hòa mục thân ái.
3. Một số chuẩn mực của đạo làm người theo tư tưởng của Nho giáo
3.1. Tư tưởng Tam cương
Thuật ngữ “tam cương” xuất hiện trong tư tưởng của Đổng Trọng Thư vào thời
Hán Vũ Đế, tuy nhiên, nguồn gốc xuất xứ của nó thì có từ thời Khổng - Mạnh.
Trong tư tưởng Khổng Tử thì gọi là “nhân luân”, trong tư tưởng của Mạnh Tử thì
gọi là “ngũ luân”, bao gồm: vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn bè.
Trong đó, nhấn mạnh đến ba mối quan hệ: vua - tôi, cha - con, chồng - vợ được
xem là cơ bản nhất. Trong mối quan hệ vua - tôi (quân - thần), Nho giáo đưa ra hai
chuẩn mực đạo đức để ràng buộc trách nhiệm, nghĩa vụ giữa vua và thần dân.



Trong mối quan hệ cha - con (phu - tử), Nho giáo đưa ra hai chuẩn mực đạo đức là
“từ” và “hiếu”. Trong mối quan hệ chồng - vợ (phu - phụ), Nho giáo đưa ra phạm
trù “nghĩa” - là chuẩn mực đạo đức nhằm ràng buộc trách nhiệm giữa vợ và chồng.
3.2. Tư tưởng Ngũ thường
Tư tưởng “ngũ thường” là một nội dung cốt lõi trong học thuyết đạo đức của Nho
gia, có lịch sử hình thành từ rất sớm, nằm rải trong các kinh điển thời kỳ Tiên Tần,
sau đó được các nhà tư tưởng của Nho gia bổ sung và phát triển, tạo nên hệ thống
chỉnh thể đầy đủ. Được bắt đầu Khổng Tử, sau đó được Mạnh Tử, Đổng Trọng
Thư khẳng định, bổ sung và hoàn chỉnh. Lúc ban đầu, theo Khổng Tử, muốn hợp
“lễ” thì con người cần phải có các đức “nhân”, “trí”, “dũng”. Đến Mạnh Tử bỏ
“dũng” và nói nhiều về “lễ nghĩa” do vậy thành bốn đức: “nhân”, “nghĩa”, “lễ”,
“trí”. Sau đó Đổng Trọng Thư thêm “tín”, thành năm đức như ngày nay - “nhân”,
“nghĩa”, “lễ”, “trí”, “tín”. Về sau, “ngũ thường” trở thành quan niệm đạo đức cơ
bản của xã hội tông pháp phong kiến Trung Quốc, là quy tắc đạo đức cơ bản trong
việc xử lý mối quan hệ giữa người với người trong xã hội phong kiến, có ảnh
hưởng đến tiến trình phát triển của nền văn minh đạo đức Trung Hoa và nhiều
nước khác.
3.3. Tư tưởng Hiếu
Trong quan điểm về đạo đức gia đình, Nho giáo đặc biệt nhấn mạnh sự hiếu thuận
của con cái đối với cha mẹ, xem đó là một phẩm chất đạo đức cao đẹp của con
người, là “nết đầu trong trăm nết” con người cần phải có. Theo Nho giáo: Hiếu
kính cha mẹ tức là phải tơn trọng, kính u, vâng lời cha mẹ; phụng dưỡng, thực
hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của người con đối với cha mẹ; ln giữ gìn bản thân
để cha mẹ khơng phải phiền lịng. Đặc biệt, “hiếu” với cha mẹ là phải xuất phát từ
“tâm”.


3.4. Tư tưởng Tứ đức

"Tứ đức" là học thuyết tiêu biểu của Nho giáo đề cập đến các đức hạnh của người
phụ nữ trong xã hội phong kiến đương thời. Qua mỗi thời đại khác nhau, Nho giáo
nói chung, phạm trù "tứ đức" nói riêng có những biến đổi về nội dung và ảnh
hưởng của nó đến tư tưởng, hành động của người phụ nữ. Nội dung của “tứ đức” là
5 đức tính của người phụ nữ: “cơng, dung, ngơn, hạnh”. "Công": Chỉ nữ công gia
chánh, tề gia nội trợ, may vá thêu thùa, dạy bảo con cái, quán xuyến các việc gia
đình; "dung": Chỉ vẻ đẹp hình thức, thể hiện qua dáng vẻ tự nhiên kết hợp với
trang phục, trang điểm tạo nên sự đoan trang của người phụ nữ; "ngơn": Chỉ lời ăn
tiếng nói, sự lựa chọn từ ngữ tế nhị, kín đáo, nữ tính; "hạnh": Chỉ hạnh kiểm, đức
hạnh, là lòng nhân ái, là sự tuân theo lễ nghĩa và hiếu đễ. 10
Chương 2. Sự ảnh hưởng của đạo làm người trong Nho giáo tới Việt Nam hiện
nay.
Nho giáo được du nhập vào nước ta và đã tồn tại trong suốt thời kỳ phong kiến.
Trong khoảng thời gian khơng ngắn đó, lịch sử tư tưởng Việt Nam đã tiếp thu
nhiều tư tưởng khác như Phật giáo, Đạo giáo…. Đã có thời kỳ Phật giáo giữ vai trị
chính yếu, nhưng nhìn chung càng về sau Nho giáo càng chiếm ưu thế và trở thành
công cụ tư tưởng cho các triều đại phong kiến Việt Nam. Do có thời gian tồn tại lâu
dài, do được các triều đại phong kiến tiếp thu và sử dụng có mục đích, cho nên
Nho giáo có ảnh hưởng sâu rộng ở nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, tư tưởng đạo làm
người của Nho giáo đã trở thành cơ sở cho đạo đức thời phong kiến Việt Nam và
ngày nay ảnh hưởng của nó vẫn còn.
1. Sự ảnh hưởng của đạo làm người trong lĩnh vực văn hóa:
- Đức Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho con người có sự đối xử nhân ái,
khoan dung, độ lượng với nhau. Đức lễ, với hệ thống các qui định chặt chẽ đã giúp


con người cóthái độ và hành vi ứng xử với nhau theo thứ bậc, theo khn phép.
Văn hóa Việt Nam ln là nền văn hóa hiếu khách, coi tất cả các dân tộc trên thế
giới đều là anh em, không có sự phân biệt.
- Trong gia đình, do ảnh hưởng của Nho giáo, nên con cái ln có thái độ hiếu kính

với cha mẹ. Vợ chồng tơn trọng nhau, cùng hướng tới xây dựng một gia đình hạnh
phúc, một xã hội lành mạnh.
- Chịu ảnh hưởng của Nho giáo, dòng văn minh dân gian làng xã được phổ biến và
phát triển, thể hiện ở các cuộc đua, vui chơi, hoa văn trang trí đền chùa… Các tư
tưởng đấng trượng phu, quân tử, quan hệ tam cương, tam tòng tứ đức, thủ tục ma
chay, cưới xin, các quy định về tôn ti trật tự,… ảnh hưởng rất đậm nét ở Việt nam,
nhất là bắt đầu từ đời nhà Lê, khi Nho giáo bắt đầu thống trị và trở thành hệ tư
tưởng chính thống của chế độ phong kiến.
2. Sự ảnh hưởng của đạo làm người trong lĩnh vực giáo dục:
Từ khi còn là học sinh tiểu học, tư tưởng “tiên học lễ, hậu học văn” đã được thấm
nhuần bởi các học sinh. Chữ “Lễ” luôn nhắc các học sinh cư xử lễ độ với bố mẹ,
thầy

cơ,

ứng

xử

có tơn ti trật tự, đề cao lễ giáo và sự lễ phép là truyền thống văn hóa tốt đẹp
phương Đơng. Chữ “Văn” ln nhắc nhở các thế hệ học sinh phải dùi mài kinh sử
để ghi nhớ bao công lao dựng và giữ nước của cha ơng ta. Chính tư tưởng Hồ Chí
Minh khi dặn dò bao thế hệ học sinh trong việc đưa tổ quốc Việt Nam “sánh vai
với các cường quốc năm châu một phần là nhờ công lao học tập của các cháu” đã
thể hiện chữ “Văn” của nho giáo. Tư tưởng này đã phổ biến trong khắp các trường
học trong cả nước, và là 1 cơng cụ hữu ích trong phát triển xã hội Việt Nam ngày
nay.
Nho giáo cũng thể hiện vai trò trong việc đào tạo ra những con người có đức, có
tài cho đội ngũ trị nước. Mặt khác, nho giáo cũng thể hiện vai trò trong việc chú



trọng giáo dục các tầng lớp khác. Nho giáo quan niệm ai cũng cần giáo dục và giáo
dục là cần thiết. Muốn cho giáo dục có hiệu quả thì cần có sự kết hợp giữa thầy và
trị, áp dụng phương pháp dạykhác nhau đối với từng loại học trò. Nho giáo cũng
đưa ra nhiều phương pháp giáo dục hiệu quả như dạy từ xa đến gần, kết hợp giữa
học và hành.
Từ đó, có thể thấy, trong tất cả thời kỳ phát triển của đất nước, giáo dục luôn được
ưu tiên lên hàng đầu phần nào thể hiện sự ảnh hưởng của Nho giáo trong công tác
giáo dục.
3. Sự ảnh hưởng của đạo làm người trong lĩnh vực duy trì trật tự kỷ cương,
pháp luật

Xét theo phương diện pháp luật thì lễ của Nho giáo có tác dụng tích cực trong việc
duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội, ngày nay chúng ta có thể kế thừa. Nho giáo
quan niệm trong nước cần phải có pháp lễ (luật pháp) thì nước mới nghiêm; trong
gia đình phải có gia pháp thì mới có trên có dưới. Điều này đã tạo cho con người
nếp sống trên kính dưới nhường. Tư tưởng chính danh giúp cho con người xác định
được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng trong các
quan hệ xã hội.
Nho giáo với các tư tưởng chính trị – đạo đức như “Chính danh”, “Nhân trị”,
“Nhân chính” ln ln là bài học q giá và được vận dụng trong suốt lịch sử
Việt nam.
Nguyễn Trãi trong “Bình Ngơ đại cáo” đã viết:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”,


và “Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn
Đem chí nhân để thay cường bạo”.
Đảng ta thực hiện đường lối lấy dân làm gốc với khẩu hiệu: “Dân giàu, nước
mạnh” và “Chúng ta không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng”.

4. Sự ảnh hưởng của đạo làm người trong lĩnh vực lựa chọn người tài trong bộ
máy nhà nước
Nét đặc sắc của Nho giáo là chú trọng đến vấn đề tu dưỡng đạo đức cá nhân, đặc
biệt là chú ý đến đạo đức người cầm quyền (những người có chức, quyền). G.S. Vũ
Khiêu đã nhận xét: Ở đây Nho giáo đã nhận thức được một thực tế là những người
trong bộ máy nhà nước mà mất đạo đức thì khơng thể cai trị được nhân dân. Cho
nên đạo đức là một phương tiện để tranh thủ được lòng dân. Theo Nho giáo, đạo
đức người cầm quyền có ảnh hưởng lớn đến sự hưng vong của một triều đại. Vì
vậy, Khổng Tử khuyên người cầm quyền phải “tu thân” để làm tấm gương cho
người dưới. Với việc đề cao tu thân, coi đây là cái gốc trong rèn luyện nhân cách,
Nho giáo đã tạo nên một lớp người sống có đạo đức.
Trong lịch sử dân tộc Việt nam đã có nhiều tấm gương sáng ngời về đạo đức của
các vị vua, của các anh hùng hào kiệt. Theo các nhà kinh điển của Nho giáo, người
làm quan phải có đức, phải lấy nhân nghĩa, lấy chữ tín làm mục tiêu để cảm hóa
lịng người, để cai trị. Muốn vậy, phải đặt lợi ích của thiên hạ lên trên lợi ích của
vua quan. Thiết nghĩ, ngày nay tư tưởng nêu trên vẫn còn nguyên giá trị. Người
cán bộ trong bộ máy nhà nước phải có đức, đó là điều kiện đầu tiên để dân tin yêu,
kính phục. Bác Hồ cũng từng sử dụng những thuật ngữ đạo đức của Nho giáo và đã
đưa vào đó những nội dung mới như: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư,
trung, hiếu, …”


Nho giáo coi những người làm quan mà hà hiếp dân là độc ác, để dân đói rét là
nhà vua có tội. Nho giáo đã đề cao việc cai trị dân bằng đạo đức, bằng nhân nghĩa,
bằng lễ giáo. Muốn thực hiện được đường lối đức trị, người cầm quyền phải ln
“tu, tề, trị, bình”.
5. Sự ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo đối với Việt Nam
- Một số người do quá “trọng đức”, “duy tình” trong khi xử lý các công việc và các
mối quan hệ xã hội, dẫn đến buông lỏng kỷ cương phép nước và vi phạm pháp
luật. Coi trọng đạo đức là cần thiết nhưng vì tuyệt đối hóa vai trị của đạo đức mà

qn pháp luật là sai lầm. Tiếp thu truyền thống trọng đức của phương Đông, nhấn
mạnh quan hệ đạo đức “thân thân”, “thân hiền” của Nho giáo, nhiều người khi có
chức quyền đã kéo bè kéo cánh, đưa người thân, anh em họ hàng vào cơ quan mình
đang quản lý. Sắp xếp và bố trí cán bộ khơng theo năng lực, trình độ và địi hỏi của
cơng việc mà dựa vào sự thân thuộc, gần gũi trong quan hệ tơng tộc, dịng họ.
- Trong cơng tác tổ chức cán bộ, vì đề cao quan hệ thân thích dẫn đến tư tưởng cục
bộ địa phương. Nhiều người vì quan hệ thân thuộc mà không dám đấu tranh với
những sai lầm của người khác. Do quan niệm sai lệch về đức Nhân Nghĩa với nội
dung đền ơn trả nghĩa mà trong thực tế một số cán bộ có thái độ ban ơn, cố tình lợi
dụng kẽ hở của chính sách và luật pháp để trục lợi, móc ngoặc, hối lộ, cửa
quyền….Thậm chí, một số người dùng tư tưởng gia trưởng để giải quyết các công
việc chung. Một trong những phẩm chất của người lãnh đạo là tính quyết đốn.
Nhưng quyết đốn theo kiểu độc đốn, chun quyền là biểu hiện của thói gia
trưởng.
- Việc coi trọng lễ và cách giáo dục con người theo lễ một cách cứng nhắc, bảo thủ
là cơ sở cho tư tưởng tôn ti, tư tưởng bè phái, cục bộ, đề cao địa vị, coi thường lớp
trẻ, trọng nam khinh nữ… hiện nay vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ và hành động
của khơng ít người. Những tư tưởng trên phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội phong


kiến phụ quyền gia trưởng: Đứng đầu gia đình là người cha, người chồng gọi là gia
trưởng, đứng đầu dònghọ là trưởng họ, đại diện cho cả làng là ông lý, cả tổng là
ông chánh, hệ thống quan lại là cha mẹ dân và cao nhất là vua (thiên tử - gia trưởng
của gia đình lớn – quốc gia, nước).
- Sự giáo dục và tu dưỡng đạo đức của Nho giáo cịn mang tính cứng nhắc đã tạo
nên những con người sống theo khuôn mẫu, hành động một cách thụ động. Những
tàn dư tư tưởng trên đang làm cản trở và gây khó khăn cho việc xây đựng đạo đức
mới và xã hội mới ở nước ta hiện nay.
6. Sự vận dụng thực tiễn những ảnh hưởng của Nho giáo đối với bản thân
trong công việc hiện tại.

Là một người giáo viên tại trường cao đẳng nghề, em luôn ý thức bản thân phải
luôn trau dồi kiến thức, liên tục học tập để nâng cao bản thân. Đối xử với đồng
nghiệp hòa nhã, với học sinh giữ đúng đạo làm thầy. Tu dưỡng đạo đức cá nhân,
lấy Nhân làm gốc, từ đó mới đi đúng với sự phát triển của nghề nghiệp, vừa có
Nhân, vừa có Trí.
Chương 3. Kết luận
Từ trước đến nay, khơng ai có thể phủ nhận rằng, học thuyết Nho giáo không ảnh
hưởng đến Việt Nam cả xưa và nay. Những quan niệm của Nho giáo như nhân, lễ,
nghĩa, trí, tín được đặt ra trong quan hệ của con người với chính bản thân mình để
tu thân, để trở thành người qn tử, cịn chính danh là yêu cầu đạo đức được đặt ra
trong quan hệ với người khác (với xã hội) để mỗi người thực hiện đúng việc, đúng
phận sự của mình cho đến nay vẫn cịn ngun giá trị và có ý nghĩa thời sự của nó.
Trong điều kiện hiện nay, khi mối quan hệ của con người với con người càng được
mở rộng, khi xã hội đang có những biểu hiện xuống cấp về mặt đạo đức, tệ quan
liêu, tham ô, tham nhũng đang diễn biến phức tạp, thì tư tưởng về đạo làm người


trong mối quan hệ với xã hội của Nho giáo lại càng có ý nghĩa, góp phần điều
chỉnh hành vi của mỗi người để xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.



×