Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

lan anh sl

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.81 KB, 37 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>“Chị em Thúy Kiều”. . Goethe - nhà đại tư tưởng người Đức-từng phát biểu một câu nói rất sâu sắc: “ Chỉ những công cuộc nào vì cảnh ngộ mà làm nên mới lâu bền được ”. Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du quả thật là một tác phẩm làm nên từ cảnh ngộ Sống trong xã hội phong kiến đầy rẫy bất công, chứng kiến nhiều oan khuất của những người phụ nữ, cụ Nguyễn Du đã viết nên danh tác bằng tất cả lòng ngưỡng mộ và cảm thương sâu sắc cho những bóng hồng tài sắc vẹn toàn mà bạc mệnh. Truyện Kiều kể về cuộc đời đầy trắc trở, nỗi đau đớn đoạn trường của nàng Kiều tài sắc, từ đó lên án hiện thực đau lòng của xã hội phong kiến đương thời. Trong tác phẩm, đoạn trích “ Chị em Thúy Kiều ” được đưa vào sách giáo khoa là một đoạn miêu tả nhân vật đặc sắc, thể hiện rõ nét tài sắc của nàng Kiều và đưa ra dự cảm cho số phận đoạn trường của nàng Nguyễn Du sinh ra trong thời kì loạn lạc, đất nước xảy ra nội chiến giữa hai miền NamBắc, nhà Thanh kéo quân xâm lược nước ta. Sinh thời ông chứng kiến nhiều nỗi bất hạnh oan khuất của nhân dân và cảm thương sâu sắc cho số phận của họ, đặc biệt đối với những người phụ nữ. Hoàn cảnh sống và tâm hồn đa tư đa lự của cụ Nguyễn Du đã cho ra đời danh tác truyện Kiều lưu truyền muôn đời. Tác phẩm đặc biệt thành công trong nghệ thuật miêu tả nhân vật, tiêu biểu là trong đoạn trích “ Chị em Thúy Kiều ” với bút pháp ước lệ - lấy cảnh tả người đặc sắc. Đoạn trích không những thành công khắc họa chân dung Vân, Kiều mà còn đưa ra dự cảm về số phận chìm nổi của nhân vật chính Hai câu thơ đầu trong đoạn trích đã giới thiệu sơ lược hai nhân vật được miêu tả: “ Đầu lòng hai ả tố nga Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân ”.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> . Tự ngàn xưa trăng đã xuất hiện nhiều trong thơ ca. Trăng mang một vẻ đẹp dịu dàng, thanh cao mà tràn đầy quyến rũ. “ Tố nga ” là từ Hán Việt có nghĩa đen là vầng trăng đẹp, trong truyện Kiều lại được dùng để giới thiệu hai tiểu thư xinh đẹp, thật là tinh tế ! Ngay từ câu đầu tiên, cụ Nguyễn Du đã giúp người đọc hình dung được Vân và Kiều có vẻ đẹp thanh cao của con nhà quyền quí. Sắc đẹp ấy trở nên rõ nét hơn qua hai câu thơ sau: “ Mai cốt cách, tuyết tinh thần Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười ” Nhắc đến mai và tuyết, ta liền nhớ đến dáng vẻ thanh thoát, uyển chuyển của cây mai và màu trắng tinh khiết, trong sạch của những bông tuyết. Bút pháp ước lệ trong câu thơ “ Mai cốt cách, tuyết tinh thần ” đã nêu phẩm chất tốt đẹp của chị em Thúy Kiều: cốt cách thanh cao, tâm hồn trong sáng. Câu thơ kế tiếp lại khẳng định Vân và Kiều mỗi người đều có một vẻ đẹp riêng và đều là vẻ đẹp hoàn mĩ “ mười phân vẹn mười ”. Vẻ đẹp của người em Thúy Vân chính là: “ Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da ” Vẻ đẹp của nàng Vân là vẻ đẹp phúc hậu từ khuôn mặt đến cử chỉ. Hình ảnh trăng lại xuất hiện để tả khuôn mặt đầy đặn của nàng, hợp với hàng lông mày nở nang tạo nên nét đẹp thuần hậu. Nụ cười tươi như hoa và những lời ngọc ngà, đứng đắn, nghiêm trang của Vân đã nói lên phẩm chất tốt đẹp của nàng. Lại thêm mái tóc bồng bềnh mềm mại như mây và làn da trắng tuyết đã khẳng định Vân là một nữ nhân xinh đẹp, đức độ. Bằng bút pháp ước lệ, Nguyễn Du đã ví vẻ đẹp của Thúy Vân với những gì cao đẹp nhất của thiên nhiên: trăng, con ngài, hoa, ngọc, mây và tuyết. Tuy nhiên việc miêu tả nàng Vân của cụ mang tính cụ thể hơn đối với Kiều: cụ thể trong bút pháp liệt kê mặt, lông mày, tiếng cười, lời nói, mái tóc, làn da, trong cách dùng từ láy “ trang trọng ”, “ đầy đặn ”, “ nở nang ” khiến chân dung nàng trở nên thật rõ nét. Chân dung của nàng cũng mang tính dự báo số phận. Vẻ phúc hậu, hòa hợp với thiên nhiên, được thiên nhiên chấp nhận “ thua ”, “ nhường ” đã nói trước cuộc đời bình lặng, suôn sẻ của nàng Nhan sắc của Vân và Kiều lại mang tính đối lập nhau. Nếu sắc đẹp của Vân nhẹ nhàng, hiền dịu thì Kiều sắc sảo, quyến rũ: “ Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn Làn thu thủy, nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh Một hai nghiêng nước nghiêng thành ” Câu thơ đầu tả Kiều đã khái quát đặc điểm nàng: sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn. Nguyễn Du lại khẳng định nàng tài sắc hơn hẳn em nàng “ So bề tài sắc lại là phần hơn ”. Tác giả vẫn dùng bút pháp ước lệ quen thuộc, nhưng so với khi tả Vân thì nhan sắc của Kiều được tả không rõ rệt “ làn thu thủy, nét xuân sơn”. Người đọc phải ngẫm nghĩ mới hiểu ra cụ ví đôi mắt Kiều như nước hồ thu, lông mày thanh thoát như nét núi mùa xuân. Mùa thu, bầu trời xanh và cao hơn, mặt nước hồ phản chiếu bóng trời càng trở nên sâu hơn. Đôi mắt Kiều cũng như làn thu thủy: trong vắt, long lanh, sâu lắng, phản chiếu cả tâm hồn nàng. Đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn, có sức quyến rũ lớn nhất, có lẽ vì vậy mà cụ Nguyễn Du đã chọn mắt và lông mày để tả Thúy Kiều. Vẻ đẹp của nàng có thể nghiêng nước nghiêng thành, làm thiên nhiên phải “ ghen ”, “ hờn ” chứ không chịu “ thua ”, “ nhường ” như Vân. Ta nhớ đến Bao Tự, Đát Kỉ, Điêu Thuyền…những mĩ nhân khiến hôn quân phải mất nước, đồng thời số phận của họ cũng không tốt đẹp gì. Quả thật “ Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen ”, Nguyễn Du đã dự cảm cho số phận đầy sóng gió, trắc trở của Kiều bởi sắc đẹp “ không thuận lòng trời ” của nàng - một số phận đoạn trường như bao mĩ nhân ngày xưa Không những là một tuyệt sắc giai nhân, Thúy Kiều còn có tài năng thiên phú khó ai sánh bằng:.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> “ Sắc đành đòi một tài đành họa hai Thông minh vốn sẵn tính trời Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm Cung thương làu bậc ngũ âm Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương Khúc nhà tay lựa nên chương Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân ” Theo quan niệm phong kiến, bốn môn cầm, kì, thi, họa là tài năng nghệ thuật của con người. Trong bốn môn thì Kiều đã giỏi được ba là cầm, thi, họa, đặc biệt tài đàn là sở trường hơn hẳn mọi người “ Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương ”. Nguyễn Du đã tả tiếng đàn của Kiều cho thấy tiếng đàn của Kiều đạt đến mức xuất thần nhập hóa, sánh với tiếng nhạc của thiên nhiên: “ Trong như tiếng hạc bay qua Đục như nước suối mới sa nửa vời Tiếng khoan như gió thoảng ngoài Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa ” Hơn thế nàng còn có tài tự viết nên khúc nhạc “ bạc mệnh ” của riêng mình. Cung đàn ấy thương cho số phận những người phận mỏng, xấu số, chứng tỏ Kiều có một trái tim đa sầu đa cảm. Cung đàn cũng dự cảm cho số phận bạc mệnh của Kiều, như trong đoạn đối đáp với Hồ Tôn Hiến, Kiều đã nói: “ Thưa rằng: “Bạc mệnh khúc này, Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ Cung cầm, lựa những ngày xưa Mà gương bạc mệnh, bây giờ là đây ! ” Có lẽ nàng không thể ngờ rằng, bản thân mình cũng phải chịu kiếp bạc mệnh như trong khúc nhạc của mình…Ôi thương thay một mĩ nhân tài sắc vẹn toàn ! Cuộc sống hiện tại của nàng êm ả, bình yên “ Phong lưu nhất mực hồng quần ”, “ Êm đềm trướng rủ màn che ” có ai ngờ nàng phải chịu mười lăm năm luân lạc “ Có tài mà cậy chi tài / Chữ Tài liền với chữ Tai một vần ”.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Đoạn trích “ Chị em Thúy Kiều ” nói riêng và toàn tác phẩm nói chung đạt đến mức hoàn thiện về nội dung lẫn nghệ thuật. Trong đoạn trích, cụ Nguyễn Du đã dùng bút pháp nghệ thuật đòn bẩy, tả nhân vật phụ trước để làm nổi bật nhân vật chính. Ông chỉ dành bốn câu thơ để tả Vân, trong khi dành tới mười hai câu để cực tả vẻ đẹp của Kiều. Đặc biệt, bức tranh tả Thúy Kiều hội tụ đầy đủ những yếu tố sắc, tài, tình, làm nổi bật hình ảnh nhân vật chính. Cách lồng dự báo về số phận các nhân vật trong những chi tiết miêu tả cũng làm nên nét đẹp của đoạn trích Đoạn trích “ Chị em Thúy Kiều ” là một trong những đoạn miêu tả nhân vật đặc sắc nhất của truyện Kiều. Bằng bút pháp ước lệ, Nguyễn Du đã làm nổi bật chân dung của chị em Kiều. Ca ngợi tài năng, vẻ đẹp con người và dự cảm cho kiếp người tài hoa bạc mệnh là biểu hiện của cảm hứng nhân văn ở Nguyễn Du. Cảnh ngày xuân I. . Giới thiệu khái quát đoạn trích: 1. Đoạn trích Cảnh ngày xuân nằm ngay sau phần giới thiệu chị em Thúy Kiều. Trong đoạn trích này, Nguyễn Du miêu tả cảnh du xuân của mấy chị em nhà họ Vương. Đây là đoạn thể hiện tài năng của Nguyễn Du trong việc miêu tả thiên nhiên. 2. Đoạn thơ miêu tả vẻ đẹp của mùa xuân ở thời điểm của tiết Thanh minh. Mùa xuân và cảnh thiên nhiên trong đoạn thơ hiện lên tươi đẹp, trong sáng ở giai đoạn rực rỡ và viên mãn nhất của mùa xuân. Không chỉ miêu tả vẻ đẹp của mùa xuân Nguyễn Du còn làm sống lại những nét văn hoá qua không khí lễ hội mùa xuân. Và như thế ở đây vừa có vẻ đẹp thiên nhiên, vừa có vẻ đẹp con người. 3. Trong đoạn thơ này Nguyễn Du đã kết hợp tả và gợi, tả cảnh ngụ tình theo phong cách ước lệ cổ điển với một ngôn ngữ giàu chất tạo hình. Qua bức tranh mùa xuân người đọc còn cảm nhận rất rõ tâm trạng của nhân vật. II. Phân tích: 1. Cảnh thiên nhiên mùa xuân trong đoạn thơ được Nguyễn Du miêu tả theo bước đi của thời gian: - 4 câu đầu: Miêu tả cảnh sắc mùa xuân. - 8 câu thơ tiếp: Miêu tả cảnh lễ hội trong tiết thanh minh. - 6 câu còn lại : Cảnh chị em Kiều đi chơi xuân về khi lễ hội đã tan. Cách tổ chức kết cấu này cho phép người đọc nhận ra: + Sự vận động của thiên nhiên và sự biến đổi trong tâm trạng của con người . + Cảnh xuân trong những câu mở đầu với cảnh xuân sau khi chị em kiều đi chơi về có những thay đổi rõ rệt . Từ đó cho ta thấy : + Cảnh vật và tâm trạng của nhân vật trong thơ Nguyễn Du bao giờ cũng vận động chứ không đứng yên . + Cách miêu tả như Nguyễn Du cũng là theo nguyên tắc của thơ xưa, tả cảnh ngụ tình có nghĩa là ở đoạn thơ này Nguyễn Du đã miêu tả cảnh mùa xuân qua cái nhìn tâm trạng và.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> được nhìn từ tâm trạng của chị em Kiều theo nguyên tắc: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu - Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.” 2. Cảnh mùa xuân hiện ra trong 4 câu thơ đầu là cảnh sắc được nhìn và miêu tả từ cái nhìn thời gian và không gian: a. 2 câu thơ đầu: - Là cái nhìn thời gian về khung cảnh mùa xuân đó là cái nhìn thấm đẫm tâm trạng của người trong cuộc. “Ngày xuân con én đưa thoi Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.” - Câu thơ “con én đưa thoi ” có thể hiểu theo 2 cách: + Những cánh chim én có thực rộn ràng bay lượn giưã bầu trời mùa xuân trong sáng. + Cánh én đưa thoi là biểu tượng của bước đi thời gian: thời gian mùa xuân đang trôi qua rất nhanh. Khung cảnh mùa xuân ở đây đã được nhìn từ cái nhìn tâm trạng của chị em Thúy Kiều đó là cái nhìn tươi trẻ. - Ở câu thơ thứ hai, từ “đã ngoài ” ẩn chứa thái độ để làm rõ hơn cái nhìn của chị em Kiều về bước đi thời gian của mùa xuân và đó là một cái nhìn nuối tiếc. Ở đây do sự tiết chế về ngôn từ, do tư cách của người chuyện, do quy tắc của việc biểu hiện cái tôi trong văn học trung đại, Nguyễn Du đã không thể để cho nhân vật của mình kêu lên đầy nuối tiếc, đầy táo bạo và mãnh liệt như xuân Diệu- nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, sống sau Nguyễn Du một thế kỉ - dù là tâm trạng mới bước đi của mùa xuân là giống nhau ở 2 thi sĩ : “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân ” (Vội vàng) Nên:. “Nhanh lên chứ, vội vàng lên với chứ Em em ơi tình non đã già rồi” (Giục giã). b. Hai câu thơ tiếp theo là bức tranh xuân được tả cận cảnh với cái nhìn không gian dẫn đến đây là 2 câu thơ “tuyệt bút ” của Nguyễn Du khi miêu tả. + Chỉ với 2 câu mà mùa xuân hiện ra như một bức tranh có màu sắc tuyệt diệu, hài hoà. Thảm cỏ xanh làm nền cho bức tranh xuân, trên cái nền ấy điểm một vài bông hoa lê trắng. Màu xanh và sắc trắng tôn vinh lẫn nhau tạo ra một bức tranh xuân sống động, mới mẻ, tinh khiết và tràn đầy sức sống. + Chỉ bằng một nét vẽ cảnh mùa xuân dường như được nhuộm trong một màu xanh mềm mại và non tơ dẫn đến cách dùng từ của Nguyễn Du đã khéo léo tài tình tạo nên màu.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> xanh ấy: “Cỏ non xanh tận chân trời ” . Trong câu thơ này từ “non ”vừa bổ nghĩa cho từ cỏ đứng trước lại vừa bổ nghĩa cho từ xanh ở sau dẫn đến gợi nên một màu xanh non tơ và óng ả. Không chỉ thế 3 từ “tận chân trời” lại khiến cho màu xanh ấy kết thành hình khối, mở rộng không gian, đó là một không gian xuân bạt ngàn màu xanh (ngập tràn màu xanh) đúng hơn là một biển cỏ xanh mênh mông, bát ngát và dào dạt sức sống xanh non tơ. + Trên cái nền xanh gợi cảm ấy tác giả điểm xuyết sắc trắng của một vài bông hoa trên cành lê “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa ”. Suy ra chọn cỏ và hoa lê để miêu tả sắc xuân đã có từ rất lâu trong thơ ca cổ của Trung Quốc: “ Cỏ thơm liền với trời xanh Trên cành lê có mấy bông hoa ” Và có thể biết 2 câu thơ tuyệt bút Nguyễn Du đã mượn ý thơ từ 2 câu thơ cổ nói trên. Bằng tài hoa của mình, Nguyễn Du đã thổi vào đó ngọn gió vô hình của tâm tình để tạo ra sự sống riêng biệt cho 2 câu thơ tuyệt bút của mình. Đó là ở câu thơ thứ 2, ông thêm một từ “trắng” , ông lại còn đảo ngược cách dùng từ thông dụng: “điểm trắng” suy ra “trắng điểm” . Chỉ một chút thay đổi đó thôi tưởng là đơn giản vậy mà ngoài Nguyễn Du khó có ai có thể làm được bởi vì nếu viết “điểm trắng ” thì ý thơ và âm điệu của thơ không thay đổi nhưng đó chỉ là cách vẽ tranh của một nghệ nhân bắt chước mà không có hồn . Còn Nguyễn Du viết “trắng điểm” thì lại tạo ra yếu tố bất ngờ nghĩa là “trắng điểm” tức là điểm xuyết vào đó một chút sắc trắng của mình để chăm chút tô điểm cho sắc xuân bằng bàn tay vô hình của tạo hoá một cách ý nhị và tinh tế. Chính vì thế thêm một chút, thay đổi một chút vậy mà hương của cành lê tưởng chừng như không còn là chính nó. Cách dùng từ khác biệt đã giúp Nguyễn Du tạo ra hai thế giới khác biệt và như thế Nguyễn Du đã tô đậm hợp cảnh mùa xuân sinh động, gợi cảm, non tơ, mềm mại và hài hoà màu sắc. c. 8 câu thơ tiếp nối là khung cảnh lễ hội: - Lễ tảo mộ: đi sửa sang, quét dọn mộ người thân. - Hội đạp thanh: hội chơi mùa xuân ở làng quê. Suy ra ở 8 câu thơ này Nguyễn Du thiên về miêu tả cảnh hội hơn là lễ. Đặc biệt ông nhấn mạnh không khí náo nức, rộn ràng của lễ hội. Vì: + Sự nô nức và đẹp đẽ, rộn ràng của lễ hôi tương hợp với vẻ đẹp trong sáng và tràn đầy sức sống của mùa xuân ở 4 câu thơ đầu. + Cảnh ngày xuân được cảm nhận và miêu tả từ cái nhìn của hai chị em Kiều tạo nên sự trẻ trung trong tâm hồn của hai chị em cũng như tương hợp với ko khí nô nức, rộn ràng của ngày xuân hơn là lễ hội. - Ở đây Nguyễn Du còn làm sống lại những nét văn hóa xưa qua nghệ thuật miêu tả đám đông. Lễ chỉ là cái cớ còn cái đích thực cuối cùng ở đây là hội. Bởi vậy “tro tiền giấy bay”, “thoi vàng vó rắc” chỉ qua chỉ là nghi thức, tất cả Nguyễn Du dành cho sự náo nhiệt của giai nhân, tài tử của xe ngựa, của áo quần là lượt. Trong không khí đó không rõ.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> gương mặt ai nhưng ai cũng thấy mình ở trong đó. - Những từ láy dùngg trong phép đối hài hoà tạo ra ấn tượng không thể quên về lễ hội nô nức rộn ràng. Đồng thời Nguyễn Du cũng qua đó để miêu tả tâm trạng nô nức, háo hức của chị em Kiều. d. 6 câu thơ cuối: Tả cảnh chị em Kiều đi chơi xuân trở về: Đây là lúc hội đã tàn, ngày chuyển về chiều nghĩa là cảnh xuân đang dc mt đúgn theo bước đi của thời gian. - Ở 6 câu thơ này Nguyễn Du đã dùng một loạt từ láy mang nghĩa giảm nhẹ: + Giảm nhẹ về động tác và về chuyển động : tà tà, thơ thẩn, nao nao. + Giảm nhẹ về sự sắc nét của bức tranh phong cảnh làm cho phong cảnh trở nên mơ hồ và thấp thoáng hơn: thanh thanh, nho nhỏ. Các từ láy này tạo ra sự tương phản với cảnh lễ hội tấp nập, nhộn nhịp ở trước đó. Đồng thời sự tương phản này cũng khắc hoạ tinh tế bước đi của thời gian. - Nhưng bên cạnh đó là các từ láy với nghĩa giảm nhẹ lại còn mang nghĩa bóng. Nghĩa là chúng không chỉ miêu tả cảnh sắc thiên nhiên theo bước đi của thời gian mà còn nhuộm màu tâm trạng, đó là tâm trạng “thơ thẩn “ của chị em Kiều lúc này, tất cả đều lắng xuống, chơi vơi trong một trạng thái mơ hồ nhưng có thực. Nó là nỗi bâng khuâng, man mác nuối tiếc trong một nỗi buồn không goi tên được. Cách dùng từ như thế này biểu hiện tài hoa và khéo léo của Nguyễn Du khi lấy đà để chuyển ý của câu chuyện sang một cảnh mới với một tâm trạng mới của nhân vật. Cảnh chị em Kiều sẽ gặp nấm mồ Đạm Tiên. - So sánh cảnh mùa xuân trong 6 câu đầu với 6 câu cuối trong đoạn trích: Có sự khác biệt: + 6 câu đầu: Bức tranh thiên nhiên mùa xuân đẹp đẽ khoáng đạt tinh khôi thanh khiết mới mẻ và đầy sức sống + 6 câu cuối: Cảnh chiều tà không còn ồn ào náo nhiệt mà cảnh cứ nhạt dần, lặng dần, tâm trạng buồn lưu luyến bâng khuâng khi trở về. Thời gian khác thì không gian cũng khác. Nếu cảnh trong bốn câu đầu là cảnh buổi sáng lúc lễ hội mới bắt đầu thì ở đây là cảnh chiều tan hội. Tâm trạng mọi người theo đó cũng khác hẳn. Ngày vui nào rồi cũng qua, cuộc vui nào rồi cũng tàn... Bởi lẽ "Sự vật chảy trôi không ngoái đầu nhìn lại...Sự vật chảy trôi không quyền nào ngăn cản nỗi." ( R. Tagore) 4. Tóm lại cảnh xuân và tâm trạng của con người trong đoạn trích có mối tương quan lẫn nhau. - Cảnh xuân trong trẻo đầy sức sống tương hợp với nô nức, trẻ trung của những giai nhân, tài tử đi lễ hội mùa xuân - Sự thay đổi của cảnh vật cũng khiến cho hành động, tâm trạng của con người thay đổi. Đó chính là nét đặc sắc của thiên tài Nguyễn Du, sự tương hợp đó đã tạo nên vẻ đẹp hài hoà giữa cảnh và người. Tất cả tạo nên một bức tranh trong trẻo, đầy sức sống: Bức tranh mùa xuân. => - Đoạn thơ có kết cấu hợp lí, vừa gợi, vừa tả đã làm cảnh vật thiên nhiên được nổi rõ. - Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của nhà thơ. - Cái tài và lòng yêu thiên nhiên của Nguyễn Du.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Kiều ở lầu Ngưng Bích. Nguyễn Du_ nhà đại thi hào của dân tộc Việt Nam, đã để lại cho đời rất nhiều những tác phẩm chứa đầy tâm huyết. Trong số đó, “Truyện Kiều” hay “Đoạn trường tân thanh” là tác phẩm tuyệt vời nhất, có khả năng đi vào tâm tưởng hàng bao thế hệ già trẻ, lay động trái tim những con người yêu thơ. Qua “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã gởi gắm vào đó bao nhiêu là tâm tư, tình cảm, dẫn người đọc cùng đi trên hành trình tư tưởng của mình, đưa ta qua những cung bậc cảm xúc khác nhau, từ cái ngỡ ngàng này tới cái ngỡ ngàng khác. Trong đó, người đọc không khỏi ngỡ ngàng trước nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật và phép tả cảnh ngụ tình tài ba của ông qua đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Đoạn trích nằm ở phần giữa của tác phẩm, và dưới ngòi bút điêu luyện cùng tấm lòng thương người, thông cảm cho thân phận người của Nguyễn Du, đoạn trích đã gợi tả một cách đầy cảm động tâm trạng cô đơn, buồn tủi cũng như tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Kiều. Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân Bâng khuâng nhớ cụ, thương thân nàng Kiều Hỡi lòng tê tái thương yêu Giữa dòng trong đục, cánh bèo lênh đênh. Số phận nàng Kiều lận đận, đớn đau đến mức nhà thơ Tố Hữu đã ví như cánh bèo lênh đênh, bơ vơ lờ lững giữa dòng đời trong đục. Cuộc đời nàng trước nay vốn ấm êm yên bình, nay lại bị cuốn theo vòng xoay của cơn bão dữ. Bao biến cố khủng khiếp xảy.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> ra: gia đình bị vu oan, cha và em lâm vào cảnh tù tội, còn nàng sau khi tự nguyện bán thân đã bị đẩy vào chốn lầu xanh sống cuộc đời tủi nhục. Sau khi tìm đến cái chết không thành công, Thúy Kiều bị đem ra giam ở lầu Ngưng Bích, một nơi hoang vắng quạnh quẽ, bóng người hiếm hoi, nơi mà nàng chỉ có thể sống trong cô đơn, tự mình gặm nhấm nỗi buồn của chính mình. Những dòng thơ đầu của đoạn thơ như mở ra một không gian bao la rộng lớn, nơi của một không gian nghệ thuật và một tâm trạng nghệ thuật đồng hiện, nơi cảnh vật và tâm tình tìm được tiếng nói chung, tiếng nói của một trái tim đơn côi, một tâm hồn lạnh lẽo: Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân, Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung. Ở một mình chốn lầu Ngưng Bích bơ vơ trơ trọi, với lời dụ dỗ ngọt ngào của bọn buôn người bất nhân_ Tú Bà nói “Con hãy thong dong…Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi”_ nhưng thực chất lại là một hình thức giam cầm, như ý nghĩa của hai từ “khóa xuân” mang đầy vẻ mỉa mai, trách móc. Từ một cuộc sống êm đềm ấm áp bên gia đình, bên người yêu, bỗng chốc bao nhiêu tai ương ập đến vùi dập thân phận nàng tả tơi với sóng trôi bể nổi, cuối cùng lại bị đưa đến lầu xanh rồi bị đem ra lầu Ngưng Bích giam lỏng, đối với Kiều, đó thật sự là một cú sốc rất lớn, một mất mát vô cùng nặng nề về mặt tinh thần. Trong cảnh ngộ cô đơn éo le ấy, nàng chỉ còn biết trải lòng mình lên cảnh vật, gửi gắm tâm hồn vào thiên nhiên, lắng nghe tiếng thổn thức phát ra từ tận đáy con tim. Cảnh tượng nơi lầu Ngưng Bích này thật đẹp: có núi non xa, vầng trăng gần đều hút chung vào tầm mắt. Hai từ ngữ đối lập “xa – gần” cùng từ “ở chung” như góp phần hoàn thiện thêm cái cạnh tượng thật nên thơ nhưng cũng thật quạnh quẽ phía trước lầu. Bốn bề bát ngát xa trông, Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia. Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Trông ra bốn bề, nàng thấy một không gian rộng lớn bát ngát hiện lên. Nghệ thuật đảo ngữ ở đây làm ta cảm nhận rõ hơn cái rộng lớn của cảnh vật, cũng như cái trống trải của tâm hồn Thúy Kiều. Nhìn xa nhìn gần là những cồn cát vàng trải dài vô tận, là những dặm bụi hồng xa xôi ngút ngàn. Các vế câu đối xứng nhau cùng những cặp từ “nọ - kia, xa – gần” như đợt sóng dồi tầng tầng lớp lớp trong tâm trí, xô đẩy thêm nữa cái tâm trạng lộn xộn của người con gái. “Bẽ bàng” trước mặc cảm xấu hổ, chìm đắm trong tủi nhục, trong cái vòng tuần hoàn ước lệ “mây sớm đèn khuya”, Kiều còn bị giằng xé cực độ giữa nét buồn của cảnh và cái ngổn ngang của tình, mạnh đến mức muốn “chia tấm lòng” nàng thành hai nửa. Một nửa phiêu diêu theo khung cảnh trống trải, một nửa ở lại với mảnh tình đơn côi. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của tác giả thật vô cùng đặc sắc, diễn tả thật cảm động nỗi buồn và tình cảnh éo le của Kiều. Tình cảnh nàng Kiều lúc này thật chẳng khác gì sống trong địa ngục: thân xác bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, tâm hồn bị giam cầm trong vòng xoay khép kín của thời gian sớm - tối, và tình cảm thì bị giam hãm trong mớ tơ lòng rối bời. Phận nàng mới đáng thương làm sao!.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Trong cảnh ngộ đớn đau ấy, trong tim người con gái bỗng trào dâng một nỗi nhớ thương da diết. Từng trang ký ức của quãng thời gian yên bình, của một thời sống ấm êm bên gia đình, người thân được nàng Kiều chậm rãi lật lại, và cũng từ từ nhen nhóm trong lòng nàng niềm nhớ nhung man mác mà dai dẳng khôn nguôi. Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, Tin sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời góc bể bơ vơ, Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Nàng nhớ về Kim Trọng_ mối tình đầu trong sáng ngây thơ, hạnh phúc, ngọt ngào chỉ vừa mới bắt đầu đã đột ngột kết thúc. Hình ảnh ẩn dụ “người dưới nguyệt chén đồng” đã nói lên tất cả những chua xót trong lòng Thúy Kiều. Mới ngày nào cả hai còn cùng nhau nói lời thề nguyền dưới trăng, đã “Đinh ninh hai mặt một lời song song”, đã cùng nhau nhấp cạn chén rượu tình chung “Chén hà sánh giọng quỳnh hương” thì hôm nay mỗi người đã lẻ loi ở một nơi khác nhau. Kim Trọng về quê chịu tang chú còn nàng phải “Bên trời góc bể bơ vơ” chốn lầu Ngưng Bích quạnh vắng cô đơn. Nỗi nhớ đan xen cùng nỗi nhớ. Và cái cảm giác có lỗi với người yêu cứ lẫn vào nhau, quấn lấy tâm trí nàng. Bất hạnh ập đến quá nhanh, chia ly mà chẳng kịp nói lên lời từ biệt. Lòng nàng bỗng quặn đau khi nghị đến chàng Kim đang mỏi mòn chờ đợi tin tức mình, cũng như nàng lúc này vẫn còn ngóng trông tin tức người yêu. Xót cho Kim Trọng mải chờ đợi mình, xót cho cái tình cảm ấm nồng mà sớm bị chia xa, Kiều càng xót hơn nữa cho cái thân phận bèo bọt nổi trôi, phải bất đắc dĩ mà mang danh bội thề phụ nghĩa của mình. Tuy vậy, nàng vẫn cố tự nhủ rằng tấm lòng son sắt thủy chung của nàng sẽ không bao giờ thay đổi dù trải qua biến chuyển của thời gian, không bao giờ phôi pha dù có gột rửa như thế nào, và dù rằng giờ đây nàng tự thấy mình không còn xứng với Kim Trọng nữa. Nỗi nhớ được Kiều chuyển từ Kim Trọng sang gia đình, người thân. Mặc dù đã tự nguyện bán thân lấy tiền cứu cha và em, mặc dù gia đình đã thoát khỏi cảnh tù tội, bên trong lòng Kiều vẫn canh cánh một niềm thương khôn xiết, một nỗi nhớ cay đắng đến xót xa: Xót người tựa cửa hôm mai, Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm. Các từ ngữ chỉ thời gian xa cách “hôm mai”, “cách mấy nắng mưa”, các thi liệu điển cố từ “Nhị thập tứ hiếu” ở Trung Quốc “sân Lai”, “gốc tử”, và sự xuất hiện của thành ngữ dân gian “quạt nồng ấp lạnh” càng tô đậm thêm nỗi lòng người con hiếu thảo. Kiều khắc khoải khi “nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn”, áy náy vì phận làm con cả mà chẳng thể nào chăm sóc, chẳng được thực hiện cái nghĩa vụ thiêng liêng “quạt nồng ấp lạnh” cho cha mẹ, dù song thân đã già yếu, dù “gốc tử đã vừa người ôm. Hình ảnh ẩn dụ “tựa cửa hôm mai” cùng tâm trạng “xót” của nàng Kiều khi nghĩ đến cha mẹ lớn tuổi vẫn mỏi mòn ngóng đợi đứa con lưu lạc xứ khác, làm lòng nàng đau quặn thắt. Ai đời.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> phận làm con lại không thể phhụng dưỡng mẹ cha tuổi xế chiều, lại không thể ở bên hai đấng sinh thành sớm tối? Bốn câu thơ như cực tả nỗi nhớ thương cha mẹ nàng Thúy Kiều, và thật lạ thay, nỗi luyến nhớ ấy của nàng lại làm lòng ta xao xuyến, bồi hồi đến lạ. Càng “tưởng” chàng Kim, càng “xót” cha mẹ, nàng Kiều càng buồn hơn cho số kiếp éo le, cho cảnh ngộ bị kịch của mình. Một lần nữa nàng lại gửi gắm tâm sự vào khung cảnh, như tác giả Nguyễn Du viết trong nhưng câu thơ tiếp theo. Mang cái tâm trạng sầu não ấy, Kiều đưa mắt nhìn ra cửa bể, nơi ánh hoảng hôn lênh láng phủ đầy. Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Không gian mênh mông nơi ánh hoàng hôn buông xuống cũng trở nên nặng nề bởi tâm trạng buồn nơi nàng Kiều. Một không gian gợi buồn, một thời gian đượm buồn, và một tâm trạng đặc quánh những nỗi buồn vô hạn. Con thuyền hiện lên “xa xa”, giữa làn nước xanh thẳm của biến cả với cánh buồm “thấp thoáng”, thoắt ẩn thoắt hiện, mờ ảo như giấc mơ nhưng lại thấm đẫm nỗi buồn thực tại. Cánh buồn ấy đi đâu và về đâu, liệu có khi nào nó sẽ dừng chân nơi quê hương nàng, nơi gia đình nàng chăng? Bằng hình ảnh cổ điển “cánh buồm” quen thuộc, nhà thơ đã khắc họa nên niềm nhớ thương quê nhà và nỗi đau của người con gái tha hương nơi đất khách, lẻ loi chốn quê người. Nỗi buồn ấy lại như nhân đôi khi Thúy Kiều ngắm nhìn cánh hoa rã rời trôi theo dòng nước: Buồn trông ngọn ngước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu? Thuyền “thấp thoáng” trong khoảng không tít tắp, hoa cũng “man mác” trôi trong không gian vô định. Đóa hoa bị đẩy đưa trên “ngọn nước mới sa” ấy có khác chi đâu thân phận nổi trôi của Kiều? Kiếp sống lạc loài lẻ loi, không biết rồi đây sẽ bị đẩy đưa đến nơi nao, sẽ bị vùi dập như thế nào trớ trêu thay, chính Kiều lại là hiện thân của nó. Cánh hoa rã rời trôi trên dòng nước, như cuộc đời nàng lững lờ trôi trong dòng đời. Hoa lìa cội, lìa cành, hoa rã cánh, để mặc cho sóng nước dập dịu cuốn đi. Kiều xa nhà, xa quê, xa người thân, nhắm mắt mặc cho cái ba chìm bảy nổi chốn chợ đời lắm rình rập hiểm nguy. Điệp ngữ “buồn trông” được lặp lại thể hiện nỗi buồn dào dạt sâu thẳm: nhìn cảnh sắc hữu hình lại cảm nhận cái vô hình chất chứa_ số kiếp hoa trôi bèo nổi, lênh đênh lận đận của nàng Kiều. Xung quanh Kiều lúc này, cảnh vật cũng như nhuốm lên mình một sắc màu héo tàn, tẻ nhạt, từ “nội cỏ” đến “chân mây mặt đất”: Buồn trong nội cỏ rầu rầu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Ngay đến cỏ cây_ dấu hiệu của sự sống, biểu hiện của sự tồn tại cũng mạng nặng màu “rầu rầu”, “xanh xanh” héo úa tàn phai. Âm điệu thơ như phảng phất nét buồn do sử dụng nhiều vần bằng dàn trải. Không phải là một thảm cỏ xanh đầy sức sống, không phải.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> là cái mặt đất xanh tươi ngút ngàn mà chỉ là sắc “xanh xanh” đơn điệu. Còn đâu nữa cái “cỏ non xanh tận chân trời” xanh tươi mát mắt như trong tiết Thanh minh? Vẫn là thảm cỏ ấy, vẫn là mặt đất ấy nhưng sao chỉ thấy cái màu “rầu rầu” “xanh xanh” nhạt nhòa, tẻ ngắt. Lẽ nào cái khổ não trong lòng người con gái đáng thương ấy lênh láng đến mức có thể thấm dần vào thiên nhiên, khiến cho cảnh sắc dù thơ mộng đến đâu cũng đều bất giác phủ lên mình một màu tàn úa? Giữa bốn bề phong cảnh rộng lớn nhưng trơ trọi ấy, Kiều nhìn ra biển và chính lúc này, nàng cảm nhận rõ ràng cái nỗi sợ hãi đang dâng lên trong lòng, cao ngất hơn bao giờ hết. Nàng chợt nghe, chợt thấy: Buồn trông gió cuốn mặt duềnh, Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Âm điệu thơ bỗng trở nên dữ dội hẳn lên trước cái gầm gào ầm ĩ của tiếng sóng, khi các từ gợi thanh “ầm ầm”, “kêu” xuất hiện. Cơn gió cuốn trên mặt duềnh, sóng cuộn lên, ào tới, xô đẩy, bủa vây quanh ghê ngồi Kiều, choáng ngợp cả tâm tư nàng. Đó là sự thật hay chỉ là hư vô, là thực tại hay chỉ là ảo ảnh? Hay đó chính là nỗi hoang mang, sợ hãi của nàng Kiều khi bị bao vây bởi muôn vàn cạm bẫy, khi bị nhấn chìm bởi dòng đời, khi cảm thấy cô đơn và hoàn toàn bất lực? Thiên nhiên, cảnh vật được miêu tả rõ dẫn nhưng ta thấy sao vẫn còn xa xôi quá. Tiếng sóng dội ra từ tâm hồn Kiều, từ tiếng lòng gào thét nơi tận đáy lòng của cô gái đang chơi vơi như đứng bên bờ vực thẳm, lạc lõng như cánh chim tách bầy. Cái âm thanh đầy u uất ấy cũng đồng thời dự báo cho một tương lai khủng khiếp sắp sửa giáng xuống, là lời hé mở cho những tai ương rồi đây sẽ lại vùi dập cuộc đời nàng thêm lần nữa. Nếu như ở những câu thơ đầu, nàng Kiều nhìn cảnh sắc mà bật nên nỗi tình thì ở tám câu thơ này, cái buồn thương vô hạn của nàng đã nhuốm dần, thấm dần lên cảnh vật. Đoạn thơ vừa như bức họa cảnh vật vừa như tiếng lòng nức nở khi lần đầu lạc bước giữa đường đời đầy ngang trái, vừa là điệp khúc của đoạn trích vừa là điệp khúc tâm trạng của nàng Vương Thúy Kiều. Với thể thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại, kết hợp cùng phép điệp ngữ liên hoàn “Buồn trông”_ càng buồn lại càng trông, càng trông lại càng buồn, và những từ láy gợi cảm xúc, gợi hình ảnh, âm thanh phong phú: “thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm” đã diễn tả nỗi buồn với nhiều mức độ khác nhau, mang những sắc màu u ám khác nhau, trào lên như những đợt sóng dữ xô bờ. Điệp ngữ “Buồn trông” xuất hiện ở vị trí đầu câu sáu của mỗi cặp lục bát cũng chính là cảm xúc chủ đạo của cả đoạn thơ, của tâm trạng tê tái thảng thốt, hãi hùng, sợ hãi, lo sợ, của cái niềm thương lớn lao bao trùm: thương người yêu ngóng chờ, thương cha mẹ già yếu, và thương cho thân phận bạc thếch như vôi, cho số mệnh lắm điều hẩm hiu của chính Kiều. Trong tình có cảnh, trong cảnh hữu tình, ngoại cảnh, tâm cảnh như hòa làm một với nhau tạo nên một bức tranh nghệ thuật tả cảnh ngụ tình và ước lệ vô cùng đẹp đẽ, cảm động. Có thể nói rằng, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc Việt Nam ta, bức tranh tâm tình thê lương của nhân vật lại được vẽ nên một cách trọn vẹn, gợi cảm và xúc động như vậy. Bằng ngòi bút thiên tài của mình, Nguyễn Du đã làm nổi bật lên nỗi buồn thương da diết đan xen cùng hàng bao niềm nhớ của nàng Kiều bằng một tấm lòng cảm.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> thương thấu hiểu và một nhiệt huyết tràn đầy, sôi nổi, say sưa. Đó chính là biểu hiện của cảm hứng nhân văn nơi con người có tấm lòng nhân đạo to lớn, mênh mông như đại dương biển cả, bao la như vòm trời xanh thẳm_nhà đại thi hào của dân tộc Tố Như. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thể hiện sự tài tình không ai sánh bằng trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của nhà thơ Tố Như, xuất phát từ vốn hiểu biết sâu rộng có được từ cuộc đời từng trải, đi nhiều, tiếp xúc nhiều, hiểu nhiều, và cũng gặp nhiều khó khăn của ông. Tất cả, tất cả đã làm cho đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” trở nên đặc sắc, tuyệt diệu. Các biện pháp nghệ thuật được lồng ghép khéo léo, kết hợp đan xen với nhau trong từng câu thơ. Từ ngữ được trau chuốt kĩ càng đến mức đạt trình độ cao nhất của sự điêu luyện. Nhờ đó mà đoạn trích như tỏa sáng hơn, và đọng lại nhiều hơn trong tâm trí, tư tưởng người đọc. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật đặc sắc nhất, thành công nhất trong “Truyện Kiều”, đặc biệt là bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Nó đã góp phần đưa “Truyện Kiều” trở thành một trong những tác phẩm bất hủ trong nền văn học nước nhà, và nếu rộng ra hơn nữa, là của toàn nhân loại. Tác phẩm sẽ mãi như viên minh châu tỏa sáng lấp lánh trong lòng bao thế hệ đọc giả yêu thơ, như nhận định của Dương Quảng Hàm: “Trên từ các bậc văn nhân thi sĩ, dưới đến các kẻ thường dân phụ nhụ, ai cũng thích đọc, thích ngâm và thuộc được ít nhiều...”. Đồng chí Đề : Phân tích bài thơ "Đồng chí "của Chính Hữu. DÀN Ý CHI TIẾT I. Mở bài : - Giới thiệu tác phẩm :Đồng chí, tác giả : Chính Hữu. - Hoàn cảnh sáng tác : đầu năm 1948, sau khi tác giả đã cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt bắc . Vào những năm kháng chiến chống Pháp, đất nước ta sục sôi ý chí, quyết tâm đánh giặc. Hoà mình vào khí thế ấy đã có hàng vạn , hàng triệu thanh niên nhập ngũ. Những chiến sĩ dũng cảm, can trường ấy đã trở thành một hình tượng, một đề tài trong thơ ca thời đó. Một trong những bài thơ rất hay về người chiến sĩ, về tình đồng đội là bài Đồng chí của nhà thơ lính Chính Hữu. II. Thân bài : 1.Cơ sở hình thành tình đồng chí : - Tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người lính :.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> "Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá". "Anh" ra đi từ vùng "nước mặn đồng chua", "tôi" từ miền "đất cày lên sỏi đá". Hai miền đất xa nhau, "đôi người xa lạ" nhưng cùng giống nhau ở cái "nghèo". Hai câu thơ giới thiệu thật giản dị hoàn cảnh xuất thân của người lính :họ là những người nông dân nghèo. - Tình đồng chí hình thành từ sự cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng, sát cánh bên nhau trong hàng ngũ chiến đấu : "Súng bên súng, đầu sát bên đầu" Họ vốn "chẳng hẹn quen nhau" nhưng lý tưởng chung của thời đại đã gắn kết họ lại với nhau trong hang ngũ quân đội cách mạng. "Súng" biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu, đầu biểu tượng cho lý tưởng, suy nghĩ. Phép điệp từ (súng, đầu, bên) tạo nên âm điệu khoẻ, chắc, nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung lý tưởng, cùng chung nhiệm vụ. - Tình đồng chí nảy nở và bền chặt trong sự chan hoà và chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui : Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ. Cái khó khăn thiếu thốn hiện lên : đêm rét, chăn không đủ đắp nên phải "chung chăn". Nhưng chính sự chung chăn ấy, sự chia sẻ với nhau trong gian khổ ấy đã trở thành niềm vui, thắt chặt tình cảm của những người đồng đội để trở thành "đôi tri kỷ". * Đến đây, nhà thơ hạ xuống một giọng thơ thật đặc biệt với hai tiếng : "Đồng chí !" câu thơ ngắn, cùng với hình thức cảm thán mang âm điệu vui tươi, vang lên như một sự phát hiện, một lời khẳng định,. Hai tiếng "đồng chí" nói lên một tình cảm lớn lao, mới mẻ của thời đại . => Sáu câu thơ đầu đã giải thích cội nguồn và sự hình thành của tình đồng chí giữa những người đồng đội. Câu thơ thứ bảy như một cái bản lề khép lại đoạn thơ một để mở ra đoạn hai. 2. Những biểu hiện cảm động của tình đồng đội : - Tình đồng chí là sự cảm thông sâu sắc những tâm tư, nỗi niềm của nhau. Những người lính gắn bó với nhau, họ hiểu đến những nỗi niềm sâu xa, thầm kín của đồng đội mình : Ruộng nương anh gửi bạn thân cày, Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Người lính đi chiến đấu để lại sau lưng những gì yêu quý nhất của quê hương : ruộng nương, gian nhà, giếng nước gốc đa,... Từ "mặc kệ"cho thấy tư thế ra đi dứt khoát của người lính. Nhưng sâu xa trong lòng, họ vẫn da diết nhớ quê hương. Ở ngoài mặt trận, họ vẫn hình dung thấy gian nhà không đang lung lay trong cơn gió nơi quê nhà xa xôi. - Tình đồng chí còn là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính : "Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Rét run người vừng trán ướt mồ hôi. Aùo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay." Những gian lao, thiếu thốn trong cuộc sống của người lính những năm kháng chiến chống pháp hiện lên rất cụ thể, chân thực : áo rách, quần vá, chân không giày, ...Sự từng trải của đời lính đã cho Chính hữu "biết"được sự khổ sở của những cơn sốt rét rừng hành hạ : người nóng sốt hầm hập đến ướt cả mồ hôi mà vẫn cứ ớn lạnh đến run người. Và nếu không có sự từng trải ấy, cũng không thể nào biết được cái cảm giác của "miệng cười buốt giá" : trời buốt giá, môi miệng khô và nứt nẻ, nói cười rất khó khăn, có khi nứt ra chảy cả máu. Thế nhưng, những người lính vẫn cười trong gian lao, bởi họ có hơi ấm và niềm vui của tình đồng đội "thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Hơi ấm ở bàn tay, ở tấm lòng đã chiến thắng cái lạnh ở "chân không giày" và thời tiết "buốt giá". Trong đoạn thơ , "anh" và "tôi" luôn đi với nhau, có khi đứng chung trong một câu thơ, có khi đi sóng đôi trong từng cặp câu liền nhau. Cấu trúc ấy đã diễn tả sự gắn bó, chia sẻ của những người đồng đội. * Liên hệ mở rộng : Tình đồng đội trong bài "Những ngôi sao xa xôi" - Lê Minh Khuê. 3. Đoạn kết : - Ba câu cuối cùng kết thúc bài thơ bằng một hình ảnh thơ thật đẹp : Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo..

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Nổi lên trên cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh lẽo là hình ảnh người lính "đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới". Đó là hình ảnh cụ thể của tình đồng chí sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Họ đã đứng cạnh bên nhau giữa cái giá rét của rừng đêm, giữa cái căng thẳng của những giây phút "chờ giặc tới". Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ, giúp họ vượt lên tất cả... - Câu thơ cuối cùng mới thật đặc sắc : "Đầu súng trăng treo". Đó là một hình ảnh thật mà bản thân Chính Hữu đã nhận ra trong những đêm phục kích giữa rừng khuya:"...suốt đêm vầng trăng từ bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc nó như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng đối với chúng tôi như một người bạn ; rừng hoang sương muối là một khung cảnh thật...". - Nhưng nó còn là một hình ảnh thơ độc đáo, có sức gợi nhiều liên tưởng phong phú sâu xa. + "Súng " biểu tượng cho chiến tranh , cho hiện thực khốc liệt. "Trăng" biểu tượng cho vẻ đẹp yên bình, mơ mộng và lãng mạn. + Hai hình ảnh "súng" và "trăng" kết hợp với nhau tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính : chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà mơ mộng. Hình ảnh ấy mang được cả đặc điểm của thơ ca kháng chiến - một nền thơ giàu chất hiện thực và giàu cảm hứng lãng mạn. + Vì vậy, câu thơ này đã được Chính Hữu lấy làm nhan đề cho cả một tập thơ - tập "Đầu súng trăng treo". + Đoạn kết bài thơ là một bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính. III. Kết bài : - Tóm tắt các ý đã phân tích. - Liên hệ bản thân. BÀI VIẾT THAM KHẢO : Bài 1: Vào những năm kháng chiến chống Pháp, đất nước ta sục sôi ý chí, quyết tâm đánh giặc. Hoà mình vào khí thế ấy đã có hàng vạn , hàng triệu thanh niên nhập ngũ. Những chiến sĩ dũng cảm, can trường ấy đã trở thành một hình tượng, một đề tài trong thơ ca thời đó. Một trong những bài thơ rất hay về người chiến sĩ, về tình đồng đội là bài Đồng chí của nhà thơ lính Chính Hữu. Bài thơ mở đầu như lời tâm sự của hai người chiến sĩ :.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Quê hương anh nước mặn, đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá, Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau, Bằng ngôn ngữ bình dị, vận dụng thành ngữ và cách nói quen thuộc, cùng nghệ thuật sóng đôi, Chính Hữu đã đưa ra hình ảnh rất cụ thể mà có ý nghĩa khái quát về hoàn cảnh xuất thân của những người lính cụ Hồ thời chống Pháp. Họ ra đi từ những miền quê nghèo, vất vả, lam lũ. Chính sự tương đồng về hoàn cảnh đã tạo cơ sở ban đầu cho tình đồng chí. Tình cảm giữa những người chiến sĩ càng gắn bó khi họ cùng chung chí hướng, chung lý tưởng Súng bên súng, đầu sát bên đầu Chỉ với hai hình ảnh cụ thể được hoán dụ, lại sắp xếp theo kiểu sóng đôi, nhà thơ đã diễn tả một cách chân thực tình đồng chí, đồng đội khi họ cùng chung nhiệm vụ trên một chiến hào. Cuộc sống gian khổ của đời lính khiến họ dễ đồng cảm với nhau, trở thành tri âm, tri kỷ của nhau. Hai tiếng "đồng chí” vang lên bình dị mà vô cùng xúc động. Chỉ hai tiếng làm thành một dòng thơ riêng, độc đáo thể hiện cảm xúc lắng đọng đang ngân lên trong lòng mỗi chiến sĩ. Chỉ cần hai tiếng ấy đủ diễn tả tất cả những tình cảm cao đẹp và sâu sắc nhất của người lính. Là tri kỉ, họ hiểu rõ nỗi lòng, tâm sự của nhau : Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính Chính những đêm giá rét, nằm bên nhau đắp chung tấm chăn trong rừng Việt Bắc, họ đã trao gửi cho nhau những tình cảm, nhưnõg suy nghĩ, những nỗi nhớ gia đình, quê hương. Người chiến sĩ hiểu và thông cảm với nhau hơn bao giờ hết. Vì trong tâm hồn họ, đều có rất nhiều điểm chung : họ đều là những con người quyết tâm ra đi, hi sinh cho làng quê, cho đất nước thân yêu. Đối với họ, những người xuất thân từ nông dân, những người con của đất, thì còn gì quý giá quan trọng hơn là mảnh vườn, là đồng ruộng, là gia đình, là người thân. Vậy mà họ sẵn sàng từ bỏ tất cả. "Mặc kệ " không phải là thái độ thờ ơ, bàng quan, mà là cái "mặc kệ” quyết dứt bỏ, quyết tâm mãnh liệt ra đi để giải phóng cho đất nước mà ta đã từng nghe : Mẹ thà coi như chiếc lá bay.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Chị thà coi như là hạt bụi Em thà coi như hơi rượu say (Tống biệt hành – Thâm Tâm) Người chiến sĩ sẵn sàng từ bỏ cái riêng để cống hiến cho cái chung. Anh sẵn sàng nhờ bạn cày giúp mảnh vườn, sẵn sàng bỏ lại ngôi nhà, người thân, gia đình, quê hương. Anh ra chiến trường, hiến dâng cho Tổ quốc. Người chiến sĩ ngoài mặt trận nhưng lại biết "gian nhà không” đang "lung lay” trước từng cơn gió, biết "giếng nước gốc đa” vẫn đang nhớ đến mình . Phải là người thật gắn bó, thật thân thiết với quê hương thì mới có thể luôn hướng về quê hương như thế. "Giếng nước gốc đa” là hình ảnh ẩn dụ được tác giả sử dụng rất thành công : đó là nơi dân làng thường tụ tập sau những buổi đồng áng, là nơi trao đổi thông tin, và phải chăng, họ đang nhắc đến anh, người con của qưê hương? Đó còn là nơi hẹn hò,tình tự của những anh nông dân, những cô thôn nữ , gắn liền với những kỷ niệm đẹp của thời thanh xuân. Và khi nhắc đến "giếng nước gốc đa”, phải chăng người chiến sĩ không chỉ nhớ đến làng quê, nhớ người thân, mà còn nhớ đến hồn quê , cả đến những sự vật gắn bó còn đang ở lại quê nhà. Nhớ đến tất cả, hình dung rằng tất cả đang nhớ đến mình, người chiến sĩ càng vững tin hơn ở con đường phía trước, càng mong mỏi hơn về độc lập, càng cầm chắc tay súng để chiến đấu. Trong họ luôn luôn là một suy nghĩ : họ ra đi là vì làng quê, họ vì làng quê mà chiến đấu. Những chiến sĩ biết hi sinh cho cái chung như vậy thật đáng quý biết bao! Người chiến sĩ tự nguyện ra chiến trường, vì thế, họ đủ nghị lực nếm trải bao khó khăn, thử thách: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi. Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Người chiến sĩ đã phải trải qua bao khó khăn vất vả, đau đớn, bệnh tật. Chính Hữu bản thân là một người lính, nên ông đã miêu tả rất thật cái đau đớn của căn bệnh sốt rét. Nhưng đó không phải là gian khổ duy nhất mà người lính phải trải qua. Họ còn phải chịu đựng cái lạnh giá, trong khi quân trang, quân phục lại rất thiếu thốn. Vào thời kỳ cuộc kháng chiến chống Pháp, nước ta thực sự đang rất nghèo nàn, lạc hậu, vũ khí còn rất thô sơ, không đủ để chiến đấu, huống chi là quân trang, quân phục. Bởi vậy mà người lính phải thường xuyên mặc "áo rách”, "quần vá”, "chân không giày”. Vậy mà họ vẫn kiên cường đạp lên tất cả chông gai, vượt qua mưa bom, bão đạn, chiến thắng mọi vũ khí hiện.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> đại nhất của giặc Pháp, đủ thấy được tinh thần chiến đấu của họ cao đến chừng nào. Những hình ảnh mà Chính Hữu mô tả không hề cường điệu hoá. Đó là những hình ảnh hoàn toàn chân thực về cuộc sống chiến đấu của người lính. Nếu như ta biết rằng chỉ một năm trước, chính nhà thơ đã viết về người lính bằng những vần thơ đầy chất lãng mạn : Rách tả tơi rồi đôi hài vạn dặm Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa. (Ngày về) Thì nay, trải qua cuộc sống của người chiến sĩ, hầu như ông và các nhà thơ khác đều hiểu khác, nghĩ khác và viết khác. Viết về người chiến sĩ là viết về hiện thực, mới thực sự làm người đọc xúc động và hiểu hơn, thấm thía hơn về sự khổ cực của người lính : Hoan hô chiến sĩ Điện Biên Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi , ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt. (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu) Người chiến sĩ đều vượt qua mọi khó khăn, gian khổ vì ý chí, nghị lực và chính vì tình đồng chí đã giúp họ đứng dậy, đạp hết chông gai. Nhìn vào đoạn thơ, ta thấy hình ảnh hai người chiến sĩ được lặp đi, lặp lại, lúc thì "Tôi với anh…”, lúc thì "Áo anh…”, lúc thì”Quần tôi…”, họ nói về nhau, soi vào nhau, để nhận ra nhau, nhận ra chính mình. Tình đồng chí đã được Chính Hữu nâng lên thành tình tri kỷ, tình bạn bè thân thuộc. Trong anh có cái của tôi và trong anh tôi tìm được tôi. Để rồi cả hai nhập làm một : "tay nắm lấy bàn tay”. Cái bắt tay thân mật, thắm thiết, siết chặt tình đồng chí keo sơn. Cái bắt tay để truyền cho nhau sức mạnh chiến đấu, truyền cho nhau tình thương yêu, cổ vũ cho nhau vượt qua khó khăn, thử thách. Cái bắt tay âm thầm, lặng lẽ, không cần ồn ào, không cần nói lời hoa mỹ , họ chỉ cần trao nhau hơi ấm từ lòng bàn tay, hơi ấm từ trái tim, vì họ đã hiểu rõ long nhau, vì họ "thương nhau”. Hơi ấm lan toả cả hai người, làm hai người nở một nụ cười, dù là "buốt giá”. Hơi ấm đủ làm xoá đi cái nhợt nhạt, lạnh căm của mùa đông, đủ để sưởi ấm lên tình đồng chí, đồng đội. Kết thúc bài thơ là hình ảnh : Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo. Giữa rừng đêm hoang vu, lạnh lẽo, đầy bất trắc rình rập, họ vững tin đứng cạnh nhau, khoát súng trên vai, đầu súng hướng lên trời, tư thế hiên ngang "chờ giặc tới”.Aùnh trăng đêm, có lẽ là trăng cuối tháng, cứ chếch dần, chếch dần, cho tới khi chạm tới đầu mũi.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> súng, đầu súng như vươn tận lên trời cao. Tác giả đã rất sáng tạo mới viết nên được hình ảnh vừa rất thực, vừa rất lãng mạn, gợi cảm này. Mặt trăng như được cụ thể hoá, trở thành một vật treo trên đầu súng. Biện pháp tương phản càng làm hình ảnh thơ thêm giàu ý nghĩa, Trăng trên trời cao, lơ lửng giữa màn đêm, súng ở dưới đất, đặt trên vai người chiến sĩ , vậy mà ở một góc nhìn đặc biệt, Chính Hữu đã "bắt” được hình ảnh vô cùng độc đáo ấy. Trăng từ muôn đời nay tượng trưng cho cái yên tĩnh, tĩnh lặng, cái thi vị, lãng mạn, còn súng là thứ vũ khí lạnh lùng, nguy hiểm, biểu tượng của chiến tranh,sự tàn phá dữ dội. Thế nhưng khi có bàn tay của Chính Hữu đặt hai hình ảnh ấy lại gần nhau thì chúng lại bổ sung cho nhau, tạo nên một ý nghĩa mới : Súng trong tay kẻ thù mới là vũ khí nguy hiểm, còn súng trong tay hai người đồng đội, người chiến sĩ kia, thì súng là vũ khí để họ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ sự bình yên, bảo vệ ánh trăng thanh bình. Trăng trên trời cao soi sáng đôi bạn, như muốm làm bạn với hai người chiến sĩ, muốn ngợi ca, soi rõ tình đồng đội thiêng liêng, cao đẹp của hai người. Hình ảnh mặt trăng treo trên đầu mũi súng còn cho ta thấy được đời người lính chiến không phải lúc nào cũng chỉ là nguy hiểm, là đối mặt với đạn bom, là sự hy sinh, mà cuộc đời của họ còn bắt gặp được những hình ảnh vô cùng lãng mạn, đẹp đẽ, thi vị, ngay trong không gian và thời gian của chiến tranh. Hình ảnh trăng và súng được Chính Hữu chọn để kết thúc bài thơ, như để xoa dịu đi những khó khăn vất vả của người lính chiến, xoá bớt những gian khó hi sinh của họ và để làm sáng lên tình đồng chí cao đẹp của hai người chiến sĩ giữa rừng khuya. Bài thơ kết thúc nhưng lại mở ra những suy nghĩ mới trong lòng người đọc. Bài thơ đã làm sống lại một thời khổ cực của ông cha ta, làm sống lại chiến tranh ác liệt. Bài thơ khơi gợi lại những kỷ niệm đẹp, những tình cảm tha thiết gắn bó yêu thương mà chỉ có những người đã từng là lính mới có thể hiểu và cảm nhận hết được. Với nhiều hình ảnh chọn lọc, từ ngữ gợi cảm mà lại gần gũi thân thuộc, với biện pháp sóng đô, đối ngữ được sử dụng rất thành công, Chính Hữu đã viết nên một bài ca với những ngôn từ chọn lọc, bình dị mà có sức ngân vang . Bài thơ đã ca ngợi tình đồng chí hết sức thiêng liêng , như là một ngọn lửa vẫn cháy mãi, bập bùng, không bao giờ tắt, ngọn lửa tháp sáng đêm đen của chiến tranh. Bài 2: Đề: Suy nghĩ của em về tình đồng chí đồng đội trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu. Tham khảo: “Đồng chí” của Chính Hữu được sáng tác năm 1948 trong lúc cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc đang diễn ra rất quyết liệt. Bài thơ giúp người đọc hiểu hơn về hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ và tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn của họ . Bài thơ mở đầu bằng những lời tâm tình của hai người bạn, những câu thơ mộc mạc, tự nhiên, mặn mà như một lời thăm hỏi quê quán cửa nhà: Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá . Hai dòng thơ đủ giới thiệu với người đọc về hoàn cảnh xuất thân của hai người lính. Người thì ở vùng đồng bằng chiêm trũng “nước mặn đồng chua”, người ở vùng trung du bạc màu “đất cày lên sỏi đá”. Như vậy cả “quê anh” và “làng tôi” đều là những miền quê.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> lam lũ, vất vả, đói nghèo. Từ những phương trời xa lạ, họ“chẳng hẹn” mà “quen nhau” bởi họ có cùng chung mục đích đánh đuổi thực dân Pháp giải phóng quê hương. Vào bộ đội họ kề vai sát cánh bên nhau, cùng chia sẻ với nhau những gian lao thiếu thốn của cuộc đời quân ngũ : Súng bên súng, đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ . Cùng là những người nông dân nghèo mặc áo lính, chung lí tưởng đánh đuổi thực dân Pháp giải phóng quê hương . Họ vào bộ đội, chung nhiệm vụ, chung một chiến hào, cùng đắp chung một tấm chăn khi trời giá lạnh. Điều kì lạ là khi chiếc chăn chung đắp lại đó là lúc dòng tâm sự mở ra. Có lẽ vì vậy mà họ hiểu nhau, thân nhau và trở thành tri kỉ. Lúc đó “Đồng chí ”mới vang lên, như tình yêu thương được hình thành từ thử thách và gian khó, bị dồn nén tận đáy lòng đến giờ bật dậy, đủ sức đứng riêng thành một câu thơ. Nhịp thơ thắt lại, chắc khoẻ, mộc mạc , giản dị mà thiêng liêng, cảm động. Ta chợt nhận ra , lấp lánh đằng sau những câu thơ nói về gió, về rét, lặng lẽ cháy một ngọn lửa ấm nồng tình đồng đội … Và như vậy “đồng chí” vừa là cao trào cảm xúc được dồn tụ trong sáu câu thơ trước , vừa mở ra những gì chứa đựng ở suy nghĩ tiếp sau : Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. Đi dọc bài thơ là sự sóng đôi của hai hình tượng “anh” và “tôi”. Tình tri kỉ, tình đồng chí đựơc bắc qua sự sóng đôi có ý nghĩa bổ sung ấy .Vì vậy đến đây, khi tác giả chỉ nói một cảnh ngộ, người đọc vẫn có ấn tượng chung cho cả hai. Mấy câu thơ nói về gia cảnh của người này hoá ra lại diễn đạt sâu sắc tình yêu thương lặng lẽ của người kia. Là nông dân, với họ ruộng đất quý hơn vàng, vào bộ đội, họ để lại đằng sau xóm làng, đất đai, nhà cửa. “Mặc kệ ”đấy mà sao lưu luyến thế, đến cả giếng nước gốc đa cũng chợt có hồn, biết nhớ, biết thương người nơi tiền tuyến. “Giếng nước gốc đa” hay chính là đôi mắt hẹn ngày về của người bạn gái, làm ấm lòng người lính phương xa? Tất cả đều có thể, bởi một chút nhung nhớ ấy cùng với ngôi nhà, ruộng nương và xóm làng thân thuộc là động lực để vì nó mà anh chấp nhận bao nhiêu gian khổ : Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi . Áo anh rách vai , Quần tôi có vài mảnh vá , Miệng cười buốt giá , Chân không giày . Không một chút tô vẽ điểm trang, Chính Hữu tái hiện cuộc sống thiếu thốn của cuộc đời quân ngũ bằng những chi tiết thành thực đến thương lòng : áo rách, quần vá, chân không giày, sao chống nổi những cơn sốt rét giữa rừng sâu ?! Trong hoàn cảnh ấy, người lính sẻ chia cho nhau tình yêu thương ở mức tột cùng “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay ”. Một câu thơ thôi song nói được bao điều. Bàn tay tìm đến nhau như san sẻ cho nhau , truyền cho nhau hơi ấm , niềm tin và sức mạnh . “Anh - tôi ” nhoà đi sau "miệng cười buốt giá" để niềm tin , niềm lạc quan , sự bất chấp khó khăn gian khổ của người lính hiện lên . Chính Hữu đã rất tinh khi phát hiện ra nội lực tinh thần ẩn sâu trong trái tim người lính . Chính nó đã góp phần tạo nên chiều sâu cho tình đồng chí thầm lặng nhưng rất đỗi thiêng liêng này . Những câu thơ cuối bài hoàn thiện một cách xuất sắc chân dung người lính mộc mạc.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> mà khoẻ khoắn, can trường : Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo. “Rừng hoang sương muối”. Lại là cái giá , cái rét run người của thiên nhiên khắc nghiệt , song thiên nhiên không thể nào can thiệp tới ý chí và tình cảm của người chiến sĩ . Bởi các anh đứng cạnh bên nhau, chở che, nương tựa vào nhau trong tư thế chủ động chờ giặc tới . Và hình ảnh thơ cuối cùng mới đẹp làm sao! Ở một góc nhìn nghiêng, vầng trăng như treo trên đầu nòng súng giơ cao của người chiến sĩ . Hình ảnh súng và trăng trở thành biểu tượng cho sự kết hợp hài hoà giữa thực và mộng, giữa chất chiến đấu và chất trữ tình , giữa tâm hồn chiến sĩ và tâm hồn thi sĩ. Giữa rừng đêm hoang lạnh, hình ảnh ấy tạc vào đêm tạo thành bức tượng đài chiến sĩ vững vàng mà thơ mộng . Bài thơ dừng lại khi đã hoàn thiện trong tâm khảm bạn đọc hình ảnh những người nông dân mặc áo lính chân thật mà ấm nồng tình đồng đội. Bởi thế bài thơ không chỉ là tác phẩm xuất sắc của Chính Hữu mà còn là thi phẩm xuất sắc nhất về người lính Cụ Hồ của thơ ca kháng chiến chống Pháp.. Bài thơ về tiểu đội xe không kính Bài 1: Bài thơ về tiểu đội xe không kính"là một bài thơ đặc sắc tiêu biểu cho phong cách thơ " Phạm Tiến Duật cũng như một số tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Lửa đèn, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Nhớ,... Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm chống Mỹ "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy tương lai"(Tố Hữu), Phạm Tiến Duật có giọng thơ mang chất lính, khoẻ, dạt dào sức sống, tinh nghịch vui tươi, giàu suy tưởng. "Bài thơ về tiểu đội không kính" (trong chùm thơ được giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969-1970) được Phạm Tiến Duật viết năm 1969 là bài thơ tự do mang phong cách đó. Mở đầu bài thơ là hình ảnh những chiếc xe không kính chắn gió - hình ảnh có sức hấp dẫn đặc biệt vì nó chân thực, độc đáo, mới lạ. Xưa nay, hình ảnh xe cộ trong chiến tranh đi vào thơ ca thường được mỹ lệ hoá, tượng trưng ước lệ chứ không được miêu tả cụ thể, thực tế đến trần trụi như cách tả của Phạm Tiến Duật. Với bút pháp hiện thực như bút pháp miêu tả "anh bộ đội cụ Hồ thời chống Pháp" của Chính Hữu trong bài Đồng chí (1948), Phạm Tiến Duật đã ghi nhận, giải thích về "những chiếc xe không kính" thật đơn giản, tự nhiên : Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> Bom đạn ác liệt của chiến tranh đã tàn phá làm những chiếc xe ban đầu vốn tốt, mới trở thành hư hỏng : không còn kính chắn gió, không mui không đèn, thùng xe bị xước. Hìmh ảnh những chiếc xe không kính không hiếm trong chiến tranh chống Mỹ trên đường Trường Sơn lửa đạn nhưng phải là một chiến sĩ, một nghệ sĩ tâm hồn nhạy cảm, trực tiếp sẵn sàng chiến đấu cùng những người lính lái xe thì nhà thơ mới phát hiện được chất thơ của hình ảnh ấy để đưa vào thơ ca một cách sáng tạo, nghệ thuật. Không tô vẽ, không cường điệu mà tả thực, nhưng chính cái thực đã làm người suy nghĩ, hình dung mức độ ác liệt của chiến tranh, bom đạn giặc Mỹ. Mục đích miêu tả những chiếc xe không kính là nhằm ca ngợi những chiến sĩ lái xe. Đó là những con người trẻ trung, tư thế ung dung, coi thường gian khổ, hy sinh. Trong buồng lái không kính chắn gió, họ có cảm giác mạnh mẽ khi phải đối mặt trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài. Những cảm giác ấy được nhà thơ ghi nhận tinh tế sống động qua những hình ảnh thơ nhân hoá, so sánh và điệp ngữ : Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồng lái. Những câu thơ nhịp điệu nhanh mà vẫn nhịp nhàng đều đặn khiến người đọc liên tưởng đến nhịp bánh xe trên đường ra trận. Tất cả sự vật, hình ảnh, cảm xúc mà các chiến sĩ lái xe trực tiếp nhìn thấy, cảm nhận đã biểu hiện thái độ bình tĩnh thản nhiên trước những nguy hiểm của chiến tranh, vì có ung dung thì mới thấy đầy đủ như thế. Các anh nhìn thấy từ "gió","con đường" đến cả "sao trời", "cánh chim". Thế giới bên ngoài ùa vào buồng lái với tốc độ chóng mặt tạo những cảm giác đột ngột cho người lái. Hình ảnh "những cánh chim sa, ùa vào buồng lái" thật sinh động, gợi cảm. Hình ảnh "con đường chạy thẳng vào tim" gợi liên tưởng về con đường ra mặt trận, con đường chiến đấu, con đường cách mạng. Hiên ngang, bất chấp gian khổ, những người lính lái xe luôn lạc quan tin tưởng chiến thắng. Những câu thơ lặp cấu trúc tự nhiên như văn xuôi, lời nói thường ngày thể hiện hình ảnh đẹp, tự tin, có tính cách ngang tàng: Không có kính, ừ thì có bụi,.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô, mau thôi. Phạm Tiến Duật từng là thành viên của đoàn 559 vận tải chiến đấu ở Trường Sơn nên chất lính, tính ngang tàng thể hiện rõ nét trong thơ. Các chiến sĩ lái xe không hề lùi bước trước gian khổ, trước kẻ thù mà trái lại "tiếng hát át tiếng bom", họ xem đây là cơ hội để thử thách sức mạnh ý chí. Yêu đời, tiếng cười sảng khoái của họ làm quên đi những nguy hiểm. Câu thơ "nhìn nhau mặt lấm cười ha ha" biểu lộ sâu sắc sự lạc quan ấy. Tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó là phẩm chất của người lính. Những khoảnh khắc của chiến tranh, giữa sống chết, những người lính trẻ từ những miền quê khác nhau nhưng cùng một nhiệm vụ, lý tưởng đã gắn bó nhau như ruột thịt, gia đình : Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm. "Trời xanh thêm" vì lòng người phơi phới say mê trước những chặng đường đã đi và đang đến. "Trời xanh thêm" vì lòng người luôn có niềm tin về một ngày mai chiến thắng. Những người lính lái xe hiên ngang, dũng cảm, lạc quan, trẻ trung sôi nổi, giàu tình đồng.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> chí đồng đội, có lòng yêu nước sâu sắc. Lòng yêu nước là một động lực tạo cho họ ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, đánh bại giặc Mỹ và tay sai để thống nhất Tổ quốc : Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước: Chỉ cần trong xe có một trái tim. Khổ thơ cuối cùng vẫn giọng thơ mộc mạc, mà nhạc điệu hình ảnh rất đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của những chiến sĩ vận tải Trường Sơn. Bốn dòng thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, bất ngờ thú vị. Hai câu đầu dồn dập những mất mát khó khăn do quân thù gieo xuống, do đường trường gây ra : xe không kính, không đèn, không mui, thùng xe bị xước ... Điệp ngữ "không có" nhắc lại ba lần như nhân lên những thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ ngắt làm bốn khúc "không có kính/ rồi xe không có đèn / Không có mui xe / thùng xe có xước" như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông gai bom đạn. Hai câu cuối âm điệu đối chọi lại, trôi chảy, hình ảnh đậm nét. Đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở hướng ra tiền tuyến lớn với tình cảm thiêng liêng "vì miền Nam", vì cuộc chiến đấu giành độc lập, thống nhất cho cả nước. Chói ngời, toả sáng khổ thơ, cả bài thơ là hình ảnh "trong xe có một trái tim" . Cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ anh hùng của mỗi người cầm lái tích tụ, kết đọng ở "trái tim" gan góc, kiên cường, chứa chan tình yêu nước này. Ẩn sau ý nghĩa câu thơ "chỉ cần trong xe có một trái tim" là chân lý của thời đại chúng ta :sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, công cụ mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng. Có thể cả bài thơ hay nhất là câu cuối, "con mắt của thơ", làm bật lên chủ đề, toả sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong bài thơ. Thiếu phương tiện vật chất nhưng những chiến sĩ vận tải Đoàn 559 vẫn hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ, nêu cao phẩm chất con người Việt Nam anh hùng như Tố Hữu đã ca ngợi : Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hoá anh hùng Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" là một bài thơ đặc sắc tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật cũng như một số tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Lửa đèn, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Nhớ,...Chất giọng trẻ, chất lính của bài thơ bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam thời chống Mỹ mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm. Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo của hình ảnh chi tiết, sự linh hoạt của nhạc điệu, bài thơ đã khắc hoạ, tôn vính vẻ đẹp phẩm giá con người, hoà nhập với cảm hứng lãng mạn cách mạng và âm hưởng sử thi hào hùng của văn học Việt Nam trong ba mươi năm chống xâm lược 1945 - 1975 Bài 2: Cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước đầy cam go và oanh liệt cúa nhân dân đã kết thúc thắng lợi. Trong “mưa bom bão đạn” trên tuyến đường Trường Sơn trước đây có bao kỳ tích xảy ra. Một trong những thần thoại của thế kỷ XX là hình ảnh nhửng đoàn xe không có kính vẫn băng ra trận tuyến, nối đuôi nhau đi lên phía trước, góp phần làm nên những kỳ tích của dân tộc. Xúc động trước hiện thực lớn lao đó cũa đồng đội. Phạm Tiến Duật đã sáng tác “bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Trong bài ca người lính độc đáo này, tác giả đã bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của mình về những chiến sĩ lái xe, về dân tộc và đất nước : . . “……. Những chiếc xe từ trong bom rơi . ……………. . Chỉ cần trong xe có một trái tim.” . . Tìm hiểu bài thơ và đặc biệt ba đoạn thơ trên ta sẽ cảm nhận được cái hay, cái đẹp kỳ diệu của thơ ca Việt Nam thời chống mỹ cứu nước. . Mở đầu bài thơ tác giả viết : . . “ Những chiếc xe từ trong bom rơi . Đã về đây họp thành tiểu đội . Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới . Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi .“ . Nhịp đập ở đây hơi lắng lại. Người chiến sĩ đang nói về đồng đội và cũng đang tự nói về mình. “Từ trong bom rơi” có nghĩa là từ trong ác liệt, từ trong cái chết trở về. Vượt qua tuyến lửa, bom rơi, những chiếc xe bỗng tụ nhau thành tiểu đội thật kỳ khôi, thú vị. Tiểu đội những chiếc xe không kính. Những con người đã qua thử thách trên con đường đi tới bỗng trở thành bạn bè và cái “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi “ mới thật tự hào, sảng khoái biết bao! Hình như, chính ô cửa vỡ ấy khiến họ gần nhau thêm, khiến cái bắt tay của họ thêm chặt hơn và tình đồng đội lại càng thêm thắm thiết. Cái bắt tay qua ô cửa kính vỡ như là sự chia sẽ, cảm thông lẫn nhau của người lính Trường Sơn. Đó là sự mừng vui, là chúc mừng nhau hoàn thành nhiệm vụ,cũng là niềm tin, niềm tự hào của người chiến thắng..

<span class='text_page_counter'>(28)</span> . Đoàn xe không kính ngày càng ra đi xa. Càng đi sâu vào chiến trường. Khổ thơ tiếp theo nói tới sinh hoạt trên đường của họ : . . “ Bếp hoàng cầm ta dựng giữa trời . ………… . Lại đi, lại đi, trời xanh thêm “ . Sinh hoạt của người lái xe, cái ăn cái ngủ bình thường của con người, được tóm lược vào trong hai hình ảnh “Bếp Hoàng Cầm” và “võng mắc chông chênh[”. Cái gì cũng tạm bợ, cơ động, gian khổ nhưng cách nhìn, cách nghĩ của người chiến sĩ vế chúng thật tươi tắn và cảm động : là gia đình đấy. Chất thơ nghịch ngợm đầy ý vị đã mở ra từ những hình ảnh chân chất đời lính đã ấm lên tình đồng ngũ, nghĩa anh em. Sức sống thơ cững chính là ở đây và câu thơ đó đã cất cánh bay cao :” Lại đi, lại đi, trời xanh thêm”. Hai chữ “lại đi” được lặp lại biểu hiện đoàn xe không ngừng tiến tới, không một sức mạnh bạo tàn nào của giặc Mỹ có thể ngăn nổi. “Trời xanh thêm” là một hình ảnh đầy chất thơ và giàu ý nghĩa. Trời xanh là trời đẹp, bầu trời yên tĩnh, không gian cao xa … . Câu thơ đã gợi mở biết bao tâm hồn vẫn sôi nổi lên đường, rộng mở những ngày mai, những ngày vẫn “xanh thêm” niềm tin chiến thắng … . ` Khổ thơ cuối cùng, vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói bình thường. Vậy mà nhạc điệu, hình ảnh, ngôn ngữ rất đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng, vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của người chiến sĩ vận tải Trường Sơn: . . “ Không có kính rồi xe không có đèn . ……….. . Chỉ cần trong xe có một trái tim” . . Bốn câu thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất ngờ, thú vị. Hai câu đầu dồn dập, những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống : không kính, không đèn, không mui, thùng xe có xước. Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần những thử thách khốc liệt. Hai câu cuối âm điệu đối chọi lại, trôi chảy, êm ru. Hình ảnh đậm nét. Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở hướng ra phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam.” Vì cuộc chiến đấu giành độc lập, thống nhất cho cả nước. đặc biệt, tỏa sáng chói ngời cả đoạn thơ là hình ảnh “trong xe có một trái tim.” Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rể phẩm chất anh hùng của người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở cái “trái tim” gan góc, kiên cường,giàu bản lĩnh và chan chứa tình yêu thương này. Phải chăng chính trái tim co người đã cầm lái ? Tình yêu tổ quốc, tình thương đồng bào, đồng chí ở miền Nam đau khổ đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vững tay lái xe về tới đích ? Và ẩn sau ý nghĩa “trái tim cầm lái”, câu thơ còn muốn hướng ngưới đọcvề một chân lý của thời đại chúng ta :sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ… mà là co người, con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường, dũng cảm, niền lạc quan và mọi niền tin vững chắc. Có thể nói, cả bài thơ, hay nhất là câu thơ cuối cùng. Nó là “con mắt của thơ” bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp của hìng tường nhân vật trong thơ. Bài thơ được khép lài mà âm hưởng của nó như vẫn vang xa chính là nhờ câu thơ ấy..

<span class='text_page_counter'>(29)</span> . Tóm lại, những khổ thơ trên đã phác họa những hình tượng đẹp về người lính lái xe trên tuyền đường Trường Sơn trong những năm cứu nước. những câu thơ giản dị, hình ảnh sinh động cụ thể, sự đối lập ở từng khổ thơ, tác giả đõa để lại những ấn tượng đẹp về tiểu đội xe không kính. Cám ơn nhà thơ đã cho thế hệ trẻ ngày nay hiểu thêm về cha anh trước đây trong thời đất nước có chiến tranh. Hiểu được điều đó, có lẽ ,chúng ta, những học sinh sẽ sống tốt hơn. Đoàn thuyền đánh cá Bài 1: Năm 1958, trong không khí phấn khởi thi đua của toàn miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhà thơ Huy Cậc trong một dẹp đi thực tế ở Hòn Gai đã sáng tác bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá". Với âm hưởng vừa khỏe khoắn, vừa sôi nổi lại vừa phơi phới bay bổng, bài thơ đã ca ngợi sự giàu đẹp cuả vùng biển quê hương và tinh thần lao động hăng say, phấn khởi của người lao động được giải phóng hăng hài làm việc cho đất nước. Với đôi mắt quan sát tinh tế, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ ra một khung cảnh lao động tuyệt đẹp. Mở đầu bài thơ, tác giả giới thiệu không gian và thời gian đoàn thuyền đánh cá ra khơi: "Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then, đêm sập cửa" Một bức tranh thiên nhiên đẹp, có cái thoáng rộng của không gian và thời gian của một ngày đang khép lại. Trong cái mênh mông ấy nổi bật lên hình ảnh mặt trời được ví như "hòn lửa" đỏ rực gợi tả màu sắc sinh động của buổi hoàng hôn trên biển đang chuyển về đêm. Bầu trời và mặt biển bao la như ngôi nhà vũ trụ trong khoảnh khắc đã phủ bóng tối mịt mùng, còn những con sóng như chiếc "then cài" của ngôi nhà vĩ đại ấy. Biện pháp nhân hóa s"óng đã cài then, đêm sập cửa"khiến thiên nhiên như những con người biết hoạt động, biết nghỉ ngơi. Cảm hứng vũ trụ, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa đã tạo nên những vần thơ đẹp cho người đọc nhiều ấn tượng. Khi vũ trụ đi vào trang thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu hoạt động : "Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi" Không phải từng chiếc thuyền lẻ tẻ mà là cả 1 đoàn thyền, một sức mạnh mới của cuộc đời đổi thay đang bắt đầu căng buồm. Từ "lại" trong cụm từ "lại ra khơi" là sự khẳng định nhịp điệu lao động của người dan chài đã ổn định, đã đi vào nề nếp. Đoàn thuyền ra khơi với khí thế căng trào. Cảnh tượng ấy thể hiện qua nghệ thuật tương phản: giữa cảnh ngày tàn với đêm mở ra, giữa cái tĩnh (vũ trụ) và cái động (con người).Nhạc điệu cũng có sự đối lập: tả vũ trụ với những vần trắc liên tiếp (lửa-cửa) như khép lại, và những vần bằng (khơi-khơi) như mở ra, ngân nga kéo dài . Sự đối lập ấy giúp người đọc cảm nhận được nỗi vất vả của việc đánh cá về đêm. Công việc đánh cá ban đêmtrên bểin là công việc nặng nhọc, đầy bất trắc nhưng đoàn quân xông trân vẫn cất cao tiếng hát. Tiếng hát vút lên cùng với những cánh buồm lộng gió..

<span class='text_page_counter'>(30)</span> " âu hát căng buồm cùng gió khơi" C Một chi tiết lãng mạn đầy sáng tạo được xây dựng bằng trí tưởng tượng, liên tưởng, khiến ta tưởng như tiếng hát hòa cùng gió mạnh thổi căng cánh cánh buồm đẩy thuyền rẽ sóng ra khơi. Cánh buồm no gió, no tiếng hát biểu hiện niềm lạc quan, phấn khởi, nhiệt tình lao động của đoàn thuyền. Vẫn nhịp thơ sôi nổi, hào hứng, khổ thơ tiếp theo là nội dung lời hát thể hiện tâm tư người lao động:"Hát rằng cá bạc biển Đông lặng". Đó chính là ước mơ của bất kỳ người dân biển nào, ước mơ trời yên bể lặng, mong mỏi đánh bắt được nhiều cá và là niềm say mê sự giàu đẹp của quê hương.Niềm ước mong ấy phản ánh tấm lòng đôn hậu của những ngư dân từng trải qua nhiều nắng gió, bão tố trên biển. Lời thơ là một trường liên tưởng nối tiếp với những hình ảnh so sánh, nhân hóa sinh động: "Cá thu...muôn luồng sáng" Từng đàn cá thu lao trên mặt biển như "đoàn thoi"trong máy dệt. Con thoi mang sợi tơ dệt vải thì cá thu mang ánh sáng phản chiếu lấp lánh dệt nên muôn luồng sáng lung linh, kỳ ảo trên thảm biển. Và tử đó, tác giả liên tưởng tiếp: "Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!". Thật là một sự tưởng tượng độc đáo. Từ hình ảnh đoàn cá "dệt biển"mà kêu gọi "đến dệt lưới ta" đã nói lên ước vọng đánh bắt đc nhiều cá. Quả thật, sự say mê vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt bao nỗi nhọc nhằn, vất vả, đem lại niềm vui và sức mạnh cho con người chinh phục thiên nhiên. Những từ ngữ trong khổ thơ:"cá bạc", "cá thu","đoàn cá", "dệt biển", "dệt lưới" khiến câu hát như một điệp khúc nhấn mạnh sự giàu đẹp của biển cả quê hương Hai khổ thơ có giá trị tạo hình đặc sắc, vẽ lại bức tranh lao động hoành tráng, tràn ngập ánh sáng và màu sắc, tràn đầy sức sống mãnh liệt. Trong đó con người đã hòa hợp với thiên nhiên hùng vĩ, bao la và thậm chí, vượt wa cả thiên nhiên nữa. Mở đầu khổ thứ ba là hình ảnh đoàn thuyền lướt đi giữa trờ cao biển rộng có cái lân lân, sảng khoái lạ thường: "Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng" Hai câu thơ đẹp như một bức tranh Iồng lộng trời mây, mênh mông biển cả. Hình ảnh đoàn thuyền đc làm đẹp thêm bởi một sức tưởng tượng kỳ lạ, giàu chất lãng mạn: gió là người, trăng là cánh buồm. Cách nói như vậy giúp ta cảm nhận đc thuyền và con người như hòa nhập vào thiên nhiên bát ngát, lâng lâng trong cái thơ mộng của trời, biển, gió, trăng. Từ "lướt"đặc tả cảnh đoàn thuyền ra khơi với vận tốc phi thường; thiên nhiên cùng góp sức với con người trên con đường lao động và khám phá. Tư thế ra khơi nhẹ nhàng, thoải mái, đầy khí thế d0ó chỉ có ở những con người vừa thoát khỏi kiếp sống nô lệ, được làm chủ sản xuất, làm chủ đất trời, sông biển của mình. Nhưng lao động không phải là một cuộc du ngoạn. Hai câu thơ tiếp khắc họa hình ảnh một trận đánh, một cuộc chiến đấu với thiên nhiên bằng tất cả trí tuệ và năng lực nghề nghiệp. Nhịp thơ trồi nên hối hả, lôi cuốn: "Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng" Bên cạnh cá ung dung, sảng khoái của người dân chài, ta vẫn cảm nhận được nỗi vất vả của họ. Họ phải vượt bao dặm biển trong trời đêm, rồi phải "dò bụng biển", tìm ra bãi cá, "dàn đan thế trận"để bủa lưới bắt cá. Lúc này, mỗi thủy thủ là một chiến sĩ, một chiến sĩ.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> trên biển và con thuyền, mái chèo, lưới, các ngư cụ khác chính là vũ khí của họ. Huy Cận phải có sự am hiểu sâu sắc về nghề chài lưới này và lòng thông cảm vói người lao động mới vẽ đc bức tranh vừa hiện thực, sinh động mà lãng mạn ấy. Bức tranh lao động đc tô điẻm bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển và cá cũng có những sáng tạo bất ngờ, độc đáo: "Cá nhụ, cá chim, cùng cá dé ......Cái đuôi em quyẫ trăng vàng choé" Bút pháp lãng mạn và trí tưởng tượng của nhà thơ dẫn ta vào một cõi huyền ảo của biển trời với bao nhiêu loài cá mang màu sắc lung linh kì ảo dưới ánh trăng. Nghệ thuật liệt kê và điệp từ "cá"như khắc họa rõ từng đừong nét, góp phần làm biển trở nên thơ mộng vô cùng. Cách diễn tả như vậy giúp ta cảm nhận đc cái giàu đẹp của biển, vì tất cả ánh sáng, màu sắc đều là của cá và do cá tạo nên. Con cá song là một nét vẽ tài hoa. Vẩy đen, hồng, lấp lánh trên biển như nước lân tinh chan hòa trong ánh trăng "vàng choé". Cái đuôi cá quẫy được so sánh với ngọn đuốc rực cháy. Nghệ thuật phối màu sắc tài tình làm cho vần thơ đẹp như một bức tranh sơn mài rực rỡ. Bầy cá như những nàng tiên trong vũ hội..... Cảnh đẹp không chỉ ở màu sắc, ánh sáng, mà còn ở âm thanh. Nhìn bầy cá bơi lượn, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm: "Đêm thở :sao lùa nước Hạ long" Đêm như được nhân hóa như một sinh vật của đại dương: nó "thở". Nhịp thở của đêm là tiếng sóng vỗ rì rào, cao thấp. Sao phản chiếu lấp lánh trên từng đợt sóng "lùa", mặt nước càng làm tiếng thở có vẻ kỳ ảo. Nó là sự độc đáo, mới lạ trong sáng tạo nghệ thuật. Lao động trong một khung cảnh nên thơ như vậy quả là thú vị. Cùng với chất lãng mạn, bay bổng, người dân chài cất lời hát tả lại công việc lao động với niềm tự tin và yêu đời mãnh liệt: "Ta hát bài ca gọi cá vào Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao" Bài hát căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi, bài hát lại vang lên trong công việc, biến lao động cực nhọc thành niềm vui. Lời ca gọi cá vào lưới nâng cao thêm chất thơ mộng của bức tranh. Người dân chài gõ thuyền xua cá vào lưới, nhưng đây không phải là con người mà ánh trăng: trăng in xuống dòng nước, sóng vỗ vào mạn thuyền thành hình ảnh "nhịp trăn"gõ thuyền. Hiện thực được trí tưởng tượng sáng tạo thành hình ảnh lãng mạn, giàu chất thơ. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển cả và con người là cái nhìn tươi tắn, lạc quan, ông như hòa nhập vào công việc, vào con người, vào biển cả. Từ đó, cảm xúc dâng trào, không thể ko cất lên tiếng hát ca ngợi biển: "Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự thưở nào" Biển giàu, biển đẹp, biển đem hạnh phúc đến cho con người. Biển hào phóng cho con người nhiều tôm cá, muối, hải sản... Biển như lòng mẹ đã nuôi sống dân ta từ bao đời nay. Giọng thơ tự nhiên, tha thiết, chân thành có âm hưởng ca dao. Hình ảnh so sánh "như lòng mẹ"quen thuộc, có sức truỳen cảm mãnh liệt, thể hiện tình yêu biển, yêu đời chan chứa của những con người gắn bó với biển từ bao đời, bao thế hệ. Bóng đêm đang dần tàn, một đêm trôi qua thật nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng, hăng say. Trên bầu trời, sao đã thưa và mờ. Ngày đang đến, nhịp độ lao động ngày càng.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> khẩn trương, Cảnh kéo lưới đc miêu tả đầy ấn tượng. "Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo săn tay chùm cá nặng" Nhịp thơ 2-2-3 phù hợp với nhịp lao động khẩn trương. Hình ảnh "kéo xoăn tay"miêu tả dáng nười dân chài choãi chân, nghiêng mình trụ vững, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn trông mới đẹp làm sao! Trong cái "chùm cá nặng"như có sức ẩn chứa bao niềm vui tươi, sung sướng của người ngư dân trước thành quả mà họ đã tốn bao công sức mới thu hoạch được. Lưới kéo lên, những tia nắng sớn chiếu trên khoang cá đầy làm lấp lánh màu sắc. Khoang thuyền đầy ắp cá. Màu của vẩy cá, màu vàng của đuôi cá “lóe rạng đông". Nghệ thuật dùng từ của tác giả thật điêu luyện. Sắc cá dưới ánh trăng và sắc cá dưới ánh bình minh đều được miêu tả tuyệt đẹp . "Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông" Câu thơ có màu sắc rực rỡ, nó mang lại thi vị, vẻ hấp dẫn riêng cho việc kéo lưới bình thường.Câu thơ cưói nhịp thơ gọn, dứt khoát: "Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng" Lời thơ giản dị biểu hiện niềm thư thái của con người: lưới xếp nghỉ, kéo buồm lên, trở về trong buổi bình minh. "Nắng hồng"không những khắc họa được vẻ đẹp tươi sáng của bầu trời mà còn thể hiện được lòng yêu đời, yêu thiên nhiên. Màu hồng của một ngày mới, một cuộc đời mới đang chào đón mọi người. "Câu hát căng buồm với gió khơi ....Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi" Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh đẹp của một ngày mới, khi đoàn thuyền trở về với cá đầy ắp:mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi, độ nhiệt tình, yêu lao động. Mở đầu bài thơ là hình ảnh m " ặt trời xuống", giờ là “mặt trời đôi biển"nhô lên giữa những sóng nước mênh mông.Không khí lao động cực kỳ phấn khởi bởi niềm vui chiến thắng, với thái độ nhiệt tình, yêu lao động khép lại bài thơ và tểh hiện một tương lai tươi sáng hơn trong công cuôc xây dựng đất nước. "Đoàn thuyền đánh cá"là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Bằng bút pháp lãng mạn, nhịp thơ khỏe với trí tưởng tượng mới mẻ, độc đáo, Huy Cận đã ca ngợi sự giàu đẹp của biển quê hương, và đặc biệt là hình ảnh người lao động được miêu tả với nhiều vẻ đẹp: sự sảng khoái của người làm chủ đất nước, nhiệt tình lao động với tất cả tình yêu biển, yêu nghề. Vì vậy, đọc bài thơ ta càng thêm yêu đất nước và con người lao động Việt Nam Bài thơ lặp lại 4 lần chữ "hát"thực chất là một bài ca sảng khoái, một tráng khúc về lao động và về thiên nhiên đất nước giàu đẹp. Khúc ca ấy vừa hào hứng, vừa phơi phới và khỏe khoắn, mạnh mẽ, kết hợp với sự vận động tuần hoàn của thiên nhiên vũ trụ. Chính vì vậy, Đ " oàn thuyền đánh cá"được xem như bước khởi đầu trong cảm hứng mới về thiên nhiên đất nước và niềm tin ở cuộc sống mới đang sôi động. Niềm tin ấy đã giúp nhà thơ có tinh thần lạc quan và yêu đời hơn.. Nhận xét:Các thao tác lập luận đã sử dụng:.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> « Thao tác chính là thao tác bình luận, có thao tác phân tích Thao tác giải thích: " Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi" - Không phải từng chiếc thuyền lẻ tẻ mà là cả 1 đoàn thyền, một sức mạnh mới của cuộc đời đổi thay đang bắt đầu căng buồm. Từ "lại" trong cụm từ "lại ra khơi" là sự khẳng định nhịp điệu lao động của người dan chài đã ổn định, đã đi vào nề nếp. Đoàn thuyền ra khơi với khí thế căng trào. Cảnh tượng ấy thể hiện qua nghệ thuật tương phản: giữa cảnh ngày tàn với đêm mở ra, giữa cái tĩnh (vũ trụ) và cái động (con người).Nhạc điệu cũng có sự đối lập: tả vũ trụ với những vần trắc liên tiếp (lửa-cửa) như khép lại, và những vần bằng (khơi-khơi) như mở ra, ngân nga kéo dài . Sự đối lập ấy giúp người đọc cảm nhận được nỗi vất vả của việc đánh cá về đêm. Công việc đánh cá ban đêmtrên bểin là công việc nặng nhọc, đầy bất trắc nhưng đoàn quân xông trân vẫn cất cao tiếng hát. Đêm thở :sao lùa nước Hạ long" - Đêm như được nhân hóa như một sinh vật của đại dương: nó " thở". Nhịp thở của đêm là tiếng sóng vỗ rì rào, cao thấp. Sao phản chiếu lấp lánh trên từng đợt sóng lùa" " , mặt nước càng làm tiếng thở có vẻ kỳ ảo. - Trong cái mênh mông ấy nổi bật lên hình ảnh mặt trời được ví như "hòn lửa" đỏ rực gợi tả màu sắc sinh động của buổi hoàng hôn trên biển đang chuyển về đêm. Bầu trời và mặt biển bao la như ngôi nhà vũ trụ trong khoảnh khắc đã phủ bóng tối mịt mùng, còn những con sóng như chiếc "then cài" của ngôi nhà vĩ đại ấy. Biện pháp nhân hóa s"óng đã cài then, đêm sập cửa"khiến thiên nhiên như những con người biết hoạt động, biết nghỉ ngơi. - Người dân chài gõ thuyền xua cá vào lưới, nhưng đây không phải là con người mà ánh trăng: trăng in xuống dòng nước, sóng vỗ vào mạn thuyền thành hình ảnh " nhịp trăn"gõ thuyền. « Thao tác bình luận: - Với đôi mắt quan sát tinh tế, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ ra một khung cảnh lao động tuyệt đẹp. - Hai khổ thơ có giá trị tạo hình đặc sắc, vẽ lại bức tranh lao động hoành tráng, tràn ngập ánh sáng và màu sắc, tràn đầy sức sống mãnh liệt. Trong đó con người đã hòa hợp với thiên nhiên hùng vĩ, bao la và thậm chí, vượt qua cả thiên nhiên nữa. Hình ảnh so sánh " như lòng mẹ"quen thuộc, có sức truyền cảm mãnh liệt, thể hiện tình yêu biển, yêu đời chan chứa của những con người gắn bó với biển từ bao đời, bao thế hệ. -Nghệ thuật dùng từ của tác giả thật điêu luyện. Sắc cá dưới ánh trăng và sắc cá dưới ánh bình minh đềuđược miêu tả tuyệt đẹp Bài 2: Viết về đề tài lao động, bài thơ "Bài ca vỡ đất"của Hoàng Trung Thông và bài Đ " oàn thuyền đánh cá"của Huy Cận,... được người đọc yêu thích nhất. Huy Cận viết "Đoàn thuyền đánh cá"vào năm 1958, tại vùng biển Quảng Ninh, phản ánh không khí lao động.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> sôi nổi của nhân dân miền Bắc trong xây dựng hòa bình. Nhà thơ ca ngợi tinh thần lao động phấn khởi và hăng say của những người dân chài trên biển quê hương. Cảm hứng trữ tình được diễn tả theo mạch thời gian: hoàng hôn - đêm trăng - và bình minh. Cảnh bình minh như một biểu tượng mang ý nghĩa: một thời đại huy hoàng đang mở ra phía trước, cuộc sống cần lao của nhân dân ta đang nở hoa. 1. Hai khổ thơ đầu nói về cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá. Cảnh biển vô cùng tráng lệ lúc hoàng hôn. Mặt trời được ví von với hòn than đỏ rực "hòn lửa"từ từ lặn xuống biển. Bầu trời và mặt biển bao la như ngôi nhà vũ trụ trong khoảnh khắc phủ bóng tối mịt mùng. Những con sóng, như những chiếc "then cài"của ngôi nhà vĩ đại ấy. Cảm hứng vũ trụ, biện pháp tu từ so sánh ẩn dụ (hòn lửa, cài then) đã tạo nên những vần thơ đẹp, cho người đọc nhiều ấn tượng: " ặt trời xuống biển như hòn lửa M Sóng đã cài then đêm sập cửa". Ngày đã chuyển sang đêm. Vừa lúc đó, đoàn thuyền ra khơi: Đ " oàn thuyền đánh cá lại ra khơi, Câu hát căng buồm cùng gió khơi". Không phải từng chiếc thuyền lẻ tẻ đi biển mà là cả một "đoàn thuyền", một sức mạnh mới của cuộc đời đổi thay. Chữ "lại"trong ý thơ "lại ra khơi"là sự khẳng định nhịp điệu lao động của dân chài đã ổn định, đi vào nền nếp trong hòa bình. Khúc hát lên đường vang động. Gió biển thổi mạnh. Cánh buồm no gió "căng"lên. Tiếng hát, gió khơi, buồm căng là ba chi tiết nghệ thuật mang tính chất tượng trưng diễn tả tinh thần phấn khởi, hăng say và khí thế ra khơi của ngư dân vùng biển. Bốn câu thơ tiếp theo nói rõ về câu hát để làm nổi bật một nét tâm hồn của người dân chài. Tiếng hát cầu mong đi biển gặp nhiều may mắn: " át rằng cá bạc, biển Đông lặng, H Cá thu biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi !" Chuyện làm ăn thường có nhiều may rủi. Ra khơi đánh cá, họ cầu mong biển lặng sóng êm, gặp luồng cá, đánh bắt được nhiều. Niềm ước mong ấy phản ánh tấm lòng hồn hậu của ngư dân từng trải qua nhiều nắng, gió, bão tố trên biển. Giọng điệu thơ ngọt ngào, ngân dài và vang xa: "Cá bạc", "đoàn thoi", "dệt biển", "luồng sáng", "dệt lưới"là những hình ảnh so sánh ẩn dụ rất sáng tạo đem đến cho người đọc bao liên tưởng thú vị về vẻ đẹp thơ ca viết về lao động. 2. Bốn khổ thơ tiếp nói về cảnh đánh cá một đêm trăng trên vịnh Hạ Long. Mỗi khổ thơ là một nét vẽ về biển trời sông nước trăng sao, trong đó con người hiện lên trong dáng vẻ khỏe mạnh, trẻ trung và yêu đời. Hạ Long là một thắng cảnh bậc nhất của đất nước ta. Hạ Long một đêm trăng mang vẻ đẹp thần tiên. Huy Cận, với bút pháp lãng mạn tả cảnh đánh cá trên Hạ Long một đêm trăng bằng bao hình ảnh tuyệt vời..

<span class='text_page_counter'>(35)</span> Đoàn thuyền có gió làm lái, có trăng làm buồm phóng như bay trên mặt biển. Đến ngư trường "dò bụng biển", ngư dân khẩn trương lao vào công việc "dàn đan thế trận lưới vây giăng". Cuộc đánh cá thực sự là một trận đánh. Mỗi thủy thủ là một "chiến sĩ". Con thuyền, mái chèo, lưới, ngư cụ khác đều trở thành vũ khí của họ. Chữ "lướt"đặc tả đoàn thuyền ra khơi với vận tốc phi thường; thiên nhiên cùng góp sức với con người trên con đường lao động và khám phá. Nhịp thơ hối hả lôi cuốn: " huyền ta lái gió với buồm trăng T Lướt giữa mây cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng". Những câu thơ tả đàn cá là đặc sắc nhất. Biển quê ta giàu có với nhiều loại cá quý, cá ngon nổi tiếng như tục ngữ đã nói: "Chim, thu, nhụ, đé". Vận dụng sáng tạo cách nói của dân gian, ở phần trên, nhà thơ đã viết: "Cá thu biển đông như đoàn thoi", ở đây lại miêu tả: "Cá nhụ, cá chim cùng cá đé". Con cá song là một nét vẽ tài hoa. Vẩy cá đen, hồng, lấp lánh trên biển nước lân tinh chan hòa ánh trăng "vàng chóe". Cái đuôi cá quẫy được so sánh với ngọn đuốc rực cháy. Nghệ thuật phối sắc tài tình làm cho vần thơ đẹp như một bức tranh sơn mài rực rỡ. Bầy cá như những nàng tiên vũ hội:. " á nhụ, cá chim cùng cá đé C Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe". Nhìn bầy cá bơi lượn, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm, mắt nhìn về xa. Câu thơ huyền ảo lung linh: Đ " êm thở, sao lùa nước Hạ Long", như đưa người đọc đi vào cõi mộng. Phải có một tình yêu biển sâu nặng mới viết nên những vần thơ tuyệt bút như vậy. Sung sướng nhìn đàn cá "dệt lưới", những người dân chài cất lên tiếng hát ngọt ngào. Lần thứ hai tiếng hát vang lên trên biển. Tiếng gõ thuyền đuổi cá hòa cùng sóng biển. Vầng trăng soi xuống mặt biển, muôn ngàn ánh vàng: tan ra theo làn sóng, vỗ vào mạn thuyền. "Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao". Biển hào phóng cho nhân dân nhiều tôm cá, muối và hải sản... Biển "như lòng mẹ"đã nuôi sống nhân dân ta từ bao đời nay. So sánh biển với lòng mẹ để nói lên lòng tự hào của dân chài đối với biển quê hương. Giọng thơ ấm áp, chứa chan nghĩa tình: " iển cho ta cá như lòng mẹ, B Nuôi lớn đời ta tự buổi nào". Một đêm trôi nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng, hăng say. Trên bầu trời sao đã thưa và mờ. Cảnh kéo lưới được miêu tả đầy ấn tượng. Những cánh tay rắn chắc kéo lưới "xoăn tay". "Kéo xoăn tay"là một hình ảnh đặc tả động tác kéo lưới rất căng, khỏe và đẹp. Cơ man nào là cá mắc vào lưới như những chùm trái cây treo lủng lẳng. "Chùm cá nặng"là một hình ảnh ẩn dụ gợi tả được mùa cá. Khoang thuyền đầy ắp cá. Màu bạc của vẩy cá, màu vàng của đuôi cá "lóe rạng đông". Một lần nữa cho thấy nghệ thuật sử dụng.

<span class='text_page_counter'>(36)</span> màu sắc của nhà thơ rất điêu luyện. Sắc cá dưới ánh trăng và sắc cá dưới áng rạng đông đều được miêu tả tuyệt đẹp: S" ao mờ kéo lưới kịp trời sáng, Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông". 3. Khổ thơ cuối nói về cảnh đoàn thuyền trở về bến lúc rạng đông. Lần thứ ba, ngư dân trên đoàn thuyền lại cất cao tiếng hát - tiếng hát thắng lợi hân hoan. Con thuyền và mặt trời được nhân hóa. Thơ được cấu trúc song hành diễn tả nhịp sống khẩn trương: Đ " oàn thuyền chạy đua cùng mặt trời, Mặt trời đội biển nhô màu mới". Cảnh rạng đông với hình ảnh m " ặt trời đội biển..."nhô lên, tỏa ánh sáng chan hòa, một m " àu mới"bao trùm biển khơi. Đoàn thuyền phóng như bay về bến như cướp lấy thời gian, giành lấy thời gian. Biện pháp thậm xưng kết hợp với nghệ thuật hoán dụ trong việc tả m " ắt cá huy hoàng muôn dặm phơi"đã vẽ lên cảnh được mùa cá và cuộc sống hạnh phúc ấm no của nhân dân vùng biển. Bằng lao động và mồ hôi, họ đã viết nên bài ca cuộc đời. Đ " oàn thuyền đánh cá"là bài thơ tiêu biểu của Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám. Nếu như trước đây, thơ Huy Cận thấm một nỗi buồn "vạn cổ sầu"vào vũ trụ và lòng người thì những bài thơ của ông từ năm 1945 đến nay, đặc biệt là bài "Đoàn thuyền đánh cá" mang âm điệu ngọt ngào, niềm vui say mê và phấn chấn của nhân dân lao động đang làm chủ cuộc đời. Qua thơ Huy Cận, chúng ta như được sống những đêm trăng đẹp trên Hạ Long, ta tự hào đất nước ta có trên ba nghìn cây số bờ biển; biển ta giàu có, bao la tiềm năng, dồi dào hải sản. Cảnh đánh cá trên biển được miêu tả với cảm hứng lãng mạn. Lao động thật sự là niềm vui cuộc đời. Trong xã hội ta, cái đáng quý nhất là lao động, người đáng quý nhất là người lao động. Hình ảnh người dân chài trong bài thơ là hiện thân của sức sống cần lao. Họ cần cù, dũng cảm và chịu khó. Cuộc đời của họ đã gắn liền với sóng gió mưa nắng biển khơi, khai thác nhiều hải sản. Chính họ đã đem lại muối mặn và hương vị biển cho mọi gia đình gần xa, bữa cơm trở nên đậm đà với con tôm con cá. Cùng với nhà nông "một nắng hai sương", những người dân chài đã cho ta bài học về đức tính cần cù, tinh thần lạc quan trong lao động. Thật vậy, Đ " oàn thuyền đánh cá"là một bài thơ hay. Những nét vẽ về đàn cá biển, về người dân chài đánh cá, kéo lưới, ca hát... cho thấy một hồn thơ đẹp..

<span class='text_page_counter'>(37)</span>

<span class='text_page_counter'>(38)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×