Tải bản đầy đủ (.docx) (172 trang)

Van Hay Lop 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1007.65 KB, 172 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>PHẦN I VĂN TỰ SỰ Đề 1: Tưởng tượng 20 năm sau, vào một ngày hè ,em về thăm lại trường xưa.Hãy viết thư cho một bạn học hồi ấy kể về buổi thăm trường đầy xúc động đó. Bài 1 Hà Nội ngày ...tháng …năm… Sơn Ca thân mến! Hè vừa rồi,nhân về thăm quê mình có ghé thăm trường cũ.Sau 20 năm,mái trường xưa đã có rất nhiều thay đổi.Mình muốn viết thư cho bạn ngay,vừa để hỏi thăm sức khoẻ của gia đình bạn vừa muốn tâm sự cùng bạn những chuyện ngày xưa . Đó là vào một buổi chiều muộn,không gian làng quê yên ả,thanh bình đến kỳ lạ. Mình bước trên con đường làng,vẫn là con đường ngày xưa có nhiều hoa và cỏ nhưng cảm giác của mình thật lạ:hồi hộp,xao xuyến như cô học trò nhỏ ngày nào mỗi sớm mai đến lớp .Từ xa mình đã trông thấy trường:nhà cao tầng,lợp ngói đỏ,nổi bật trên nền trời ngày hè xanh trong.Bước những bước chân chậm rãi đến gần ngôi trường xưa yêu dấu,mình cảm nhận rõ ràng cảm giác thân quen gần gũi khi nhìn thấy tấm biển: “Trường THCS Quất Lâm”.Sơn Ca còn nhớ lời cô đã nói:“Bước qua cánh cổng này là một thế giới kỳ diệu sẽ mở ra”.Đúng là như vậy.Ngôi trường của chúng ta giờ đã thay đổi khá nhiều:to đẹp hơn,khang trang hơn,có tường bao,vườn thực vật và rất nhiều cây cảnh.Chỉ có những hàng cây trên sân trường là vẫn thế:xanh biếc đến nao lòng.Cuối sân trường, hàng phượng vĩ vẫn nở hoa đỏ rực như mùa thi chỉ vừa mới qua thôi...Mình bước chầm chậm lên hành lang tầng hai, giật mình khi trông thấy bác bảo vệ .Có lẽ nhìn cái vẻ bần thần của mình bác ấy cũng đoán ra là học sinh cũ về thăm trường nên chỉ cười mà không hỏi gì cả.Lòng bồi hồi bước đến bên lớp cũ ,nhìn qua cửa sổ , cảm thấy mình vẫn là cô học trò nhỏ ngày nào.Trong “ngôi nhà chung”ấm cúng này , bốn mươi thành viên của lớp đã học tập,vui chơi,cùng chia sẻ với nhau những niềm vui,nỗi buồn, những tâm tư tình cảm của tuổi học trò hồn nhiên trong sáng.Những dãy bàn,những giờ học hăng say,dường như còn thoảng đâu đây cả lời cô giáo giảng…Sơn Ca còn nhớ chỗ ngồi của bọn mình ngày xưa không?Bàn thứ hai,bên trái,chỗ ngồi đã gắn bó với chúng mình trong suốt cả năm học lớp 9.Có lần cô giáo cho làm bài tập,cả lớp cắm cúi làm còn An cúi mặt xuống bàn làm một giấc.Thấy An ngủ ngon lành quá,mình vẽ lên mũi cậu ấy một chấm tròn to nhìn y như mũi con mèo.Một lát cô giáo trông thấy, gọi An đứng dậy.Nhìn An,cô giáo bật cười còn cả lớp được một phen nghiêng ngả.Ngày ấy chúng mình quí nhất cô Mai.Với cả lớp ,cô như người chị cả,vừa nghiêm nghị vừa gần gụi,yêu thương.Giọng cô nhỏ và trong,những bài cô dạy,những câu chuyện cô kể dường như bao giờ cũng hấp dẫn hơn nhiều lần…Tất cả như vừa mới đây thôi,vẫn vẹn nguyên trong ký ức,giờ ào ạt ùa về khiến nỗi nhớ trở nên cồn cào,cháy bỏng.Gió chiều mát dịu, mang theo cả vị mặn mòi của biển khiến mái trường quê thêm thân thuộc biết bao ! Mỗi chúng ta giờ đều đã khôn lớn trưởng thành.Những ước mơ xưa giờ đã thành hiện thực.Nỗi lo toan của cuộc sống khiến ta đôi lúc lãng quên nhiều thứ.Chỉ riêng ở nơi này,những kỷ niệm của chúng mình vẫn chờ đợi những học trò xưa .. Chiều muộn,mình trở về.Đã bước chân ra khỏi ngôi trường lưu giữ những tháng năm học trò hồn nhiên và đẹp như một câu chuyện cổ tích mà thấy lòng mình vẫn xao xuyến bâng khuâng .. Sơn Ca! Thư đã dài,mình dừng bút nhé.Hẹn gặp nhau một ngày gần nhất khi chúng mình cùng trở lại trường xưa ! Bạn . Thảo Nguyên..

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Bài 2 New York 18th September 2011 Ngọc thân mến ! Thời gian trôi nhanh thật, thấm thoắt mới đó mà đã hai mươi năm.Do nhu cầu của công việc tôi đã chuyển sang New York sinh sống. Hôm nay có dịp về thăm lại ngôi trường cũ thân yêu, tôi nhanh chóng viết vài dòng thư gửi bạn.Từ khi tốt nghiệp THCS tôi cho đến nay tôi đã không được gặp lai các bạn.Giờ đây tôi đã trưởng thành và lập gia đình, tôi đang đưoc sống hạnh phúc bên gia đình nhỏ của tôi ở New York.Chiếc máy bay hạ cánh tại sân bay Tân Sơn Nhất ,thì gia đình tôi đã chơ sẳn ở đó đón gia đình nhỏ của tôi trở về. con đường từ Đồng Nai về Long An giờ đây đã đựoc làm lại toàn bộ ,với đường cao tốc và phân luồng xe chạy từ Thành thị cho tới nông thôn.Trên đường về tôi có xin gia đình cho tôi về thăm lại trường cũ. Chiếc xe dừng lại tại công viên Võ Văn Tần .Trong tôi bổng dâng ngập một cảm giác xao xuyến và bỡ ngỡ khôn cùng. Ngôi trường cũ hiện ra trước mắt tôi với nhiều nhiều kỉ niệm vừa quen thuộc vừa xen chút lạ lẫm.Tôi đi chầm chầm trên con đường vào trường mà cảm thấy vui sướng vô cùng. Chiếc cổng trường năm xưa giờ đã được thay thế bằng chiếc cổng xây kín đáo và phía trên ghi rọc hàng chữ Trường THCS Võ Văn Tần. Tôi còn nhớ rõ ngày ấy, mỗi lần đi học muộn, cánh cửa lại đóng sập lại, tôi phải năn nỉ mãi bác Ba, thầy Chương mới cho vào.Bước vào sân trường sự thay đổi ấy càng hiện lên rõ hơn. Dãy lớp tôi học năm xưa giờ đã được thay thế bằng một dãy lầu 3 tầng. Lớp cũ năm xưa không còn nhưng tôi vẫn thấy đâu đây hình ảnh của các bạn cùng lớp. Cái Yến toét, cái Nhi cụ, thằng Đại ta... Ngày ấy cũng ở góc sân trường này, chúng ta thường chơi đùa. Cây bàng năm xưa vẫn còn nhưng nó đã già hơn trước. Tôi bước lại gần, những nét chữ khắc vào thân cây còn nhưng những dòng chữ của chúng tôi không còn nữa, có lẽ thời gian đã làm mờ dần.Tôi bước tới khu hành chánh, dãy phòng đã được sửa lại đôi chút nhưng vẫn giữ nguyên hình dáng năm xưa, nằm uy nghiêm giữa hai bên hàng cây mát rượi. Đây chính là cây đa ngày xưa do bác Nông Đức Mạnh trồng nhân dịp khai trường đây mà. Ôi! Giờ đây nó đã cao lớn quá, tôi phải ngước mắt lên mới thấy ngọn của nó. Trong tiếng gió tôi nghe những lời rì rầm như những tiếng chào. Dưới gốc cây vẫn còn hàng ghế đá quen thuộc với dòng chữ “Kỉ Niệm Lớp 9a8 khóa 2011-2012”.Sân trường đang giờ học im ắng đến lạ. Tôi nghe tiếng thầy cô âm vang, trầm ấm trong lớp học. Nỗi nhớ thầy cô, các bạn dâng ngập hồn tôi, từ ngày chia tay, mỗi người một ngả không biết cuộc sống của họ ra sao. Và các thầy cô của tôi nữa, tôi nhớ cô Hương dạy và cũng đồng thời là giáo viên chủ nhiệm, ngày ấy cô rất dễ nhưng cũng rất nghiêm khắc, không ít lần cô đã mắng chúng tôi khi chúng tôi không chịu nghe giảng. Tôi biết lúc đó đã có một số bạn tỏ ý không bằng lòng với cô nhưng chính những người đó sau này đã tâm sự với tôi. Đến khi xa cô rồi mới thấm thía lời cô dạy.Thực ra ngày đó chúng tôi còn nhỏ quá chỉ thích chơi thôi. Giờ đây lớn khôn tôi chỉ mong có dịp gặp lại cô để nói hết những tâm sự của mình.Tôi chậm rãi bứơc vào từng lớp học ,giớ đây chúng đã thay đôi quá .Mỗi phòng đều có hệ thống trình chiếu và đầy đủ các dụng cụ thực hành .Các cô cậu học trò bây giờ đã sử dụng đồng phục của trường ,trông rất xinh, không như chúng mình ngày ấy. Đang mải mê nhìn ngắm các phòng học thì tôi gặp cô Hương, tôi vô cùng sung sướng và bất ngờ vì bao năm rồi cô vẫn dạy ở nơi đây. Tôi chạy lại, vui mừng: - Em chào cô! Cô có nhận ra em không ạ? Cô nheo đôi mắt, sửa lại cặp kính: - Em là Liêm học sinh lớp 9A8, khóa học cách đây hai mươi năm rồi phải không? - Em cảm ơn cô vì cô vẫn còn nhận ra em. Thế là cô trò tíu tít nói chuyện. Đến lúc này tôi mới có dịp ngắm nhìn lại gương mặt cô, năm tháng trôi đi, tren khuôn mặt của cô đã có nhiều nếp nhăn, đôi mắt cũng không còn sáng như xưa nữa nhưng cái nhìn của cô vẫn thật dịu dàng. Mái tóc đen năm xưa giờ đã có khá nhiều.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> chỗ bạc. Tôi bỗng thấy thương cô vô cùng bởi tôi biết cuộc đời riêng của cô có bao nhiêu tình cảm cô dành hết cho tất cả các học sinh. Tôi và cô đi dạo quanh các phòng học, cô trò nhắc lại bao nhiêu chuyện cũ, đi bên cô tôi thấy mình như nhỏ lại, như được tuổi học trò thơ ngây tuổi nhỏ. Tôi vẫn thấy cô dịu dàng và ân cần như ngày còn đi học. Tôi đã tâm sự hết với cô về những tình cảm cô dành của các bạn , của lớp dành cho cô như thế nào. Cô rất xúc động, cô nói: - Những gì cô dạy dỗ các em năm xưa, cô biết rằng có thể ngay lúc đó các em chưa hiểu hết nhưng cô tin rằng mai này lớn lên các em sẽ hiểu. Và từ đó các em sẽ trưởng thành hơn trong cuộc sống. - Cô ơi, ngày đó quả cúng em còn nhỏ quá nên không hiểu hết tấm lòng của cô dành cho chúng em. Cô vuốt tóc tôi mỉm cười, một nụ cười vô cùng nhân hậu: -Cô chỉ mong mỗi lớp học trò qua đi trở thành những người có ích cho xã hội và nếu có dịp về thăm cô là cô rất vui. Bạn còn nhớ thằng Đại ngày nào học tập còn lời biếng thường xuyên vi phạm nội quy nhà trường mà giờ đây nó đã trở thành Bí thư Đoàn trường ta, Yến Nhi, Thuận Phát, giờ đây đều là giáo viên của trường ta…..Và cô rất vui khi biết tôi hiện là Giám đốc một tập đoàn thời trang ở Mỹ. Tôi và cô đang trò chuyện thì bổng tiếng chuông trường vang lên, tôi phải tạm biệt cô rồi. Lúc này tôi chẳng muốn rời xa cô, tôi tự hứa tết năm nay chúng ta sẽ họp lớp và tất cả sẽ về thăm trường cũ, thăm cô giáo chủ nhiệm. Ngắm ngôi trường cũ một lần nữa, tạm biệt những kỉ niệm của tuổi thơ tôi ra về trong lòng nao nao bao kỉ niệm buồn vui. Mái trường thân yêu, ngôi nhà thứ hai của chúng tôi, chính nơi đây đã chắp cho tôi bao ước mơ hy vọng. Tôi hiểu rằng dù là mười năm hay bao nhiều năm nữa, tôi sẽ mãi khắc ghi những kỉ niệm về một thời cắp sách đến trường. Thôi thư đã dài tôi xin dừng bút, chúc gia đình bạn luôn hạnh phúc .Riêng ban, tôi chúc bạn luôn thành công trên đường đời đầy chông gai bạn nhé ! Nhớ hồi âm Thân mến. Trần Thanh Liêm Đề 2: Kể về 1 giấc mơ trong đó em gặp người thân đã xa cách lâu ngày. Đã bao giờ bạn tin rằng sau một giấc mơ những điều bạn hằng mong ước bấy lâu sẽ trở thành sự thật ?Đã có lúc tôi rất tin vào điều đó và luôn nhớ khoảnh khắc kỳ diệu mà giấc mơ đã đem đến cho tôi . Hôm ấy là một buổi tối cuối tuần,trời đầy sao và gió thì dịu nhẹ.Tôi nằm trên trần nhà mơ mộng đếm những vì sao.Bỗng nhiên tôi thấy cả không gian như bừng sáng.Trong vầng hào quang sáng lấp lánh,ông tôi cười hiền từ bước về phía tôi.Tôi sung sướng đến nghẹt thở ngắm nhìn gương mặt phúc hậu, hồng hào và mái tóc bạc phơ của người ông yêu quí.Ông tôi vẫn thế:dáng người cao đậm,bộ quân phục giản dị và cái nhìn trìu mến!Tôi ngồi bên ông,tay nắm bàn tay của ông,tận hưởng niềm vui được nâng niu như thuở còn thơ bé...Tôi muốn hỏi những ngày qua ông sống như thế nào?Ông ở đâu?Ông có nhớ đến gia đình không …Tôi muốn hỏi nhiều chuyện nhưng chẳng biết bắt đầu từ đâu cả. Ông kể cho tôi nghe những câu chuyện cổ tích mà ngày xưa ông vẫn kể.Giọng ông vẫn thế:rủ rỉ,trầm và ấm.Ông hỏi tôi chuyện học hành,kiểm tra sách vở của tôi.Đôi mày ông.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> nhíu lại khi thấy tôi viết những trang vở cẩu thả.Ông không trách mà chỉ ân cần khuyên nhủ tôi cố gắng học tập chăm chỉ hơn.Ông nhìn tôi rất lâu bằng cái nhìn bao dung và khích lệ.Ông còn bảo những khát vọng mà ông làm dang dở,cháu hãy giúp ông biến nó thành hiện thực.Những khát vọng ấy ông ghi lại cả trong trang giấy này.Muốn làm được điều ấy chỉ có con đường học tập mà thôi… Ông dẫn tôi đi trên con đường làng đầy hoa thơm và cỏ lạ.Hai ông cháu vừa đi vừa nói chuyện thật vui.Ông bảo đến chợ hoa xuân,ông muốn đem cả mùa xuân về căn nhà của cháu.Ông chọn một cành đào, cành khẳng khiu nâu mốc nhưng hoa thì tuyệt đẹp:màu phấn hồng,mềm,mịn và e ấp như đang e lệ trước gió xuân.Nụ hoa chi chít,cánh hoa thấp thoáng như những đốm sao.Tôi tung tăng đi bên ông,lòng sung sướng như trẻ nhỏ.Ông cầm cành đào trên tay.Có lẽ mùa xuân đang nấp cả trong những nụ đào e ấp ấy…Xung quanh ông cháu tôi,kẻ mua,người bán,ồn ào và náo nhiệt.Họ cũng đang chuẩn bị đón xuân về ! Tôi đang bám vào tay ông,ríu rít trò chuyện về những ngày xuân mới sắp đến,chợt nghe tiếng mẹ gọi rất to.Tôi giật mình tỉnh dậy,thấy mình vẫn đang nằm trêm trần nhà.Lòng luyến tiếc nhận ra tất cả chỉ là một giấc mơ thôi .. Giấc mơ chỉ là khoảnh khắc kỳ diệu đáp ứng niềm mong nhớ của tôi. Tôi nuối tiếc song cũng học được nhiều điều từ giấc mơ đó.Và quan trọng nhất là tôi được gặp ông , được ông truyền cho niềm tin và sự nỗ lực cố gắng thực hiện những ước mơ của chính mình. Đề 3 Đã có lần em cùng gia đình đi thăm mộ người thân trong dịp lễ tết .Hãy viết bài văn kể về buổi đi thăm đáng nhớ đó . “Thanh minh trong tiết tháng ba Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh ”. Từ lâu lắm Nguyễn Du đã viết như thế về phong tục tảo mộ ngày thanh minh,và tôi chờ đợi ngày ấy để được đi thăm mộ bà với biết bao nỗi niềm, cảm xúc. Trời đất vạn vật choàng tỉnh sau giấc ngủ đông,khoác tấm áo mùa xuân tươi tắn.Những giọt nắng đầu tiên trải trên nẻo đường làng nâu sậm thành từng vùng ấm dịu.Những bông lau bên đường khẽ đưa mình trong gió,gợn sóng mềm mại.Hương mùa xuân thoảng nhẹ đâu đây.... Đường làng đẹp đến lạ lùng ! Tôi và gia đình bước vào khu yên nghỉ của những người đã khuất.Gió ở đây lạnh, heo hút và hoang vắng.Những nấm mộ trắng nằm lặng yên tưởng chừng như không gian ở đây ngưng lại trong sự vĩnh hằng.Mẹ tôi đã chuẩn bị đầy đủ những thứ cần thiết trong chiếc làn nặng trĩu:nào nhang,hoa và cả đồ lễ nữa.Bà tôi nằm ở đây.Mẹ và chị tôi sửa sang phần mộ bà chu đáo,cẩn thận.Đưa mấy nén nhang đã đốt sẵn,mẹ bảo chị tôi đi thắp nhang cho các ngôi mộ xung quanh.Mẹ bày đồ lễ,tôi đứng lặng trước mộ bà,trong hương trầm nghi ngút,những kỷ niệm ngày xưa tràn về …Tất cả chỉ như vừa mới hôm qua thôi.Tôi nhớ những ngày bà bế tôi rong chơi khắp làng.Nhớ hơi ấm đặc biệt của bà,hình bóng bà mỗi sớm tinh sương,thổi bếp rạ,nướng củ khoai thơm phức.Tôi thường theo bà dậy sớm,thích ngồi cuộn lại trong lòng bà như một con mèo nhỏ,với tay đun bếp cùng bà.Hơi lửa làm nóng bừng hai má ,tôi vừa thổi vừa ăn miếng khoai nướng ngọt đến mềm môi...Thuở bé thơ, hai chị em tôi thường dành nhau chải tóc cho bà.Tóc bà dài, lốm đốm sợi bạc,thoảng mùi sả thơm…Tôi nhớ khôn nguôi mùi hương ấm nồng làm cay sống mũi ấy.Lúc nhỏ,tôi là đứa trẻ hậu đậu,vụng về nhưng bà chẳng bao giờ mắng tôi. Bà dạy tôi mọi thứ,cẩn trọng,rõ ràng như người ta truyền cho nhau kinh nghiệm đã được chắt chiu cả một đời.Thuở ấy,mỗi lúc đông về,bà thường nhắc tôi mặc áo cho thật ấm,vậy mà giờ đây bà nằm một mình trong lòng đất lạnh,trống trải và cô đơn…Tôi yêu bà,gắn bó bên bà cả một thời thơ bé.Tâm hồn tôi trong trẻo hơn,trái tim hiểu thế nào là nhân ái từ sự dạy dỗ của bà,từ những câu chuỵên cổ tích mà bà đã kể.Bây giờ tôi đã lớn khôn.Đông về.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> biết tự mặc áo ấm,làm việc nhà không còn hậu đậu vụng về,bà tôi lại chẳng còn có dịp nhìn thấy thành quả của mình được nữa. Tiếng mẹ gọi hoá vàng,tro tiền giấy bay kéo tôi ra khỏi thế giới tuổi thơ tràn ngập hình bóng của bà.Tôi trở về nhà trên con đường cũ nhưng sao thấy không gian như ảm đạm hơn.Dường như tôi đang mong chờ một điều kỳ diệu vẫn thường xảy ra trong các câu chuyện cổ tích để không gian buồn trên con đường về nhạt bớt đi chăng? Có thể bà đã đi xa mãi nhưng bà vẫn sống trong lòng tôi và tất cả mọi người trong gia đình.Tôi tin bà đang dõi theo từng bước đường đời của đứa cháu yêu và nhất định sẽ để bà được mỉm cười về tôi nơi chín suối. Đề 4 : Hãy kể lại một lần em trót xem nhật ký của bạn. Trong ngăn ký ức ngày hôm qua của mình,tôi có thể quên nhiều thứ nhưng không thể quên lần trót xem trộm nhật ký của Mai . Mai là cô bạn gái thân thiết nhất của tôi.Chúng tôi chơi với nhau từ hồi còn bé xíu nên tôi hiểu Mai rất rõ .Mai xinh xắn và dễ mến:mái tóc dài đen mượt,cái miệng chúm chím thật đáng yêu.Mai thông minh,học giỏi và rất tình cảm với bạn bè . Một lần tôi đến nhà Mai mượn sách.Mai đang mải làm bánh nên để tôi tự tìm.Cả một tủ sách khiến tôi hoa mắt.Tôi phát hiện ra một khe hở nhỏ cạnh kệ sách,tôi tò mò lôi từ đó ra một quyển sổ nhỏ và mở ra xem.Không!Tôi vội vàng gập lại và định để vào chỗ cũ.Nhưng tôi lại ngập ngừng,tôi muốn biết thêm về Mai,muốn biết Mai ghi nhật kí như thế nào?Tôi không kìm được tay mình tiếp tục mở cuốn sổ và cũng không kìm được mắt mình đọc nó.Tôi đã cố gắng nhưng mắt tôi vẫn dán vào.“Trời ơi ! lẽ nào cuộc sống của Mai là như vậy ?”Bỗng tôi giật bắn mình,Mai xuất hiện ngay trước mặt.Tay tôi run bắn,cuốn nhật kí rơi bộp xuống đất,tôi đứng trân trân,bất động,không nói được lời nào.Tôi chỉ nhớ ánh mắt rưng rưng,đôi môi run rẩy đầy tức giận của Mai.Tôi vụt chạy đi,lòng nặng trĩu .. Đó là lần đầu tiên tôi thấy Mai giận dữ như vậy.Tôi chạy,chạy như trốn ánh mắt ấy,tôi muốn khóc quá.Tôi rất sợ,sợ sự giận dữ Mai ném cho tôi,sợ cả chính việc mình vừa làm.Về đến nhà tôi đóng sập cửa phòng lại,thở hổn hển,bần thần ngồi xuống ghế,tôi tự trách mình tại sao lại làm như vậy ?Tại sao tôi không chiến thắng được sự tò mò của chính mình?Tại sao? Tôi buồn bực quăng cả chồng sách xuống đất.Sự xấu hổ và hối hận làm tôi day dứt không yên . Đêm đó tôi trằn trọc mãi.Tôi ước gì chuyện đó chưa bao giờ xảy ra và ngày mai chúng tôi lại cùng nhau đến lớp.Tôi suy nghĩ miên man,nhớ lại những trang nhật ký đầy nước mắt của bạn.Làm sao tôi có thể tưởng tượng được rằng gia đình Mai không hề hạnh phúc,suốt ngày Mai phải nghe những trận cãi vã của bố mẹ.Tôi không tin vào những gì mình đã đọc.Càng nghĩ,tôi càng thương Mai.Tôi tưởng tượng ra hình bóng Mai cô đơn và buồn bã trong căn nhà lớn.Vậy mà tôi đã tưởng mình hiểu về Mai rõ lắm.Tôi muốn chia sẻ cùng Mai,muốn an ủi và làm hoà với bạn.Nhưng tôi lo Mai vẫn trách móc, vẫn giận tôi và bạn sẽ chẳng bao giờ nói với tôi một lời nào nữa bởi tôi đã cố tình xen vào bí mật đau buồn mà Mai hằng cất giữ trong sâu thẳm trái tim mình.Cứ thế,suốt một đêm trường tôi không sao thoát khỏi sự ăn năn,day dứt… Sáng hôm sau,tôi đến lớp một mình.Tôi tự nhủ lòng sẽ đến xin lỗi Mai nhưng tôi vẫn vô cùng lo lắng.Mặc dù vậy, tôi đã không thực hiện được ý định của mình vì hôm sau và những ngày sau đó Mai không đến lớp.Vì hoàn cảnh riêng của gia đình,Mai đã chuyển về quê để học . Mong rằng,sẽ có lúc tôi gặp lại Mai để xin lỗi bạn,và tôi cũng cầu mong những nỗi buồn của Mai sẽ vợi đi theo năm tháng.Tôi tin tưởng một tương lai rộng mở,sáng tươi sẽ đến.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> với người bạn của tôi.Và tôi nữa,tôi tự hứa với mình sẽ chẳng bao giờ lặp lại sai lầm dại dột thuở ấu thơ . Đề 5 : Kể về cuộc gặp gỡ với các chú bộ đội nhân ngày 22/12.Trong buổi gặp đó em thay mặt các bạn phát biểu những suy nghĩ , tình cảm của thế hệ sau đối với thế hệ cha anh đi trước . Nhân kỷ niệm ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam,trường em tổ chức cho học sinh đi thăm một đơn vị bộ đội.Trong buổi gặp gỡ đó em được thay mặt các bạn phát biểu những suy nghĩ tình cảm của mình . Xe dừng bánh,cả doanh trại bộ đội rộng lớn,sạch sẽ,ngăn nắp hiện ra trước mắt.Hội trường trang hoàng lộng lẫy,các bác các chú quân phục chỉnh tề,gương mặt rạng rỡ,tự hào.Chúng em quây quanh các chiến sỹ áo xanh,mặt các bạn hớn hở, hãnh diện lạ thường! Chúng em hỏi các chú nhiều chuyện lắm,cả về lịch sử ra đời ngày 22/12 nữa.Giờ thì chúng em đã biết:Bác Hồ chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân vào ngày 22/12 / 1944.Ngay sau đó đội đánh thắng 2 trận liên tiếp tại Phăy Khắt,Nà Ngần…Đội ngày càng lớn mạnh và được đổi tên thành QĐND Việt Nam.Và từ đó lấy ngày 22/12 làm ngày truyền thống.Bây giờ thì em đã hiểu lịch sử ra đời của ngày 22/12,hiểu về truyền thống yêu nước và ý chí chiến đấu bảo vệ đất nước của dân tộc ta.Càng hiểu em càng thấy trân trọng và muốn khắc ghi vào tiềm thức đển nhớ về một thời kì hào hùng với những con người quả cảm của một đất nước bé nhỏ mà kiên cường… Chúng em còn được nghe kể nhiều về những chiến công anh dũng,hào hùng của những người lính cụ Hồ,về những tháng năm bôn ba chinh chiến chống kẻ thù xâm lược,những gian khổ hy sinh không thể diễn tả bằng lời.Đến thời bình,bộ đội đâu đã hết nguy nan:Những đêm tuần tra lạnh run người khi truy bắt tội phạm chống lại những lực lượng thù địch phá hoại từ bên ngoài,những lúc giúp dân chống thiên tai,lụt lội...Nhìn gương mặt rắn rỏi,xạm đen vì nắng gió,nghe những câu chuyện kể và chứng kiến vẻ bình thản của những chiến binh,em thật sự thấy rất cảm động xen lẫn cả niềm tự hào,biết ơn sâu sắc...Trong dòng cảm xúc khó tả,ấy em lại được vinh dự thay mặt các bạn phát biểu những suy nghĩ tình cảm của mình:“Kính thưa các bác ,các chú ,chúng cháu may mắn được sinh ra và lớn lên trong một dân tộc anh hùng.Chúng cháu biết để có được cuộc sống hòa bình hôm nay,dân tộc Việt Nam đã phải đánh đổi rất nhiều,bằng cả nước mắt và máu xương của bao người đã hy sinh cho Tổ quốc.Để thể hiện lòng biết ơn của thế hệ mình đối với cha anh,chúng cháu hứa sẽ nỗ lực học tập,rèn luyện,tu dưỡng để trở thành những công dân có ích,góp phần nhỏ bé của mình xây dựng đất nước.Có như vậy mới xứng đáng với truyền thống cao quí cuả dân tộc,xứng đáng với sự hy sinh của bao thế hệ cha anh.”Em ngồi xuống mà thấy tay mình vẫn còn run,trái tim lâng lâng một cảm xúc bay bổng lạ kì . Ánh nắng đã nhạt dần,chúng em chia tay với các bác,các chú trong lưu luyến.Buổi gặp gỡ đã khơi dậy những ước mơ trong em,tăng thêm lòng quyết tâm và niềm tin của em vào một tương lai tươi sáng . Đề 6:Kể lại kỉ niệm đáng nhớ giữa mình và thầy cô giáo cũ nhân ngày 20-11 “Đại dương lớn bởi dung nạp trăm sông,con người lớn bởi rộng lòng bao dung cả những điều lầm lỗi”.Đó là bài học đầu tiên tôi học được từ cô giáo của mình và cho đến tận bây giờ,những kỉ niệm yêu thương về cô giáo đầu tiên vẫn còn in đậm trong tâm trí của tôi! Ngày ấy tôi mới vào học lớp 1.Cô giáo của tôi cao,gầy,mái tóc không mướt xanh mà lốm đốm nhiều sợi bạc,cô ăn mặc giản dị nhưng lịch thiệp.ấn tượng nhất ở cô là đôi mắt sáng,nghiêm nghị mà dịu dàng.Cái nhìn vừa yêu thương vừa như dò hỏi của cô cho đến bây giờ tôi vẫn chẳng thể nào quên….

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Hôm ấy là ngày thứ 7.Mai có một chiếc bút máy mới màu trắng sọc vàng với hàng chữ “My pen”lấp lánh và những bông hoa nhỏ xíu tinh xảo ẩn nấp kín đáo mà duyên dáng ở cổ bút.Tôi nhìn cây bút một cách thèm thuồng,thầm ao ước được cầm nó trong tay… Đến giờ ra chơi,tôi một mình coi lớp,không thể cưỡng lại ý thích của mình,tôi mở cặp của Mai,ngắm nghía cây bút,đặt vào chỗ cũ rồi chẳng hiểu vì sao tôi bỗng không muốn trả lại nữa.Tôi muốn được nhìn thấy nó hàng ngày,được tự mình sở hữu nó,được thấy nó trong cặp của chính mình… Hết giờ ra chơi, các bạn chạy vào lớp,Mai lập tức mở cặp và khóc oà lên khi thấy chiếc bút đã không cánh mà bay!Cả lớp xôn xao,bạn thì lục tung sách vở,bạn lục ngăn bàn,có bạn bò cả xuống gầm bàn ngó nghiêng xem chiếc bút có bị rơi xuống đất không…Đúng lúc đó,cô giáo của chúng tôi vào lớp!Sau khi nghe bạn lớp trưởng báo cáo và nghe Mai kể chi tiết về chiếc bút:nào là nó màu gì,có chữ gì, có điểm gì đặc biệt,ai cho,để ở đâu,mất vào lúc nào…Cô yên lặng ngồi xuống ghế.Lớp trưởng nhanh nhảu đề nghị: -Cô cho xét cặp lớp mình đi cô ạ! Cô hình nh không nghe thấy lời nó nói, chỉ chậm rãi hỏi: -Ra chơi hôm nay ai ở lại coi lớp? Cả lớp nhìn tôi,vài giọng nói đề nghị xét cặp của tôi,những cái nhìn dò hỏi,nghi ngờ,tôi thấy tay mình run bắn,mặt nóng ran nh có trăm ngàn con kiến đang bò trên má. Cô giáo tôi nổi tiếng là nghiêm khắc nhất trờng,chỉ một cái gật đầu của cô lúc này,cái cặp bé nhỏ của tôi sẽ được mở tung ra…Bạn bè sẽ thấy hết,sẽ chê cười,sẽ chẳng còn ai chơi cùng tôi nữa…Tôi sợ hãi,ân hận,xấu hổ,bẽ bàng…Tôi oà khóc,tôi muốn được xin lỗi cô và các bạn…Bỗng cô giáo của tôi yêu cầu cả lớp im lặng,cô hứa thứ hai sẽ giải quyết tiếp,giờ học lặng lẽ trôi qua... Sáng thứ hai,sau giờ chào cờ,cô bước vào lớp,gật đầu ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống.Cô nhẹ nhàng đến bên Mai và bảo: -Hôm thứ bảy bác bảo vệ có đưa cho cô cây bút và nói rằng bác nhặt được khi đi đóng khoá cửa lớp mình,có phải là cây bút của em không? Mai cầm cây bút,nó sung sướng nhận là của mình,cô dặn dò cả lớp phải giữ gìn dụng cụ học tập cẩn thận,giờ học trôi qua êm ả,nhẹ nhàng…Ra chơi hôm ấy,các bạn lại ríu rít bên tôi như muốn bù lại sự lạnh nhạt hôm trước.Chỉ riêng tôi là biết rõ cây bút thật của Mai hiện ở nơi đâu… Sau đó vài ngày cô có gặp riêng tôi,cô không trách móc cũng không giảng giải gì nhiều.Cô nhìn tôi bằng cái nhìn bao dung và thông cảm,cô biết lỗi lầm của tôi chỉ là sự dại dột nhất thời nên đã có cách ứng xử riêng để giúp tôi không bị bạn bè khinh thường,coi rẻ… Năm tháng qua đi,bí mật về cây bút vẫn chỉ có mình tôi và cô biết.Nhưng hôm nay,nhân ngày 20/11, tôi tự thấy mình đã đủ can đảm kể lại câu chuyện của chính mình nh là một cách thể hiện lòng biết ơn và kính trọng đối với người đã dạy tôi bài học về sự bao dung và cách ứng xử tế nhị trong cuộc sống. Giờ đây tôi đã lớn,đã biết cân nhắc đúng sai trước mỗi việc mình làm, tôi vẫn nhớ về bài học thuở thiếu thời mà cô đã dạy: Bài học về lỗi lầm và sự bao dung! Và có lẽ trong suốt cả cuộc đời mình,tôi sẽ chẳng lúc nào nguôi nỗi nhớ về cô như nhớ về MỘT CON NGỜI CÓ TẤM LÒNG CAO CẢ!. ĐỀ 7 : Tưởng tượng em gặp lại một người thân sau bao ngày xa cách "Một năm mới lại về rồi,ba à!"Tôi ngước mắt nhìn lên bầu trời đêm và nghĩ về người cha kính yêu. Đã 10 năm kể từ ngày ba đi sang thế giới bên kia tôi không một lần được gặp lại ba, dù trong giấc mơ .Nhớ lại hồi ba còn sống ,ba đều đưa tôi đi học và mua sắm vào những ngày năm mới gần kề thế này.Tôi cứ ngồi suy nghĩ mông lung rồi chìm vào giấc ngủ . "Liêm ơi!",tôi nghe thấy có tiếng gọi từ đằng xa.Tôi quay lại thì thấy mình đang đứng giữa.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> khu công viên mà ngày tôi còn bé ba thường dắt tôi đến đây chơi.Từ xa bước lại phía tôi là một bóng người mà tôi cảm thấy vừa thân quen,vừa lạ lẫm. -Phải chăng là ba? Tôi thầm nghĩ bụng.Tôi chạy lại gần để nhìn cho rõ.Ồ!Đúng là ba rồi.Lòng tôi vô cùng sung sướng và hạnh phúc .Không kìm nổi xúc động,tôi gọi thật to: -Ba,ba ơi! Rồi tôi chạy đến ôm chầm lấy ba. Ba cũng dang rộng đôi tay của mình để ôm tôi. Ba nghẹn ngào nói: -Liêm!Con của ba! Tôi òa khóc trong giây phút được gặp lại người ba kính yêu đã xa cách bao ngày.Đến bây giờ tôi mới có dịp nhìn kĩ ba hơn.Mái tóc của ba đã điểm vài sợi bạc.Những nếp nhăn của tháng ngày vất vả khó khăn hằn lên bên khóe mắt của ba.Chỉ có một điều ở ba mà tôi thấy không hề thay đổi,đó chính là nụ cười.Nụ cười của ba vẫn thật hiền dịu và đem lại cho tôi cảm giác yên bình ,hạnh phúc.Đang mải ngắm nhìn người ba kính yêu đã xa cách bao ngày thì giọng ba vang lên khiến tôi hơi giật mình: -Cha con mình ra ghế đá kia tâm sự đi.Lâu lắm rồi ba con mình không được nói chuyện với nhau. Tôi gật đầu: -Vâng ạ! Tôi và ba ra hàng ghế đá thân thuộc ngày nào.ba vuốt nhẹ lên mái tóc tôi và hỏi: -Dạo này gia đình mình thế nào hả con? Tôi liền trả lời: -Mọi người vẫn khỏe ba à. Các bác, dì vẫn đi làm đều và mạnh khỏe. Còn mẹ thì vẫn tốt và vẫn làm việc tại công ty Pou Yeun như hồi ba còn sống . Mọi người vẫn nhắc tới ba luôn đấy ạ.Ai cũng nhớ ba nhiều lắm. Ba mỉm cười hiền dịu: -Ừ! Vậy việc học của con bây giờ sao rồi?Con vẫn giữ ước mơ về sau trở thành diễn viên chứ? Tôi nhanh nhảu trả lời: -Việc học năm nay của con mệt và vất vả hơn những năm trước nhiều.Vì là năm cuối cấp nên ngoài học chính ở trên lớp ,con còn phải học thêm nhiều để củng cố kiến thức.Và để biến ước mơ được làm diễn viên thành hiện thực ,con vẫn thường tập diễn xuất với chiếc ĐTDĐ,ba à.Con sẽ không để ba và mọi người thất vọng đâu. Lời nói của ba như truyền thêm niềm tin cho tôi: -Ừ!Ba tin ở con.Phải cố gắng học cho giỏi con nhé.Dù có chuyện vui,buồn gì thì cũng phải tâm sự cho ba nghe. Nghe giọng nói ấm áp của ba càng làm tôi thêm gần gũi ba hơn.Tôi biết rằng ở phương xa-nơi mà không ai đựoc gặp lai ba, ba vẫn luôn nhớ về tôi, dõi theo từng bước đi và quan tâm đến từng chuyện buồn vui của tôi.Tất cả những gì tôi làm được hôm nay đều nhờ đến lời động viên của ba.Tình yêu thương mà ba truyền cho tôi đã giúp tôi có nghị lực vượt qua những chông gai thử thách của đường đời.Tình phụ tử thật thiêng liêng biết chừng nào!Đã bao lâu nay tôi vắng bóng hình ảnh người ba thân yêu mà giờ đây lại được ở bên cạnh ba,thật hạnh phúc làm sao!Tôi thầm nghĩ:"Ba à! Bây giờ ba con mình lại ở bên nhau rồi.Đừng rời xa con nữa,ba nhé..."Thế rồi tôi lại chìm vào những suy nghĩ,vào niềm sung sướng,hân hoan đang tràn ngập trong lòng.Rồi mọi vật bỗng trở nên nhạt dần,nhạt dần... "Liêm ơi!Dậy đi con sao lại ngủ gật thế kia?Sắp sang năm mới rồi kìa.Con có dậy xem pháo hoa cùng gia đình không?Tôi dụi mắt ,thấy chiếc đồng hồ đã sắp chỉ sang số 12.Tôi ngơ ngác nhìn quanh thì mới biết đó là một giấc mơ.Ngước mắt nhìn lên bầu trời đêm,pháo hoa sáng.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> rực trời,một năm mới nữa lại đến rồi.Tôi thầm nhủ với trời đêm,với nàng tiên mùa xuân để mong nàng tiên mùa xuân gửi lời đến ba :Ba ơi!Con nhớ ba nhiều lắm.. PHẦN II NGHỊ LUẬN XÃ HỘI ĐỀ 1 : SUY NGHĨ VỀ TINH THẦN TỰ HỌC . Cuộc sống luôn vận động và phát triển không ngừng . Nó đòi hỏi mọi người phải vận động để theo kịp sự phát triển của xã hội . Chính vì vậy mà tinh thần tự học có vai trò vô cùng quan trọng . Trước hết ta phải hiểu “tự học” là như thế nào?Nếu học là quá trình tìm hiểu , thu nhận kiến thức và hình thành kỹ năng của bản thân thì tự học là sự chủ động , tích cực , độc lập tìm hiểu , lĩnh hội tri thức và hình thành kỹ năng cho mình .Quá trình tự học cũng có phạm vi khá rộng :khi nghe giảng ,đọc sách hay làm bài tập , cần tích cực suy nghĩ , ghi chép , sáng tạo nhằm rút ra những điều cần thiết, hữu ích cho bản thân . Tự học cũng có nhiều hình thức: có khi là tự mày mò tìm hiểu hoặc có sự chỉ bảo , hướng dẫn của thầy cô giáo …Dù ở hình thức nào thì sự chủ động tiếp nhận tri thức của người học vẫn là quan trọng nhất . Phải tự học mới thấy hết những ý nghĩa lớn lao của công việc này .Tự học giúp ta nhớ lâu và vận dụng những kiến thức đã học một cách hữu ích hơn trong cuộcsống . Không những thế tự học còn giúp con người trở nên năng động , sáng tạo , không ỷ lại, không phụ thuộc vào người khác . Từ đó biết tự bổ sung những khiếm khuyết của mình để tự hoàn thiện bản thân . Tự học là một công việc gian khổ , đòi hỏi lòng quyết tâm và sự kiên trì .Càng cố gắng tự học con người càng trau dồi được nhân cách và tri thức của mình .Chính vì vậy tự học là một việc làm độc lập gian khổ mà không ai có thể học hộ , học giúp . Bù lại , phần thưởng của tự học thật xứng đáng : đó là niềm vui , niềm hạnh phúc khi ta chiếm lĩnh được tri thức .Biết bao những con người nhờ tự học mà tên tuổi của họ được tạc vào lịch sử .Hồ Chí Minh với đôi bàn tay trắng ra đi từ bến cảng nhà Rồng , nhờ tự học Người biết nhiều ngoại ngữ và đã tìm được đường đi cho cả dân tộc Việt Nam đến bến bờ hạnh phúc . Macxim Gorki với cả một thời thơ ấu gian khổ ,không được đi học , bằng tinh thần tự học ông đã trở thành đại văn hào.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Nga .Và còn rất nhiều những tấm gương khác nữa : Lê Quí Đôn ,Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền …Nhờ tự học đã trở thành bậc hiền tài , làm rạng danh cho gia đình quê hương xứ sở . Việc tự học có ý nghĩa to lớn như vậy nên bản thân mỗi chúng ta phải xây dựng cho mình tinh thần tự học trên nền tảng của sự say mê , ham học, ham hiểu biết , giàu khát vọng và kiên trì trên con đường chinh phục tri thức .Từ đó bản thân mỗi con người cần chủ động , tích cực, sáng tạo , độc lập trong học tập . Có như vậy mới chiếm lĩnh được tri thức để vươn tới những ước mơ, hoài bão của mình . Càng hiểu vai trò và ý nghĩa của việc tự học,em càng cố gắng và quyết tâm học tập hơn .Bởi tự học là con đường ngắn nhất và duy nhất để hoàn thiện bản thân và biến ước mơ thành hiện thực . Có lẽ bởi vậy mà Lê-nin đã từng đặt ra một phương châm : “Học , học nữa , học mãi” Đề 2: HÚT THUỐC LÁ CÓ HẠI . Xã hội ngày càng phát triển , con người ngày càng được quan tâm song vẫn có không ít những tác nhân làm nguy hại đến sức khoẻ của con người .Một trong số đó là thuốc lá ! Trên mỗi vỏ bao thuốc lá đều có dòng chữ “Thuốc lá có hại cho sức khoẻ” vậy mà bất chấp điều cảnh báo ấy,người ta vẫn hút thuốc.Hút đến vàng răng,vàng cả ngón tay cầm thuốc,hơi thở hôi đến khó chịu với những người xung quanh…Có một thời, thuốc lá trở thành vật không thể thiếu trên bàn tiếp khách. Người lớn hút , trẻ nhỏ cũng hút.Nguyên nhân nào dẫn đến thói quen tai hại ấy? Do thói quan giao tiếp cũng có,do sự học đòi bắt chước thích tỏ ra mình là người “sành điệu” cũng có. Hầu hết những người hút thuốc lá đều biết tác hại của nó . Trong thuốc lá có chứa Nicôtin là một chất gây nghiện . Hút thuốc lá nhiều có thể bị hỏng hệ hô hấp, dẫn đến ho , khó thở , tức ngực , thậm chí có thể gây rỗ phổi hoặc ung thư phổi. Như vậy , thuốc lá làm cho sức khoẻ và tuổi thọ bị suy giảm nghiêm trọng.Không những thế thuốc lá còn làm tiêu hao túi tiền của người sử dụng.Có thể số tiền dành cho thuốc lá không nhiều ,nhưng nếu không hút thuốc lá, ta có thể dùng số tiền đó vào những việc khác hữu ích hơn. Đối với trẻ nhỏ việc học đòi, bắt chước hút thuốc lá vừa làm nguy hại đến sức khoẻ vừa làm cho tâm tính bị thay đổi dẫn đến dối trá, trộm cắp vặt để có tiền hút thuốc… Thuốc lá không chỉ có hại đối với người trực tiếp sử dụng nó mà còn ảnh hưởng đến những người xung quanh vì khói thuốc lan trong không khí khiến họ cũng phải chịu ảnh hưởng nặng nề. Hiện nay, khi đến các nơi công cộng như bến xe, thậm chí cả trường học, trụ sở nhà nước, chúng ta vẫn bắt gặp nhiều người hút thuốc lá mà không hề quan tâm đến sức khoẻ của mình và cảm giác của những người xung quanh. Như vậy họ đã gián tiếp làm nguy hại đến sức khoẻ cộng đồng và vô tình làm cho môi trường bị suy thoái . Theo điều tra mới nhất của tổ chức y tế thế giới WHO , cứ theo đà hút thuốc hiện nay thì đến năm 2020 số người chết vì thuốc lá sẽ là 8 triệu người một năm . Tức là cao hơn số người chết vì HIV/AIDS, bệnh lao và tai nạn giao thông cộng lại. Dự báo ấy liệu có làm cho những con nghiện thuốc lá lưu tâm ? Thuốc lá có hại như vậy . Làm thế nào để ngăn chặn việc hút thuốc lá ?Có lẽ cần tuyện truyền nhiều hơn về tác hại của nó trên các phương tiện thông tin đại chúng . Coi việc hút thuốc lá là hành vi không đẹp bởi nó là biểu hiện của nghiện ngập và của những con người dễ bị chi phối .Và yếu tố quan trọng nhất là tự bản thân phải ý thức cao , chủ động không tiếp cận với thuốc lá để giữ gìn,bảo vệ sức khoẻ của chính mình và những người thân trong gia đình mình . Thuốc lá có hại .Thuốc lá nguy hiểm cho sức khoẻ .Bởi vậy thế hệ trẻ chúng ta hãy cùng nhau nói không với thuốc lá !.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Đề 3: Vấn Đề Rác Thải Với Môi Trường … TIẾNG KÊU CỨU CỦA MÔI TRƯỜNG . Thành ngữ Việt Nam có câu :“Nhà sạch thì mát , bát sạch ngon cơm”.Vậy mà“ ngôi nhà chung” của chúng ta đang tràn ngập rác.Việc vứt rác bừa bãi đã trở thành mối quan tâm lo lắng cho những người biết trân trọng và yêu quí môi trường . Ở một số nước tiên tiến trên thế giới ,vệ sinh công cộng rất được quan tâm .Tuy nhiên ở nước ta đây dường như mới là vấn đề của các ngành chức năng.Bởi vậy rác có mặt ở khắp nơi:trên đường phố,trong nhà xe,bệnh viện,trường học,di tích thắng cảnh…Đến đâu cũng thấy rác,thậm chí ngồi bên hồ,dù là hồ đẹp nổi tiếng người ta cũng tiện tay vứt rác xuống…Rác gồm đủ loại với đủ các chất liệu khác nhau:từ vỏ hoa quả đến vỏ đồ hộp,bao bì ni lông,vỏ chai thuỷ tinh,sỉ than,gỗ,giấy… Rác thải phong phú bao nhiêu thì tác hại mà nó gây ra lớn theo nhường ấy.Rác thải làm mất mỹ quan nơi công cộng ,biến những thắng cảnh thành bãi rác. Ai đã từng du ngoạn Hương Sơn chắc không thể quên hình ảnh khắp các lối đi,các sườn núi rác tràn ngập và dày đặc .Chốn “Thiên Nam đệ nhật động ”bớt hấp dẫn du khách hơn có lẽ cũng vì như vậy.Không chỉ có thế, rác thải bừa bãi còn gây ô nhiễm môi trường ,không khí không trong lành ,sông hồ ô nhiễm ,sinh vật ở sông hồ bị chết …Tất cả những điều đó đều có thể làm nguy hại đến sức khoẻ của con người.Đôi khi ,rác thải bừa bãi còn gây nguy hiểm trực tiếp cho con người như trượt ngã vì dẫm phải vỏ hoa quả ,đồ hộp , trẻ nhỏ bị cháy máu,nhiễm trùng vì dẫm phải mảnh chai… Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hiện tượng trên . Song về cơ bản có thể nhận thấy nạn vứt rác bừa bãi là do sự thiếu ý thức của một số người ,do chưa có nhiều thùng rác ở những nơi công cộng và chưa thực sự có những biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với những người vi phạm . Trong khi chúng ta còn đang lúng túng tìm giải pháp khắc phục thì hàng ngày , hàng giờ hành tinh xanh của chúng ta đang oằn mình vì rác . Bởi vậy ngoài việc đặt thùng rác ở những nơi công cộng , treo biển cấm đổ rác ở một số nơi và xử phạt nghiêm khắc với người vi phạm , chúng ta cần phải giáo dục ý thức về vấn đề này ,và phải nhanh chóng khắc phục hậu quả ở những nơi đã bị vứt rác bừa bãi , nhằm ngăn chặn hành vi tiếp tục xả rác của những người vô ý thức .Bên cạnh đó cần nhân rộng những phong trào giàu ý nghĩa như “chủ nhật xanh ”,“xanh sạch đẹp thành phố”…Để ngôi nhà chung của chúng ta luôn sạch sẽ , an lành. Thành ngữ Việt Nam từng nói: “góp gió thành bão ”. Mỗi học sinh chúng ta cần ý thức giữ gìn vệ sinh nơi công cộng để trái đất này mãi mãi là hành tinh xanh đáng yêu Đề 4: CHẤT ĐỘC MÀU DA CAM … Chiến tranh đã lùi xa nhưng di hoạ mà nó để lại vẫn hàng ngày hàng giờ làm bao người Việt Nam đau đớn .Trước tình hình ấy , cả nước đã lập quỹ giúp đỡ các nạn nhân chất độc màu da cam nhằm phần nào cải thiện cuộc sống và xoa dịu nỗi đau của họ . Chất độc màu da cam mà Đế quốc Mỹ đã rải xuống các cánh rừng Miền Nam thời chiến tranh đã tạo nên nỗi kinh hoàng cho thế hệ sau của những người đã từng sống ở những khu vực đó.Những đứa trẻ vô tôi, tật nguyền,dị dạng,vừa chào đời đã phải lìa đời hoặc nếu sống được thì sức khoẻ,trí tuệ thậm chí cả hình hài đều không bình thường…Những sinh linh quái dị và vô tội ấy trở thành nỗi ám ảnh,đau đớn đến tê tái của người thân, gia đình và của toàn xã hội . Nguyên nhân nào dẫn đến thảm hoạ ấy ?Chính là do sự vô nhân đạo của giới cầm quyền ở một đất nước đã từng tuyên bố về quyền con người trước toàn thế giới.Để thực hiện âm mưu xâm lược của mình,đế quốc Mỹ đã không từ một thủ đoạn nào kể cả việc vi phạm quyền làm người của những trẻ thơ vô tội .Những bọc nước,cục thịt ,quái thai hoặc những sinh thể điên dại,vô tri vô giác do chất độc màu da cam không chỉ khiến cho gia đình đau đớn về tinh.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> thần,khốn khổ về vật chất mà còn là gánh nặng cho toàn xã hội…Những vết thương không mảnh đạn mà đeo bám dai dẳng mãi mãi không lành.Đó chính là tội ác tày trời mà chiến tranh đã gây ra . Trước tình hình đó nhiều chương trình ủng hộ những nạn nhân chất độc màu da cam đã được tổ chức.Biết bao người đã khóc thương cho những số phận bất hạnh,biết bao chữ ký đã được thu thập để ủng hộ cuộc đấu tranh đòi bồi thường cho các nạn nhân chiến tranh.Ngày đầu tiên Mỹ rải chất độc chết người này xuống Việt Nam: 10-8-1961 đã trở thành ngày “Vì nạn nhân chất độc màu da cam”.Cả nước Việt Nam đã lập quĩ giúp đỡ các nạn nhân khốn khổ.Đó là việc làm cần thiết để giúp đỡ họ phần nào cải thiện cuộc sống và xoa dịu nỗi đau.Nhiều em bé tật nguyền,côi cút đã được chăm sóc,nhiều tổ chức chính quyền,doanh nghiệp,cá nhân đã xây dựng nhà tình nghĩa,tặng xe lăn,tiền, quà ,thăm hỏi và giúp đỡ các nạn nhân.Nhiều nhóm tình nguyện viên được thành lập để làm việc tại các trung tâm bảo trợ nạn nhân chất độc màu da cam…Dẫu biết rằng tất cả những giúp đỡ đó không thể bù đắp được những mất mát đau đớn của họ song đó thực sự là hành động đền ơn đáp nghĩa, phù hợp với truyền thống“tương thân tương ái”,“uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam ta . Việt Nam đã cố gắng để xoa dịu nỗi đau chiến tranh,song“ơn phải trả,oán phải đền”.Chính phủ Mỹ và 37 công ty hoá chất đã cung cấp chất độc này cho quân đội Mỹ cũng phải chịu trách nhiệm về sự vô nhân đạo của mình . Nỗi đau của những nạn nhân da cam là một nỗi ám ảnh dai dẳng ,việc giúp đỡ họ cần phải làm thường xuyên và liên tục .Bởi vậy mỗi chúng ta cần nhận thức sâu sắc về vấn đề này , tích cực học tập , phấn đấu xây dựng xã hội tốt đẹp mà ở đó mọi người đều được đảm bảo quyền sống và quyền hạnh phúc . ĐỀ 5: TRÒ CHƠI ĐIỆN TỬ.. . Trò chơi điện tử vốn là một trò giải trí lành mạnh song hiện tượng đam mê trò chơi này mà sao nhãng học hành và gây nhiều hậu quả tại hại đã trở thành một vấn đề bức xúc ở lứa tuổi học sinh . Có thể thấy ở khắp các phố phường và các nẻo đường thôn ngõ xóm những quán Intenet. Học sinh đến đó không phải để truy cập thông tin phục vụ cho việc học mà để chơi điện tử . Nhiều bạn ngồi hàng giờ , hàng ngày trước màn hình vi tính, mê mẩn với những trò chơi trên máy ,quên thời gian thậm chí bỏ học để chơi ,trong đầu lúc nào cũng chỉ nghĩ đến các trò chơi và ham muốn chinh phục khám phá nó khiến gương mặt ngơ ngẩn như mất hồn… Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đó .Do bố mẹ không quan tâm , do buồn , do bạn bè rủ rê , do không tự chủ được bản thân …Song dù lý do nào đi nữa , ham mê trò chơi điện tử cũng là một điều tai hại . Trước hết ngồi quá gần màn hình vi tính trong một thời gian dài có thể làm cho mắt bị cận thị , người mệt mỏi, sức khoẻ bị tổn hại . Không chỉ có thế , ham mê trò chơi điện tử còn dẫn đến sao nhãng nhiệm vụ chính của người học sinh là học tập . Mải chơi , bỏ tiết, trốn học, không hiểu bài , không làm bài tập , học tập sút kém dẫn đến chán học . Như vậy vô tình sự ham chơi nhất thời có thể tự huỷ hoại tương lai của chính bản thân mình .Trò chơi điện tử còn khiến tâm hồn bị đầu độc bởi bạo lực , chém giết , bắn phá , cuốn con người vào một thế giới ảo đầy những mưu mô , thủ đoạn . Hơn nữa ham chơi điện tử còn tiêu tốn tiền bạc một cách vô ích , có khi còn làm thay đổi nhân cách con người . Để có tiền chơi điện tử nhiều thói hư tật xấu bắt đầu nảy sinh như dối trá , thủ đoạn , trộm cắp tiền bạc, tài sản của gia đình , bạn bè …Và không ai có thể lường trước được những hậu quả tai hại khác nếu niềm đam mê kia vẫn còn tiếp diễn ..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Trò chơi điện tử tai hại như vậy , làm thế nào để ngăn chặn nó ?Đây thực sự là một việc khó song không phải là không làm được.Quan trọng nhất là bản thân phải xác định nhiệm vụ chính của mình là học tập ,rèn luyện ,tu dưỡng,không lãng phí thời gian,sức lực, tiền bạc vào những việc vô bổ ,thậm chí là có hại .Chỉ coi trò chơi điện tử như một trò giải trí ,tiếp xúc với nó có chừng mực , biết chế ngự và làm chủ bản thân, không để bản thân bị tác động bởi những trò chơi và sự rủ rê của những người bạn xấu. Bên cạnh đó cũng cần có sự quan tâm thường xuyên và sự quản lý chặt chẽ của gia đình nhằm giúp con em mình tránh xa những đam mê tai hại .Nhà trường và xã hội cũng cần có sự phối hợp giáo dục thế hệ trẻ, tạo ra những hoạt động bổ ích ,những sân chơi vui tươi lành mạnh để mọi học sinh đều được tham gia .Có như vậy vấn nạn học sinh say mê trò chơi điện tử mới được giải quyết triệt để. Ham chơi điện tử - Ham muốn nhất thời mà tác hại không lường hết được.Bởi vậy vì tương lai của chính mình,chúng ta đừng để bản thân vướng vào đam mê chết người đó. ĐỀ 6: NHIỀU HỌC SINH ĐOẠT HUY CHƯƠNG VÀNG ... Trên bản đồ thế giới Việt Nam chỉ có một vị trí rất khiêm tốn, nhưng trong các kỳ thi quốc tế ,Việt Nam được biết đến như là quê hương của những người con ưu tú, biết vượt qua khó khăn để làm nên những điều kỳ diệu . Trải qua hàng nghìn năm phong kiến và hàng trăm năm bắc thuộc ,điều kiện kinh tế của Việt Nam hạn chế , cơ sở vật chất chưa phát triển vậy mà đã có nhiều học sinh đoạt huy chương vàng tại các cuộc thi quốc tế .Không mấy ai không nhớ lần đầu tiên tham dự thi toán quốc tế năm 1974 ,Việt Nam đã đoạt liền 4 huy chương vàng . Lần thi Olimpic Toán quốc tế tại Anh , Lê Bá Khánh Trình với số điểm tuyệt đối 40/40 đã được nữ hoàng Anh trao giải đặc biệt.Ngay cả trong lĩnh vực mới mẻ là chế tạo Rôbôcon, những chú rôbô của nhóm FXR-sinh viên Đại học Bách Khoa thành phố Hồ Chí Minh đã xuất sắc vượt trên cả những đất nước tên tuổi như Nhật Bản , Hàn Quốc ,Trung Quốc để mang về chiếc cúp vàng cho quê hương Việt Nam … Những thành tích ấy không chỉ làm rạng danh đất Việt mà còn là sự khẳng định cho sức mạnh của trí tuệ Việt Nam . Tại sao một đất nước nhỏ bé nghèo nàn , lạc hậu như Việt Nam lại có thể sản sinh ra những con người ưu tú đến thế ?Câu hỏi ấy không chỉ người Việt Nam mới biết rõ câu trả lời . Suốt chiều dài thăng trầm của lịch sử , lòng ham hiểu biết ,ý chí học tập, tìm tòi, chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức luôn được nung nấu trong trái tim mỗi người Việt Nam .Tự thủơ xưa ,bằng ánh sáng của những con đom đóm, Mạc Đĩnh Chi đã miệt mài học tập để trở thành lưỡng quốc trạng nguyên, Nguyễn Hiền nhờ tự học mà đoạt giải khôi nguyên khi mới 12 tuổi , Lê Quý Đôn , Lương Thế Vinh và biết bao người nữa đã làm nên truyền thống hiếu học của nước nhà …Họ đã trở thành tấm gương , thành nội lực tinh thần để học sinh- sinh viên Việt Nam cố gắng hết mình , cần cù say mê học tập. Đất nước nghèo nàn,lạc hậu nên nếu các bạn nước khác cố gắng một thì học sinh- sinh viên Việt Nam phải cố gấp hai ba lần để bù đắp những thiếu hụt ,thiệt thòi vể điều kiện học tập. Dường như chính sự nghèo nàn lạc hậu của đất nước đã hun đúc ý chí tìm tòi, sáng tạo của học sinh Việt Nam.Lòng yêu nước,nỗi khát khao quê hương xứ sở đẹp giàu, là sức mạnh to lớn giúp học sinh -sinh viên Việt Nam đạt tới những chân trời khoa học. Những tấm huy chương vàng tại các cuộc thi quốc tế mà chúng ta có được không chỉ bởi sự nỗ lực của cá nhân mà còn nhờ sự quan tâm chăm sóc của gia đình , của thầy cô và nhất là sự chăm lo của Đảng ,nhà nước đối với tài năng trẻ . Bởi lẽ tự ngàn xưa, người Việt Nam ta đã quan niệm “hiền tài là nguyên khí của quốc gia ”..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Sự thành công của học sinh -sinh viên Việt Nam đã đem đến cho người Việt Nam và bản thân em lòng tin và niềm tự hào sâu sắc về trí tuệ Việt Nam ,thôi thúc trong em khát vọng được chinh phục những chân trời tri thức . ĐỀ 7 :UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN . Trong kho tàng ca dao tục ngữ của người Việt Nam ta có rất nhiều những câu nói về truyền thống đạo lý ân nghĩa thuỷ chung.Một trong số đó là câu:“Uống nước nhớ nguồn ”. Trước hết ta phải hiểu nội dung câu tục ngữ là như thế nào .“Uống nước ”chính là sự hưởng thụ những thành quả vật chất và tinh thần ;“Nhớ nguồn ”là sự tri ân ,giữ gìn phát huy những thành quả của người làm ra chúng .Như vậy cả câu tục ngữ là lời khuyên,lời dạy bảo chúng ta phải biết ơn thế hệ cha anh và phát huy những thành quả của họ . Thật vậy ,thành quả không tự nhiên mà có .Đất nước hoà bình mà chúng ta sống hôm nay được đổi bằng sinh mạng của biết bao người ngã xuống .Bởi vậy ta không được phép quên tổ tiên ,nòi giống và những người đã chiến đấu, hy sinh bảo vệ quê hương. Cha mẹ ,ông bà người thân đã sinh ra ta ,nuôi dưỡng ta khôn lớn, thầy cô dạy dỗ ta học hành trở nên người có ích cho xã hội…Tất cả đều là “nguồn”để ta phải nhớ,phải tri ân. Lòng biết ơn là cở sở của đạo làm người.Một xã hội chỉ thực sự tốt đẹp khi được xây dựng vững vàng trên nền tảng đạo lý .Trên khắp đất nước Việt Nam lòng biết ơn thể hiện ở việc xây dựng các đền,miếu,chùa chiền phụng thờ, tôn vinh các bậc anh hùng có công với nước.Trong mỗi gia đình,bàn thờ tổ tiên được đặt ở nơi trang trọng.Nhiều năm nay, cả nước dấy lên phong trào đền ơn đáp nghĩa đối với những thương binh,liệt sĩ,bà mẹ Việt Nam anh hùng và những gia đình có công với cách mạng…Đến bất kỳ nơi nào cũng có thể tìm thấy những biểu hiện sinh động phong phú của đạo lý “uống nước nhớ nguồn ”trên đất nước ta . Nhớ nguồn không chỉ là biết ơn, giữ gìn ,bảo vệ thành quả đã có mà bản thân mỗi người cần cố gắng cống hiến, bổ sung thêm những thành quả mới cho “nguồn nước” dân tộc luôn tràn đầy và bất diệt.Có như vậy mới phát huy được tinh hoa truyền thống tốt đẹp của tổ tiên , làm cho xã hội ngày một phát triển .Đó mới là nhớ nguồn một cách thiết thực.Ở lứa tuổi học sinh, chúng ta chưa làm ra của cải vất chất, tinh thần cho xã hội , do đó hãy bày tỏ lòng biết ơn chân thành với cha mẹ, thầy cô bằng lời nói, việc làm cụ thể của mình:phấn đấu học tập,rèn luyện và tu dưỡng thành con ngoan,trò giỏi để trở thành những công dân có ích cho xã hội sau này . Câu tục ngữ không chỉ là lời khuyên dạy ,nó còn là lời nhắc nhở sâu sắc, thấm thía đối với những kẻ vô ơn,“khỏi vòng cong đuôi”,“qua cầu rút ván”,“khỏi rên quên thầy”…Mạch nguồn trong trẻo của truyền thồng ân nghĩa thuỷ chung sẽ có một ngày làm cho những trái tim lầm đường thức tỉnh ! Lòng biết ơn thực sự là một nét truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc song nó không tự nhiên mà có .Nó là kết quả của quá trình rèn luyện , tu dưỡng lâu dài của con người.Có lẽ bởi vậy mà tự thủơ ấu thơ, lời ru thấm đượm ân tình của bà của mẹ đã gieo mầm ân nghĩa : “Công cha nghĩa mẹ ơn thầy Nghĩ sao cho bõ những ngày ước ao…” ĐỀ 8: SUY NGHĨ VỀ BÁC HỒ … Có một con người mà khi nhắc đến tên, những người Việt Nam đều vô cùng kính yêu và ngưỡng mộ , đó là Hồ Chí Minh : vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam , anh hùng giải phóng dân tộc , danh nhân văn hoá thế giới ..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Trước hết ta thấy Bác Hồ là vị lãnh tụ vĩ đại ,anh hùng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam .Bác là người chiến sỹ tiên phong trên mặt trận cứu nước đầy gian khổ , lãnh đạo dân ta tới chiến thắng ,khai sáng nền độc lập tự do ở đất nước Việt Nam .Người bôn ba khắp năm châu bốn bể tìm đường đi và tương lai cho đất nước ,giải phóng dân tộc thoát khỏi ách thống trị của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ .Người đã dẫn dắt dân tộc ta thoát khỏi đói nghèo ,đi lên xây dựng chế độ xã hội tốt đẹp .Tư tưởng của Người có giá trị vô cùng to lớn đối với Cách Mạng Việt Nam ,nhân dân Việt Nam .Người đã hy sinh cả cuộc đời vì nền độc lập tự do của dân tộc ,Người yêu nước thương dân sâu sắc ,bởi vậy triệu triệungười dân Việt Nam đều là con cháu của Người .Ở cương vị lãnh đạo cao nhất của Đảng và nhà nước nhưng cách đối xử của Bác đối với cá nhân từng người vô cùng thân mật và gần gũi: “Bác ơi tim Bác mênh mông thế Ôm cả non sông mọi kiếp người .” (Tố Hữu ) Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc Việt Nam lại có một vị lãnh tụ giản dị và gần gũi với mọi người như thế :Sống trong ngôi nhà sàn nhỏ ,ăn những món ăn dân dã, mặc áo bà ba nâu và tư trang chỉ là một chiếc rương nhỏ và mấy bộ quần áo bạc màu …Có lẽ bởi vậy mà với người Việt Nam , Bác Hồ không chỉ là anh hùng giải phóng dân tộc mà còn là vị lãnh tụ vĩ đại được mọi người dân Việt Nam kính yêu và ngưỡng vọng . Bác Hồ còn được biết đến ở cương vị một danh nhân văn hoá thế giới .Bác dã từng là chủ bút tờ báo “Người cùng khổ ”ở Pháp, đã từng viết “Bản án chế độ thực dân Pháp”gây tiếng vang lớn.Người còn là nhà văn ,nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam với những tập truyện ký bằng tiếng Pháp,“Tuyên ngôn độc lập”và“ Nhật ký trong tù”cùng rất nhiều những vần thơ khác nữa…Bác Hồ đã từng đi khắp các châu lục trên thế giới,thông thạo nhiều thứ tiếng,am hiểu nền văn hoá của nhiều dân tộc.Bác đã rèn giũa và tạo dựng cho mình một phong cách riêng, kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại,thanh cao và giản dị,giữa tinh hoa văn hoá nhân loại và tinh hoa văn hoá Việt Nam . Mặc dù Bác đã đi xa nhưng trong lòng mọi người dân Việt Nam Bác vẫn là người đẹp nhất: Tháp Mười đẹp nhất bông sen Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ . Càng tìm hiểu về cuộc đời vĩ đại và cao đẹp của Bác,em càng kính yêu và tự hào về Bác hơn.Điều đó khơi dậy trong em mong muốn học tập, phấn đấu, tu dưỡng và rèn luyện để trở thành con người có ích cho xã hội . Bác là tinh hoa khí phách của dân tộc,cuộc đời của Bác là một tấm gương sáng. Bởi vậy mà chúng ta cần “Sống, chiến đấu ,lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại ”. ĐỀ 9 NHỮNG CON NGƯỜI KHÔNG CHỊU THUA SỐ PHẬN . “Mỗi trang đời đều là một điều kỳ diệu” M.Gorki đã từng nói như thế và điều đó thật sự khiến chúng ta cảm động khi lật giở những trang đời của những con người không chịu thua số phận như anh Nguyễn Ngọc Ký ,Trần Văn Thước, Nguyễn Công Hùng … Trước hết ta phải hiểu thế nào là “không chịu thua số phận” ?Đó là những con người không chấp nhận mình mãi là người tàn phế ,vô dụng ,không học tập, không đóng góp gì cho xã hội . Không mấy người Việt Nam không biết đến anh Nguyễn Ngọc Ký bị liệt cả hai tay đã kiên trì luyện tập biến đôi chân thành đôi bàn tay kỳ diệu viết những dòng chữ đẹp ,học tập trở thành nhà giáo ,nhà thơ . Anh Trần Văn Thước bị tai nạn lao động liệt toàn thân.Không gục ngã trước số phận anh can đảm tự học và đã trở thành nhà văn. Không thể nói hết những gian nan ,những giọt nước mắt đau khổ của họ trong những ngày tự mình vượt qua bệnh tật để.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> khẳng định giá trị của mình, để chứng tỏ bản thân tàn nhưng không phế .Vào năm 2005 cả nước biết đến một Nguyễn Công Hùng (xã Nghi Diên ,huyện Nghi Lộc ,Nghệ An ).Từ khi sinh ra đã mắc chứng bại liệt . Anh còn bị căn bệnh viêm phổi hành hạ làm cho sức khoẻ suy kiệt .Vậy mà anh đã không gục ngã .Chàng trai 23 tuổi bại liệt,chân tay teo tóp, trọng lượng chỉ 12kg và gần như mất hoàn toàn khả năng vận động đã trở thành một chuyên gia tin học và được tôn vinh là Hiệp sỹ công nghệ thông tin năm 2005 vì những đóng góp không vụ lợi của mình cho cộng đồng.Tháng 5 -2005 anh được trung tâm sách kỷ lụcViệt Nam đưa vào “Danh mục kỷ lục Việt Nam ”về người khuyết tật bị bại liệt toàn thân đầu tiên làm giám đốc cơ sở đào tạo tin học và ngoại ngữ nhân đạo… Điều gì khiến những con người tật nguyền ấy có thể vượt qua bệnh tật và khẳng định được bản thân mình?Họ đã tạo dựng cuộc sống từ muôn vàn khó khăn,gian khổ, thử thách bằng sự kiên trì,nhẫn nại và quyết tâm chiến thắng số phận của mình.Họ đã không mất đi niềm tin yêu vào cuộc sống,không gục ngã trước những đau đớn,họ dũng cảm,tự tin đứng lên để sống bằng nghị lực,ý chí ,khát vọng và sức sống tinh thần mạnh mẽ của họ.Song bên cạnh đó còn có những nguyên nhân khác.Đó chính là sự động viên, khích lệ ,giúp đỡ của bạn bè,của người thân,là khát khao không muốn người thân của mình đau khổ,thất vọng và còn nhờ dòng máu kiên cường và truyền thống anh hùng của dân tộc Việt Nam . Những con người vượt lên số phận đứng lên bằng nghị lực,khát vọng và ý chí của mình khiến em vô cùng khâm phục.Chính những tấm gương về họ đã xây đắp những ước mơ ,hoài bão trong em, dạy em phải biết vượt qua những khó khăn trong cuộc sống để thực hiện những khát khao của mình . Những người không chịu thua số phận,những con người tàn mà không phế thực sự là những tấm gương cho lứa tuổi học sinh chúng em,khích lệ bản thân mỗi người cố gắng phấn đấu học tập ,rèn luyện để trở thành những con người có ích cho xã hội . ĐỀ 10 “ THÀNH CÔNG CHỈ ĐẾN KHI BẠN LÀM VIỆC TẬN TÂM VÀ LUÔN NGHĨ ĐẾN NHỮNG ĐIỀU TỐT ĐẸP”. SUY NGHĨ CỦA ANH CHỊ VỀ Ý KIẾN TRÊN Thành công là đích đến đẹp đẽ và tươi sáng trong cuộc sống cúa bất cứ ai. Thái độ làm việc là yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành bại của con người trên con đường đi đến thành công. Và câu nói nổi tiếng cúa Arnold Schwarzenegger liệu có phải là một lời khuyên đúng đắn về thái độ làm việc tốt nhất để hướng đến mục tiêu của mình ? “Thành công chỉ đến khi bạn làm việc tận tâm và luôn nghĩ đến những điều tốt đẹp” Con người ta sống ở đời đều muốn theo đuổi để đạt đến “thành công”. Vậy “thành công” là gì ? Là đạt được kết quả, mục đích như dự định. Là biến những hoài bão đầy nhiệt huyết của tuổi trẻ trở thành sự thật. Điều đó đẹp lắm chứ, đáng mơ ước lắm chứ. Nhưng con đường để đạt được thành công vốn không dễ dàng gì, càng nhiều thử thách chông gai thì thành công mới thật có ý nghĩa. Đối diện với những khó khăn trước mắt, có người chọn cách thoái lui, có người rẽ sang hướng khác, dễ dàng và đơn giản hơn, dù nó không đúng với mục đích của mình.Còn có những người lại chọn cách nhìn nhận vấn đề thật lạc quan, và quyết tâm hướng đến mục tiêu của mình với sự nỗ lực cố gắng không ngừng nghỉ. Theo như Schwarzengger, chỉ có những người như vậy mới có thể đạt được thành công, Liệu suy nghĩ đó có thật sự đúng ? Cũng như Anita Hill đã nói : “Làm việc đừng quá trông đợi vào kết quả, nhưng hãy mong cho mình làm được hết sức”. Khi làm việc tận tụy và toàn tâm toàn ý hướng đến mục đích của mình, thì bản thân chuyện “thành công” đã không còn quan trọng nữa. Điều cốt yếu nhất là ta đã cố gắng hết sức, và hoàn toàn không phải hối tiếc vì đã bỏ lỡ điều gì. “Tận tâm” không có nghĩa là bất chấp tất cả và bằng mọi giá phải thành công.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> cho kì được, “tận tâm” là chọn con đường đúng đắn nhất và cố gắng hết sức để đi tới cuối con đường đó. Với một thái độ làm việc tích cực như thế, thành công đạt được trở nên rất xứng đáng và có ý nghĩa. Đối diện với những khó khăn trở ngại trên đường đời, nhiều khi nỗ lực hết sức vẫn là chưa đủ. Càng cố gắng thì gặp thất bại càng cay đắng. Khi đó, con người ta phải học được cách tiếp nhận và nhìn nhận sự việc theo hướng lạc quan, thay vì chôn vùi ý chí bản thân với những nguy cơ, hậu quả, thất bại… nặng nề, hãy biết “nghĩ đến những điều tốt đẹp” để củng cố tinh thần và có động lực tiến lên phía trước. Phải biết nhìn về phía ánh sáng mới có thể thấy được lối thoát trong khó khăn, và vững tin vào tương lai tươi sáng tốt đẹp hơn. Chỉ biết giữ những suy nghĩ không thôi thì chưa thể thành công được, nhưng biết biến những suy nghĩ tích cực thành hành động thì chắc chắn, bạn sẽ thành công đấy ! Lấy chính bản thân tác giả của câu nói trên làm ví dụ. Arnold Schwarzenegger, từ một chàng trai người Áo 21 tuổi bỡ ngỡ bước chân đến Mỹ để đi tìm thành công cho bản thân chỉ với vốn liếng tiếng Anh nghèo nàn, đã trở thành vận động viên, diễn viên phim hành động nỏi tiếng thế giới, và hiện tại đang đương nhiệm chức vụ Thống đốc bang California ở Hoa Kì. Ông vấp phải không ít khó khăn trên con đường lập nghiệp, nhưng với sự nhiệt huyết và lòng quyết tâm được trở nên nổi tiếng, không ai có thể phủ nhận sự thành công của người đàn ông này. Chính những suy nghĩ tích cực và thái độ làm việc đúng đắn đã đưa ông tới đỉnh cao ngày hôm nay. Bên cạnh đó, Roberto Goizueta cũng là một ví dụ điển hình cho thành công nhờ thái độ làm việc đúng đắn. Ông là một trong những doanh nhân thành công nhất thế kỉ XX, người đã đưa thương hiệu nước có ga nổi tiếng Cocacola trở thành hàng đầu thế giới. Con đường của một người con xuất thân từ một gia đình nông dân làm nghề trồng mía ở Cuba vươn lên trở thành CEO của hãng nước ngọt huyền thoại lớn nhất thế giới ắt hẳn không dễ dàng gì. Nhưng với lòng quyết tâm và những suy nghĩ lạc quan tin vào tương lai của bản thân, Roberto Goizueta đã đạt được thành công khiến Thế giới phải trầm trồ. Những con người này xuất thân bình thường, họ đạt được thành công nhờ biết suy nghĩ tích cực và tập trung cao nhất vào mục tiêu của mình. Với tâm niệm “thành công chỉ đến với những người làm việc tận tâm và luôn nghĩ đến những điều tốt đẹp”, bản thân mỗi chúng ta đều có cơ hội đạt được những đỉnh cao phi thường như thế. Tôi có lòng tin vào điều đó, còn bạn thì sao ? Đối với tuổi trẻ, xác định được ước mơ của đời mình và nỗ lực không ngừng để đạt được thành công là điều không dễ. Nhưng thiết nghĩ, nếu biết cách biến những trở ngại của khó khăn trước mắt trở thành động lực thúc đẩy để tiến xa hơn, bay cao hơn, thì thành công ta đạt được sẽ càng có ý nghĩa. Cố gắng hết sức và luôn lạc quan, thì nhất định thành công sẽ đến. ĐỀ 11:NGƯỜI HẠNH PHÚC NHẤT LÀ NGƯỜI ĐEM HẠNH PHÚC ĐẾN CHO NHIỀU NGƯỜI NHẤT. Mỗi người trong chúng ta đều có một cách định nghĩa riêng cho bản thân:thế nào là một con người hạnh phúc.Bàn về con người hạnh phúc có ý kiến cho rằng:”Người hạnh phúc nhất là người đem đến hạnh phúc cho nhiều người nhất”. Theo tôi, đây là một quan niệm đúng đắn thể hiện tính nhân văn sâu sắc. Nói đến hạnh phúc là nói đến là trạng thái sung sướng, thỏa mãn của con người vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện. Trạng thái ấy có khi thoáng qua nhẹ nhàng, có khi sung sướng cao độ tràn đầy, có lúc là vui sướng xúc động sâu lắng, có lúc cảm thấy khó diễn tả, lung linh huyền diệu như bảy sắc cầu vồng... Đó chính llà trạng thái tốt đẹp nhất của con người trong cuộc sống.V ậy,thế nào là một con người hạnh phúc?Có người coi sự thỏa mãn vật chất, tình cảm của riêng mình là hạnh phúc. Nhưng cũng có không ít người quan niệm hạnh phúc là cống hiến, là trao tặng. Đối với họ, cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi con người biết hi sinh cho hạnh phúc nhân loại. . Cảm nhận về hạnh phúc của con người là muôn màu muôn vẻ...nhưng chúng ta hết thảy đều mong muốn được hạnh phúc..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Hạnh phúc là ở trong tay con người, do con người sáng tạo ra, giữ gìn và phát triển mãi mãi.Biết bao người thân yêu đã trao lại cho ta hạnh phúc trong cuộc sống. Có thành đạt lớn nhỏ nào của riêng ta mà không có sự chăm lo giúp đỡ của mọi người. Cho nên hạnh phúc là biết sống vì mọi người. Hạnh phúc không phải là người sở hữu nhiều mà là người biết yêu thương, hy vọng nhiều. Nếu ai chỉ nghĩ tới lợi ích cho riêng mình, dửng dưng với mọi người, không dám chăm lo cho người khác, thì cũng chẳng hiểu nổi hạnh phúc là gì. Vì hạnh phúc có bao giờ đến với sự đơn độc, ích kỷ, cho dù "thiên đường riêng cũng buồn tênh". Khi ta quan tâm tới mọi người xung quanh, khi ta mang niềm vui và hạnh phúc đến cho người khác, khi ta sẵn sàng thương yêu con người - có khi chỉ llà một cử chỉ, một việc làm nhỏ - sẽ làm cho chính lòng ta thêm ấm áp và thanh thản. Thật vậy, trong cuộc sống nếu chúng ta đem lại được hạnh phúc cho người khác thì quả là tuyệt vời. Hạnh phúc đó có thể dễ dàng có được khi ta giúp đỡ một cụ giá qua đường, hay nhường chỗ cho một phụ nữ có thai trên xe buýt… Tất cả những điều đó thật đơn giản nhưng đã mang lại hạnh phúc cho người khác, làm mọi người vui vẻ.”Tìm thấy niềm vui trong niềm vui của người khác chính là bí mật của hạnh phúc”. Và không dừng ở đó hạnh phúc cũng ở lại với chúng ta khi ta làm được một điều tốt đẹp, có ích cho người khác, cho xã hội. Hành động cao quý và tốt đẹp hơn, to lớn hơn chính là hạnh phúc của sự bình yên mà các anh bộ đội, các chiến sỹ Cách mạng đã đem lại cho chúng ta. Tất cả những hy sinh của các anh chỉ để đem lại hạnh phúc cho chúng ta, cho dân tộc. Hạnh phúc ở đây là sự độc lập tự do cho cả dân tộc. Thật cao quý và tốt đẹp dáng tôn vinh biết nhường nào! Quả thực:”Trong cuộc sống không có gì cao quý và tốt đẹp hơn là đem hạnh phúc đến cho người khác. Việc đem hạnh phúc cho người khác thật đơn giản nhưng cũng rất cao quý. Tuy nhiên trong xã hội vẫn còn nhiều người ngay cả việc nhỏ nhất họ cũng không làm. Một số họ chỉ biết có bản thân, toàn đem lại bất hạnh cho người khác. Trong gia đình, chúng ta cần lên án những người chồng vũ phu, đánh đập vợ con hoặc những đứa com bất hiếu chỉ ăn chơi, thoả mãn nhu cầu cá nhân, làm cha mẹ đau lòng. Tại sao những con người ấy lại nhẫn tâm đem lại sự bất hạnh cho chính những người thân yêu nhất của mình?... Ngoài xã hội, hiên có một lớp thanh niên, thay vì giúp đỡ người giá yếu , họ lại lợi dụng để cướp giất, móc túi… Những kẻ lấy sự bất hạnh của người khác làm hạnh phúc của mình cần đáng bị trừng trị!. Hạnh phúc luôn trong tầm tay mỗi chúng ta! Hãy mang hạnh phúc đến cho người khác và bạn sẽ tìm thấy niềm hạnh phúc của chính mình!!!! Đề 12 : ANTOÀN GIAO THÔNG Hiện nay an toàn giao thông đang là một trong những vấn đề lớn được cả xã hội quan tâm. Những khẩu ngữ như: “An toàn là bạn, tai nạn là thù”, “An toàn giao thông là hạnh phúc cho mọi nhà”… được giăng lên ở khắp các nẻo đường. Nó như một lời nhắc nhở cũng là lời cảnh báo những người đang tham gia giao thông hãy chấp hành nghiêm chỉnh luật an toàn giao thông để đem lại an toàn cho mình và hạnh phúc cho gia đình. Thế nhưng số vụ tai nạn giao thông hằng năm vẫn không hề suy giảm, ngược lại còn tăng lên rất nhiều. Cứ mỗi năm Việt Nam có tới gần một ngàn vụ tai nạn giao thông. Nguyên nhân chính gây ra các vụ tai nạn phần lớn là do ý thức chấp hành luật lệ giao thông của người dân còn kém: uống rượu, bia vượt quá nồng độ cho phép khi lái xe, không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông, phóng nhanh, vượt ẩu … Một mặt, đó là do chất lượng đường sá kém, nguyên nhân là do sự tắc trách của các cơ quan xây dựng: ăn hối lộ, rút ruột công trình … Mặt khác, chúng ta phải lên án những kẻ chỉ vì lợi ích cá nhân mà không màng đến sự an toàn, tính mạng của người đi đường, họ vẫn thản nhiên rải đinh xuống lòng đường để thu lợi trên những đồng tiền kiếm được từ việc vá xe, thay lốp. Họ không hiểu hết được sự nguy hiểm của việc.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> làm đó, bị thủng săm đột ngột khi đang chạy với tốc độ cao, người đang tham gia giao thông sẽ bị văng ra khỏi xe và nguy cơ tử vong là rất lớn. Một vấn đề cũng đang gây sự chú ý và bị lên án rất nhiều đó là tình trạng đua xe của giới trẻ, tầng lớp thanh niên - những chủ nhân tương lai của đất nước. Đó là những thanh niên đua đòi với bản tính “con nhà giàu”, cùng với sự rủ rê của bạn bè, họ sẵn sàng đánh cược với tính mạng của mình. Nhìn những chiếc xe SH, @, FX500 phi như bay trên những con đường lớn, ta không khỏi xót xa cho họ. Chỉ vì quá được nuông chiều, thiếu sự bảo ban của cha mẹ mà họ đã phải trả giá đắt. Tai nạn xảy ra là điều chắc chắn, nhẹ thì sứt đầu mẻ trán, gãy tay gãy chân, nặng thì họ phải mãi mãi rời xa cuộc đời. Nguyên nhân cũng là do họ chưa biết suy nghĩ đúng về những cái lợi, cái hại của việc mình đã làm. Thanh thiếu niên trong độ tuổi 15-24 chiếm gần 20% dân số Việt Nam nhưng chiếm tới gần 40% các vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng. Cộng với đó là quản lý hành lang an toàn giao thông chưa chặt chẽ: hệ thống biển báo còn thiếu, phân luồng giao thông chưa hợp lý, công tác kiểm tra, kiểm soát và xử phạt chưa nghiêm minh, thậm chí còn có hiện tượng tiêu cực trong xử lý … Trong vòng 10 năm qua, số vụ tai nạn giao thông đã tăng gấp 4 lần. Theo điều tra chấn thương liên trường (VMIS), trong năm 2001 có 4.100 trẻ chết do tai nạn giao thông, tương đương với 11 trẻ chết 1 ngày. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em trai gấp 2 lần tỷ lệ này ở trẻ em gái. Trong khi đó có 290.000 trẻ bị thương do tai nạn giao thông cũng trong 2001, tương đương với 794 trẻ/ngày. Tai nạn giao thông là nguyên nhân tử vong hàng đầu của trẻ em từ 15 tuổi trở lên. Phần lớn trẻ 0-9 tuổi chết là người đi bộ. Đa số trẻ 10-14 tuổi chết khi đi xe đạp trong khi tất cả các ca tử vong ở đối tượng 15-19 tuổi là người đi xe máy. Tất cả những nguyên nhân gây ra tai nạn đều bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết về Luật Giao thông. Vì vậy để học sinh, sinh viên có thêm hiểu biết về luật giao thông, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã phối hợp cùng các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông, các trường đại học, cao đẳng … trên toàn quốc phát động và thực hiện tháng “An toàn giao thông”. Tháng an toàn giao thông năm nay có chủ đề: “Thanh, thiếu niên trường học nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật về trật tự an toàn giao thông”. Đây có thể xem là điểm đột phá, bởi nếu tuổi trẻ học đường, bao gồm cả học sinh, sinh viên được trang bị đầy đủ kiến thức về Luật Giao thông, có sự chuyển biến về nhận thức, tuân thủ các quy định của pháp luật thì sẽ tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về chấp hành giao thông của cả xã hội. Giảm thiểu tai nạn giao thông là việc khó, nhưng không phải không làm được nếu cả xã hội cùng nỗ lực, chọn đúng điểm đột phá, có biện pháp đúng trong tổ chức và kiên trì trong thực hiện. Hưởng ứng tháng an toàn giao thông là trách nhiệm của toàn xã hội song cần hướng mạnh vào lớp trẻ, trong đó bộ phận quan trọng là tuổi trẻ học đường. Cần làm cho đối tượng này tự giác thực hiện các quy định về an toàn giao thông một cách liên tục, bảo đảm tính bền vững lâu dài, hạn chế và đi đến chấm dứt tình trạng vi phạm an toàn giao thông. Đã đến lúc chúng ta cần đưa ra những biện pháp hữu hiệu và sáng tạo hơn, chủ động và tích cực hơn để giáo dục lớp trẻ ý thức chấp hành pháp luật khi tham gia giao thông. Trách nhiệm này thuộc về nhà trường, gia đình và toàn xã hội. Đối với nhà trường, cần coi trọng công tác giáo dục ý thức công dân, ý thức chấp hành pháp luật đối với học sinh, sinh viên. Nhà trường cần đa dạng hoá các sinh hoạt ngoại khoá của học sinh, sinh viên, trong đó có các hoạt động về tuyên truyền, phổ biến pháp luật giao thông là rất cần thiết. Ngoài ra cần coi ý thức chấp hành pháp luật về giao thông như một trong những tiêu chí cơ bản để đánh giá ý thức rèn luyện đạo đức của học sinh, sinh viên: xếp loại đạo đức trung bình đối với học sinh, sinh viên vi phạm giao thông lần một và xếp loại yếu nếu vi phạm lần hai trong cùng một năm học..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> Các bậc cha, mẹ cần quan tâm hơn nữa đến việc giáo dục đạo đức và ý thức pháp luật của con cái, không mua xe gắn máy cho con hoặc không cho phép con đi xe gắn máy khi chưa đủ tuổi. Nhà nước cũng cần quy định biện pháp xử lý nghiêm minh với các bậc cha mẹ không quan tâm hoặc dung túng cho con em vi phạm. Cơ quan, đơn vị công tác cũng cần có hình thức xử lý thoả đáng đối với các bậc cha mẹ là đảng viên, cán bộ, công chức dung túng hoặc tiếp tay cho con cái vi phạm giao thông như: không nâng bậc lương, không xét thi đua, không bổ vào chức vụ lãnh đạo cao hơn ... Ngoài ra các cơ quan chức năng cũng phải thường xuyên kiểm tra, phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm giao thông để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân nói chung, của học sinh, sinh viên nói riêng. Chỉ khi nào các hành vi vi phạm bị xử lý công bằng và nghiêm minh thì người dân mới tuân thủ các quy định của pháp luật. Những trường hợp vi phạm an toàn giao thông của học sinh, sinh viên phải được thông báo tới nhà trường - nơi đang học tập hoặc địa phương - nơi đang cư trú để có những hình thức răn đe, xử phạt kịp thời. Theo thống kê, những người thiệt mạng do tai nạn giao thông chủ yếu là đàn ông – những trụ cột của gia đình và học sinh, sinh viên – những người con thân yêu của cha mẹ, những chủ nhân tương lai của đất nước. Những người vợ xót xa khi mất đi người chồng thân yêu. Những đứa con nghẹn ngào vì từ đây chúng sẽ không còn được ở trong vòng tay âu yếm vỗ về của cha, không còn được cha bảo ban dạy dỗ trên đường đời. Các bậc cha mẹ phải quặn lòng tiễn con đi trong nước mắt … Tất cả những điều đáng tiếc kia sẽ chẳng thể xảy ra nếu như mỗi chúng ta biết quý bản thân mình, biết tuân thủ luật lệ giao thông. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Người có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó nhưng có tài mà không có đức thì cũng vô dụng”. Chính vì vậy, chúng ta cần quan tâm hơn nữa đến giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên, mà trước hết là giáo dục ý thức công dân. Chấn chỉnh giao thông học đường không chỉ góp phần làm giảm thiểu tai nạn giao thông, mà quan trọng hơn là giáo dục ý thức pháp luật cho thế hệ tương lai ĐẾ 14 : SỬ DỤNG ĐIỆN THOẠI DI ĐÔNG Vấn nạn học sinh thường hay lo ra, làm việc riêng trong các giờ học đã trở nên khá phổ biến và nó cứ dửng dưng diễn ra tại các tiết học trong lớp. Những hành dộng lo ra không đúng của các bạn học sinh tưỡng chừng như vô hại. Nhưng thực tế thì điều ấy lại gây nên những hậu quả nghiêm trọng cho các bạn sau này. Vậy, những việc mà các bạn học sinh không nên làm trong giờ học là như thế nào? Những việc mà học sinh không nên làm trong giờ học là không nên nói chuyện riêng, làm việc khác như học môn này mà lấy môn khác ra học. Và tệ hơn là việc các bạn sử dụng điện thoại di động để nhắn tin hay sử dụng máy nghe nhạc. Những hành vi vô ý thức ấy sẽ gây ra những tác hại rất lớn.Vì khi thầy cô đang giảng bài thì các bạn lại lo ra để rồi những bạn học sinh đấy sẽ phải bỏ lỡ một phần hoặc tất cả những kiến thức, thông tin bài học mà thẩy cô đang giảng dạy. Và trên thực tế hiện nay, khi nền khoa học công nghệ ngày càng phát triển, các phương tiện thông tin phát triển một cách ồ ạt. Do đó, chúng ta không thể nào tránh được hiện tượng mỗi bạn học sinh nào cũng có một “ chú dế yêu” bên cạnh như vật bất li thân..

<span class='text_page_counter'>(21)</span> Tuy là một vật dụng hữu ích nhưng liệu các bạn đã sử dụng nó đúng cách và đúng mục đích chưa? Chính xác là chưa! Điện thoại di động thì chúng ta có quyền sử dụng vào giờ nghỉ giải lao, giờ ra về nhưng tuyệt đối các bạn không nên sử dụng trong giờ học. Vì như thế sẽ gây ra sự xao lãng trong bài giảng mà thầy cô đang giảng. Có thể hôm nay, chúng ta không đễ tâm và bỏ qua một số chi tiết bài học. Tuy một ngày, những kiến thức mà chúng ta vô tình bỏ qua thì tương đối nhỏ. Nhưng các bài học lúc nào cũng có mốc xích với nhau. Cho nên, nếu các bạn không hiểu chỗ này thì làm sao có thể hiểu tiếp chỗ kia. Dần dần, rồi nó sẽ trở thành một lỗ hỏng kiến thức nặng nề đem lại cho các bạn một kết quả học tập không mong muốn. Mà nguyên nhân dẩn đến kết quả xấu ấy chính là do những hành vi vô ý thức trong giờ học của chúng ta gây nên. Điển hình như nếu chúng ta nghe nhạc trong giở học thì làm sao có thể tập trung vào bài học. Rồi còn việc các bạn học môn này mà lấy môn khác ra học là vô cùng không tốt. Điểu ấy dẫn việc các bạn sẽ không nắm dược bài đang học. Vì sự xao lãng trong lớp nên đa số nhiều học sinh không hiểu bài thì lại tìm đến phương pháp học thêm. Có thể, nếu đi học thêm thì nhiều sẽ củng cố lại được bài học. Nhưng nó thực sự rất tốn kém!.Vậy tại sao chúng ta lại không cố gắng rén luyện tính tập trung vào giờ học trên lớp để có thể gánh bớt một phần khó khăn cho cha mẹ. Như các bạn thấy, những hành động vô ý thức trên nếu cứ tiếp tục diễn ra thì hoàn toàn không tốt chút nào. Và nếu như ta có ý thức không làm những việc riêng như trên trong giờ học mà kèm theo đó là biết kết hợp với phương pháp học đúng đắn thì tất nhiên ta sẻ đạt được những kết quả học tập tốt như mong muốn. Chẳng những thế, nếu bạn không làm việc riêng trong các tiết học của thầy cô là bạn đã một phần nào thể hiện được sự tôn trọng với thầy cô và thể hiện được đạo đức của bản thân. Riêng bản thân tôi, tôi sẽ cố gắng tập trung vào việc học tập trên lớp và không lo ra đễ có thể đạt được một kết quả học tập tốt. Để làm được như vậy, tôi sẽ cố gắng chăm chỉ chuẩn bị bài, học bài ở nhà thật kĩ và sử dụng điện thoại di dộng, máy nghe nhạc chỉ khi thật sự cần thiết. Đặc biệt là không sử dụng trong giờ học! Tóm lại, chắc hẳn qua bài viết trên, các bạn đã một phần nào hiễu rõ về tác hại của việc lo ra, không tập trung trong lớp học là vô cùng nguy hại. Chính vì thế, từ nay chúng ta nên xem xét lại hành dộng của bản thân. Vì nếu như ta cứ tiếp tục phạm sai lầm như trên thì sẽ chẳng mang lại lợi ích gì cho các bạn ngoài những điều bất lợi. Thế nên, chúng ta hãy cùng nhau từ bỏ và đấu tranh với nó để loại bỏ hoàn toàn hành vi này khỏi trường học, lớp học của chính mình nhé!.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> Cần giáo dục văn hóa sử dụng điện thoại cho học sinh (Dân trí) - Không ít giáo viên đã phàn nàn về việc tiết học đang tiến hành thì bị dừng lại, gián đoạn bởi một tiếng chuông điện thoại trong lớp bất ngờ vang lên khiến cho mạch giảng của giáo viên bị ngắt quãng và sự tập trung của học sinh bị phân tán. Việc dùng điện thoại di động ngày nay trong học sinh hầu như là phổ biến và các em có thói quen sử dụng khá tùy tiện, gây ra không ít phiền lụy trong quá trình học tập, thi cử. Nếu như khoảng chừng 5 năm trước, việc học sinh sử dụng điện thoại di động khi đến trường còn là chuyện hiếm, ngay cả ở các thành phố lớn thì hiện nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện truyền thông, thông tin, điện thoại di động đã nhanh chóng “phủ sóng” học đường. Ngày nay, điện thoại di động không còn là mặt hàng xa xỉ mà đã tràn ngập thị trường với đầy đủ kiểu dáng, chủng loại. Giá một chiếc điện thoại với đầy đủ chức năng cũng không còn quá cao. Trong khi đó, giá cước liên lạc của các nhà cung cấp dịch vụ ngày càng có xu hướng giảm do yếu tố cạnh tranh. Tất cả những yếu tố trên cùng với mục đích quản lý, giám sát việc học hành, đi lại của con đã khiến cho nhiều bậc phụ huynh đồng ý “đầu tư” cho con sử dụng điện thoại di động. Bởi thế, học sinh sử dụng điện thoại di động hiện nay đã trở thành một “phong trào”, không chỉ đối với các trường học ở thành phố hay vùng đồng bằng. Đối tượng sử dụng điện thoại di động cũng không chỉ là học sinh THPT mà cả học sinh THCS, thậm chí học sinh Tiểu học cũng có “dế” đút túi. Những tiện ích trong thông tin liên lạc do điện thoại di động mang lại là không thể phủ nhận. Song qua thực tiễn, học sinh sử dụng điện thoại di động cũng bộc lộ không ít hệ luỵ, bất cập. Không ít giáo viên đã phàn nàn về việc tiết học đang tiến hành thì bị dừng lại, gián đoạn bởi một tiếng chuông điện thoại trong lớp bất ngờ vang lên khiến cho mạch giảng của giáo viên bị ngắt quãng và sự tập trung của học sinh bị phân tán. Việc lạm dụng điện thoại di động “mọi lúc, mọi nơi” cũng đã ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động học tập của học sinh. Vì mải nhắn tin, gọi điện nhiều học sinh lơ là nghe giảng trong lớp học, bê trễ trong việc chuẩn bị bài. Những chức năng kèm theo từ điện thoại di động như: chơi game, nghe nhạc… cũng có sức hút lớn đối với đối tượng học sinh vốn tò mò, hiếu kỳ khiến cho thời gian dành cho việc học tập bị ảnh hưởng. Sau khi clip “riêng tư” của nhân vật chính trong bộ phim “Nhật ký Vàng Anh” bị tung lên mạng, ngay lập tức, nó được lan truyền nhanh chóng trong giới học sinh qua những chiếc điện thoại di động. Không lâu sau đó, dư luận lại xôn xao về clip “mây mưa” của 2 học sinh lớp 9 ở Quảng Bình được thực hiện trong một khu rừng và quay bằng điện thoại di động. Mới đây, hàng lọat vụ ẩu đả của một số nữ sinh cũng được quay lại và phát tán trên mạng từ những chiếc điện thoại di động. Chức năng Bluetooth của điện thoại di động cho phép “bắn” qua lại những clip video, hình ảnh một cách dễ dàng mà không tốn một chi phí nào càng khiến cho các clip có nội dung không lành mạnh có thể được lan truyền một cách nhanh chóng..

<span class='text_page_counter'>(23)</span> Có thể nói, làn sóng sưu tầm, phát tán phim ảnh có nội dung “nóng” thậm chí là đồi truỵ qua điện thoại di động đã và đang tác động tiêu cực tới nhận thức, tư tưởng của một bộ phận học sinh hiện nay. Kỳ thi tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng năm 2010, đã có không ít câu chuyện bi hài xung quanh chiếc điện thoại di động được các thí sinh mang vào phòng thi. Một thí sinh thi vào trường đại học Xây dựng đã có “sáng kiến” buộc điện thoại vào bắp chân để “qua mặt” cán bộ coi thi, nhưng giữa giờ thi, điện thoại bất ngờ đổ chuông đã “tố cáo” khổ chủ của nó. Liên quan tới chiếc điện thoại di động, có thí sinh vi phạm quy chế đến mức ngớ ngẩn, đó là trường hợp thí sinh thí vào trường đại học Ngoại ngữ (đại học Quốc gia Hà Nội), tuy đã “cẩn thận” tắt tiếng nhưng lại… để quên chuông báo thức trên máy điện thoại. Trong lúc phòng thi đang yên tĩnh, tiếng chuông báo thức vang lên rộn ràng đã khiến cho thí sinh này phải ngậm ngùi rời khỏi phòng thi. Bên cạnh đó, cũng có khá nhiều trường hợp thí sinh bị đình chỉ thi một cách “oan uổng” vì “lỡ” đem điện thoại vào phòng thi và được người nhà hỏi thăm không đúng lúc. Mặc dù quy chế thi đã rõ: thí sinh bị phát hiện mang điện thoại di động vào phòng thi, dù sử dụng hay chưa sử dụng đều bị đình chỉ thi. Quy định trên đã được áp dụng từ nhiều năm trước, các hội đồng thi đã chú trọng việc phổ biến quy định này đến thí sinh bằng nhiều hình thức: nhắc qua loa phóng thanh, phổ biến qua giám thị trước mỗi buổi thi, dán quy chế trước cửa mỗi phòng thi. Tuy nhiên, do vô tình hay cố ý, nhưng chiếc điện thoại vẫn “theo chân” các thí sinh vào phòng thi để rồi những thí sinh bị phát hiện đã phải gánh chịu những hậu quả đáng tiếc. Rõ ràng thói quen sử dụng điện thoại di động trong học sinh hiện nay đã gây ra không ít phiền lụy, nhất là trong lúc thi cử. Trong quan niệm của nhiều học sinh con các gia đình có điều kiện khá giả về kinh tế, việc sử dụng những chiếc điện thoại di động đắt tiền với nhiều chức năng hỗ trợ là cách để thể hiện “phong cách” và “đẳng cấp”. Những bậc phụ huynh trang bị cho con những chiếc điện thoại “xịn”, vô hình trung đã góp phần hình thành thói quen đua đòi, tiêu tiền hoang phí khi bản thân các em còn đang ngồi trên ghế nhà trường. Bên cạnh đó, mặc dầu cước điện thoại di động đã giảm nhưng việc sử dụng điện thoại thường xuyên dù chỉ để nhắn tin cũng “ngốn” một khoản chi phí đáng kể. Một số học sinh thậm chí đã phải “xén” cả tiền học phí, học thêm mà phụ huynh cung cấp hàng tháng để “nuôi dế”. Đã có ý kiến cho rằng, trong bản nội quy của các nhà trường hiện nay cần có thêm điều cấm học sinh sử dụng điện thoại di động khi tới truờng. Song trên thực tế, cấm học sinh sử dụng điện thoại khi tới trường trong điều kiện hiện nay là rất khó khả thi. Bởi, xã hội ngày càng phát triển thì điện thoại di động là phương tiện thiết yếu để trao đổi thông tin..

<span class='text_page_counter'>(24)</span> Hơn nữa, khó có thể cấm cản triệt để việc học sinh sử dụng điện thoại di động vì đó là tài sản cá nhân của các em và những người sử dụng điện thoại di dộng với mục đích phù hợp cũng không có lỗi gì. Tuy nhiên, để hạn chế những mặt tồn tại, bất cập từ việc học sinh sử dụng điện thoại di động, cần có sự phối hợp giáo dục chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường. Theo đó, các bậc phụ huynh không cần thiết phải trang bị cho con những chiếc điện thoại di động đắt tiền. Điều quan trọng là, trước khi sắm điện thoại cho con, cần cho chúng nhận thức được là nên sử dụng điện thoại di động lúc nào? ở đâu? Và nhằm phục vụ cho mục đích thiết thực gì? Phụ huynh chỉ nên cho con sử dụng điện thoại di động nếu thấy thực sự cần thiết. Đồng thời, có biện pháp kiểm soát cước phí liên lạc. Trước mỗi kỳ thi quan trọng, nếu trong quy chế thi có quy định cấm thí sinh mang điện thoại di động vào phòng thi, các bậc phụ huynh cần đặc biệt quan tâm, nhắc nhở con em không mang điện thoại đến điểm thi, giữ, gửi lại ở ngoài điểm thi. Thậm chí, có thể sử dụng biện pháp mạnh là “cấm vận” hẳn trong vài ngày thi. Bởi, tâm trạng lo lắng cho kỳ thi khiến cho nhiều thí sinh không còn để ý tới những hậu quả khi mang điện thoại bên mình, đa số thí sinh bị đình chỉ thi, gạt nước mắt ra về là do thói quen. Trong các nhà trường nên có quy định cấm học sinh sử dụng điện thoại di động trong tất cả các tiết học. Tuyệt đối cấm lưu trữ trong máy những phim, ảnh thiếu lành mạnh. Nếu phát hiện trong điện thoại di động của học sinh có chứa những nội dung không lành mạnh cần kịp thời thông báo với phụ huynh học sinh đồng thời có những hình thức xử lý để ngăn ngừa vi phạm đối với những học sinh khác. Với những gì đã và đang xảy ra, đã đến lúc cần hình thành “văn hoá alô” trong học đường, cũng là biện pháp xây dựng môi trường học đường thân thiện..

<span class='text_page_counter'>(25)</span> PHẦN III NGHỊ LUẬN VĂN HỌC Đề 1 :Suy nghĩ của em về văn bản : “Những ngôi sao xa xôi ”của Lê Minh Khuê. Là cây bút chuyên về truyện ngắn ,trong chiến tranh Lê Minh Khuê viết về cuộc sống chiến đấu của tuổi trẻ ở tuyến đường Trường Sơn . “Những ngôi sao xa xôi” là tác phẩm đầu tay của bà ,được viết năm 1971 giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc đang diễn ra rất ác liệt.Truyện giúp ta hiểu hơn về cuộc sống của những cô gái thanh niên xung phong trên một cao điểm ở tuyến đường Trường Sơn . Truyện xoay quanh ba nhân vật nữ thanh niên xung phong trong tổ trinh sát mặt đường . Họ là ba người nhưng công việc gắn bó họ thành một khối thống nhất. Họ cùng sống và chiến đấu tronh hoàn cảnh vô cùng gian khổ , ác liệt : ở trên một cao điểm trọng yếu của tuyến đường Trường Sơn, làm công việc đặc biệt nguy hiểm: “khi có bom nổ thì đo khối lượng đất lấp vào hố bom ,đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom” . Nghĩa là họ ở nơi tập trung nhiều bom đạn , làm công việc luôn đối mặt với cái chết . Họ cảm nhận rõ ràng : “Đất bốc khói , không khí bàng hoàng , máy bay đang ầm ì xa dần .Thần kinh căng như chão , tim đập bất chấp cả nhịp điệu ,chân chạy mà vẫn biết rằng khắp chung quanh có nhiều quả bom chưa nổ .” Công việc thường ngày mạo hiểm ấy đòi hỏi họ phải là những người dũng cảm ,gan góc có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc ,không sợ gian khổ hy sinh . Mặc dù phải sống cách biệt , ở xa đồng đội , làm công việc nguy hiểm song cả ba cô gái ấy sống gắn bó cùng nhau và không hề mất đi những nét tính cách đáng yêu của những cô gái trẻ .Họ luôn yêu thương, lo lắng ,chăm sóc cho nhau , tâm hồn họ trong sáng , giàu mơ ước , dễ vui , dễ buồn và đặc biệt , họ rất thích làm đẹp cho cuộc sống của mình .Chị Thao nhiều tuổi nhất , chăm chép bài hát , sợ máu và vắt. Nho thích thêu thùa , thích ăn kẹo , cô rất đáng yêu “trắng và tròn như một que kem mát lạnh”, có vẻ dịu dàng và gan góc . Người thứ 3 nổi bật nhất ,tiêu biểu cho tổ trinh sát mặt đường là Phương Định . Là một cô gái Hà Nội xinh xắn “hai bím tóc dày tương đối mềm ,một cái cổ cao , kiêu hãnh như đài hoa loa kèn”và đôi mắt đẹp:“có cái nhìn sao mà xa xăm”.Vừa qua thời học sinh,cuộc sống chiến trường tôi luyện Định thành một chiến sỹ kiên cường , dũng cảm .Ngày nào Định cũng phá bom nhiều lần ,cô.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> có nghĩ tới cái chết nhưng điều quan trọng hơn là “liệu mìn có nổ , bom có nổ không ?không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai ?”.Tâm trạng Phương Định khi phá bom được miêu tả cụ thể ,tinh tế đến từng cảm giác .Từ sự cảm nhận không khí đầy căng thẳng đến cảm giác “các anh cao xạ đang dõi theo từng cử chỉ ,động tác của mình” và lòng dũng cảm như được tăng lên bởi sự tự trọng :“Tôi đến gần quả bom …tôi sẽ không đi khom, các anh ấy không thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đàng hoàng mà bước tới ”.Cảm giác căng thẳng của Định khi ở bên quả bom , kề sát cái chết im lìm và bất ngờ được miêu tả tỉ mỉ đến từng chi tiết :“thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom .Một tiếng động sắc đến gai người ,cứa vào da thịt tôi …Vỏ quả bom nóng .Một dấu hiệu chẳng lành .”Đó là công việc hàng ngày đã quen của Định . Công việc hiểm nguy ấy khiến ba cô gái thanh niên xung phong trở nên thật phi thường ,thật đáng khâm phục . Tuy vậy sự ác liệt của chiến trường không làm vơi đi đời sống tâm hồn trong sáng, giàu cảm xúc của Định .Cô hay mơ mộng, thích hát ,thậm chí “bịa lời ra mà hát ”thích dân ca quan họ ,thích hành khúc , thích Cachiusa , thích dân ca Ý…Định còn hay ngồi bó gối mơ màng, sống với những hồi tưởng về gia đình,quê hương…Cô ý thức về mình ,tự hào vì được nhiều người để ý nhưng lại tỏ ra hờ hững như là kiêu kỳ .Tuy vậy trong suy nghĩ và tình cảm của cô thì “những người đẹp nhất ,thông minh ,can đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục,có sao trên mũ”. Định thực sự là cô thiếu nữ mộng mơ ,hồn nhiên ,trong sáng và dũng cảm. Ngôi kể thứ nhất ,cách kể chuyện tự nhiên ,ngôn ngữ sinh động ,trẻ trung cùng nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật đặc sắc của tác giả đã góp phần không nhỏ trong việc khắc hoạ thành công thế giới tinh thần phong phú và trong sáng của những cô gái trẻ . Những trang cuối cùng của truyện khép lại nhưng dư âm của câu chuyện vẫn còn đọng mãi trong em .Vẻ đẹp tâm hồn của họ ,những chiến công lặng thầm của họ mãi toả sáng ,lung linh , lấp lánh và bí ẩn như những ngôi sao xa xôi. ĐỀ 2 : Suy nghĩ của em về nhân vật anh thanh nên trong văn bản “Lặng lẽ Sa pa” của Nguyễn Thành Long Gấp lại truyện ngắn “Lặng lẽ Sa pa ”của Nguyễn Thành Long lòng ta cứ xao xuyến vấn vương trước vẻ đẹp của những con người ,trước những tình cảm chân thành, nồng hậu trong một cuộc sống đầy tin yêu .Dù được miêu tả ít hay nhiều nhân vật nào của “Lặng lẽ Sa pa” cũng hiện lên với nét cao quí đáng khâm phục.Trong đó anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu đã để lại cho chúng ta nhiều ấn tượng khó phai mờ . Trước tiên anh thanh niên này đẹp ở tấm lòng yêu đời,yêu nghề ,ở tinh thần trách nhiệm cao với công việc lắm gian khổ của mình.Trong lời giới thiệu với ông hoạ sỹ già và cô gái,bác lái xe gọi anh là “người cô độc nhất thế gian”.Đã mấy năm nay anh “sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m bốn bề chỉ có cỏ cây và mây mù lạnh lẽo”.Công việc hàng ngày của anh là“đo gió,đo mưa ,đo chấn động mặt đất”rồi ghi chép,gọi vào máy bộ đàm báo về trung tâm.Nhiều đêm anh phải “đối chọi với gió tuyết và lặng im đáng sợ”.Vậy mà anh rất yêu công việc của mình.Anh quan niệm:“khi ta làm việc ta với công việc là đôi,sao gọi là một mình được?”Anh hiểu rõ : “Công việc của cháu gian khổ thế đấy,chứ cất nó đi,cháu buồn đến chết mất”.Sống một mình nhưng anh không đơn độc bởi “lúc nào tôi cũng có người để trò chuyện.Nghĩa là có sách ấy mà ”.Tuy sống trong điều kiện thiếu thốn nhưng người thanh niên ấy vẫn ham mê công việc,biết sắp xếp lo toan cuộc sống riêng ngăn nắp, ổn định.Anh nuôi gà, trồng hoa, đọc sách,thỉnh thoảng anh xuống đường tìm gặp bác lại xe cùng hành khách để trò chuyện cho vơi bớt nỗi nhớ nhà..

<span class='text_page_counter'>(27)</span> Sống trong hoàn cảnh như thế sẽ có người dần thu mình lại trong nỗi cô đơn.Nhưng anh thanh niên này thật đáng yêu ở nỗi “ thèm người ”,lòng hiếu khách đến nồng nhiệt và sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo.Ngay từ những phút gặp gỡ ban đầu ,lòng mến khách ,nhiệt tình của anh đã gây được thiện cảm tự nhiên đối với người hoạ sỹ già và cô kỹ sư trẻ.Niềm vui được đón khách dào dạt trong anh,toát lên qua nét mặt,cử chỉ:anh biếu bác lái xe củ tam thất,mừng quýnh đón quyển sách bác mua hộ,hồ hởi đón mọi người lên thăm “nhà”,hồn nhiên kể về công việc,đồng nghiệp và cuộc sống của mình nơi Sa pa lặng lẽ.Khó người đọc nào có thể quên,việc làm đầu tiên của anh khi có khách lên thăm nơi ở của mình là:hái một bó hoa rực rỡ sắc màu tặng người con gái lần đầu quen biết.Bó hoa cho cô gái ,nước chè cho ông hoạ sỹ già, làn trứng ăn đường cho hai bác cháu…Tất cả không chỉ chứng tỏ đó là người con trai tâm lý mà còn là kỷ niệm của một tấm lòng sốt sắng , tận tình đáng quí Công việc vất vả ,có những đóng góp quan trọng cho đất nước nhưng người thanh niên hiếu khách và sôi nổi ấy lại rất khiêm tốn.Anh cảm thấy đóng góp của mình bình thường,nhỏ bé so với bao ngừơi khác.Bởi thế anh ngượng ngùng khi ông hoạ sỹ già phác thảo chân dung mình vào cuốn sổ tay .Con người khiêm tốn ấy hào hứng giới thiệu cho ông hoạ sỹ những người khác đáng vẽ hơn mình:“Không,không ,bác đừng mất công vẽ cháu,để cháu giới thiệu cho bác những người khác đáng vẽ hơn.”Đó là ông kỹ sư ở vườn rau vượt qua bao vất vả để tạo ra củ su hào ngon hơn,to hơn.Đó là “người cán bộ nghiên cứu sét,11 năm không xa cơ quan lấy một ngày”…Dù còn trẻ tuổi,anh thấm thía cái nghiã,cái tình của mảnh đất Sa pa,thấm thía sự hy sinh lặng thầm của những con người đang ngày đêm làm việc và lo nghĩ cho đất nước . Bằng một cốt truyện khá nhẹ nhàng ,những chi tiết chân thực tinh tế ,ngôn ngữ đối thoại sinh động Nguyễn Thành Long đã kể lại một cuộc gặp gỡ tình cờ mà thú vị nơi Sa pa lặng lẽ.Chưa đầy 30 phút tiếp xúc với anh thanh niên,khiến người hoạ sỹ già thêm suy ngẫm về vẻ đẹp cuộc đời mà mình không bao giờ thể hiện hết được và còn làm cô kỹ sư trẻ lòng bao cảm mến bâng khuâng … Với truyện ngắn này ,phải chăng nhà văn muốn khẳng định:Cuộc sống của chúng ta được làm nên từ bao phấn đấu,hy sinh lớn lao và thầm lặng?Những con người cần mẫn,nhiệt thành như anh thanh niên ấy, khiến cuộc sống này thật đáng trân trọng,thật đáng tin yêu . Đề 3: Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong tác phẩm “Làng ”của Kim Lân. Kim Lân là nhà văn có vốn sống vô cùng phong phú và sâu sắc về nông thôn Việt Nam.Các sáng tác của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh hoạt của người nông dân. Văn bản “Làng” đươc sáng tác vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ,với nhân vật chính là ông Hai ,một lão nông hiền lành ,yêu làng ,yêu nước và gắn bó với kháng chiến . Ông Hai cũng như bao người nông dân quê từ xưa luôn gắn bó với làng quê của mình.Ông yêu quí và tự hào về làng Chợ Dầu và hay khoe về nó một cách nhiệt tình, hào hứng.Ở nơi tản cư ông luôn nhớ về làng,theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm về Chợ Dầu .Tình yêu làng của ông càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động trong hoàn cảnh thử thách . Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay gắt để bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật.Đó là tin làng chợ Dầu lập tề theo giặc.Từ phòng thông tin ra,đang phấn chấn,náo nức vì những tin vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư,nghe nhắc đến tên làng,ông Hai quay phắt lại,lắp bắp hỏi,hy vọng được nghe những tin tốt lành,nào ngờ biết tin dữ:“Cả làng Việt gian theo Tây ”.Tin bất ngờ ấy vừa lọt vào tai đã khiến ông bàng hoàng, đau đớn :“Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân ,ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được,một lúc lâu ông mới rặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ.Ông cất tiếng hỏi,giọng lạc hẳn đi ”nhằm hy vọng điều vừa nghe không phải là sự thật.Trước lời khẳng định chắc chắn của những người tản cư,ông tìm.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> cách lảng về.Tiếng chửi văng vẳng của người đàn bà cho con bú khiến ông tê tái :“cha mẹ tiên sư nhà chúng nó ,đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương,cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát”.Về đến nhà ông chán chường “nằm vật ra giường”,nhìn đàn con nước mắt ông cứ giàn ra “ chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư?Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”.Ông căm thù những kẻ theo Tây,phản bội làng,ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này ”.Niềm tin,nỗi ngờ giằng xé trong ông.Ông kiểm điểm lại từng người trong óc, thấy họ đều có tinh thần cả “có đời nào lại cam tâm làm cái điều nhục nhã ấy ”.Ông đau xót nghĩ đến cảnh “người ta ghê tởm,người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước”.Suốt mấy ngày liền ông chẳng dám đi đâu,“chỉ ở nhà nghe ngóng binh tình”,lúc nào cũng nơm nớp tưởng người ta đang để ý,đang bàn tán đến cái chuyện làng mình.Nỗi ám ảnh,day dứt,nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông.Ông đau đớn,tủi hổ như chính ông là người có lỗi... Tình thế của ông càng trở nên bế tắc,tuyệt vọng khi bà chủ nhà có ý đuổi gia đình ông với lý do không chứa người của làng Việt gian.Trong lúc tưởng tuyệt đường sinh sống ấy,ông thoáng có ý nghĩ quay về làng nhưng rồi lại gạt phắt ngay bởi “về làng tức là bỏ kháng chiến,bỏ Cụ Hồ ”,là “cam chịu quay trở lại làm nô lệ cho thằng Tây”. Tình yêu làng lúc này đã lớn rộng thành tình yêu nước bởi dẫu tình yêu,niềm tin và tự hào về làng Dầu có bị lung lay nhưng niềm tin và Cụ Hồ và cuộc kháng chiến không hề phai nhạt.Ông Hai đã lựa chọn một cách đau đớn và dứt khoát:“Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!”.Dù đã xác định thế nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm của mình đối với quê hương.Bởì thế mà ông càng xót xa,đau đớn... Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy,ông chỉ còn biết tìm niềm an ủi trong lời tâm sự với đứa con trai nhỏ.Nói với con mà thực ra là đang trút nỗi lòng mình.Ông hỏi con những điều đã biết trước câu trả lời:“Thế nhà con ở đâu?”,“thế con ủng hộ ai ?”…Lời đứa con vang lên trong ông thiêng liêng mà giản dị:“Nhà ta ở làng Chợ Dầu”,“ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm !”…Những điều ấy ông đã biết,vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm.Ông mong “anh em đồng chí biết cho bố con ông, tấm lòng bố con ông là như thế đấy,có bao giờ dám đơn sai,chết thì chết có bao giờ dám đơn sai ”.Những suy nghĩ của ông như những lời nguyện thề son sắt.Ông xúc động,nước mắt “chảy ròng ròng trên hai má”.Tấm lòng của ông với làng,với nước thật sâu nặng,thiêng liêng.Dẫu cả làng Việt gian thì ông vẫn một lòng trung thành với kháng chiến,với Cụ Hồ … May thay,tin đồn thất thiệt về làng Chợ Dầu được cải chính .Ông Hai sung sướng như được sống lại.Ông đóng khăn áo chỉnh tề đi với người báo tin và khi trở về “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên ”.Ông mua cho con bánh rán đường rồi vội vã,lật đật đi khoe với mọi người.Đến đâu cũng chỉ mấy câu“Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ !Đốt sạch !Đốt nhẵn ! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính.Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi Việt gian theo Tây ấy mà .Láo!Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả .” “Ông cứ múa tay lên mà khoe với mọi người”.Ông khoe nhà mình bị đốt sạch,đốt nhẵn như là minh chứng khẳng định làng ông không theo giặc. Mất hết cả cơ nghiệp mà ông không hề buồn tiếc,thậm chí còn rất sung sướng,hạnh phúc.Bởi lẽ,trong sự cháy rụi ngôi nhà của riêng ông là sự hồi sinh về danh dự của làng chợ Dầu anh dũng kháng chiến.Đó là một niềm vui kỳ lạ,thể hiện một cách đau xót và cảm động tình yêu làng,yêu nước,tinh thần hy sinh vì cách mạng của người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược . Cách miêu tả chân thực,sinh động,ngôn ngữ đối thoại,độc thoại và độc thoại nội tâm đa dạng,tự nhiên như cuộc sống cùng với những mâu thuẫn căng thẳng,dồn đẩy, bức bối đã góp phần không nhỏ tạo nên thành công của câu chuyện, đồng thời còn thể hiện sự am hiểu và gắn bó sâu sắc của nhà văn với người nông dân và công cuộc kháng chiến của đất nước.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> Qua nhân vật ông Hai ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược :Yêu làng,yêu nước và gắn bó với kháng chiến.Có lẽ vì thế mà tác phẩm “Làng ” xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại . ĐỀ 4 Suy nghĩ của em về tình cảm cha con trong chiến tranh qua văn bản “Chiếc lược ngà ”của Nguyễn Quang Sáng Nguyễn Quang Sáng quê ở An Giang , ông hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ .“Chiếc lược ngà” là một tác phẩm tiêu biểu của ông.Bằng việc sáng tạo tình huống bất ngờ mà tự nhiên,hợp lý,truyện đã thể hiện thật cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp của cha con ông Sáu trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh . Trong chiến tranh ,con người phải chịu nhiều mất mát, thiệt thòi ,hy sinh về tình cảm gia đình.Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến khi con gái đầu lòng mới tròn một tuổi . Sau tám năm xa cách ông mới có dịp trở về thăm nhà, nhưng trớ trêu thay ,Thu không nhận ông là ba .Phút đầu gặp gỡ, Thu ngờ vực,lảng tránh ,thậm chí còn sợ hãi bỏ chạy vì :“vết thẹo bên má phải cứ mỗi khi anh xúc động thì nó lại đỏ ửng lên ,giật giật trông rất dễ sợ ”.Trong những ngày ông Sáu ở nhà, Thu cương quyết không nhận ông là cha mặc dù ông đã tìm mọi cách để gần gũi,vỗ về cô bé.Có những lúc, lâm vào thế bí,nó cũng chỉ nói trổng:“Vô ăn cơm”,“cơm sôi rồi,chắt nước giùm cái” , “cơm sôi rồi ,nhão bây giờ”...Trong bữa cơm,ông Sáu âu yếm gắp cho con miếng trứng cá to,không ngờ bé phản ứng một cách quyết liệt:“bất thần hắt miếng trứng cá ra khỏi bát làm cơm bắn tung toé cả ra mâm”.Bị ông Sáu đánh vào mông, Thu bỏ về nhà ngoại và còn “ cố ý làm cho dây lòi tói khua rổn rảng ”…Sự ương ngạnh, bướng bỉnh của Thu không hoàn toàn đáng trách bởi em còn quá nhỏ để hiểu được sự éo le,khắc nghiệt trong hoàn cảnh xa cách của chiến tranh và những người lớn trong gia đình cũng chưa kịp chuẩn bị cho em đón nhận những khả năng bất thường đó.Em không nhận ông Sáu là cha vì ông có vết thẹo dài trên má không giống bức hình chụp chung với má mà em biết.Điều đó chứng tỏ tình cảm của Thu dành cho ba thật sâu sắc -em chỉ bộc lộ tình yêu sâu sắc của mình với ba khi biết chắc đó là ba . Buổi sáng cuối cùng trước khi ông Sáu lên đường, thái độ của Thu đột ngột thay đổi.Trong đêm bỏ về nhà ngoại Thu đã được bà giải thích về vết thẹo.Bé hiểu ra, ân hận và hối tiếc vô cùng:“nghe bà kể ,nó nằm im lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”.Phút chia tay “vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu,cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ của con bé trông thật dễ thương”. Khi ông Sáu nhìn con để chào từ biệt,“đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”tình cha con bị dồn nén bấy lâu chợt bùng lên mạnh mẽ,hối hả,cuống quýt.Nó thét lên gọi ba“tiếng kêu của nó như tiếng xé,xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa”.Hành động của Thu cũng thay đổi “nó nhảy thót lên,dang cả hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó.Nó hôn ba nó cùng khắp,hôn tóc,hôn cổ,hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”...Tất cả những hành động,thái độ đó của Thu đều bắt nguồn từ tình cảm dành cho người ba mà bé hằng yêu kính,tôn thờ và không ai có thể thay thế được.Tình cảm của Thu thật mạnh mẽ,sâu sắc và cũng dứt khoát,rạch ròi.Ở Thu có nét cứng cỏi đến ương ngạnh nhưng vẫn có nét ngây thơ,hồn nhiên của con trẻ.Bằng tâm hồn nhạy cảm,một trái tim nhân hậu và tấm lòng chan chứa yêu thương đối với trẻ em,Nguyễn Quang Sáng dường như đã cảm nhận đến tận cùng những biểu hiện tình cảm của nhân vật để miêu tả một cách sinh động và tinh tế . Nhân vật chính thứ hai trong tác phẩm là nhân vật ông Sáu.Tình cảm của ông đối với con gái nhỏ được biểu hiện phần nào trong chuyến về thăm nhà.Khi xuồng chưa kịp cập bến,trông thấy con ông đã vội vàng “nhảy lên bờ,khom người, hai tay đưa về phía trước,miệng lắp.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> bắp :ba đây con ! ba đây con.”Những tưởng bé Thu sẽ ào tới, ôm lấy cổ ba cho thoả những tháng ngày xa cách.Nhưng không, ông hẫng hụt ,bất ngờ khi thấy:“bé tròn mắt ngơ ngác nhìn rồi sợ hãi bỏ chạy ”.Thời gian ở nhà không nhiều nên ông Sáu không đi đâu xa ,suốt ngày chỉ tìm cách gần gũi,vỗ về con,mong con gọi một tiếng ba mà không được.Có lúc giận quá ông đã đánh con.Lúc chia tay tình yêu mãnh liệt của bé Thu khiến ông cảm động “một tay ôm con,tay kia lấy khăn chấm nước mắt ”.Cảm động và đau đớn hơn khi biết rằng đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng anh được nghe tiếng ba thân thương từ cô con gái nhỏ,bởi vì sau đó,chẳng bao giờ anh có thể trở về được nữa! Trong những ngày ở khu căn cứ ,anh ân hận vì đã trót đánh con.Nhớ lời con dặn, khi kiếm được một khúc ngà anh vui mừng như trẻ nhỏ “mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”.Những ngày sau đó bao nhiêu tình cảm yêu quí,nhớ thương con anh dồn cả vào việc làm cây lược.Anh cặm cụi “cưa từng răng lược ,thận trọng,tỉ mỉ và cố công như một người thợ bạc”để rồi khi chiếc lược hoàn thành,anh còn khắc lên đó dòng chữ nhỏ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”...Những lúc nhớ con anh mang cây lược ra mài lên tóc mình cho cây lược thêm óng mượt :“Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc dài của con nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh”.Có lẽ những lúc ấy anh mong có một lần về phép thăm nhà để anh tự tay mình cầm cây lược chải tóc cho con …Đau đớn thay chiến tranh khiến anh chẳng bao giờ có thể trở về bên con gái anh được nữa.Anh bị hy sinh trong một trận càn.Trước lúc hy sinh,“dường như chỉ có tình cha con là không thể chết”,anh cầm cây lược trao cho bạn với niềm mong mỏi không còn có thể cất được thành lời.Từ lúc ấy,cây lược bằng ngà đã trở thành kỷ vật,thành biểu tượng thiêng liêng của tình phụ tử.Những dòng cuối cùng của truyện khép lại trong nỗi buồn mênh mông mà chứa chan ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Chủ đề của chuyện không mới lạ,nhưng tác giả thành công bởi đã khai thác tình cha con trong những tình huống éo le cảm động.Cách lựa chọn ngôi kể ,tạo lập tình huống bất ngờ mà tự nhiên,hợp lý cùng với việc miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật tinh tế,sâu sắc đặc biệt là tâm lý trẻ thơ đã giúp văn bản có được vị trí riêng trong lòng độc giả . Câu chuyện về chiếc lược bằng ngà không chỉ nói lên tình cha con sâu nặng thắm thiết mà còn gợi cho người đọc suy ngẫm và thấm thía những mất mát đau thương mà chiến tranh đã gây ra cho bao nhiêu gia đình .Bởi vậy mà em càng thêm trân trọng cuộc sống hoà bình mà chúng ta đang có hôm nay . Đề 5 : Suy nghĩ của em về bài thơ “Sang thu”của Hữu Thỉnh. Khoảnh khắc giao mùa có lẽ là khoảnh khắc đẹp đẽ nhất của tự nhiên ,nó gieo vào lòng người những rung động nhẹ nhàng khiến ta như giao hoà, đồng điệu .Khi chúng ta chưa hết ngỡ ngàng bởi một Xuân Diệu “tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì ” thì đã gặp một Hữu Thỉnh tinh tế ,sâu sắc đến vô cùng qua một thoáng “Sang Thu” . Bài thơ là những cảm nhận ,những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kỳ diệu của thiên nhiên trong buổi giao mùa .Không phải là sắc “mơ phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà là hương ổi thân quen nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ : Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se, Câu thơ có hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền quê nhỏ .Tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu là “hương ổi”. Mùi hương quê nhà mộc mạc “phả” trong gió thoảng bay trong không gian .Cảm giác bất chợt đến với nhà thơ : “bỗng nhận ra” -một sự bất ngờ mà như đã chờ đợi sẵn từ lâu lắm .Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi liên tưởng đến màu vàng ươm , hương thơm lựng , vị giòn, ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi vườn quê .Và không chỉ có.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> thế ,cả sương thu như cũng chứa đầy tâm trạng,thong thả, chùng chình giăng mắc trên khắp nẻo đường thôn : Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về . Sương thu đã được nhân hoá ,hai chữ “chùng chình” diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu . Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ “bỗng nhận ra” thu về khá bất ngờ và đột ngột thì sau khi cảm nhận sương thu ,gió thu, thi sỹ vẫn ngỡ ngàng thốt lên lời thầm thì như tự hỏi :Hình như thu đã về!? Tâm hồn thi sỹ nắm bắt những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa cũng êm đềm, bâng khuâng như bước đi nhỏ nhẹ của mùa thu . Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn ,cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan biến đi nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi : Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Sông nước đầy nên mới “dềnh dàng” nhẹ trôi như cố tình chậm lại ,những đàn chim vội vã bay về phương nam …Không gian thu thư thái , hữu tình và chứa chan thi vị , đặc biệt là hình ảnh : Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu . Câu thơ giúp ta hình dung về đám mây mỏng nhẹ ,trắng xốp ,kéo dài như tấm khăn voan duyên dáng của người thiếu nữ thảnh thơi , nhẹ nhàng “ vắt nửa mình sang thu”.Câu thơ có tính tạo hình không gian những lại có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian : thu bắt đầu sang , hạ chưa qua hết , mùa thu vừa chớm , rất nhẹ , rất dịu , rất êm , mơ hồ như cả đất trời đang rùng mình thay áo mới … Khổ thơ thứ ba diễn tả rất rõ sự biến chuyển của không gian và cũng là một thoáng suy tư của nhà thơ trước cảnh vật, đất trời : Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi . Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây , song chỉ là “vẫn còn” , “đã vơi dần”, “ cũng bớt bất ngờ” bởi mùa thu đã đến .Ý thơ còn gợi liên tưởng đến con người khi đã lớn tuổi và từng trải thì những giông gió, thăng trầm của cuộc đời ít làm con người ta bất ngờ, bị động .Những suy tư đó của tác giả có lẽ đã góp phần làm cho “Sang thu” trở nên giàu ý nghĩa . Hình ảnh thơ đẹp , ngôn từ tinh tế , giọng thơ êm đềm và những rung động man mác ,bâng khuâng của tác giả trong buổi giao mùa đã tạo nên một dấu ấn không dễ phai mờ trong lòng bao độc giả . Có lẽ vì vậy mà sau khi đọc “Sang thu” của Hữu Thỉnh ta càng thấy yêu hơn mùa thu thiết tha, nồng hậu của quê nhà . Đề 6 :Suy nghĩ của em về bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ ” của Thanh Hải . Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ ” được Thanh Hải sáng tác năm 1980 khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh. Bài thơ là tiếng lòng thiết tha, yêu mến và gắn bó với đất nước ,với cuộc đời và thể hiện chân thành một ước nguyện hiến dâng . Mở đầu bài thơ là bức tranh mùa xuân của thiên nhiên được phác hoạ bằng vài nét chấm phá : Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc, Ơi! con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời..

<span class='text_page_counter'>(32)</span> Chỉ bằng vài nét đơn sơ mà đặc sắc ,với những hình ảnh nho nhỏ, thân quen , bình dị, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh xuân thơ mộng, đậm phong vị xứ Huế .Bức tranh có không gian thoáng đãng ,sắc màu tươi tắn, hài hoà và âm thanh rộn rã tươi vui của tiếng chim chiền chiện . Cách lựa chọn hình ảnh “dòng sông xanh” , “bông hoa tím” , cách sử dụng các từ ngữ “ơi” ,“chi” đi liền sau động từ “hót” khiến người đọc liên tưởng đến quê hương xứ Huế và cả tâm trạng say đắm hân hoan của tác giả . Dường như thấp thoáng đâu đó trong câu thơ là màu xanh của dòng Hương Giang mềm mại và những tà áo dài tím biếc của những cô gái Huế mộng mơ, cùng với âm thanh rộn rã, tươi vui của tiếng chim chiền chiện, khiến mùa xuân của cố đô trầm mặc, chợt trở nên rực rỡ, rộn ràng .Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân còn được miêu tả ở chi tiết rất tạo hình : Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng . Giọt âm thanh của tiếng chim thật trong ,thật tròn,vang ngân giữa không gian,đọng lại thành từng giọt hữu hình long lanh như hạt ngọc ,nhà thơ đưa tay hứng với tất cả sự trân trọng , đắm say . Sự chuyển đổi cảm giác khiến hình ảnh thơ trở nên lung linh, đa nghĩa góp phần diễn tả trọn vẹn hơn niềm say sưa, ngây ngất của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên, trời đất vào xuân . Từ mùa xuân của thiên nhiên, trời đất nhà thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước . Tác giả hướng tình cảm của mình tới những con người đang làm đẹp mùa xuân : Mùa xuân người cầm súng Lộc dắt đầy trên lưng Mùa xuân người ra đồng Lộc trải dài nương mạ. Những câu thơ tạo ra hình ảnh sóng đôi đẹp như hai vế của câu đối mừng xuân nói về những người chiến sỹ bảo vệ và những người lao động dựng xây đất nước .“Lộc” theo bước chân người cầm súng ra trận,theo bàn tay người lao động ra đồng và gieo mùa xuân đến khắp mọi miền đất nước. Có lẽ bởi vậy mà không khí khẩn trương ,rộn ràng , náo nức lan toả khắp tứ thơ : Tất cả như hối hả Tất cả như xôn xao. Điệp từ “tất cả” ,từ láy “hối hả”, “xôn xao ” tạo nên nhịp điệu mùa xuân hối hả ,hào hùng ,mở ra những cảm nhận chan chứa tự hào về đất nước : Đất nước bốn ngàn năm Vất vả và gian lao Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước . Hình ảnh so sánh đẹp : “đất nước như vì sao” toả sáng, luôn vận động và phát triển không ngừng, có ý nghĩa định hướng ,giục giã mọi người hăng say cống hiến xây dựng quê hương . Trước mùa xuân của đất nước, nhà thơ tâm niệm về mùa xuân riêng của mỗi cuộc đời và dạt dào một khát vọng hiến dâng : Ta làm con chim hót Ta làm một canh hoa Ta nhập vào hoà ca Một nốt trầm xao xuyến . Nếu ở đầu bài thơ tác giả miêu tả những hình ảnh làm đẹp thêm ,tô điểm thêm cho mùa xuân là âm thanh náo nức vang trời của tiếng chim chiền chiện và sắc màu tím biếc dịu dàng của cánh lục bình nhỏ trên sông thì ở đây tứ thơ được lặp lại, tạo ra sự đối ứng chặt chẽ . Tác giả mong muốn được làm bông hoa toả ngát hương ,con chim mang tiếng hót và nốt trầm xao.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> xuyến để hiến dâng nhưng không làm mất đi nét riêng của mỗi người .Đó thực sự là lời tâm niệm chân thành, tha thiết, khiêm nhường và khát khao được cống hiến phần tinh tuý nhất của mình làm đẹp thêm mùa xuân của quê hương, xứ sở mà không bị giới hạn bởi thời gian, tuổi tác : Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc . “Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tạo bất ngờ ,độc đáo mà tự nhiên, hợp lý của nhà thơ , bởi mùa xuân vốn là một khái niệm chỉ thời gian thế mà ở đây “ mùa xuân” lại có khối ,có hình ,một hình hài nho nhỏ thật xinh xắn . Mùa xuân đã trở thành một ẩn dụ nói về khát vọng , một lẽ sống cao đẹp, một ý thức khiêm nhường góp sức mình làm đẹp thêm mùa xuân của thiên nhiên,đất nước.Điệp từ “dù là” đặt ở đầu hai câu thơ liên tiếp có ý nghĩa khẳng định cho khát vọng dâng hiến miệt mài, không mệt mỏi của tác giả . Thể thơ năm chữ có nhạc điệu trong sáng, tha thiết ,gần gũi với dân ca nhiều hình ảnh đẹp , giản dị ,gợi cảm ,những so sánh và ẩn dụ sáng tạo đã góp phần tạo nên thành công không nhỏ cho bài thơ . Bài thơ kết thúc khi đã làm lay động trái tim mỗi người bởi chất hoạ gợi cảm, chất nhạc vấn vương và ước nguyện thiết tha chân thành của tác giả .Dường như ước nguyện nhỏ bé khiêm nhường ấy không còn là của riêng Thanh Hải mà đã trở thành tiếng lòng chung của nhiều người .Bởi vậy mà đọc xong bài thơ em muốn tự hỏi mình một điều giản dị : “Ôi sống đẹp là thế nào hỡi bạn ? Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình !” Đề 7: Suy nghĩ của em về bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương Trong những bài thơ viết về Bác sau ngày Bác đi xa , “Viếng lăng Bác”của Viễn Phương là một bài thơ đắc sắc . Bài thơ diễn tả niềm kính yêu ,sự xót xa và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với vị lãnh tụ bằng cảm xúc chân thành ,thiết tha, sâu lắng. Từ mảnh đất miền Nam mấy chục năm trời chiến đấu gian khổ ,tác giả làm cuộc hành hương về đất Bắc . Lòng bồi hồi xúc động ,anh tìm đến Ba Đình : Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác. Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi!hàng tre xanh xanh Việt Nam . Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng . Đoạn thơ mở đầu thiêng liêng thành kính nhưng vẫn gợi một không khí ấm áp gần gũi không chỉ ở cách xưng hô “con” mà còn ở cách dùng từ mang ý nghĩa giảm nhẹ . Nhà thơ không nói ra “viếng” mà là ra “thăm” ,như con về thăm cha ,thăm nơi Bác nghỉ . Nỗi đau như cố dấu mà giọng thơ vẫn chan chứa ngậm ngùi. Hình ảnh đầu tiên gây ấn tượng đậm nét với tác giả là hình ảnh hàng tre trong sương sớm, trải dài, bát ngát một màu xanh, khiến cho lăng Bác trang nghiêm bỗng trở nên thân thuộc, gần gụi như xóm làng Việt Nam . Hình ảnh hàng tre “đứng thẳng hàng” trong “bão táp mưa sa” đã trở thành biểu tượng cho sức sống bền bỉ ,kiên cường ,không bao giờ chịu khuất phục của nhân dân Việt Nam . Hình ảnh đó như khúc dạo đầu mở ra một loạt những suy tưởng mênh mông, sâu lắng: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ . “Mặt trời trong lăng” là một ẩn dụ chỉ Bác Hồ , mặt trời thiên nhiên đem lại ánh sáng và sự sống .Còn mặt trời Bác cũng là ánh sáng soi đường đem lại cuộc sống hạnh phúc, ấm no .Mặt.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> trời Bác toả sáng, ấm áp, sóng đôi và trường tồn cùng mặt trời thiên nhiên là một sáng tạo riêng của tác giả .Cách nói vừa ca ngợi sự vĩ đại , bất tử của Bác vừa thể hiện sự tôn kính , ngưỡng mộ và lòng biết ơn vô hạn đối với Bác …Tất cả tình cảm đó dệt thành ý thơ tuyệt đẹp: Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân. Điệp ngữ “ngày ngày ”và hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ ”vừa gợi ấn tượng về cõi trường sinh vĩnh viễn vừa gợi tấm lòng nhân dân không nguôi nhớ Bác . Tình cảm đó kết thành tràng hoa đẹp dâng lên 79 mùa xuân của Bác kính yêu . Nhịp thơ chậm rãi , dàn trải ,cấu trúc câu và từ ngữ được lặp lại gợi liên tưởng đến những bước đi chầm chậm của dòng người vào lăng viếng Bác trong không khí thiêng liêng, thành kính và niềm cảm xúc thiết tha.. Đứng trước di hài Bác ,bao tình cảm ấp ủ bấy lâu bỗng trào dâng thổn thức : Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim . “Trời xanh” , “vầng trăng” là những hình ảnh kỳ vĩ của thiên nhiên gợi suy ngẫm về cái cao cả ,vĩ đại , bất diệt , trường tồn . Bác vẫn còn mãi với non sông, người đã hoá thân vào thiên nhiên , đất nước . Sự nghiệp của người là bất tử .Dù tin như vậy nhưng trái tim vẫn nhói đau khi nghĩ rằng Bác không còn nữa .Nỗi đau được biểu hiện cụ thể , trực tiếp “mà sao nghe nhói ở trong tim! ”.Đó là nỗi đau ,là niềm thương vô hạn của đứa con về muộn bên di hài người cha yêu kính . Cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến lúc phải chia tay .Lòng nhớ thương ,đau xót kìm nén đến gìơ vỡ oà thành nước mắt : Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này . Ước nguyện được hoá thân thành con chim ,đoá hoa ,cây tre để canh giữ ,điểm tô cho nơi vị lãnh tụ kính yêu yên nghỉ . Hình ảnh cây tre lặp lại cuối bài tạo ấn tượng đậm nét thể hiện lòng kínhyêu và lòng biết ơn vô hạn đối với Bác .Điệp ngữ “muốn làm” , cấu trúc câu được lặp lại tạo thành nốt nhạc dồn dập ,tha thiết diễn tả tình cảm ,khát vọng trào dâng mãnh liệt . Bài thơ tưởng khép lại trong sự xa cách về không gian nhưng lại tạo được sự gần gũi trong tình cảm ,ý chí .Như vậy bước chân ra đi nhưng tấm lòng của người con miền Nam thì ở lại .Tiếng lòng đó , ước nguyện đó không chỉ là của riêng tác giả mà đã trở thành tiếng lòng chung của nhiều người . “Viếng lăng Bác” là bài thơ giàu chất suy tưởng ,chất trữ tình đằm thắm với cách sử dụng nhiều luyến láy ngôn ngữ ,phong phú âm điệu khiến bài thơ mau chóng được đông đảo bạn đọc tiếp nhận .Chính vì vậy nó đã sớm được phổ nhạc và trở thành một bài ca sâu lắng ,giàu sức truyền cảm và quen thuộc với mỗi người Việt Nam . ĐỀ 8 :Suy nghĩ của em về nhân vật Lục Vân Tiên Trong đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” . 2082 câu lục bát của truyện thơ Lục Vân Tiên do nhà nho mù loà Nguyễn Đình Chiểu sáng tác có vị trí cao trong nền văn học Nam Bộ nói riêng và nền văn học dân tộc nói chung .Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga ”để lại nhiều ấn tượng đẹp bởi hình ảnh Lục Vân Tiên -người anh hùng chiến đấu vì nghiã, văn võ song toàn ..

<span class='text_page_counter'>(35)</span> Đoạn trích là một trong những đoạn thơ hay nhất của tác phẩm ,tiêu biểu cho bút pháp tự sư của Nguyễn Đình Chiểu .Nhân vật Lục Vân Tiên được khắc hoạ thành mẫu người anh hùng lý tưởng tuyệt đẹp :giàu lòng thương người, dũng cảm và nghiã hiệp . Bản tính anh hùng nghĩa hiệp là đức tính tốt đẹp nhất của Vân Tiên.Từ giã thầy chàng hăm hở xuống núi về kinh đô ứng thí .Trên lộ trình gian nan ấy chàng bất ngờ gặp cảnh dân dắt díu nhau chạy loạn,kêu khóc thảm thương ,chàng hứa : Tôi xin ra sức anh hào Cứu người cho khỏi lao đao buổi này . Căm giận lũ bất lương ,Vân Tiên sôi sục lên án hành động dã man của chúng. Chàng đứng về phía nhân dân ,phía người bị nạn, bẻ cây làm gậy xông thẳng vào bọn cướp Phong Lai hung dữ : Kêu rằng :Bớ đảng hung đồ Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân. Đạo lý thương người như thể thương thân, thấm nhuần và toả rạng trong hành động của Vân Tiên .Tình thương người đã nâng cao chí khí và lòng dũng cảm cho chàng thư sinh họ Lục .Bọn cướp đông đặc ,gươm giáo sáng ngời ,bừng bừng sát khí .Còn Vân Tiên chỉ có một vũ khí thô sơ “cây gậy bên đàng ”.Thế mà trong cuộc chiến không cân sức ấy : Vân Tiên tả đột hữu xông Khác nào Triệu Tử mở vòng Đương Dương . Không tả tỉ mỉ trận chiến ,chỉ bằng mấy dòng thơ ngắn gọn mà đặc sắc cùng nghệ thuật so sánh, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh một dũng tướng đánh nhanh,kín võ, sánh ngang Triệụ Tử Long thời Tam Quốc trong trận phá vây quân Tào bảo vệ ấu chúa .Việc làm của Vân Tiên cao đẹp hơn bởi nó xuất phát từ lòng nhân từ ,từ tư tưởng cứu dân diệt ác nên giản dị, vô tư mà trong sáng, cao đẹp vô cùng .Cuộc chiến của chàng giống hệt thuở xưa Thạch Sanh diệt đại bàng cứu nàng công chúa. Sức mạnh của chàng là kết tinh sức mạnh của nhân dân ,của điều thiện nên nó vô địch : Lâu la bốn phía vỡ tan Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay Phong Lai trở chẳng kịp tay Bị Tiên một gậy thác rày thân vong . Lời thơ chân chất ,thô mộc song hồn thơ thì chan chứa dạt dào .Nó nêu bật một chân lý :kẻ bất nhân độc ác thì thảm bại,người anh hùng làm việc nghĩa sẽ chiến thắng . Tự nguyện dấn thân vào nguy hiểm ,chiến đấu hết mình, thắng lợi rực rỡ…Tất cả đều vì nhân nghĩa ,nên sau thắng lợi Vân Tiên không hề kiêu ngạo .Trái lại chàng thật khiêm nhường ,chính trực ,chân thành mà dung dị .Cuộc kỳ ngộ giữa người đẹp và trang anh hùng diễn ra thật cảm động .Nguyệt Nga tha thiết muốn mời chàng hiệp sĩ qua miền Hà Khê để nàng báo đức thù công, “ Vân Tiên nghe nói liền cười” –nụ cười đáng yêu đáng kính của một tâm hồn vô tư hào hiệp .Chàng cười bởi chàng quan niệm : Làm ơn há dễ trong người trả ơn Nay đà rõ đặng nguồn cơn Nào ai tính thiệt so hơn làm gì . Đúng là giọng nói, cách nói của chàng trai Nam Bộ –nôm na ,giản dị mà chất phác vô cùng .Đằng sau những lời giản dị ấy là ngọt ngào, thơm thảo một quan niệm nhân sinh ,một tấm lòng nhân ái, hào hiệp .Với chàng ,ơn nghĩa là việc thông thường của người sống có văn hoá ,đang theo đòi kinh sử ,hướng về nghĩa khí, lấy chữ nhân làm động cơ ,làm mục đích cho mọi hành động .Chàng hành động vì lòng nhân ,vì nghĩa lớn ,trừ kẻ ác, bảo vệ người lương thiện .Chàng quan niệm : Nhớ câu kiến ngãi bất vi.

<span class='text_page_counter'>(36)</span> Làm người thế ấy cũng phi anh hùng . Lời nói chắc nịch vừa để đối chứng, phê phán những kẻ tầm thường vừa đẻ khẳng định việc làm đúng đắn ,tất yếu thuộc căn cốt, gốc rễ trong lẽ sống của mình.Đó là lẽ sống của những hiền nhân quân tử thời xưa ,của con người chân chính ngày nay .Lời nói và nhân cách của chàng giống người anh hùng Từ Hải trong “Truyện Kiều” với quan niệm: Anh hùng tiếng đã gọi rằng Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha . (Nguyễn Du ) Dưới ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu ,nhân vật Lục Vân Tiên mang cốt cách của tráng sỹ thời loạn ,coi cái chết nhẹ tựa lông hồng ,trọng nghĩa khinh tài, sống và hành động theo phương châm : “Lộ kiến bất bình, bạt đao tương trợ ”.Dẫu còn bị ảnh hưởng bởi quan niệm phong kiến “nam nữ thụ thụ bất thân ” song ngôn ngữ ,cử chỉ ,hành động của chàng rất đẹp ,rất anh hùng .Lòng thương người ,chí quả cảm và tinh thần vị nghĩa của chàng đậm màu sắc đạo lý của dân tộc ta . Bằng giọng thơ phóng khoáng, chân mộc và ngôn từ bình dị , đoạn trích đã hoàn thiện một cách xuất sắc hình ảnh chàng Lục Vân Tiên anh hùng, nghĩa hiệp. Đọc thơ càng thêm trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của nhà nho yêu nước ,yêu đạo lý mà người dân Nam Bộ vẫn trìu mến gọi là Đồ Chiểu . ĐỀ 9 :Suy nghĩ của em về tình đồng chí đồng đội trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu . “Đồng chí” của Chính Hữu được sáng tác năm 1948 trong lúc cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc đang diễn ra rất quyết liệt.Bài thơ giúp người đọc hiểu hơn về hình ảnh anh bộ độ đội Cụ Hồ và tình đồng chí,đồng đội gắn bó keo sơn của họ . Bài thơ mở đầu bằng những lời tâm tình của hai người bạn ,những câu thơ mộc mạc ,tự nhiên , mặn mà như một lời thăm hỏi quê quán cửa nhà: Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá . Hai dòng thơ đủ giới thiệu với người đọc về hoàn cảnh xuất thân của hai người lính.Người thì ở vùng đồng bằng chiêm trũng “nước mặn đồng chua”,người ở vùng trung du bạc màu “đất cày lên sỏi đá”.Như vậy cả “quê anh” và “làng tôi” đều là những miền quê lam lũ,vất vả,đói nghèo.Từ những phương trời xa lạ,họ“chẳng hẹn” mà “quen nhau” bởi họ có cùng chung mục đích đánh đuổi thực dân Pháp giải phóng quê hương .Vào bộ đội họ kề vai sát cánh bên nhau ,cùng chia sẻ với nhau những gian lao thiếu thốn của cuộc đời quân ngũ : Súng bên súng, đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ . Cùng là những người nông dân nghèo mặc áo lính ,chung lý tưởng đánh đuổi thực dân Pháp giải phóng quê hương . Họ vào bộ đội , chung nhiệm vụ ,chung một chiến hào,cùng đắp chung một tấm chăn khi trời giá lạnh.Điều kỳ lạ là khi chiếc chăn chung đắp lại đó là lúc dòng tâm sự mở ra .Có lẽ vì vậy mà họ hiểu nhau, thân nhau và trở thành tri kỉ.Lúc đó “Đồng chí ”mới vang lên ,như tình yêu thương được hình thành từ thử thách và gian khó ,bị dồn nén tận đáy lòng đến giờ bật dậy, đủ sức đứng riêng thành một câu thơ.Nhịp thơ thắt lại,chắc khoẻ ,mộc mạc ,giản dị mà thiêng liêng,cảm động.Ta chợt nhận ra ,lấp lánh đằng sau những câu thơ nói về gió, về rét, lặng lẽ cháy một ngọn lửa ấm nồng tình đồng đội … Và như vậy “đồng chí” vừa là cao trào cảm xúc được dồn tụ trong sáu câu thơ trước ,vừa mở ra những gì chứa đựng ở suy nghĩ tiếp sau : Ruộng nương anh gửi bạn thân cày.

<span class='text_page_counter'>(37)</span> Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. Đi dọc bài thơ là sự sóng đôi của hai hình tượng “anh” và “tôi”.Tình tri kỉ, tình đồng chí đựơc bắc qua sự sóng đôi có ý nghĩa bổ sung ấy .Vì vậy đến đây, khi tác giả chỉ nói một cảnh ngộ ,người đọc vẫn có ấn tượng chung cho cả hai.Mấy câu thơ nói về gia cảnh của người này hoá ra lại diễn đạt sâu sắc tình yêu thương lặng lẽ của người kia .Là nông dân ,với họ ruộng đất quí hơn vàng , vào bộ đội ,họ để lại đằng sau xóm làng ,đất đai,nhà cửa.“Mặc kệ ”đấy mà sao lưu luyến thế ,đến cả giếng nước gốc đa cũng chợt có hồn,biết nhớ ,biết thương người nơi tiền tuyến . “Giếng nước gốc đa” hay chính là đôi mắt hẹn ngày về của người bạn gái, làm ấm lòng người lính phương xa ?Tất cả đều có thể ,bởi một chút nhung nhớ ấy cùng với ngôi nhà ,ruộng nương và xóm làng thân thuộc là động lực để vì nó mà anh chấp nhận bao nhiêu gian khổ : Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi . Áo anh rách vai , Quần tôi có vài mảnh vá , Miệng cười buốt giá , Chân không giày . Không một chút tô vẽ điểm trang ,Chính Hữu tái hiện cuộc sống thiểu thốn của cuộc đời quân ngũ bằng những chi tiết thành thực đến thương lòng : áo rách,quần vá,chân không giày, sao chống nổi những cơn sốt rét giữa rừng sâu ?! Trong hoàn cảnh ấy, người lính sẻ chia cho nhau tình yêu thương ở mức tột cùng “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay ”. Một câu thơ thôi song nói được bao điều. Bàn tay tìm đến nhau như san sẻ cho nhau ,truyền cho nhau hơi ấm ,niềm tin và sức mạnh . “Anh - tôi ”nhoà đi sau "miệng cười buốt giá" để niềm tin , niềm lạc quan ,sự bất chấp khó khăn gian khổ của người lính hiện lên .Chính Hữu đã rất tinh khi phát hiện ra nội lực tinh thần ẩn sâu trong trái tim người lính .Chính nó đã góp phần tạo nên chiều sâu cho tình đồng chí thầm lặng nhưng rất đỗi thiêng liêng này . Những câu thơ cuối bài hoàn thiện một cách xuất sắc chân dung người lính mộc mạc mà khoẻ khoắn, can trường : Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo. “Rừng hoang sương muối”. Lại là cái giá ,cái rét run người của thiên nhiên khắc nghiệt ,song thiên nhiên không thể nào can thiệp tới ý chí và tình cảm của người chiến sĩ .Bởi các anh đứng cạnh bên nhau, chở che, nương tựa vào nhau trong tư thế chủ động chờ giặc tới .Và hình ảnh thơ cuối cùng mới đẹp làm sao!ở một góc nhìn nghiêng,vầng trăng như treo trên đầu nòng súng giơ cao của người chiến sĩ . Hình ảnh súng và trăng trở thành biểu tượng cho sự kết hợp hài hoà giữa thực và mộng,giữa chất chiến đấu và chất trữ tình ,giữa tâm hồn chiến sĩ và tâm hồn thi sĩ. Giữa rừng đêm hoang lạnh ,hình ảnh ấy tạc vào đêm tạo thành bức tượng đài chiến sĩ vững vàng mà thơ mộng . Bài thơ dừng lại khi đã hoàn thiện trong tâm khảm bạn đọc hình ảnh những người nông dân mặc áo lính chân thật mà ấm nồng tình đồng đội .Bởi thế bài thơ không chỉ là tác phẩm xuất sắc của Chính Hữu mà còn là thi phẩm xuất sắc nhất về người lính Cụ Hồ của thơ ca kháng chiến chống Pháp . ĐỀ 10:Suy nghĩ của em về hình ảnh những chiến sĩ lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính ”của Phạm Tiến Duật..

<span class='text_page_counter'>(38)</span> Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta là một bản anh hùng ca bất diệt .Trong những tháng năm sục sôi khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” ấy nhân dân Miền Bắc đã không tiếc sức người ,sức của chi viện cho Miền Nam ruột thịt. Trong những đoàn quân điệp trùng nối nhau ra trận có chàng trai trẻ Phạm Tiến Duật .Anh được tôi luyện và trưởng thành trong chiến tranh và trở thành nhà thơ chiến sỹ .Thơ anh không cuốn hút người đọc bằng ngôn từ mượt mà, âm điệu du dương mà nó khiến người đọc say bằng chính sự tự nhiên,sống động,gân guốc,độc đáo và đậm chất lính tráng.“Bài thơ về tiểu đôi xe không kính” là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ đó . Xuyên suốt bài thơ là hai hình ảnh trung tâm:những chiếc xe và những người chiến sĩ lái xe.Những chiếc xe không kính và nguyên nhân của nó được giới thiệu bằng lời thơ tự nhiên ,mộc mạc như một lời phân bua mà có lẽ trước tác giả chưa ai khám phá ra chất thơ bộc lộ ngay trong vẻ tự nhiên của ngôn từ : Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi . Cách lý giải đơn giản ,ngộ nghĩnh tạo thú vị cho người đọc .Cảm hứng thơ bắt đầu từ hiện thực ác liệt nơi chiến trường với “bom giật, bom rung ”giúp ta hình dung sự tàn phá của đạn bom trên những nẻo Trường Sơn năm ấy vô cùng dữ dội. Song thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là cơ sở để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp và sức mạnh tinh thần lớn lao của họ : Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất ,nhìn trời ,nhìn thẳng. Trên những chiếc xe không kính ,dưới làn bom đạn của kẻ thù, an toàn của các anh khó mà bảo đảm .Vậy mà thái độ của các anh bình thản tự tin đến không ngờ.Trong tư thế ung dung ,trong cái nhìn bao quát cả đất trời còn có cả niềm kiêu hãnh của người làm chủ hoàn cảnh ,tự hào ngắm nhìn đón nhận thiên nhiên.Nhịp thơ cân xứng,ý thơ trôi chảy ,lời thơ nhẹ nhàng như diễn tả hình ảnh những đoàn xe lăn bánh trên những nẻo đường ra trận .Cái vất vả ,gian khổ hiểm nguy được miêu tả bằng những hình ảnh giản dị trung thực đến từng chi tiết: Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa, như ùa vào buồng lái . Xe không kính ,gió lùa mạnh vào cabin,người lái xe không chỉ cảm thấy mà còn nhìn thấy “gió vào xoa mắt đắng ”. Cử chỉ quá đỗi trìu mến,dịu dàng và thân thiện ấy của gió làm đắng những đôi mắt cay xè vì thiếu ngủ .Và hơn thế nữa ,nắng mưa gió bụi của Trường Sơn đã trở thành những bạn đồng hành : Không có kính ừ thì có bụi Bụi phun tóc trắng như người già . …Không có kính ừ thì ướt áo Mưa phun mưa xối như ngoài trời . Điệp từ “ừ thì” , “chưa cần” ,hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc ”,giọng “cười haha” hào sảng làm tôn lên chất bình dị mà anh hùng của những chàng trai trẻ biết biến cái vất vả gian nan thành phút giây thư giãn thoải mái .Qua đó làm sáng lên tinh thần cứng cỏi đầy nghị lực và bất chấp gian khó của những người biết vượt lên hoàn cảnh để làm chủ hoàn cảnh .Có lẽ ai đã từng đến Trường sơn mới thấu hết cái gian nan của người cầm lái.Đường Trường Sơn gập ghềnh,mưa Trường Sơn như trút nước,mùa khô xe chạy bụi mù trời.Bom đạn của quân thù không làm các anh chùn bước thì gió, bụi,mưa sa của thiên nhiên khắc nghiệt nào có đáng kể chi.Trên những chiếc xe không kính ,tâm trạng người chiến sĩ lái xe vẫn phơi phới thênh thang:.

<span class='text_page_counter'>(39)</span> Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi . Lạ lùng thay ,như một khám phá bất chợt của nhà thơ ,sự hiểm nguy của những chiếc xe không kính lại trở thành sự tiện lợi bất ngờ khi các chàng lính gặp nhau , bởi họ có thể không cần phải xuống xe mà vẫn có thể bắt tay nhau thể hiện tình thân ái. Công việc vất vả, hiểm nguy nhưng phút nghỉ ngơi của những người lính lại vô cùng giản dị : Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy . Cuộc sống dẫu giản dị, xuềnh xoàng nhưng ấm áp tình cảm .Những người lính không chỉ là đồng chí ,đồng đội của nhau mà họ còn là những người cùng trong một gia đình . Bởi vậy sau những phút nghỉ ngơi ngắn ngủi họ lại tiếp tục công việc của mình với niềm tin mãnh liệt vào ngày mai chiến thắng . Chỉ có điều càng gần đến phương Nam những chiếc xe ngày càng hư hỏng : Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước . Khi tứ xe “không kính” được gói lại thì những con số không khác lại mở ra : “không đèn”,“không mui”,chỉ một thứ duy nhất có thêm nhưng lại là “có xước”.Như vậy cả “không có” và “có ”đều là tổn thất ,đều là hư hại.Điệp ngữ “không có” được nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần những thử thách khốc liệt của chiến tranh , hoàn thiện dung mạo trụi trần đến kinh ngạc của chiếc xe vận tải. Vượt dãy Trường Sơn ,đi qua đạn bom khói lửa của kẻ thù ,mang trên mình đầy thương tích những chiếc xe như một dũng sĩ kiên cường . Kì lạ thay : Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim. “Trái tim” là một hoán dụ chỉ người chiến sĩ lái xe yêu nước căm thù giặc sống trẻ trung ,sôi nổi và lạc quan tin tưởng vào thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến .Câu thơ khép lại nhưng con mắt thơ thì mở ra .Ta chợt nhận ra người chiến sỹ lái xe là một phần không thể thiếu ,là con mắt ,là bộ não ,là linh hồn của xe .Có trái tim chiếc xe thành một cơ thể sống ,thành một khối thống nhất với người chiến sĩ .Ta hiểu vì sao cả đoàn xe có thể vượt qua dãy Trường Sơn khói lửa bởi cội nguồn sức mạnh của nó kết tụ lại cả trong trái tim gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa yêu thương.Có lẽ vì thế mà nhiều người cho rằng đây là hình ảnh trái tim cầm lái . Đến với bài thơ ta thú vị nhận ra cái giọng rất trẻ,rất lính.Chất giọng ấy bắt nguồn từ sức trẻ ,từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính tác giả đã từng sống, từng trải nghiệm.Ngôn ngữ thơ giản dị đậm chất văn xuôi,hình ảnh thơ sáng tạo bất ngờ ,đặc biệt là sự linh hoạt của nhạc điệu trong thơ đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn sâu sắc của bài thơ trong lòng độc giả . ĐỀ 11 :Vẻ đẹp của Thuý Vân và Thuý Kiều Văn bản “Chị em Thuý Kiều ”trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một trong những đoạn thơ tả người hay nhất ,đẹp nhất không chỉ bởi ngôn ngữ thơ trong sáng mà còn bởi ở đó có hai chị em nhà họ Vương nhan sắc, tài năng đều hội tụ đủ đầy . Đọc truyện Kiều mấy ai không nhớ vẻ đẹp sắc nước hương trời của hai người con gái đầu lòng của ông bà Vương viên ngoại: Đầu lòng hai ả tố nga Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân. Mai cốt cách, tuyết tinh thần Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.

<span class='text_page_counter'>(40)</span> Chỉ bốn câu thơ thôi tác giả đã giới thiệu với chúng ta hình ảnh hai người con gái xinh đẹp, dáng hình mảnh dẻ, thanh tao như mai và tâm hồn trắng trong như tuyết .Vẻ đẹp của cả hai đều đạt đến mức “mười phân vẹn mười ”nhưng nét bút của Nguyễn Du vẫn muốn đậm nhạt “mỗi người một vẻ” . Đến với người đọc trước hết là vẻ yêu kiều của Thuý Vân : Vân xem trang trọng khác vời Khuân trăng đầy đặn, nét ngài nở nang Hoa cười, ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da . Vân mới đẹp làm sao! Con người nàng toát lên vẻ trang trọng khác vời ,từng đường nét dường như đều là một kỳ công của tạo hoá :gương mặt tròn đầy ,tươi sáng như ánh trăng ,đôi mày dài thanh thoát,miệng cười tươi thắm như hoa ,tiếng nói trong như ngọc ,mái tóc mềm hơn mây ,làn da trắng mịn màng hơn tuyết …Cô gái ấy đã đẹp người lại ý nhị, đoan trang . Mỗi câu thơ thực sự là một nét vẽ tài hoa về bức chân dung giai nhân .Vẻ đẹp của nàng sánh ngang sự sáng trong của trăng,hoa,ngọc, vàng, mây,tuyết -những báu vật tinh khôi trong trẻo của đất trời. Dường như phải tả như thế mới nói hết vẻ yêu kiều của một giai nhân.Vẻ đẹp của Thuý Vân đươc thiên nhiên ưu ái nhường nhịn nên có lẽ cuộc đời sẽ phẳng lặng ấm êm. Đẹp như Thuý Vân tưởng đã là tuyệt thế ,nhưng không : Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn . Kiều đến với người đọc bằng ấn tượng đầu tiên : “sắc sảo mặn mà” .Các từ mang ý nghĩa so sánh:“càng”, “so bề”,“phần hơn”cho thấy nàng không chỉ có vẻ đẹp như Thuý Vân mà nàng còn đẹp hơn thế nữa.Cái “sắc sảo mặn mà” của người con gái đang độ trăng tròn được Nguyễn Du phác hoạ bằng vài nét chấm phá: Làn thu thuỷ nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh . Một hai nghiêng nước nghiêng thành Sắc đành đòi một ,tài đành hoạ hai . Không chi tiết như khi tả Thuý Vân ,tả Kiều tác giả chỉ tập trung đặc tả đôi mắt.Đôi mắt đẹp như làn nước mùa thu được điểm tô bằng đôi mày thanh nhẹ ,tươi tắn như dáng núi mùa xuân.Phải chăng khi miêu tả đôi mắt của Thuý Kiều Nguyễn Du muốn người đọc hiểu rằng : đằng sau đôi mắt trong veo ấy là một tâm hồn đa cảm ?Có thể là như thế .Chỉ biết rằng nàng đẹp lắm ,đẹp đến mức hoa phải ghen, liều phải hờn .Phép nhân hoá tài tình khiến người chợt liên tưởng :phải chăng hoa ghen với nàng bởi kém nàng hương sắc ,liễu hờn với nàng bởi kém nàng sự mềm mại thướt tha ?Không bằng những nét vẽ chi tiết ,chỉ vẫn là bút pháp ước lệ tượng trưng nhưng Kiều đã thật sự hiện ra trước mắt người đọc với đầy đủ vẻ đẹp lộng lẫy của một trang quốc sắc thiên hương .Vài cái nhìn của nàng đủ khiến cho thành xiêu nước đổ . Buồn thay, chính vẻ đẹp sắc sảo mặn mà khiến thiên nhiên cũng phải hờn ghen, đố kỵ ấy đã dự báo trước một cuộc đời đầy sóng gió sẽ ập đến với nàng . Không chỉ có nhan sắc tuyệt đỉnh,Thuý Kiều còn là người con gái thông minh, đa tài : Thông minh vốn sẵn tính trời Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm. Ở nàng hội tụ đầy đủ tài thi- ca -nhạc- hoạ.Đỉnh cao của khiếu âm nhạc ở nàng là tài soạn nhạc với cung đàn“bạc mệnh ”mang âm điệu não nùng.Dường như số phận đã nhập vào điệu hồn riêng của nàng để hoá thân thành bản đàn bạc mệnh. Thuyết “tài mệnh tương đố” cũng mách bảo người nghe về một tương lai dâu bể sẽ xô cuốn đời nàng .Tất cả tài năng của Kiều đều ở mức tuyệt đỉnh ,tuyệt đỉnh như chính nhan sắc mà tạo hoá đã kỳ công ban cho nàng, mà“hồng nhan đa truân”,”chữ tài liền với chữ tai một vần ”.Triết lý đó đã được người học trò.

<span class='text_page_counter'>(41)</span> xuất sắc của đạo Khổng vận dụng để dự đoán trước cuộc đời của người con gái sắc nước hương trời ấy. Dẫu vẫn sử dụng bút pháp miêu tả ước lệ tương trưng của văn thơ cổ song với tâm hồn mẫn cảm tài hoa,với cách sử dụng ngôn từ chắt lọc,chau chuốt,Nguyễn Du đã khắc hoạ thật sinh động hai bức chân dung Thuý Vân và Thuý Kiều,mỗi người một vẻ đẹp riêng, toát lên từng tính cách số phận riêng,không lẫn vào nhau và càng không dễ phai nhoà trong tâm hồn người đọc . Với một tấm nhân đạo ,một quan điểm thẩm mỹ và triết lý vì con người ,ở đoạn trích này Nguyễn Du đã thực sự tạo nên một viên ngọc bằng ngôn ngữ đẹp nhất ,lấp lánh nhất và cũng ý nghĩa nhất .Đúng như nhận định :“Với bút pháp tinh diệu, Nguyễn Du không những tạo nên được hai bức chân dung mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười mà dường như còn nói lên được cả tính cách ,thân phận …toát ra từ diện mạo của mỗi vẻ đẹp riêng ” (Hoài Thanh ). ĐỀ 12: Phân tích 4 câu thơ miêu tả Thuý Vân Trải qua bao năm tháng “Truyền Kiều” của Nguyễn Du vẫn lu dấu trong tâm khảm bạn đọc không chỉ bởi ngôn ngữ trong sáng ,các biện pháp tu từ điêu luyện mà còn bởi tác phẩm có những câu thơ hay nhất,đẹp nhất,tiêu biểu cho bút pháp tả người của tác giả: Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da. (Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”) Bốn câu thơ-28 chữ mà giống như 28 viên ngọc bằng ngôn ngữ toả sáng lấp lánh trong cả trang thơ.Vừa chiêm ngưỡng dáng hình mảnh dẻ thanh tao và tâm hồn trắng trong như tuyết của hai người con gái đầu lòng nhà ông bà Vương viên ngoại, người đọc chợt sững sờ trước bức chân dung giai nhân được hé lộ bằng những đường nét đầu tiên: Vân xem trang trọng khác vời Dòng thơ giới thiệu khái quát đủ để người đọc cảm nhận vẻ đẹp cao sang, quí phái của Thuý Vân,để rồi liền sau đó,như một nhà nhiếp ảnh tài ba,Nguyễn Du hướng ống kính của mình vào từng đường nét cụ thể trên gương mặt của người con gái: Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang. Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. Mỗi câu thơ là một nét vẽ tài hoa về bức chân dung giai nhân, từng đường nét dường như đều là một kì công của tạo hoá,gương mặt tròn đầy,tươi sáng dịu hiền như ánh trăng,đôi mày dài thanh thoát,miệng cười tươi thắm như hoa,tiếng nói trong như ngọc,mái tóc đen,mềm,óng ả hơn mây,làn da trắng mịn màng hơn tuyết…Tả về nàng, Nguyễn Du phải tìm đến hoa,lá,ngọc,vàng,mây,tuyết-những báu vật tinh khôi trong trẻo của đất trời mới lột tả hết vẻ yêu kiều của người con gái ấy. Vẫn là bút pháp ước lệ với những hình tượng quen thuộc nhưng khi tả Vân ngòi bút Nguyễn Du lại có chiều hướng cụ thể hơn lúc tả Kiều.Cụ thể trong thủ pháp liệt kê:khuôn mặt,đôi mày,làn da,mái tóc…Cụ thể trong việc sử dụng từ ngữ để làm nổi bật vẻ đẹp riêng của đối tượng:“đoan trang”,“nở nang”,“đầy đặn”.Những biện pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ,nhân hoá đều nhằm thể hiện vẻ đẹp trung thực, phúc hậu mà quí phái của người thiếu nữ.Điều kì diệu ở đoạn thơ này là Nguyễn Du đã miêu tả chân dung Thuý Vân là chân dung mang tính cách,số phận.Vẻ đẹp của nàng hoà hợp,êm đềm với xung quanh,được thiên nhiên yêu thương,nhường nhịn:“mây thua”;“tuyết nhường”nên nàng sẽ có một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ, êm ấm và một tương lai tươi sáng đón chờ..

<span class='text_page_counter'>(42)</span> Đoạn thơ khép lại sau khi đã hoàn thiện trong tâm khảm bạn đọc hình ảnh một nàng Thuý Vân sắc nước hương trời bằng ngôn ngữ thơ tinh luyện, những nét vẽ có thần,hàm xúc, gợi cảm,các biện pháp tu từ được vận dụng tài tình.Hàm ẩn đằng sau bức chân dung mĩ nhân là cả một tấm lòng quí mến trân trọng,ngợi ca con người mà đặc biệt là người phụ nữ của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Đọc đoạn thơ,tìm hiểu kĩ về đoạn thơ, càng kính phục Nguyễn Du em càng trân trọng sự tinh tế trong ngôn ngữ Tiếng Việt.Bất giác em mong muốn được thay vài chữ trong câu thơ lúc sinh thời của đại thi hào dân tộc để diễn tả những suy nghĩ của mình: “Nhiều trăm năm lẻ về sau nữa Thiên hạ mãi còn nhớ Tố Như” ĐỀ 13 :Suy nghĩ về nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”của Nguyễn Dữ . Trong văn học Việt Nam đã có không ít tác phẩm mang tên gọi truyền kỳ hoặc có tính chất truyền kỳ song được tôn vinh là “ thiên cổ kỳ bút” thì cho đến nay chỉ có một “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ .“Chuyện người con gái Nam Xương” được rút trong tập những câu chuyện kỳ lạ đó .Nhân vật chính của tác phẩm là Vũ Nương đã để lại trong lòng người đọc niềm cảm thương sâu sắc. Tác phẩm là tiếng nói đồng cảm,trân trọng,ngợi ca của tác giả đối với con người đặc biệt là người phụ nữ.Toàn bộ câu chuyện xoay quanh cuộc đời và số phận bi thảm của người con gái xinh đẹp,nết na tên là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương.Phải nói rằng Nguyễn Dữ không có ý định cho Vũ Nương mang đức tính của một phụ nữ yêu nước hay một mỹ nhân nơi gác tía lầu son .Vũ Nương là người phụ nữ bình dân vốn con kẻ khó có một khát khao bao trùm cả cuộc đời-Đó là thú vui nghi gia nghi thất.Nàng mang đầy đủ vẻ đẹp của một người phụ nữ lý tưởng “tính đã thuỳ mỵ nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp ”.Càng đi sâu vào câu chuyện ta càng thấy vẻ đẹp của nàng được tác giả tập trung thể hiện rõ nét.Trong những ngày đoàn viên ít ỏi,dù Trương Sinh con nhà hào phú tính vốn đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá sức nhưng nàng khéo léo cư xử, giữ gìn khuân phép nên gia đình không khi nào phải thất hoà.Khi tiễn chồng đi lính,mong ước lớn nhất của nàng không phải là công danh phú quí mà là khao khát ngày chồng về “mang theo hai chữ bình yên thế là đủ rồi”.Những ngày chồng đi xa, nàng thực sự là một người mẹ hiền,dâu thảo,chăm sóc thuốc thang tận tình khi mẹ chồng đau yếu,ma chay tế lễ chu tất khi mẹ chồng qua đời.Nguyễn Dữ đã đặt những lời ca ngợi đẹp đẽ nhất về Vũ Nương vào miệng của chính mẹ chồng nàng khiến nó trở nên vô cùng ý nghĩa “sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức ,giống dòng tươi tốt con cháu đông đàn,xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.Người thiếu phụ tận tuỵ ,hiếu nghiã ấy còn là một người vợ thuỷ chung đối với chồng .Trong suốt ba năm chồng đi chinh chiến,người thiếu phụ trẻ trung xinh đẹp đó một lòng một dạ chờ chồng,nuôi con:“cách biệt ba năm giữ gìn một tiết,tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng ,ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”.Dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ,Vũ Nương được mọi người yêu mến bằng tính tình,phẩm hạnh của nàng.Trong cái nhìn nâng niu trân trọng của ông,Vũ Nương là con người của gia đình,đức hạnh của nàng là đức hạnh của một người vợ hiền,dâu thảo,một người yêu mến cuộc sống gia đình và làm mọi việc để giữ gìn,vun vén cho hạnh phúc. Người phụ nữ dịu dàng ,hiếu nghĩa ,tận tuỵ và chung tình đó đáng ra phải được đền bù xứng đáng bằng một gia đình êm ấm, phúc lộc đề huề.Nhưng tai ác thay ,một ngày kia chồng nàng đi chinh chiến trở về,nghe lời con trẻ đinh ninh là vợ hư,mắng nhiếc,đánh đập và đuổi nàng đi bất chấp sự can ngăn của xóm giềng và lời than rớm máu của người vợ trẻ.Không có cơ hội để thanh minh,trái tim tan nát,tuyệt vọng bởi “bình rơi,trâm gãy,mây tạnh,mưa tan,sen rũ trong ao,liễu tàn trước gió ”.Đến bến Hoàng Giang,người thiếu phụ đau khổ nguyền rằng:“Kẻ.

<span class='text_page_counter'>(43)</span> bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu chồng con rẫy bỏ,điều đâu bay buộc tiếng chịu nhuốc nhơ,thần sông có linh xin ngài chứng giám,thiếp nếu đoan trang giữ tiết,trinh bạch gìn lòng,xuống nước xin làm ngọc Mỵ Nương,vào đất xin làm cỏ Ngu Mĩ…” Với nàng ,cái chết là hành động quyết liệt cuối cùng cần phải có để bảo toàn danh dự .Nhịp văn dồn dập ,lời văn thống thiết như cực tả nỗi niềm đồng cảm,xót thương của tác giả đối với người thiếu phụ chung tình mà bạc mệnh! Thương nàng ông sáng tạo ra một thế giới thần tiên êm đềm trong chốn làng mây cung nước để Vũ Nương được sống như một nàng tiên .Phải chăng đó cũng chính là dụng ý của tác giả:người tốt sẽ được được đền bù xứng đáng, ở hiền ắt sẽ gặp lành? Điều gì đã khiến người phụ nữ đẹp người,đẹp nết đó phải tìm đến cái chết bi thảm?Đó chính là do chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã làm cho gia đình phải li tán. Đó còn là lễ giáo phong kiến hà khắc với tư tưởng nam quyền độc đoán đã biến Trương Sinh thành một bạo chúa gia đình… Để ngàn đời trên bến Hoàng Giang, khắc khoải niềm thương và nỗi ám ảnh dai dẳng về một người thiếu phụ trẻ trung,xinh đẹp , hiếu nghĩa, chung tình mà bạc mệnh ! Câu chuyện về nàng Vũ Nương khép lại nhưng dư âm về sự bất bình, căm ghét xã hội phong kiến bất lương, vô nhân đạo thì còn mãi.Có lẽ vì thế mà em càng yêu mến, trân trọng xã hội tốt đẹp mà em đang sống hôm nay. ĐỀ 14 : Suy nghĩ của em về bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận . Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới .Sau cách mạng ông nhanh chóng hoà nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại và trường kì của dân tộc .Hoà bình lập lại ,từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống đang lên . Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”được sáng tác ở Hòn Gai năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế dài ngày . Bài thơ thực sư là một bài ca ca ngợi cuộc sống của những con người lao động mới . Với đôi mắt quan sát sắc sảo ,trí tưởng tượng phong phú ,trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện ,nhà thơ đã vẽ lên trước mắt chúng ta khung cảnh lao động hăng say trên biển .Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy những sắc màu huyền ảo ,cuốn hút vô cùng : Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm với gió khơi . Đoàn thyền đánh cá rời bến vào lúc hoàng hôn ,mặt trời như hòn lửa đỏ rực đang lặn dần vào lòng đại dương mênh mông , màn đêm buông xuống ,kết thúc một ngày .Biển kín đáo như một gian phòng lớn của thiên nhiên bởi cách nói thật riêng biệt “sóng đã cài then đêm sập cửa”.Chính vào thời điểm ấy, ngư dân bắt tay vào công việc quen thuộc của mình : Ra khơi đánh cá !Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang, náo nức, thể hiện niềm vui to lớn của người lao động được giải phóng , tiếng hát hoà cùng gió, thổi căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi .Lời hát ca ngợi sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm : Hát rằng cá bạc biển đông lặng Cá thu biển đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi! Sự say mê vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt bao nỗi nhọc nhằn vất vả trong việc đánh cá,đem lại niềm vui và sức mạnh cho ngư dân . Cảnh đánh cá trong đêm được nhà thơ miêu tả bằng cảm hứng trữ tình mãnh liệt . Tác giả như nhập thân vào thiên nhiên , công việc ,và con người : Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng.

<span class='text_page_counter'>(44)</span> Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng. Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ, khổng lồ hoà nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Con thuyền đó đang bay giữa không gian trong một đêm thuỷ tinh tuyệt đẹp.Những hình ảnh “lái gió”, “buồm trăng”, “ mây cao”, “ biển bằng ”phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn đậm chất hiện thực .Chuyến ra khơi đánh cá cũng giống như một trận đánh thật sự hào hùng .Cũng thăm dò ,cũng dàn đan thế trận và bủa vây bằng…lưới! Đã bao đời nay ,ngư dân có quan hệ chặt chẽ với biển cả .Họ thuộc biển như lòng bàn tay , bao loài cá họ thuộc tên ,thuộc dáng và thuộc cả thói quen của chúng : Cá nhụ cá chim cùng cá đé Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé Đêm thở sao lùa nước Hạ Long . Trên mặt biển đêm ,ánh trăng lung linh dát bạc ,cá quẫy đuôi sóng sánh trăng vàng ,tiếng “em” bật lên tự nhiên, trìu mến .Bài ca gọi cá vẫn tiếp tục ngân vang : lúc náo nức ,lúc lại thật tha thiết.Trăng thức cùng ngư dân ,trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền như gõ nhịp phụ hoạ cho tiếng hát ,trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy …Với ngư dân, biển cả bao la “như lòng mẹ”,bởi vậy thiên nhiên và con người thật hoà hợp,nhịp nhàng .Nhịp điệu công việc càng khẩn trương ,sôi nổi khi bóng đêm dần tàn ,ngày đang đến : Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng . Bao công lao vất vả đã được đền bù ,dáng người ngư dân đang choãi chân, nghiêng người dồn tất cả sức mạnh vào đôi tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao!Màu sắc phong phú ,lấp lánh vẩy bạc, đuôi vàng của bao loài cá càng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ .Nhịp điệu câu thơ “lưới xếp buồm lên đón nắng hồng ”chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi, phán ánh tâm trạng hài lòng của ngư dân trước những kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi. Khổ thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá: Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Vẫn là tiếng hát khoẻ khoắn của ngư dân dạn dày sông nước đang vươn lên làm chủ cuộc đời .Tiếng hát hoà trong gió ,thổi căng buồm đưa đoàn người ra khơi đêm trước nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến . Hình ảnh “đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” rất thực mà cũng rất hào hùng .Nó phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hoà cùng niềm vui to lớn của mọi người ,nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng .Đoàn thuyền đi trên biển ,giữa màu hồng rạng rỡ tinh khôi và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá khiến nhà thơ liên tưởng đến hàng ngàn những mặt trời nhỏ xíu đang toả rạng nềm vui .Đến đây bức tranh biển cả ngập tràn màu sắc tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình ,từng đường nét của cảnh, của người . “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng .Bài ca ấy dành cho biển hào phóng ,cho những con người cần cù, gan góc đang làm giàu cho đất nước .Cảm hứng trữ tình và nghệ thuật điêu luyện được tác giả sử dụng trong bài thơ đã cuốn hút người đọc thật sự.

<span class='text_page_counter'>(45)</span> .Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ ,với tất cả những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi tới tương lai tươi sáng . ĐỀ 15 :Suy nghĩ của em về bài thơ “ Ánh trăng ”của Nguyễn Duy. Không biết tự bao giờ trăng đã trở thành nàng thơ ,thành người bạn tri âm tri kỉ của biết bao tâm hồn thi sĩ .Với ánh sáng huyền diệu ,với chu kì tròn khuyết lạ lùng, trăng đã gợi cho các thi nhân cổ kim nhiều thi tứ .Trong miền thơ mênh mang ấy,“Ánh trăng ”của Nguyễn Duy như một lời tâm sự chân thành,đã neo lại trong tâm hồn người đọc những tâm trạng riêng,những suy ngẫm riêng giàu trăn trở . Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian. Cảm nghĩ trữ tình của tác giả men theo dòng tự sự này để bộc lộ .Trước hết là hình ảnh vầng trăng thiên nhiên gắn bó với tuổi thơ: Hồi nhỏ sống với đồng với sông rồi với bể Bằng cách gieo vần lưng và điệp từ “với” được nhắc đi nhắc lại gợi ra trước mắt người đọc một tuổi thơ đầy ắp những kỷ niệm êm đềm ,tuổi thơ được vui đùa, được hoà mình với thiên nhiên,sông,bể …Và khi đã trở thành người lính,trăng và người vẫn gắn bó bên nhau: hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỉ Vầng trăng đẹp đẽ ân tình ,gắn với những kỷ niệm thiếu thời và những tháng năm chinh chiến .Trăng là hình ảnh của thiên nhiên hồn nhiên tươi mát ,là trò chơi tuổi thơ ,là ước mơ trong sáng ,là ánh sáng ,là niềm vui bầu bạn của người lính . Con người khi ấy sống giản dị và hoà hợp với thiên nhiên trong lành : Trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa . Vậy mà, hoàn cảnh sống thay đổi ,hết chiến tranh , con người trở về thành phố, quen với cửa gương và ánh điện của cuộc sống hiện đại lúc nào cũng rực rỡ sáng loà ,vầng trăng tri kỉ ,vầng trăng tình nghiã của ngày xưa đã mau chóng trở thành quá khứ. Nếu ở khổ thơ đầu ta rung động trước một tình cảm gắn bó bền chặt thì đến đây người đọc lại sửng sốt , ngỡ ngàng: Vầng trăng đi qua ngõ như người dưng qua đường Vẫn là vầng trăng ngày xưa nhưng con người giờ đã khác xưa, quen với ánh sáng nhân tạo nên coi trăng hoàn toàn xa lạ. Một sự thay đổi đến phũ phàng,tê tái… Người lính đã quên những tình cảm chân thành ,những tháng năm gian khổ nhưng chan chứa ân tình thuở trước.Mặc dù vậy trăng vẫn không quên, vẫn đến với bạn xưa bằng tình cảm tràn đầy không hề sứt mẻ .Người lính chỉ nhận ra điều đó khi: Thình lình đèn điện tắt phòng buyn đinh tối om vội bật tung cửa sổ đột ngột vầng trăng tròn . Việc mất điện như một tình huống có vấn đề đột ngột xảy ra ,theo thói quen con người vì cần ánh sáng mà mở tung cửa sổ, lại nhìn thấy hình ảnh vầng trăng vẫn hiện diện trên bầu trời và toả sáng khắp căn phòng.Chính vầng trăng xuất hiện bất ngờ trong bối cảnh ấy đã gây ấn tượng mạnh ,thổi bùng nỗi nhớ về một thời quá khứ chưa xa : Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng.

<span class='text_page_counter'>(46)</span> như là đồng là bể như là sông là rừng . Phép nhân hoá tài tình khiến trăng và người đối diện đàm tâm là một cách viết lạ và sâu sắc của riêng Nguyễn Duy .Trong cuộc gặp mặt không lời ,người lính xưa xúc động“ rưng rưng” .Cảm xúc nghẹn ngào ,khoắc khoải như chỉ chực trào nước mắt.Sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng làm ùa dậy trong tâm trí nhà thơ bao kỷ niệm xưa : những kỷ niệm thiếu thời ,những tháng năm chinh chiến giữa thiên nhiên, đất nước bình dị , hiền hoà. Tất cả hiện hình trong nỗi nhớ ,trong cảm xúc thiết tha và cả trong tư thế lặng im thành kính của tác giả… Vào lúc đó ông đã nhận ra, trăng vẫn tròn đầy, tình nghĩa ,thuỷ chung và vị tha, cao thượng : Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình . ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình . Hình ảnh“ vầng trăng tròn vành vạnh” không chỉ thể hiện vẻ đẹp bình dị và vĩnh hằng của cuộc sống mà còn có ý nghĩa biểu tượng cho nghiã tình quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên, chẳng thể phai mờ .Trăng xuất hiện không một lời oán hờn trách cứ, nhưng đôi khi , im lặng lại là sự trừng phạt nghiêm khắc nhất .Không gian như chững lại,lặng yên trong cuộc gặp mặt không lời của hai người tri kỉ .Giây phút ấy tác giả nhận ra trăng chính là người bạn ,là nhân chứng đã chứng kiến trọn vẹn quá khứ nghĩa tình giờ lặng yên như nghiêm khắc nhắc nhở ta :con người có thể vô tình, có thể lãng quên ,nhưng thiên nhiên và nghiã tình quá khứ thì luôn luôn tròn đầy,luôn luôn bất diệt .Điều đó đã tạo nên cái “giật mình ” đầy ý nghĩa của tác giả: giật mình để nhớ lại,để tự vấn lương tâm ,để nhận ra và hoàn thiện chính mình… Giọng điệu tâm tình ,nhịp thơ lúc trầm lắng suy tư, lúc lại nhịp nhàng,ngân nga, tha thiết đã góp phần làm nổi bật chủ đề ,tạo nên sự chân thành và sức truyền cảm sâu sắc của bài thơ . Từ một câu chuyện riêng ,tiếng thơ của Nguyễn Duy như một lời cảnh tỉnh, nhắc nhở thấm thía về thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”,“ân nghĩa thuỷ chung” cùng quá khứ.Có lẽ vì vậy mà đến với “ánh trăng”,người đọc nào cũng thấy lòng mình dường như lắng lại ?!. PHẦN IV VĂN PHÂN TÍCH Vieáng laêng Baùc ( Vieãn Phöông ). Trong chương trình ngữ văn trung học cơ sở , em được đọc và học một số bài thơ rất hay viết về Bác Hồ kính yêu của dân tộc . Nhưng có lẽ bài thơ gây cho em ấn tượng nhất ,.

<span class='text_page_counter'>(47)</span> xúc động nhất là bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương . Bài thơ viết về Bác , sau khi Bác đã đi xa . Bằng tình cảm thành kính và bao nhiêu năm mong mỏi nay bỗng bật dậy trào dâng và được thể hiện trong những vần thơ vô cùng sâu sắc . ( dẫn cả bài thơ ) Bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương thể hiện niềm xúc động , thiêng liêng thành kính , lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra viếng lăng Bác . Bài thơ gọn chỉ có 4 khổ , 16 dòng nhưng đã kết hợp giữa miêu tả và biểu hiện caûm xuùc taâm traïng . Mở đầu bài thơ tác giả viết : “ Con ở miền nam ra thăm lăng Bác Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát OÂâi haøng tre xanh xanh Vieät Nam Bãûo táp mưa sa đứng thẳng hàng . ” Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác ,câu thơ mở đầu ngắn gọn như một lời thông báo nhưng lại gợi ra rất nhiều điều : có thể nghĩ đó là tâm trạng xúc động của một người từ chiến trường miền Nam sau bao năm mong mỏi bây giờ mới được ra viếng Bác . Câu thơ vừa ấm áp tình người với cách xưng hô thân mật Con – Bác . bởi tất cả chúng ta đều là những người con của Bác . “ Người là Cha là Bác là Anh - Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ .” Nhà thơ đã tạo nên một không khí ấm áp, gần gũi , thân thiết . Hòa vào dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác , Viễn Phương có dịp quan sát khung cảnh xung quanh lăng Người . Hình ảnh đầu tiên mà tác giả thấy được và cũng là ấn tượng đậm nét về cảnh quan quanh lăng Bác là hàng tre . Cây tre từ bao đời là hình ảnh thân thuộc của đất nước Việt Nam . Nhắc đến tre ta lại nghỉ về đất nước , về dân tộc Việt Nam với bao đức tính cao quí . tre anh hùng trong chiến đấu , tre yêu thương giúp đỡ dân tộc , tre hi sinh cho thế hệ mai sau . và tre cũng rất kiên cường , bâùt khuất . Noøi tre ñaâu chòu moïc cong Chưa lên đã nhọn như chông lạ thừơng” Có thể nói cây tre Việt Nam là biểu tượng sức sống biền bỉ , kiên cường của dân tộc Việt Nam bão táp mưa sa đứng thẳng hàng . Mặc cho bão táp mưa sa tre vẫn thanh thản bình yên đúng đó thẳng hàng như những vệ binh đứng gác bảo vệ lăng Người . Theo đoàn người vào lăng viếng Bác nhà thơ đã cảm nhận được . “ Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ .” Mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là hình ảnh thực : mặt trời của đất , nguồn ánh sáng lớn nhất , rực rỡ nhất và vĩnh viễn trên thế gian . Mặt trời trong lăng rất đỏ là một hình ảnh ẩn dụ , nhà thơ muốn nói Bác Hồ chúng ta là mặt trời . Mặt trời đỏ chiếu sáng con đường chúng ta đang đi bằng sự nghiệp vĩ đại của người . Có phải chăng đây là niềm tôn kính của nhà thơ , cũng là của nhân dân đối với Bác , vừa là lời ca ngợi sự vĩ đại của Bác chuùng ta . Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Keát traøng hoa daâng baûy möôi chín muøa xuaân . Hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác được tác giả ví như những tràng hoa dâng lên Bác . Cách so sánh ngầm này vừa thích hợp vừa mới lạ , diễn tả được tình cảm thương nhớ , tôn kính của nhân dân đối với Bác ..

<span class='text_page_counter'>(48)</span> Baùc naèm trong giaác nguû bình yeân Giữa một vần trăng sáng diệu hiền . Hai caâu thô boäc loä caûm xuùc vaø suy nghó cuûa nhaø thô khi vaøo trong laêng thaêm Baùc . Baùc nằm trong lăng giấc ngủ bình yên giữa một vùng trăng sáng diệu hiền nhè nhẹ . Aùnh sáng ấy từ nơi Bác tỏa ra tưởng chừng như không khí thanh tĩnh ngưng kết cả thời gian và không gian ở bên trong lăng Người . Có thể nói bằng hình ảnh “ Vầng trăng sáng diệu hiền ” nhà thơ muốn tạo ra môït hình ảnh vũ trụ để ví với Bác . Người có lúc như mặt trời ấm áp , có lúc diäu hiền như ánh trăng rằm và cũng có lúc Bác là trời xanh yên ả . Hình ảnh ẩn dụ như đểû nói cái trường tồn vĩnh hằng không bao giờ mất của Bác . Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim . Những cái mênh mông bao la của vũ trụ được tác giả ví như cái bao la rộng lớn trong tình thương của Bác . Đó cũng là biểu hiện sự vĩ đại cao siêu của con người Bác . trong mỗi chúng ta ai cũng biết rằng Bác Hồ sống mãi với non sông đất nước . Sống mãi trong tâm trí nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn trên cao . Nhưng Viễn Phương vẫn không khỏi thấy nhói đau trong lòng khi đứng trước thi thể của Người “ Mà sao nghe nhói ở trong tim .” Nỗi đau như hàng ngàn mũi kim châm vào trái tim thổn thức của nhà thơ. Đây chính là sự rung động mãnh liệt chân thành của Viễn Phương . Mặ dù hiện tại nhà thơ đang đứng bên lăng Người , trong lăng Người nhưng khi nghĩ đến những ngày phải rời miền Bắc , ngày xa Bác Viễn Phương thấy bịn rịn không muốn rời . Tình cảm trong những ngày được sống bên Bác luôn luôn sâu lắng từng giây từng phút . Tác giả không thể nào ngăn được nữa những dòng nước mắt trào dâng và tha thiết . Mai về miền Nam thương trào nước mắt Câu thơ thật bình dị nhưng chứa chan tình thươngấp ủ sâu lắng tận đáy lòng làm cho mỗi chúng ta khi đọc lên cảm thấy vô cùng xúc động . Đây là một cách nói không hoa mỹ mà là một cách nói rất chân thành của người dân Nam Bộ nhưng lại lắng đọng trong lòng người không gì có thể nói và tả được . Cũng xuất phát từ tình cảm đó cho nên nhà thơ có ước nguyện thành kính và đây có thể là ước vọng chung của tất cả mọi người đã một lần hoặc chưa một lần gặp Bác . Muoán laøm con chim hoùt quanh laêng Baùc Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây Muoán laøm caây tre trung hieáu choán naøy . Điệp ngữ “ Muốn làm ” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong đoạn thơ thể hiện ước nguyện muốn tự nguyện tự giác của Viễn Phương . nhà thơ muốn làm con chim hót dâng tiếng hót vui . Muốn làm bông hoa dâng hương thơm và sắc đẹp . muốn làm cây tre trung hiếu canh giữ cho lăng Bác ngày đêm . Hình ảnh cây tre lại xuất hiệnở đoạn cuối bài thơ làm nhiệm vụ khép lại bài thơ một cách khéo léo , tạo cho người đọc một ấn tượng mạnh mẽ khó phai mờ Ước vọng của nhà thơ thể hiện tình cảm thành kính thiêng liêng của người con Nam Bộ đối với Bác Hồ . Ước muốn đó cũng là tình cảm của mỗi người dân Việt Nam đối với Bác Hồ . Những người đã về lăng Bác “ Kết tràng hoa dâng 79 mùa xuân ” và những ai chưa đến lăng nhưng lòng vẫõn thành tâm hướng về Bác ..

<span class='text_page_counter'>(49)</span> Viếng lăng Bác , bài thơ gây một xúc cảm đặc biệt , thành công trước hết phải nói là nhờ cảm xúc hết sức chân thành và sâu sắc của Viễn Phương . Xúc cảm đó được “ cộng hưởng ” bởi tình cảm thiêng liêng mà Bác dành cho nhân đân miền Nam và tình cảm thành kính , ngưỡng mộ mà toàn dân tộc Việt Nam dành cho Bác . Cảm ơn nhà thơ đã truyền cảm xúc của mình đến với người đọc . Chúng ta con cháu của Bác xin nguyện như nhà thơ Viễn Phương làm tiếng chim hót , làm bông hoa đẹp , làm cây tre trung hiếu và sẵn sàng làm muôn ngàn công việc tốt để kính dâng Người .. Sang thu ( Hữu Thỉnh ). Mùa thu thường là đề tài của các thi nhân Việt Nam. Bởi mùa thu là thời điểm giao cảm của tâm hồn con người với thiên nhiên tạo thành một truyền thống thi ca của mùa thu . Cũng viết về mùa thu nhưng mỗi nhà thơ viết về một thời điểm khác nhau . Nguyễn Khuyến viết “ Thu điếu ” vào thời điểm trong thu. Xuân Diệu viết “ Đây mùa thu tới ” ở thời điểm cuối thu . Còn nhà thơ Hữu Thỉnh viết “ Sang thu” ở thời điểm chớm thu . bài thơ là sự cảm nhận của nhà thơ về sự biến đổi của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu . Boãng nhaän ra höông oåi Phaû vaøo trong gioù se Söông chuøng chình qua ngoõ Hình như thu đã về Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu Vaãn coøn bao nhieâu naéng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi . Thật vậy , bài thơ sang thu tuy ngắn nhưng có nhiều hình ảnh đặc sắc , gợi cảm về thời điểm giao mùa từ hạ sang thu ở nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ . Mở đầu bài thơ tác giaû vieát : “ Boãng nhaän ra höông oåi Phaû vaøo trong gioù se Söông chuøng chình qua ngoõ Hình như thu đã về .” Ta thấy tác giả cảm nhận không gian làng quê sang thu thật bất ngờ . “ Bỗng nhận ra hương ổi ” , từ bỗng thể hiện sự đột ngột , bất ngờ nhưng cái bất ngờ mới nên thơ làm sao ! Bất ngờ nhận ra những dấu hiệu thiên nhiên khi mùa thu về . Đó là hương ổi thoang thoảng thơm trong gió thu se lạnh . Từ phả có thể thay bằng các từ thổi , đưa , bay ,lan , tan … Nhưng cả bấy nhiêu từ đều không có cái nghĩa đột ngột , bất ngờ . Mùa quả chín , mùa ổi đã trỡ thành nhan đề cho cả một bộ phim truyện nổi tiếng , giờ đây đã trở thành mùi höôngcuûa muøa thu mieàn Baéc Vieät Nam ..

<span class='text_page_counter'>(50)</span> Ta thấy nhà thơ Hữu Thỉnh sử dụng từ ngữ rất đắt ở hai câu thơ “ Söông chuøng chình qua ngoõ Hình n hư thu đã về ” . chùng chình là từ láy gợi hình , có thể thay bằng từ dềnh dàng , đủng đỉnh , chầm chậm , lững thững . .. Dùng chùng chình có cái hay riêng . tác giảđã nhân hóa làn sương . nó đi qua ngõ nhà có vẻ cố ý chậm hơn mọi ngày . Ta thấy có cái gì đó thật duyên dáng , thật yểu điệu của một làn sương , một hình bóng thiếu nữ , một người bạn â gái nào đó …Và tất cả chưa thật rõ ràng , hay vì quá đột ngột mà tác giả chưa nhận ra . Từ hình như thể hiện cái ngỡ ngàng , ngạc nhiên đó . Từ cảm nhận này ta có thể hiểu được tâm hồn nhạy cảm , yêu thiên nhiên , yêu thời tiết thu và cuộc sống nơi làng quê, cao hơn nữa đó là tình yêu daân toäc . Cùng với không gian làng quê sang thu , ta còn thấy tác giả cảm nhận không gian đất trời vào thu . Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu Đất trời sang thu được cảm nhận từ những hình ảnh quen thuộc , gần gũi : sông , cánh chim , đám mây. Sông có lúc dềnh dàng gợi lên một cảnh tượng cụ thể , dòng sông nước bắt đầu cạn , chảy chậâm lại , không cuồn cuộn , ào ạt như thời gian vào hạ . Từ dềnh dàng cũng như từ chùng chình ở trên làm cho con sông trở nên duyên dáng , gần người hơn. Lúc này chim cũng vội vã hơn vì sợ lạnh phải đi tránh rét ở những miền ấm áp . Đặc biệt nhất là đám mây mùa hạ – vắt nửa mình sang thu là một liên tưởng sáng tạo thú vị . Sự thật , không hề có đám mây nào như thế . Vì làm sao có sự phân biệt rạch ròi bằng mắt thường trên bầu trời . Đó là đám mây trong liên tưởng , tưởng tượng của tác giả . Nhưng chính cái hình ảnh mùa hạ nối với mùa thu bởi nửa đám mây lững lờ , cũng dềnh dàng , chùng chình , bảng lảng trên tầng không làm cho người đọc cảm nhận cả về không gian và thời gian chuyển mùa thật là đẹp , thật là khêu gợi hồn thơ . có thể nói hình ảnh giao mùa thể hiện duyên dáng và thần tình nhất trong bài thơ là ở hai câu thơ : Có đám mây mùa hạ - vắt nửa mình sang thu . ở đây, cái dềnh dàng , cái chùng chình của sương , của sông , cái nhè nhẹ của gió , cái thoang thoảng của hương được kết đọng trong cái vắt nửa mình ngập ngừng của đám mây trên bầu trời giao mùa . Hữu Thỉnh cũng đã có những câu thơ , đoạn thơ gần giống tứ thơ này nhưng không tài hoa , bất ngờ thú vị bằng . Ñi suoát caû ngaøy thu Vẫn chưa về tới ngõ Duøng daèng hoa quan hoï Nở tím bên sông Thương Nắng thu đang trải đầy Đã trăng non múi bưởi Bên cầu con nghé đợi Caû chieàu thu sang soâng . ( Chieàu soâng Thöông ).

<span class='text_page_counter'>(51)</span> Bài thơ sang thu của Hữu Thỉnh không những mang đậm chất dân gian làng quê dân dã , mang đậm hơi thở của ruộng đồng mà còn mang tính triết lí sâu sắc : Vaãn coøn bao nhieâu naéng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi Ta thấy thiên nhiên trong Sang thu còn được nhà thơ gợi ra bằng những hình ảnh độc đáo : nắng , mưa , sấm chớp , hàng cây … Nắng mưa lúc sang thu cũng không giống như hồi giữa hạ . Nắng nhạt dần chứ không còn chói chang , dữ dội , gay gắt . Mưa cũng ít đi , nhất là những trận mưa rào , mưa dông ầm ầm ào ạt . Bởi vậy sấm cũng bớt bất ngờ trên hàng cây đứng tuổi . Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi Hai câu thơ có hai tầng nghĩa : tả thực và ẩn dụ . sấm mùa hạ ít đi khi sang thu . bởi vậy hàng cây không còn bị giật mình , đột ngột . Nhưng đó còn là những âm vang ba động bất thường của ngoại cảnh , của cuộc đời . Và ở những con người từng trải , đứng tuổi thì tất nhiên sẽ vững vàng , trầm tĩnh hơn , càng không bị bất ngờ , giật mình trước những tác động của ngoại giới dù là những tiếng sấm đầu thu. Như vậy hai câu thơ không ø chỉ tả cảnh sang thu mà còn chất chứa suy nghiệm về con ngừơi và cuộc sống . Bài thơ sang thu của Hữu Thỉnh là khúc giao mùa nhẹ nhàng , thơ mộng , bâng khuâng mà cũng thầm thì triết lí , đã nối tiếp hành trình thơ thu dân tộc , góp một tiếng thơ đằm thắm về mùa thu quê hương , đem đến cho thế hệ trẻ tình yêu đất nước qua nét thu đẹp Vieät Nam.. Laøng (Kim Laân) Truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân được viết vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và được in trong báo văn nghệ năm 1948 . Truyện ca ngợi tình yêu làng thắm thiết thống nhất với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến ở nhân vật ông Hai , môït nông dân phải xa làng đi tản cư . qua đó ta cũng cảm nhận được tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong thời kháng chiến chống Pháp . Truyện Làng khai thác một tình cảm bao trùm và phổ biến trong con người thời kháng chiến . đó là tình cảm quê hương đất nước . Một tình cảm mang tính cộng đồng nhưng thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm tâm lí chung ấy trong sự thể hiện sinh động của một con người , trở thành một nét tâm lí sâu sắc ở nhân vật ông Hai .vì thế noù laø tình caûm chung maø laïi mang roõ maøu saéc rieâng caù nhaân , in roõ caù tính cuûa nhaân vaät . Cũng như những người nông dân khác thời kháng chiến , ông Hai rất yêu làng , mảnh đất ông đã sinh ra và lớn lên , nơi cất tiếng khóc chào đời đầu tiên của ông . Đó là làng Chợ Dầu bằng một thứ tình cảm khá đặc biệt . Ôâng say mê âkể về làng , luôn khoe làng mình , tự hào ở làng về nhiều mặt . Tình cảm ấy được bộc lộ tha thiết nhiệt thành khi ông phaûi xa laøng ñi taûn cö ..

<span class='text_page_counter'>(52)</span> Ôâng Hai nói chuyện về làng một cách say mê và náo nức lạ thường , hai con mắt ông sáng hẳn lên . Cái mặt biến chuyển hoạt động . Hơn thế nữa đây không phải là lần thứ nhaát noùi chuyeän veà laøng . toái naøo cuõng vaäy , laàn naøo cuõng nhö laàn naøo , phaàn noùi veà laøng cũng là phần để kết thúc câu chuyện . Thái độ của ông Hai với làng thể hiện gọn gàng trong một chữ khoe , tám chữ khoe . Những lời khoe của ông thật đa dạng , khi thì hảnh diện , khi thì mê man giảng giải , khi thì raønh roït , khi noùi lieân mieân . OÂng Hai khoe laøng oâng coù caùi phoøng thoâng tin tuyeân truyeàn saùng suûa roäng raõi nhaát vuøng , choøi phaùt thanh cao baèng ngoïn tre chieàu chieàu loa goïi cả làng đều nghe thấy . Ôâng khoe làng ông nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh . đường trong làng toàn lát đá xanh . Ông Hai còn khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông . Ôâng có vẻ hảnh diện cho làng được cái sinh phần đó lắm . Cái dinh cơ cụ Thượng làng tôi có lăm lắm là của . Vườn hoa cây cảnh nom như động ấy còn hơn cả cái lăng cụ Thiếu Hà Đông . Sau cách mạng ở ông Hai có những nhận thức mới hơn trong việc khoe về làng mình . Ôâng không khoe cái lăng ấy nữa mà còn biết chính cái lăng ấy nó làm khổ ông , làm khổ những con người của làng ông . Bây giờ nói đến làng ông khoe những ngày khởi nghĩa , những buổi tập quân sự , những hố những ụ , những giao thông hào của làng ông . Thậm chí có đôi lúc ông Hai ngậm ngùi kể lại cả những chuyện phiêu dạt và những chuyện đẩu chuyện đâu . Phải nói rằng những biểu hiện và tính khoe làng của ông Hai đó là tình yêu làng tha thiết . Yêu lắm về mảnh đất làng que ânên khoe nên nói cho đỡ nhớ làng , đỡ nhớ phong trào cách mạng ở làng mà ông đã từng tham gia phụ lão cứu quốc và tham gia đào hào đắp ụ. Một biểu hiện khác của ông Hai cũng xuất phát từ tình yêu làng chợ Dầu , ông không muốn bỏ làng ra đi vào lúc hữu sự . Ôâng luôn luôn có suy nghĩ :Mình sinh sống ở cái làng này từ tấm bé đến giờ , ông cha cụ kị mình xưa kia cũng sinh sống ở cái làng này đã từ bao nhiêu đời nay rồi . Bây giờ gặp phải cái lúc hữu sự như thế này là công việc chung chứ của riêng ai . Ôâng Hai bị hoàn cảnh dồn ép khổ sở lắm . Ông không trực tiếp kháng chiến ở laøng maø phaûi ñi taûn cö . Ñi taûn cö xa laøng oâng Hai khoâng ngaøy naøo , khoâng luùc naøo khoâng nghĩ về làng . Nỗi nhớ làng luôn luôn túc trực trong lòng ông . Mọi nỗi nhớ ấy đều tập trung ở những hoạt động kháng chiến ; hát hò , đào hào , khuân đá . Tình yêu làng quê của ông Hai đã phát triển , đã được bồi dưỡng thêm bằng tình cảm mới – tình kháng chiến . Ôâng Hai không chỉ là người ø dân làng chợ Dầu , ông còn là một chiến sĩ gắn bó với phong traøo khaùng chieán cuûa laøng . Nhà văn Kim Lân đã diễn tả một tình cảm , một nét tâm lí quen thuộc về truyền thống của người nông dân . tình cảm gắn bó với làng quê , tự hào về quê hương mình . Cái tâm lí tự hào đó cũng được ca dao thể hiện . Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương Nhớ ai dãi nắng dầm sương Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao. Cách mạng và kháng chiến đã khơi dậy ở người nông dân tình cảm yêu nước rộng lớn . Ở ông Hai tình cảm yêu làng là thống nhất với lòng yêu nước . Đúng như nhà văn Ili- aÊ ren bua có nói : … lòng yêu nhà , yêu làng xóm , yêu làng quê trở nên lòng yêu tổ quốc . Để mỗi người đọc chúng ta cảm nhận sâu sắc hơn tình cảm yêu làng yêu nước của.

<span class='text_page_counter'>(53)</span> ông Hai – người nông dân cách mạng . Tác giả đã đặt ông Hai vào một tình huống gay gắt . tình huống ấy là cái tin làng chợ Dầu theo giặc mà chính ông nghe được từ miệng những người tản cư qua làng ông . Một người luôn luôn khoe làng , tự hào về làng như ông Hai khi nghe tin đột ngột ấy không đau đớn sao được . ôâ ng Hai sững sờ Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại , da mặt tê rân rân . Oââng lão lặng đi tưởng như không thở được . Từ lúc ấy trong tâm trí ông Hai cái tin dữ ấy xâm chiếm , Nó thành một nỗi ám ảnh day dứt trong ông . Ra đường ông cuối gằm mặt xuống mà đi , về nhà nằm vật ra đường nước mắt trào ra . Bao nhiêu câu hỏi dày vò , rồi trằn trọc không ngủ được . Không chỉ có the ámà suốt mấy ngày hôm sau ông Hai không dám đi đâu chỉ quẩn quanh ở nhà nghe ngóng , rồi nơm nớp lo chuyện loang ra . Oâng Hai lo người ta đuổi người làng Việt gian thật là tiệt đường sinh sống . Mà ông cũng không thể về làng vì về là bỏ kháng chiến , bỏ cụ Hồ . Với ông làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù . Tấm lòng của ông , tình yêu làng yêu nước cuûa oâng chæ coù moät mình oâng hieåu chaúng bieát noùi cuøng ai . OÂâng ñem noãi loøng cuûa mình troø chuyện cùng thằng con út cho vơi bớt lòng ông : Nước mắt ông lão giàn ra chảy ròng ròng trên hai má , chết thì chết có bao giờ dám đơn sai . Đó có phải chăng là tấm lòng của ông Hai . Tình cảnh của ông Hai , diễn biến tâm trạng của ông khiến ta cảm động biết bao, đồng thời cũng cảm nhâïn được tấm lòng thủy chung với kháng chiến , với cách mạng mà biểu tượng là Bác Hồ . Nhưng có thể nói điều khiến ta xúc động hơn là tâm trạng của ông Hai khi nghe làng chợ Dầu được cải chính không theo giặc . Cái mặt buồn thiu mọi ngày bổng vui tươi hẳn lên ông gọi con ra chia quà . Ôâng múa tay múa chân lên mà khoe , xúc động nhất là ông Hai chẳng hề nghĩ tiếc hay buồn về ngôi nhà riêng của ông bị giặc đốt . Niềm vui vì làng không theo giặc , không làm Việt gian đã chiếm hết tâm trí ông , đau khổ bế tắt đã được khơi thông . Lúc này ông Hai nói chuyện về làng mình cho mọi người nghe thật rành rọt , tỉ mỉ như chính ông vừa được dự trận đánh mới về . Có thể nói rằng ông Hai là một hình ảnh đẹp của những người nông dân bình thường nhưng giàu lòng yêu nước . Một mẫu người đáng quí của dân tộc ta trong những năm trường kì kháng chiến chống thực dân Phaùp . Beân caïnh thaønh coâng veà maët noäi dung truyeän laøng Kim Laân coøn thaønh coâng veà maët nghệ thuật . Truyện xây dựng cốt truyện theo diễn biến tâm lí có sức thuyết phục và có ý nghĩa sâu sắc chính vì tình cảm quê hương của một người dân có tinh thần kháng chiến . Ngôn ngữ nhân vật được miêu tả nhuần nhuyễn , lời ăn tiếng nói dân dã , mộc mạc . Tác giả có tài miêu tả tâm lí nhân vật , xây dựng tình huống truyện độc đáo giúp cho người đọc khi gấp sách lại vẫn còn thấy bồi hồi xúc động về tình yêu làng của ông Hai , về ngheä thuaät keå chuyeän taïo tình huoáng haáp daãn , hoài hoâp cuûa Kim Laân . Đọc tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân , tác giả đã để lại trong ta một ấn tượng tốt đẹp về hình ảnh ông Hai . Một nông dân hay làm hay khoe , gắn bó bền chặt với làng . Tình yêu làng gắn với tinh thần kháng chiến , lòng yêu nước , một lòng theo Cụ Hồ . Đồng thời cũng cảm nhận sự sáng tạo tình huống truyện của một cây bút có sở trường viết veà noâng daân , vieát veà laøng queâ cuûa nhaø vaên Kim Laân .. Aùnh traêng.

<span class='text_page_counter'>(54)</span> (Nguyeãn Duy) Mình veà thaønh thò xa xoâi Nhà cao còn thấy núi đồi nũa chăng Phố đông còn nhớ bản làng Sáng đèn còn nhớ ánh trăng cuối rừng . ( Tố Hữu ) Trăng là đề tài muôn thuở của thi ca . Với ánh sáng hiền diệu , với chu kì tròn khuyết lạ lùng , trăng đã gợi cho các thi nhân cổ kim nhiều ý tưởng sâu xa . Nguyễn Duy là nhà thơ lớn lên từ đồng quê , trăng như một ám ảnh . Rồi xê dịch với thời gian , và không gian , traêng vaãn theo ñuoåi nhaø thô vaø theá laø thaønh thô , thaønh trieát lí .. ( daãn baøi thô ). Bài thơ “ Aùnh trăng ” được viết theo thể thơ năm chữ , nhịp điệu linh hoạt để thể hiện sự vận động của không giạn , của thời gian . Nếu như trong bài thơ “ Tre Việt Nam ” Câu thơ lục bát có khi được tách ra thành 2 hoặc 3 dòng thơ để tạo nên hiệu quả nghệ thuật biểu đạt gây ấn tượng , thì bài thơ “ Aùnh trăng ” này lại có một nét mới . Chữ đầu của dòng thơ , câu thơ không viết hoa . Phải chăng nhà thiơ muốn cho cảm xúc được dào dạt trôi theo dòng chảy của thời gian kỉ niệm ? Hai câu thơ đầu nhà thơ nói về vầng trăng của tuổi thơ và vầng trăng của thời chiến tranh . Hồi nhỏ sống với û đồng với sông rồøi với bể Vaàng traêng tuoåi thô traûi roäng treân moät khoâng gian bao la . Hai caâu thô 10 tieáng , gieo vầng lưng ( đồng – sông ) , từ “ với ” được điệp lại 3 lần nhằm diễn tả một tuổi thơ đi nhiều , được hạnh phúc cảm nhận những vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên , từng được ngắm trăng trên đồng quê , ngắm trăng trên dòng sông và ngắm trăng trên bãi bể . Ta thấy hồi ức được kể lại bằng hình ảnh . Hình ảnh chuyển rất nhanh , cái hay là bằng hình ảnh không gian đã diễn tả được sự vận động của thời gian . Hai câu thơ tiếp theo nói về thơì chiến tranh , vầng trăng của người lính , trăng đã thaønh tri kæ . Hồøi chiến tranh ở rừng Vaàng traêng thaønh tri kæ Tri kỉ là biết người biết mình , bạn tri kỉ là người bạn rất thân , hiểu biết mình . Trăng với người lính , với nhà thơ trong những năm ở rừng thời chiến tranh đã trở thành đôi bạn tri kỉ . Người chiến sĩ nằm ngủ dưới trăng , giữa rừng khuya sương muối , người chiến sĩ đứng chờ giặc tới . Con đường hành quân của người lính nhiều đêm đã trở thành con đường dát vàng . Trăng đã chia sẻ ngọt bùi hân hoan trong niềm vui thắng trận với người lính tiền phương . Đất nước đã trải qua những năm dài máu lửa , trăng với anh bộ đội đã vượt lên mọi tàn phá hủy diệt của bom đạn quân thù . Thật thú vị khi đọc những vầng thơ của Nguyễn Duy vì nó đã mở ra trong lòng nhiều người một trường liên tưởng . Hồi chiến tranh ở rừng Vaàng traêng thaønh tri kæ Sang khổ thơ thứ 2 như một lời nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao đã qua của cuọc đời người lính gắn bó với thiên nhiên , với đất nước bình dị , hiền hậu ..

<span class='text_page_counter'>(55)</span> Baèng ngheä thuaät aån duï , so saùnh nhaø thô laøm noåi baät chaát traàn truïi , chaát hoàn nhieân cuûa người lính những năm tháng ở rừng . Đó là cốt cách của các anh . Trần trụi với thiên nhiên hoàn nhieân nhö caây coû ngỡ không bao giờ quên caùi vaàng traêng tình nghóa Vầng trăng là biểu tượng của những ăm tháng ấy , đã trở thành vầng trăng tri kỉ , vầng trăng tình nghĩa , ngỡ như không bao gì có thể quên . Một ý thơ làm động đến tâm hồn như một thức tỉnh lương tâm đối với những kẻ vô tình . Sự thay đổi của lòng người thật đáng sợ . Hoàn cảnh sống thay đổi con người dễ thay đổi , có lúc trở nên vô tình , có kẻ dễ trở thành “ ăn ở bạc ”. Từ ở rừng , sau chiến tranh trở về thành phố được sống sung sướng ở buynh đinh cao ốc , quen ánh điện cửa gương , vầng trăng tri kỉ – vằng trăng tình nghĩa đã bị người lãng quên dửng dưng . Cách so sánh của tác giả làm chột dạ nhiều người . Từ hồi về thành phố quen ánh điện cửa gương vaàng traêng ñi qua ngoõ như người dưng qua đường Trăng được nhân hóa lặng lẽ đi qua đường , trăng như người dưng đi qua chẳng còn ai nhớ , chẳng còn ai hay . Những câu thơ rất bình dị , giọng thơ thầm thì như trò chuyện , giải bày tâm sự cho nên chất trữ tình của thơ trở nên sâu lắng chân thành . Cũng như dòng sông có thác ghềnh , quanh co uốn khúc . Cuộc đời người cũng có những biến động li kì . Ghi lại một tình huống “ Cuộc sống thành thị ” của những con người mới ở rừng về thành phố , nhà thơ chỉ sử dụng 4 câu thơ 20 từ . Các từ “ Thình lình ”, “ vội ”, “ Đột ngột ” gợi tả tình thái đầy biểu cảm Thình lình đèn điện tắt phoøng buyn ñinh toái om vội bật tung cửa sổ đột ngột vầng trăng tròn Trăng xưa đã đến với người , vẫn tròn , vẫn đẹp , vẫn thủy chung với mọi người , mọi nhà , với thiên nhiên , với người lính . Người ngắm trăng rồi suy ngẫm bâng khuâng ngửa mặt lên nhìn mặt coù caùi gì röng röng như là đồng là bể như là sông là rừng. Hai chữ “ mặt ” trong đoạn thơ . Mặt trăng . mặt người cùng “ Đối diện đồng tâm”. Trăng chẳng nói , trăng chẳng trách , thế mà người lính cảm thấy “ có cái gì rưng rưng ” . “ Rưng rưng ” nghĩa là vì xúc động , nước mắt đang ứa ra , sắp khóc . Giọt nước mắt làm cho lòng người thanh thản lại , cái tốt lành hé lộ , bao kỉ niệm đẹp một đời người ùa về , tâm hồn gắn bó , chan hòa với thiên nhiên , với vần trăng xưa , với đồng với bể , với sông , với rừng , với quê hương đất nước . Cấu trúc câu thơ song hành , với biện pháp tu từ so sánh , với điệp ngữ là cho thấy ngòi bút của Nguyễn Duy thật tài hoa . Ta thấy đoạn thơ hay ở chất thơ bộc bạch chân thành , ở tính biểu cảm , ở hình tượng và cảm xúc . Từ.

<span class='text_page_counter'>(56)</span> ngôn ngữ hình ảnh đi vào lòng người , khắc sâu điều nhà thơ muốn tâm sự với chúng ta moät caùch nheï nhaøng , thaám thía . Khổ thơ cuối mang tính hàm nghĩa độc đáo , đưa tới chiều sâu tư tưởng triết lí . Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình aùnh traêng im phaêng phaéc đủ cho ta giật mình . Tròn vành vạnh là trăng rằm , một vẻ đẹp viên mãn . Im phăng phắc là im như tờ , không một tiếng động nhỏ . Vầng trăng cứ tròn đầy và lặng lẽ “ kể chi người vô tình ” Là biểu tượng của sự bao dung độ lượng , của nghĩa tình thủy chung trọn vẹn , trong sáng mà không hề đòi hỏi đền đáp . Đó cũng chính là phẩm chất cao cả của nhân dân mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc trong thời chiến tranh chống Mỹ . Aùnh trăng là bài thơ hay của Nguyễn Duy . Qua bài thơ tác giả tâm sự với người đọc những sâu kín nhất nơi lòng mình . Chất triết lí thâm trầm được diễn tả qua hình tượng “ ánh trăng ” đã tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ . Không nên sống vô tình . phải thủy chung trọn vẹn , phải ngiã tình sắt son với bạn bè , đồng chí , nhân dân . Đó là điều mà Nguyễn Duy nói thật hay , thật cảm động qua bài thơ này .. Bếp lửa (Baèng Vieät ). Chúng ta đã được đọc nhiều áng thơ hay về tình yêu quê hương , tình cảm gia đình . Có người thích vẻ đẹp thiết tha nồng nàn của Tế Hanh ở bài “ Quê hương ”. Có người yêu sự moäng mô , laõng maïn cuûa tình meï con trong baøi “ Maây vaø soùng ” cuûa Ta -Go. ..Rieâng toâi , tôi đồng cảm cùng tình bà cháu nồng đượm , đằm thắm trong bài “Bếp lửa ” của nhà thơ Baèng Vieät . Nhiều người đọc bài thơ có ấn tượng sâu sắc về lời thơ đẹp , cảm xúc dạt dào , giọng thơ thiết tha bồi hồi , hình tượng độc đáo , sáng tạo dặc sắc .Bài thơ có 41 câu thơ , phần lớn là thơ 8 chữ ( 31 câu ) , còn có 7 câu thơ thất ngôn và 3 câu thơ 9 tiếng . Tất cả đều kết hợp một cách hài hòa , phong phú vần điệu , đọc lên ngâm lên nghe rất thích , rất thú vò . Bài thơ nhăùc lại kí ức tuổi thơ một thời gian khổ – đói nghèo , chiến tranh , loạn lạc. Qua hình tượng bếp lửa , ngọn lửa , đứa cháu ca ngợi đức hi sinh , sự tần tảo và tình thương bao la của bà , đồng thời nói lên lòng biết ơn bà thương nhớ bà khôn nguôi . Ba câu thơ đầu nói về bếp lửa và lòng cháu thương bà . Bếp lửa được nhóm lên trong sương sớm , ngọn lửa “ chồn vờn ” rung rinh , hắt ánh sáng lên tường nhà , liếp cửa . Bêùp lửa ấm áp “ nồng đượm ” ấy còn mang tình thương chở che , ôm ấp , ấp iu của lòng bà . Bếp lửa của bà là bếp lửa của một cuộc đời đã trãi qua biết mấy nắng mưa , nghèo khổ và vất vả . Nghĩ về bếp lửa , nhớ về bếp lửa gia đình , mà đứa cháu thương bà khôn xiết kể . Hai câu đầu song hành làm hiện lên hình ảnh bếp lửa của bà . Các chữ : “ ấp iu , nồng đượm” , “ chờn vờn” rất hình tượng , gợi tả ; chữ “ thương ” dùng thật đắt qua vần thơ cảm thán làm cho cảm xúc lan tỏa , thấm sâu vào hồn người :.

<span class='text_page_counter'>(57)</span> Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa âùp iu nồng đượm Chaùu thöông baø bieát maáy naùêng möa Năm câu thơ tiếp theo , tác giả nhắc đi nhắc lại : mùi khói , khói hun đã làm nhèm mắt chaùu laøm cho soẫng muõi coøn cay ñeân taôn bađy giôø kư nieôm thôøi thô beù khi leđn boân tuoơi , kư niệm môït thời đen tối đói khổ . Đó là năm đói mòn đói mỏi , năm ất dậu 1945 , khi người chết đói như ngả rạ . Giọng thơ trỉu xuống nao nao lòng ta : Lên bốn tuổi cháu đã quên mùi khói Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu nghó lái ñeân giôø soẫng muõi coøn cay Cái vị cay xòe của khói hun nơi bếp lửa những nhà nghèo sẽ mãi mãi bám lấy bao tâm hồn tuổi thơ ? Cho dù năm tháng trôi qua nhưng kí ức ấy trở thành một vết thương lòng ñaâu deã nguoâi ngoi . Đoạn thơ thứ 3 gồm có 11 câu ,tác giả nhắc đi nhắc lại một vài kỉ niệm sâu sắc về bà trong suốt thời gian : Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa . Thật là hồn nhiên trong sáng khi nhà thơ tâm tình với chim tu hú . Chim tú hú kêu trong những ngày hè , khi trái vải đã chí n đỏ cành . Tiếng chim tu hú là âm thanh đồng quê nghe thật tha thiết . Tiếng chim tu huù trong baøi thô laø moät saùng taïo cuûa Baèng Vieät khi noùi veà baø : Tu hú kêu trên những cánh đồng xa Tu hú kêu bà có nhớ không bà Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế Tieáng tu huù sao maø tha thieát theá ! Quá khứ và hiện tại đồng hiện . Tiếng chim tu hú trở thành một mảnh tâm hồn tuổi thơ . Cháu thương bà vất vả lo toan , biết ngỏ cùng ai . Chỉ có thể tâm tình với chim tu hú . Nheï traùch maø thöông nhieàu : Tu hú ơi ! chẳng đến ở cùng bà Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa Tiếng chim tu hú gợi thương : Meï cuøng cha baän coâng taùc chöa veà Cháu ở cùng bà , bà bảo cháu nghe Baø daïy chaùu laøm , baø chaêm chaùu hoïc Trong nhiều gia đình Việt Nam , do nhiều cảnh ngộ khác nhau , mà vai trò của người bà – bà nội , bà ngoại – đã thay thế vai trò của người mẹ hiền . Các từ ngữ : Bà bảo , bà dạy , bà chăm đã diễn tả một cách sâu sắc tấm lòng đôn hậu , tình thương bao la , sự chăm chút của bà đối với cháu nhỏ . Chữ bà và chữ cháu đước điệp lại 4lần gợi tả tình bà cháu quaán quít yeâu thöông Được sống trong tình thương và hạnh phúc . Em bé trong bài thơ bếp lửa tuy phải sống xa cha mẹ , tuy gặp nhiều thiếu thốn khó khăn , nhưng em thật hạnh phúc khi được sống trong vòng tay yêu thương của bà . Vì thế cháu mới cảm thấy một cách thiết tha nồng hậu Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc Đoạn thơ tiếp theo có 10 câu đã tô đậm thêm những phẩm chất cao quí của người bà yêu quí . Bà là chỗ dựa tinh thần vững chắc . Sống trong những năm dài chiến tranh , khi giặc.

<span class='text_page_counter'>(58)</span> đốt làng cháy tàn cháy lụi , được sự đỡ đần của bà con hàng xóm , hai bà cháu mới dựng lại được túp lều tranh , thế nhưng bà vẫn vững lòng trước mọi tai họa thử thách : Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh Bố ở chiến khu bố còn việc bố mày có viết thư chớ kể này kể nọ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên! Từ bếp lửa , đứa cháu nghĩ về ngọn lửa . Một hình tượng rất tráng lệ . Bếp lửa bà nhen sớm sớm chiều chiều đã sáng bừng lên thành ngọn lửa bất diệt , ngọn lửa của tình thương luôn ủ sẵn , ngọn lửa của niềm tin vô cùng dai dẳng bền bỉ và bất diệt . cùng với hình tượng ngọn lửa, các từ ngữ chỉ thời gian rồi sớm rồi chiều , các động từ nhen , ủ sẵn , chứa đã khẳng định ý chí , bản lĩnh sống của bà , cũng là của người phụ nữ Việt Nam giữa thời loạn lạc : Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng . Điệp ngữ một ngọn lửa và kết cấu song hành đã làm cho câu thơ vang lên mạnh mẽ , đầy xúc động tự hào Tám câu thơ tiếp theo là những suy ngẫm sâu sắc của nhà thơ , của đứa cháu về người bà kính yêu , về bếp lửa của mỗi gia đình Việt Nam chúng ta . Cuộc đời của bà nhiều lận đận , trải qua nhiều nắng mưa vất vả . Bà cần mẫn lo toan , chịu thương chịu khó , thức khuya dậy sớm vì bát cơm manh áo của con cháu trong gia đình . Vần thơ chứa đựng bao nghĩa tình sâu nặng . Cháu vô cùng cảm phục và bieát ôn baø : Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm Bà đã nhóm bếp lửa trong suốt cuộc đời bà , đã trải qua mấy nắng mưa mấy chục năm rồi . Bà không chỉ nhóm bếp lửa bằng đôi bàn tay già nua gầy guộc , mà là bằng tất cả tấm lòng nhân hậu ấp iu nồng đượm của bà đối với con cháu . Chữ nhóm được láy di láy lại bốn lần , đan kết với những chi tiết rất thực và gần gũi thân quen đối với mọi con người , đối với mọi gia đình chúng ta . Vị ngọt bùi của khoai sắn , hương vị ngào ngạt của nồi xôi gạo mới … đều do bàn tay tần tảo của bà nhóm lên . Bà đã nhen nhóm , nuôi dưỡng trong lòng con cháu bao niềm yêu thương , bao ước mơ hoài bảo . Tâm hồn và khát vọng tuổi thơ đã sáng bừng lên từ ngọn lửa do bà nhóm suốt mấy chục năm trời : Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui Nhoùm nieàm yeâu thöông khoai saén ngoït buøi Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Aùnh sáng bếp lửa gia đình đã chiếu sáng bức chân dung người bà yêu kính . Người bà vĩ đại trở nên gần gũi yêu thương . Trong kí ức của đứa cháu, hình ảnh người bà phảng phất màu sắc cổ tích . Nghĩ về bếp lửa , nghĩ về bà , nhà thơ thốt lên ngợi ca . cảm xúc dồn nén bỗng ùa ra , trào lên . cảm xúc thơ , chất trí tuệ của thơ qua câu cảm thán đem đến cho ta bao liên tưởng về ba,ø về mẹ , về mái ấm tình thương , về bếp lửa gia đình ..

<span class='text_page_counter'>(59)</span> Ôâi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa . Bốn câu thơ trong phần kết thể hiện một cách đằm thắm tình thương nhớ , lòng kính yêu và biết ơn của đứa cháu bé bỏng giờ đã đi xa . Cuộc đời mới thật vui ,thật đẹp , đã có ngọn khói trăm tàu , đã có ngọn lửa trăm nhà niềm vui trăm ngả , nhưng cháu vẫn khôn nguôi nhớ bà , nhớ bếp lửa gia đình thương yêu . Giọng thơ trở nên đằm thắm ngọt ngào: Giờ cháu đã đi xa . Có ngọn khói trăm tàu Có lửa trăm nhà , niềm vui trăm nga Nhưng chẳng lúc nào quên nhắc nhở Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ? Không gian và thời gian xa cách , và dù cuộc đời có đôỉ thay , nhưng tình thương nhớ bà vẫn thiết tha mãûnh liệt . Cảm xúc thơ như những lớp sóng cuộn lên trong lòng người . Đó laø dö ba vaø aâm vang tình baø chaùu . Bếp lửa là bài thơ rất hay và độc đáo . Trong ca dao , trong thơ ca dân tộc , có rất nhiều bài hay nói về người mẹ hiền . Bếp lửa là bài thơ viết về người bà yêu kính , tần tảo có tình thương mênh mông . Đó là sự đôc đáo . Lời thơ đẹp , chất thơ trong trẻo , trẻ trung . hình tượng thơ bếp lửa , khói hun , ngọn lửa , tiếng chim tu hú …đan kết , xâu chuỗi rất thơ, đầy ấn tượng . Đọc bài thơ , chúng ta vô cùng xúc động , về tâm tình tuổi thơ , về hình ảnh và vai trò người bà trong gia đình được nhà thơ nói đến . Qua đó ta càng thấy rõ tình cảm gia đình là một trong những tình cảm tha thiết nhất của con người Việt Nam . Với Bằng Việt , tình cảm gia đình đã chan hòa và thấm sâu với tình yêu quêhương đất nước . Tiếng chim tu hú , bếp lửa chờn vờn sương sớm , vị ngọt bùi của khoai sắn , của nồi xôi ngạo mới …những âm thanh ấy , hương vị đâm đà , ánh sáng ngọn lửa và tình thương của bà … chính là hồn quê, là tình non nước . Có đi xa mới da diết nhớ . Ai trong chúng ta còn bà , bà nội, bà ngoại , ai trong chúng ta bà đã khuất , hãy khẽ đọc bài thơ bếp lửa , và chắc chắn sẽ tìm được cái tình , cái đẹp được nhà thơ gửi gắm ... Con coø ( Cheá Lan Vieân ) Tình mẹ con thiêng liêng mà gần gũi đối với con ngừơi đã từ lâu trở thành đề tài cho thi ca nhạc họa Đông Tây kim cổ mà không bao giờ cũ , không bao giờ thôi quyến rũ người đọc . Chế Lan Viên góp thêm tiếng nói độc đáo và đặc sắc của mình vào đề tài trên bằng cách phát triển những câu ca dao quên thuộc nói về con cò để ca ngợi tình mẹ và lời ru đối với cuộc sống của con người Việt Nam . Nhaø thô Cheá Lan Vieân vieát baøi thô Con coø vaøo naêm 1962 , in trong taäp Hoa ngaøy thường , chim báo bão ( 1967) . Bài con cò mang âm điệu đồng dao , nhịp thơ và giọng thơ thâém vào hồn ca dao , dân ca một cách đằm thắm , nhẹ nhàng . 51 câu thơ tự do , câu ngắn nhất 2 chữ , câu dài nhất 8 chữ , đan xen, kết chuỗi thành lời ru ngân nga , ngọt ngào , biểu hiện tình thương và ước mơ của người mẹ đối với con thơ ! Mở đầu bài thơ là hình ảnh người mẹ bế con thơ trên tay , cất lời ru bài Con cò bay lả bay la … “ Con coø maø ñi aên ñeâm …” Nhìn con thô Con coøn beá treân tay – con chöa bieát con coø ,.

<span class='text_page_counter'>(60)</span> mà lòng mẹ dào dạt tình thương . Mẹ thương con cò trong ca dao lận đận ; mẹ dành cho con bao chăm chút yêu thương . Con được sống yên vui hạnh phúc trong lòng mẹ : Coø moät mình coø phaûi kieám laáy aên Con coù meï con chôi roài laïi nguû . Mẹ đã dành cho con thơ tất cả . Cánh tay dịu hiền của mẹ . Lời ru câu hát êm đềm của mẹ . Dòng sưã ngọt ngào của mẹ . Những hoán dụ nghệ thuật ấy đã hình tượng tình mẫu tử bao la . nhịp thơ cũng là nhịp võng , nhịp cánh nôi nhẹ đưa , vỗ về ; Nguû yeân ! nguû yeân ! nguû yeân ! Cành có mền , mẹ đã sẵn tay nâng ! Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân ! Con chöa bieát con coø con vaïc. Con chưa biết những cành mền mẹ hát Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân . Điệp ngữ ngủ yên , con chưa biết và Con cò láy đi láy lại nhiều lần làm cho giọng thơ trở nên đầm ấm , ngọt ngào thiết tha dìu dịu chan chứa hạnh phúc yêu thương Chuyển sang đoạn 2 là lời mẹ ru con ngủ yên ngủ ngon : Ngủ yên ! Ngủ yên ! Ngủ yên ! Ngắm nhìn con thơ ngủ mà lòng mẹ dào dạt mong ước . Con sẽ lớn khôn , con đến trường ñi hoïc . Con khôn lớn , con theo cò đi học Caùnh traéng coø bay theo goùt ñoâi chaân . Mai sau lớn lên con sẽ làm thi sĩ . Cuộc đời con nhiều sáng tạo , mải miết chuyên cần bay hoài không nghỉ . Hình ảnh cánh cò trắng bay …thể hiện ước mơ đẹp của mẹ hiền về cuộc đời tương lai của con . Con sẽ nối chí cha . Một câu hỏi khẻ thốt lên trong lòng mẹ hieàn : Lớn lên , lớn lên , lớn lên … Con laøm gì ? Con laøm thi só ! Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ Trước hiên nhà Vaø trong hôi maùt caâu vaên … Ở khổ thơ cuối , tiếng ru con tiếng hát của mẹ hiền cất lên dìu dặt , mênh mang . Mẹ nghỉ về cuộc đời của con mai sau , và tình thương yêu của cha mẹ . Như một lời nguyền cuûa meï : Dù ở gần con Dù ở xa con Lên rừng xuống bể , Coø seõ tìm con Coø maõi yeâu con Con dù lớn vẫn là con của mẹ Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con . Chữ dù chữ vẫn được điệp lại , ý thơ được khẳng định , tình mẫu tử bền chặt , sắt son . Coù gì cao hôn nuùi , coù gì saâu hôn bieån vaø coù gì bao la baèng loøng meï thöông con ..

<span class='text_page_counter'>(61)</span> Phần cuối , lời thơ thấm đượm chất triết lí trữ tình . Nghỉ về con cò trong ca dao ,nghỉ về cuộc đời con mai sau , người mẹ nghỉ về thân phận , số phận những con cò nhỏ bé , đáng thương , trong cuộc đời : AØ ôi ! Moät con coø thoâi , Con coø meï haùt Cũng là cuộc đời Voã caùnh qua noâi . Phải chăng người mẹ hiền đang bâng khuâng về câu hát : Có xáo thì xáo nước trong – Đừng xáo nước đục đau lòng cò con ? Thác trong còn hơn sống nhục , ấy là ý vị cuộc đời đáng thương , đáng trọng xưa nay . Bài thơ con cò là một bài thơ có đề tài nhỏ nhưng mang ý nghĩa sâu sắc : ca ngợi tình mẫu tử bao la và những ước mơ về con thơ của mẹ hiền , nói lên tình thương cuộc đời rất nhaân haäu vaø nhaân tình .. Beán queâ ( Nguyeãn Minh Chaâu ). Nguyễn Minh Châu là cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại . Sáng tác của ông trong thời kì kháng chiến chống Mĩ như Cửa sông , Dấu chân người lính , Mảnh trăng cuối rừng . Sau 1975 nhất là từ đầu những năm 80 của thế kỉ 20 , Nguyển Minh Châu đã trăn trở tìm tòi , đổi mới mạnh mẽ về tư tưởng và nghệ thuật , mở ra chặng đường mới trong sáng tác của mình . Hàng loạt truyện ngắn của ông trong những năm đó đã gây xôn xao trong giới văn học và công chúng rộng rãi . Ôâng được xem là hiện tượng nổi bật trong đời sống văn học ở chặng đầu của thời kì đổi mới . Nguyễn Minh Châu xứng đáng thuộc trong số những người “ Mở đường tinh anh và tài năng đã đi được xa nhất ” trong đổi mới văn học . Một trong những tác phẩm tiêu biểu cho sự đổi mới đó là truyện ngắn Bến quê. Truyện Bến quê ghi lại những gì nhìn thấy , nghe thấy , những suy ngẫm và ước mơ , những quan hệ của Nhĩ khi nằm trên giường bệnh , qua 4 cảnh : Nhĩ được Liên săn socù ;Nhĩ sai thằng Tuấn đi sang bên kia sông ; Nhĩ được các cháu nhỏ ( Huệ ,Vân , Tam , Hùng …) đến nương nhẹ lót khăn , kê gối cho ông ; Ông giáo Khuyên chống gậy đi qua tạt vaøo hoûi thaêm Nhó . Coát truyeän cuûa Beán queâ raát bình dò , baèng phaúng nhöng laïi mang haøm nghóa trieát lí sâu sắc . Qua nhân vật Nhĩ , một bệnh nhân sắp từ giả cõi đời , Nguyễn Minh Châu nói lên những suy ngẫm của con người , về cuộc đời và cách sống , thức tỉnh , khơi dậy ở đồng loại hãy biết nâng niu , trân trọng những vẻ đẹp , những giá trị bình dị , gần gũi , quen thuoäc cuûa cuoäc soáng , cuûa queâ höông . Đọc truyện ta thấy Nhĩ là một con người từng trải và có địa vị , đi rộng biết nhiều :Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất ; anh đã từng in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ . Mới 2 năm trước đây , anh còn đi công tác sang một nước bên Mĩ la- tinh . Có thể nói , bao cảnh đẹp , những nơi phồn hoa đô hội gần xa , những miếng ngon nơi đất khách quê người , anh đều được thưởng thức , được hưởng thụ . Nhưng những.

<span class='text_page_counter'>(62)</span> cảnh đẹp gần gũi , những con người tình nghĩa thân thuộc , thân yêu nơi quê hương cho đến những tháng ngày ốm đau nằm trên giường bệnh khi sắp từ giãû cõi đời , anh mới cảm thấy một cách sâu sắc cảm động. Hoa bằng lăng quê kiểng có gì là đẹp ? Lúc mới nở màu sắc đã nhợt nhạt Vòm trời và con sông Hồng , bờ bãi , bến đò … có gì xa lạ đối với nhiều người trong chúng ta , nhất là đối với Nhĩ , Khi nhà anh ở gần dòng sông ấy . Sớm nay , Nhĩ vừa ngồi để cho vợ bón từng thìa thức ăn vừa nghĩ : Anh thấy hoa bằng lăng trong tiết lập thu đẹp hơn , đậm sắc hơn . Sông Hồng màu đỏ nhạt , mặt sông như rộng thêm ra . Bãi bồi phù sa lâu đời ở bên kia sông Hồng dưới những tia nắng sớm đầu thu đang phô ra một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non – những màu sắc thân thuộc quá như da thịt , hơi thở của đất màu mỡ . Và bầu trời , vòm trời quê nhà như cao hơn . Nhìn qua cửa sổ ngôi nhà mình , Nhĩ xúc động trước những cảnh đẹp bình dị của quê nhà . Tại sao trước đây anh ít nhìn thấy , cảm thấy ? Phải chăng vì cuộc sống bâïn rộn tất tả ngược xuôi ? hay tại bởi vô tình ? Qua đoạn miêu tả thiên nhiên ở phần đầu truyện , Nguyễn Minh Châu muốn nhắc khẽ mọi người đừng vô tình mà phải biết gắn bó , trân trọng cảnh vật quê hương xứ sở vì những cái đó là máu thịt , là tâm hồn của mỗi chúng ta . Phải biết phát hiện ra vẻ đẹp bình dị , thân thuộc của quê nhà để nâng niu yêu quí . . Nhĩ bị ốm nằm liệt giường lâu ngày , được vợ con chăm sóc , trong lòng anh nảy nở bao ý nghĩ , baotình cảm đằm thắm , sâu nặng thiết tha . Nghe Liên nói : Anh cứ yên tâm . Vất vả , tốn kém đến bao nhiêu em với các con vẫn chăm lo cho anh được , thì Nhĩ lần đầu tiên để ý thấy Liên đang mặc tấm áo vá . Hình ảnh người vợ tần tảo , giàu đức hi sinh làm cho Nhĩ cảm động , thoáng ân hận về sự vô tình của mình : Suốt đời anh chỉ làm em khoå taâm … maø em vaãn nín thinh . Chưa bao giờ mà Nhĩ nghe rõ thế , những tiếng bình dị thân thương : tiếng vợ đi lại dọn dẹp và dặn dò con … Liên hãm nước thuốc và tiếng nước rót ra lẫn mùi thuốc bắc bay vào nhà , tiếng bước chân rón rén quen thuộc của người vợ hiền thảo trên những bậc gỗ mòn lõm . Đó là tiếng lòng , tiếng thân thương , không phải lúc nào Nhĩ cũng nghe được , Nhĩ cũng cảm được ! Tuấn là đứa con thứ hai của Nhĩ và Liên .Một năm nay vắng nhà , Tuấn đi học xa , tận một thành phố phía Nam và vừa mới trở về hôm qua . Bố ốm nặng , Tuấn về thăm bố , thăm mẹ và thăm nhà ? Nằm trên giường bệnh ngắm con , Nhĩ xúc động , thấy càng lớn thằng con anh có nhiều nét giống anh . Nhĩ sai con đi sang bên kia sông , qua đò đặt chân lên bờ bên kia , đi chơi loanh quanh … một lát rồi về . Với Tuấn thì đó là cái việc gì lạ thế mà bố sai làm , khi cậu đang mãi mê xem cuốn truyện dịch . Đứa con trai chưa hiểu được cái điều ham muốn cuối cùng của đời bố . Nhĩ muốn đứa con trai thân thương âthay mặt mình đi dạo bước qua sông , để ngắm nhìn những cảnh vật thân quen , bình dị mà hầu như suốt cuộc đời bố đã lãng quên . Qua khung cửa sổ ngôi nhà , Nhĩ dõi theo hình bóng đứa con đội cái mũ cói vành rộng , mặc chiếc áo sơ mi màu trứng sáo , cắp cuốn sách bên nách đang sà vào một đám người chơi phá cờ thế trên hè phố . Cái say mê của con bây giờ cũng giống như cái say mê của bố ngày xưa : Suốt đời Nhĩ cũng đã từng chơi phá cờ thế trên nhiều hè phố , thật là không dứt ra được . Nhĩ trầm ngâm suy nghĩ , lo lắng vẫn vơ : không khéo thằng con trai.

<span class='text_page_counter'>(63)</span> anh lại trễ mất một chuyến đò trong ngày . Những trò chơi phá cờ thế , những việc làm vô vị nhạt nhẽo sẽ làm tốn mất bao thời gian , bao tâm trí , bao sức lực … Những trò chơi ấy , việc làm ấy sẽ làm cho tuổi trẻ của nhiều người trễ mất chuyến đò trong ngày , sẽ làm chậm bước , làm lỡ nhịp một thời trai trẻ . Bằng kinh nghiệm của mình , Nhĩ nghĩ một cách buồn bã , con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình , vả lại nó đã thấy có gì đang hấp dẫn ở beân kia soâng ñaâu ? YÙ nghó aáy mang haøm nghóa moät trieát lí nhaân sinh saâu saéc về đường đời và mục tiêu cuộc sống . Cuộc sống và cảnh vật ở quanh ta , ở quê ta rất đẹp rất đáng yêu , đó là sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp , thậm chí cả những nét tiêu sơ , nhưng phải trải nghiệm , phải sống hết mình mới có thể khám phá , mới có thể phát hiện , mới tìm thấy . Và còn phải có một tấm loøng gaén boù yeâu thöông . Có người do tài trí , thời cơ , vận may mà thành đạt . Có người sớm phát hiện ra sự lạc hướng , lạc đường mà điều chỉnh , mà khắc phục . Có rất nhiều người đi suốt hành trình cuộc đời mới nhận ra cái chùng chình , cái vòng vèo , sự lạc đường lạc hướng của mình , nhưng quỹ thời gian đã vung phí , đã gần đất xa trời …Đời người đầy bi kịch , vì thế một con người như Nhĩ đã từng in gót chân khắp mọi chân trời , mãi đến lúc nằm liệt trên giường bệnh , mới khám phá ra , lúc này anh cảm thấy như có một niềm say mê pha lẫn một nỗi ân hận đau đớn mà lời lẽ không bao giờ giải thích hết . Cuộc đời là một ẩn số , đường đời là một bài toán khó , nên không bao giờ giải thích hết . vì thế ,phải có trí tuệ , có chí khí , giàu lòng kiên nhẫn , sống có lí tưởng đẹp , mới bớt được ruỗi ro, mới tránh được vòng vèo , chùng chình thất bại . Những cảm nhận, những suy nghĩ của Nhĩ về Liên thật sâu sắc , đầy ân tình , ân nghĩa . từ một cô gái chân quê mặc áo nâu chít khăn mỏ quạ rồi thành môït người đàn bà thị thành . Thế nhưng tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa . Nhĩ đã trãi qua những ngày tháng bôn tẩu tìm kiếm , nếm trãi bao ngọt bùi cay đắng ,Nhĩ đã tìm thấy nơi nương tựa là gia đình , là vợ con mình . Với Nhĩ , gia đình là bến đậu , bến tình thương , bến hạnh phúc . Cảnh những đứa trẻ ( Huệ , Vân , Tam , Hùng ) xinh tươi ngoan ngoãn , nghe Nhĩ gọi , chúng ríu rít chạy lên , xúm vào , nương nhẹ giúp anh xê dịch từ mép tấm nệm ra mép tấm phản , lấy gối đặt sau lưng Nhĩ , làm cho anh như trẻ lại toét miệng cười với tất cả , tận hưởng sự thích thú được chăm sóc . Hanh phúc đâu phải là cái gì cao siêu , mà rất bình dị , rất nho nhỏ , có khi chỉ một ánh mắt , một nụ cười trẻ thơ , một bàn tay nhỏ bé chua lòm mùi nước dưa … Hình aûnh oâng cuï Khuyeán saùng naøo ñi qua cuõng gheù vaøo thaêm Nhó laø moät hình aûnh aân tình ân nghĩa nuôi dưỡng tâm hồn . Một câu hỏi thăm về sức khỏe , một lời an ủi động viên ân caàn : Hoâm nay oâng Nhó coù veû khoûe ra nhæ ? . Coøn gì cao quí hôn , aám aùp hôn , tình nghiaõ hơn ? Được sống trong tình yêu thương của đồng loại mới thật hạnh phúc . Và đó là sắc màu ý vị trong cuộc đời mỗi chúng ta , là bến quê của tâm hồn mỗi chúng ta . Cụ Khuyến hốt hoảng khi phát hiện ra mặt mũi Nhĩ đỏ rựng một cách khác thường , hai mắt thì long lanh chứa một mê say đầy đau khổ , và mười đầu ngón tay Nhĩ đang bấu chặt vào cái bậu cửa sổ những ngón tay vừa bấu chặt vừa run lẩy bẩy… ĐoÙ là chút sức lực.

<span class='text_page_counter'>(64)</span> cuối cùng còn sót lại… của Nhĩ . Nhĩ sắp ra đi . Con đò chở khách trên sôngHồng cập bến , mang ý nghĩa một biểu tượng , con đò sẽ đưa Nhĩ tới cõi hư không của một kiếp người … Trong truyện Bến quê, Nhà văn Nguyễn Minh Châu xây dựng một tình huống giản dị và nghịch lý bất ngờ ., Giọng kể chuyện giàu ngẫm ngợi , triết lý mà vẫn cảm xúc trữ tình đem lại cho người đọc một ấn tượng sâu sắc . Bến quê là một truyện ngắn thấém đẩm ý vị triết lí về con người và cuộc đời . những năm cuối đời , Nguyễn Minh Châu đã trãi qua nhiều tháng ngày đau ốm . Bến quê ít nhiều mang tính tự truyện và dự báo nên rất chân thật , chân thành . Bài học về tình yêu và lẽ sống được đặt ra một cách cảm động . Có gì hạnh phúc hơn khi được sống trong tình thương với gia đình , quê hương . Phải biết nâng niu , trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị , thân thuộc của cuộc sống , của quê hương . Như thế mới thật sự hạnh phúc . Đó laø tieáng loøng trang traûi cuûa Nguyeãn Minh Chaâu .. Những ngôi sao xa xôi (Leâ Minh Khueâ). Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê viết về cuộc sống chiến đấu của tổ trinh sát mặt đường , trên con đường chiến lược Trường Sơn thời đánh Mĩ . Tổ trinh sát mặt đường gồm có 3 cô thanh niên xung phong : Nho , Phương Định và chị Thao . Họ ở trong một hang dưới chân cao điểm . Ở đó , máy bay giặc Mĩ đánh phá dữ dội . Đường bị đánh lở loét màu đất đỏ , trắng lẫn lộn . Tưởng như sự sống bị hủy diệt : không có lá xanh hai bên đường , thân cây bị tước khô cháy . Có biết bao thương tích vì bom đạn giặc , những cây rễ nằm lăn lóc , ngỗn ngang những hòn đá to , một vài cái thùng xăng hoặc thành ô tô méo mó , han gỉ nằm trong đất . Coâng vieäc cuûa hoï voâ cuøng nguy hieåm vaø gian khoå . Khi coù bom noå thì chaïy leân ño khoái lượng đất lấp vào hố bom , đêm bom chưa nổ , phá bom . Thần kinh căng như chão . Trong lúc đơn vị thanh niên xung phong thường ra đường vào lúc mặt trời lặn, và làm việc có khi suốt đêm thì tổ trinh sát lại chạy trên cao điểm cả ban ngày dưới cái nóng 30 độ . Từ cao điểm trở về hang , cô nào cũng chỉ thấy hai con mắt lấp lánh , hàm răng lóa lên khi cười , khuôn mặt thì lem luốc . Cả 3 cô, cô nào cũng đáng mến , đáng cảm phục . Nhưng Phương Định là cô gái để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng ta . Phương Định , con gái Hà Nội có hai bím tóc dày , tương đối mềm , một cái cổ cao kiêu hãnh như đài hoa loa kèn . Đôi mắt Định được các anh laùi xe baûo laø : coù caùi nhìn sao maø xa xaêm . Nhieàu phaùo thuû vaø laùi xe hay hoûi thaêm hoặc viết những bức thư dài gửi đường dây cho Định . Cô có vẻ kiêu kì , làm điệu khi tiếp xúc với một anh bộ đội nói giỏi nào đáy , nhưng trong suy nghĩ của cô thì những người đẹp nhất thông minh , can đảm và cao thượng nhất là những người mặc áo quân phục , có ngoâi sao treân muõ Sống trong cảnh bom đạn ác liệt , cái chết kề bên , Định lại càng hay hát . Những bài hành khúc , những điệu dân ca Quan họ , bài ca ca chiu sa của hồng quân liên xô , bài dân ca ý …Định còn biết bịa ra những lời hát , thế mà chị Thao vẫn say mê chép vào sổ tay .Định hát trong những khoảnh khắc im lặng khi máy bay trinh sát bay rè rè , cơn bão lữa sắp ập xuống cao điểm .Định hát để động viên Nho , chị Thao và động viên mình . Hát khi.

<span class='text_page_counter'>(65)</span> máy bay rít bom nổ ; nổ trên cao điểm cách cái hang này khoảng 300mét . Hát trong không khí ngột ngạt : khói lên và cửa hang che lấp , Đúng là tiếng hát át tiếng bom của những người con gái trong tổ trinh sát mặt đường , những con người khao khát làm nên những sự tích anh hùng . Trong kháng chiến chống Mĩ , ở hai miền Nam , Bắc của tổ quốc đã có hàng vạn hàng triệu chàng trai lên đường ra trận với dũng khí và quyết tâm đánh cho Mĩ cút , đánh cho ngụy nhào để giải phóng miền Nam , thống nhất đất nước . Tiền tuyến vẫy gọi , hàng ngaøn haøng vaïn coâ gaùi mang chí khí Baø Tröng , Baø Trieäu xung phong ra tieàn tuyeán . Con đường chiế lược Trường Sơn huyền thoại được làm nên bằng xương máu , mồ hôi và bao sự tích phi thường của những người con gái Việt Nam anh hùng . Những ngôi sao xa xôi đã ghi lại một cách chân thực chiến tích thầm lặng của tổ trinh sát mặt đường . Trọng điểm đang chìm trong mưa bom bão lửa . Tiếng Định lại cất lên : Tôi một quả bom trên đồi . Nho , hai quả dưới lòng đường . Chị Thao, một quả dưới chân cái hầm ba- ri – e cũ . Cảnh tượng chiến trường trở nên vắng lặng đến phát sợ . Cảnh vật bị hủy diệt : cây xơ xác , đất nóng , khói đên vật vờ từng cụm trong không trung : Phương Định , dũng cảm và bình tĩnh tiến đến gần quả bom , đàng hoàng mà bước tới . Quả bom có 2vòng tròn màu vàng nằm lạnh lùng trên một bụi cây khô , một đầu vùi xuống đất . Thần chết đang đợi chờ . Vỏ quả bom nóng . Định dùng lưỡi xẻng chạm vào quả bom . Có lúc Định rùng mình vì cảm thấy tại sao mình làm quá chậm thế ! Hai mươi phút đã trôi qua . Tiếng còi chị Thao rúc lên . Định cẩn thận bỏ gói thuốc mìn xuống cái lỗ đã đào , châm ngòi vào đây mìn . Cô khỏa đất rồi chạy nhanh về chỗ nấp … Tiếng còi của chị Thao lại nổi lên . Quả bom nổ . Ba tiếng nổ nữa tiếp theo . Mảnh bom xé không khí . Đất rơi lộp bộp . Bom nổ váng óc , ngực đau nhói , đôi mắt cay mãi mới mở ra được . Mồ hôi thấm vaøo moâi , caùt laïo xaïo trong mieäng . Nguy hieåm , caêng thaúng khoâng theå naøo keå xieát . Chò Thao vấp ngã , vết sẹo bóng lên , mảnh dù bay trên lưng , chị cười , răng trắng , đôi mắt mở to … . Nho bị thương . Bom nổ , hầm sập . Chị Thao và Định phải moi đất , bế Nho lên . Máu túa ra , ngấm vào đất . chị Thao nghẹn ngào . Định rửa vết thương cho Nho , tiêm thuốc choNho , pha sữa cho Nho … Rồi chị Thao lại giục : Hát đi , Phương Định , mày thích bài gì nhất , hát đi ! . Đó là cuộc sống chiến đấu thường nhật của họ . Mỗi ngày tổ trinh sát mặt đường phá bom đến 5 lần ; ngày nào ít : ba lần . Phương Định cho biết : Tôi có nghĩ đến cái chết . Nhưng một cái chết mờ nhạt , không cụ thể … Đoạn văn tả cảnh phá bom trên cao điểm là đoạn văn xuất sắc nhất trong tuyện những ngôi sao xa xôi . Lê Minh khuê đã sử dụng bút pháp hiện thực nghiêm ngặt tái hiện lại cảnh phá bom vô cùng nguy hiểm , dựng lên một tượng đài về khí phách anh hùng ,lẫm liệt của tổ trinh sát mặt đường . Chị Thao , Nho và Phương Định đã sáng ngời lên trong khói lửa bom đạn . Chiến công thầm lặng của họ bất tử với năm tháng và lòng người . Tổ quốc và nhân dân có bao giờ quên những nữ anh hùng Đồng Lộc ,những nữ anh hùng trên con đường chiến lược Trường Sơn . Định cô gái Hà Nội xinh đẹp , dũng cảm trong lửa đạn , giàu yêu thương đồng đội . Cô cũng thích làm duyên như cô thôn ânữ ngày xưa soi mình xuống giếng làng vừa mỉm cười vừa vuốt tóc . Định thích ngắm đôi mắt mình trong gương . Cô tự hào về cặp mắt mình noù daøi daøi maøu naâu , hay nheo laïi nhö choùi naéng . Taâm hoàn cuûa Ñònh raát trong saùng.

<span class='text_page_counter'>(66)</span> mộng mơ . Cô đã gởi lòng mình theo tiếng hát , hát trong bom đạn . Định có trái tim dào dạt yêu thương . Cứ sau mỗi trận chiến đấu ác liệt , chị Thao cất tiếng hát , Nho vừa tắm ở dưới suối lên đã đòi ăn kẹo . Còn Định thì niềm vui con trẻ …nở tung ra say söa traøn đầy . khi nhặt được những hạt mưa đá trên cao điểm . Và hình ảnh mẹ , cái cửa sổ , những ngôi sao to trên bầu trời thành phố , chiế xe chở đầy thùng kem , con đường nhựa ban đêm , cái vòm tròn nhà hát … tất cả những cái đó xoáy mạnh như sóng trong lòng cô gái một thời đạn bom . Đôi mắt của Định , của Nho , của Thao , của hàng vạn cô thanh niên xung phong trên những cao điểm , những trọng điểm của con đường chiến lược Trường Sơn ,và trái tim rực đỏ của họ , của những người con gái Việt Nam anh hùng là những ngôi sao xa xoâi maõi maõi lung linh toûa saùng . Truyện những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê đã làm sống lại trong lòng ta hình ảnh tuyệt đẹp và những chiến công phi thường của tổ trinh sát mặt đường của Định , Nho , chị Thao , của hàng ngàn , hàng vạn cô thanh niên xung phong thời chống Mĩ . Chiến công thầm lặng của Phương Định và đồng đội là bài ca anh hùng . Truyện những ngôi sao xa xôi có cách kể chuyện độc đáo ở ngôi thứ nhất từ điểm nhìn cuûa nhaân vaät chính . Ngheä thuaät mieâu taû taâm lí nhaân vaät taøi tình , caùch keå xen keõ đoạn hồi ức với đoạn tả cảnh chiến đấu thật hay . Bài viết có nhièu đoạn sủ dụng câu văn ngắn và câu văn dài , ngôn ngữ tự nhiên gần khẩu ngữ. Chiến tranh đã đi qua . Sau ba thập kỉ , đọc truyện những ngôi sao xa xôi , ta như được sống lại những năm tháng hào hùng của đất nước . Trong lòng ta biết bao khâm phục và tự hào thế hệ đi trước . Mãi mãi những Phương Định , chị Thao , Nho gần xa vẫn tỏa sáng hồn ta với bao ngưỡng mộ .. Nói với con (Y Phöông ) Lòng yêu thương con cái , ước mong thế hệ sau tiếp nối xứng đáng , phát huy truyền thống của tổ tiên , quê hương, vốn là một tình cảm cao đẹp của con người Việt Nam ta suốt bao đời nay . Bài thơ Nói với con của Y Phương cũng nằm trong mạch cảm hứng lớn rộng , phoå bieán aáy . Bài thơ có 28 câu thơ tự do , câu ngắn nhất chỉ có hai chữ , câu thơ dài nhất là mười chữ , phần nhiều là những câu thơ bốn chữ , năm chữ , lại có câu thơ cất lên như một khẩu ngữ , nhưng rất gợi rất đậm đà vì thấm đẫm tình cha , vì cách biểu cảm chân tình , mộc mạc . Bài thơ đi từ tình cảm riêng mở rộng thành tình cảm chung ; từ tình cảm với con , tình cảm gia đình mở rộng ra tình cảm quê hương ; từ kỉ niệm gần gũi nâng lên thành lẽ soáng . Tràn ngập những vần thơ là tình thương con , là niềm tự hào đối với quê hương xứ sở .các câu thơ : Người đồng mình yêu lắm con ơi Người đồng mình thô sơ da thịt Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương.

<span class='text_page_counter'>(67)</span> Những câu thơ này đứng chốt ở các trọng điểm , như những luyến láy , những điệp khúc laøm cho aâm ñieäu , nhaïc ñieäu thô ngaân vang , daøo daït . Chúng ta hãy khẽ ngâm lên những câu thơ của Y Phương : Chân phải bước đến cha chân trái bước tới mẹ Một bước chạm tiếng nói Hai bước tới tiếng cười Ta tưởng như đang được ngắm một bức tranh tứ bình có bốn hình ảnh : chân phải , chân trái , tiếng nói , tiếng cười của một em be ùđang chập chững tập đi đang bi bô tập nói . Lúc thì sà vào lòng mẹ , lúc thì níu lấy tay cha . Điệp ngữ bước tới và động từ chạm dùng rất khéo , làm nổûi bật cái hồn bức tranh về gia đình hạnh phúc : đôi vợ chồng trẻ với đứa con thơ đầu lòng . Người đồng mình yêu lắm con ơi ! Sao không yêu ? Phải yêu nhiều lắm chứ ! Người đồng mình yêu lắm con ơi Đan lờ cài hoa nan Vaùch nhaø ken caâu haùt Rừng cho hoa Con đường cho những tấm lòng . Đứa con dần lớn khôn , trưởng thành trong cuộc sống lao động , trong thiên nhiên thơ mộng và nghĩa tình sâu nặng của người đồng mình – quê hương . Ba chữ Người đồng mình mang cách nói riêng mộc mạc , mang tính địa phương của người dân tộc Tày . Có thể nói cuộc sống lao động cần cù ,êm đềm và tươi vui của người đồng mình được gợi lên qua các hình ảnh đẹp : đan lờ cài hoa nan- Vách nhà ken câu hát . Đan lờ bắt cá , ken vách dựng nhà cùng với hoa rừng , trong câu hát then , hát lượn ... trong ngày hội lùng tùng ...Các động từ cài , ken , ngoài nghĩa miêu tả còn nói lên tình cảm gắn bó , quấn quýt trong lao động, làm ăn của đồøng bào quê hương. Rừng núi quê hương thơ mộng và trữ tình , nghĩa tình . thiên nhiên che chở , nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn , lối sống : rừng cho hoa , con đường cho những tấm lòng . Bên cạnh cuộc sống lao động , nhà thơ Y Phương nói về những đức tính của người đồng mình và mơ ước của người cha về con mình . Sống trên đá không chê đá gập ghềnh Sống trong thung không chê thung nghèo đói Người đồng mình thô sơ da thịt Chaúng maáy ai nhoû beù Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương Coøn queâ höông thì laøm phong tuïc Người đồng mình sống vất vả , nghèo đói , cực nhọc , lam lũ nhưng mạnh mẽ , khoáng đạt với chí lớn , luôn yêu quí , tự hào và gắn bó với quê hương . Người cha muốn giáo dục con sống phải có nghĩa tình , chung thủy với quê hương , biết chấp nhận và vượt qua gian nan thử thách bằng ý chí và niềm tin của mình . Không chê bai phản bội quê hương dù quê höông coøn ngheøo , coøn buoăn , coøn vaẫt vạ gian nan . Người đồng mình mộc mạc , sống khoáng đạt , hồn nhiên mạnh mẽ như sông như suối , giàu chí khí , giàu niềm tin : lên thác xuống ghềnh , không lo cực nhọc : nhạt muối.

<span class='text_page_counter'>(68)</span> vơi cơm miệng vẫn cười . Họ có thể thô sơ về da thịt , ăn mặc giản dị áo chàm , khăn piêu … Nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn , ý chí , nghị lực và đặc biệt khát vọng xây dựng quê hương . Họ xây dựng quê hương bằng chính sức lực và sự bền bỉ của mình chống bão lụt , núi đổ , rừng động : tự đục đá kê cao quê hương . Họ sáng tạo và lưu truyền những phong tục tập quán tốt đẹp riêng của mình . từ đó người cha mong muốn con biết tự hào với truyền thống quê hương , dặn dò con cần tự tin , vững bước trên đường đời . Cha nói với con cũng là khuyên con một bài học đạo lí làm người . Quê hương sau những năm dài chiến tranh , chưa giàu , chưa đẹp , nên con phải biết gắn bó với quê hương : không chê… không chê … không lo … Trước thử thách khó khăn con không được sống tầm thường , sống hèn kém . Phải lao động sáng tạo để xây dựng , để kê cao quê hương . Ta thấy nhà thơ Y Phương sử dụng nghệ thuật ẩn dụ so sánh , những thành ngữ dân gian . Điệp ngữ sống ba lần vang lên như khẳng định một tâm thế , một bản lĩnh , một dáng đứng … Điều mà cha vẫn muốn cha mong con , hi vọng ở con . Lời thơ giản dị , chắc nịch mà lay động thấm thía . Lời cuối nói với con càng trở nên tha thiết . Cha nhắc con khi lên đường không bao giờ được sống tầm thường , sống nhỏ bé trước thiên hạ . Phải biết giữ lấy cốt cách giản dị , mộc mạc của người lao động . Hai tiếng nghe con là cả một tấm lòng cha bao la . Con ôi tuy thoâ sô da thòt Lên đường Không bao giờ nhỏ bé được Nghe con . Một cảnh tượng cảm động đang diễn ra trước mắt chúng ta . Cha hiền từ âu yếm nhìn con , xoa đầu con . Đứa con cuối đầu lắng nghe cha nói , cha dặn . Y Phương đã tạo nên một khoâng khí gia ñình aám aùp tình cha con . Y Phương là một người cha rất thương con . Ông là một người tình nghĩa chung thủy với quê hương . Thơ ông rất hồn hậu , đậm đà . Tóm lại bài thơ Nói với con của Y Phương bằng những từ ngữ , hình ảnh giàu sức gợi cảm , nhà thơ đã thể hiện tìmh cảm ấm cúng , ca ngợi truyền thống cần cù ,sức sống mạnh mẽ của quê hương dân tộc mình , và gợi nhắc con tình cảm cũng như ý chí vươn lên trong cuoäc soáng .. Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ ( Nguyeãn Khoa Ñieàm ) Viết về bà mẹ Việt Nam trong thời kì chống Mĩ , bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ độc đáo và rất hay .Bài thơ được phổ nhạc thành ca khúc từng làm rung động hàng triệu trái tim . Bà mẹ được nói đến trong bài thơ là bà mẹ người Tà ôi có một tình thương mênh mông : thương con thương làng đói , thương bộ đội , thương đất nước . Bài thơ có ba khúc ca được sáng tạo theo âm điệu dân ca , điệu ru con của đồng bào Tà ôi trên miền núi Thừa Thiên . Mở đầu mỗi khúc ca là một điệp khúc ngọt ngào tha thiết : Em Cu Tai nguû treân löng meï ôi ! Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ ….

<span class='text_page_counter'>(69)</span> Coù luùc nhö voã veà yeâu thöông . Tình meï hay taám loøng nhaø thô ; Ngủ ngoan a-kay ơi , ngủ ngoan a-kay hỡi … Khúc ca thứ nhất là tiếng ru khi mẹ điệuä con giã gạo : Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội Nhip chaøy nghieâng , giaác nguû em ngieâng Moà hoâi meï rôi maù em noùng hoåi Vai meï gaày nhaáp nhoâ laøm goái Lưng đưa nôi và tim hát thành lời . Tieáng ru con nghieâng theo nhòp chaøy laøm cho giaác nguû em Cu Tai cuõng nghieâng theo .Con như đang chia sẻ sự vất vả của mẹ . Má em cũng nóng hổi vì bao mồ hôi mẹ tuôn rơi . Hàng loạt hình ảnh hoán dụ ( mồ hôi , má , vai, lưng , tim ) được sử dụng rất đắt để thể hiện trái tim yêu thương mênh mông của người mẹ nghèo . Lưng mẹ là chiếc nôi để con lớn lên . Tim mẹ dạt dào tình mẫu tử , đã hát thành lời . Hạt gạo hậu phương là hạt vàng làng ta ; hạt gạo của mẹ nặng tình nặng nghĩa , rất đáng tự hào : Mẹ thương a-kay , mẹ thương bộ đội Khúc ca thứ hai là tiếng ru khi mẹ tỉa bắp trên núi ka-lưi . Người mẹ cần cù và đảm đang vừa địu con vừa làm rẫy .Nhà thơ so sánh lưng núi với lưng mẹ nhằm khẳng định đức tình kiên nhẫn , chịu đựng gian khổ của người mẹ nghèo : Meï ñang tæa baép treân nuùi Ka – löi Löng nuùi thì to maø löng meï nhoû . Mặt trời trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là một hình ảnh ẩn dụ nói lên tình thương , niềm tự hào của mẹ đối với Cu –Tai , vì em là nguồn sống nguồn hạnh phúc của mẹ : Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng Meï nhaân haäu , loøng meï bao la mang naëng tình nhaø nghóa xoùm : Mẹ thương a-kay ,mẹ thương làng đói . Thời kháng chiến hạt gạo cắn đôi, hạt muối chia đều là thế Khúc ca thứ ba , nhịp điệu vang lên dồn dập . Đó là lúc ; Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối , dồn đồng bào Tà –Ôi vào chỗ chết , mẹ địu con khi đang chuyển lán và đạp rừng . Caû gia ñình meï cuøng ra traän , mang taàm voùc anh huøng: Anh trai caàm suùng ,chò gaùi caàm choâng Mẹ điêụ em đi để giành trận cuối Từ trên lưng mẹ , em đến chiến trường Từ trog đói khổ em vào Trường Sơn . Khúc ca thứ ba là khúc ca chiến đấu . Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh là truyền thống anh hùng của người phụ nữ Vệt Nam . Ở đây ,người mẹ điệu con ra trận , đi tiếp tế , đi tải đạn vì sự nghiệp giải phóng miền Nam , thống nhất đất nước : Mẹ thương a- kay , mẹ thương đất nước . Trong bài thơ này Nguyễn Khoa Điềm ba lần nói lên giấc mơ đẹp của bé thơ : Con mô cho meï haït gaïo traéng ngaàn Mai sau con lớn vung chày lún sân Con mô cho meï haït baép leân ñieàu Mai sau con lớn phát mười ka-lưi Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ.

<span class='text_page_counter'>(70)</span> Mai sau con lớn làm người tự do ... Đó là giấc mơ tình thương , giấc mơ về ấm no , hạnh phúc , giấc mơ chiến thắng Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ xứng đáng là bài ca lòng mẹ Việt Nam . Mọi đứa con chỉ có thể lớn lên bằng dòng sữa , bằng lời ru , tình thương của mẹ . Bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm là tượng đài tráng lệ về bà mẹ Việt Nam Anh hùng , bất khuất , trung hậu , đảm đang . Nó nhắc nhở mỗi chúng ta ghi sâu trong lòng tình cảm kính yêu và biết ơn người mẹ hiền của mỗi chúng ta , tự hào về bà mẹ Việt Nam .. Maây vaø soùng ( Ta – Go). Tình mẫu tử có lẽ là một trong những tình cảm thiêng liêng và gần gũi , phổ biến nhất của con người , đồng thời cũng là nguồn thi cảm không bao giờ cũ , không bao giờ vơi cạn của nhà thơ . Nếu Chế Lan Viên phát triển tứ thơ từ hình ảnh Con cò trong ca dao ; Nguyễn Khoa Điềm làm Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ thì đại thi hào Ấn Độ viết bài thơ Mây Và Sóng . Bài thơ mang sắc điệu trữ tình như một khúc đồng dao thể hiện niềm giao cảm thần tiên của tâm hồn tuổi thơ với mây và sóng , với thiên nhiên kì diệu . Mở đầu bài thơ là hình ảnh em bé ngước mắt nhìn trời xanh , lắng nghe Mây trên chín tầng cao vẫy gọi . Mây ân cần rủ em bé cùng du ngoạn Giỡn với sớm vàng đùa cùng trăng bạc từ bình minh đến lúc trăng lên . Mây được nhân hóa ,có gương mặt , nụ cười và giọng noùi thuû thæ taâm tình : Họ bảo : chúng ta vui chơi từ tinh mơ cho đến hết ngày , Chúng ta giỡn với sớm vàng đùa cùng trăng bạc . Cuộc đối thoại giữa mây với em bé không chỉ nói lên tâm hồn bay bổng hồn nhiên của tuổi thơ mà còn khẳng định ngợi ca tình yêu mẹ của tuổi thơ rất đẹp và mãnh liệt : Mẹ đợi tôi ở nhà , tôi có lòng nào bỏ được mẹ tôi . Em bé yêu mẹ hiền , yêu mái nhà êm ấm ... là những tình cảm trong sáng , đằm thắm của em bé . Có gì hạnh phúc hơn khi được sống bên mẹ hiền : Con laøm maây nheù , meï laøm maët traêng Hai tay con ôm mặt mẹ , còn mái nhà ta là trời xanh. Trí tưởng tượng kì diệu và tình yêu thiếu nhi nồng nàn của ta-gor đã sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về hạnh phúc tuổûi thơ . Ở đây , tình mẫu tử được nâng lên ngang tầm với vũ truï ! Em bé hết ngắm mây bay lại tiếp tục nghe sóng reo , sóng hát . Sóng như sứ giả của đại dương xa vời đến với em bé . Sóng reo rì rầm . sóng vẫy gọi chào mời em bé . Tuổi thơ nào mà chẳng khao khát , ước mơ ? Sóng thủ thỉ cùng em về một cuộc viễn du : Chúng ta ca haùt sôùm chieău , chuùng ta ñi maõi maõi . Vaø roăi cöù ñi ñeẫn bôø bieơn ... soùng seõ cuoân con ñi đến mọi bến bờ , mọi chân trời xa lạ ... Mơ ước muốn đi xa , nhưng em bé lại đắn đo , băn êkhoăn : Nhưng đến tối , mẹ tôi nhớ thì sao ? Sóng liếm vào bãi cát rồi lại rút ra xa , lại vỗ vào ... Em bé bâng khuâng nhìn theo con sóng xa vời trên trùng dương : Tôi làm thế nào mà rời mẹ tôi được ? Họ (sóng ) bèn mỉm cười , và nhảy nhót , họ dần đi xa ....

<span class='text_page_counter'>(71)</span> Em bé mơ ước được đi xa , nhưng rồi em bé lại băn khoăn , lưỡng lự . em đã không thể đi du ngoạn cùng mây để bay cao , nên em cũng không thể đi chơi với sóng để đi xa . Với em chỉ có mẹ hiền yêu thương , nguồn vui ấm áp cao cả , thiêng liêng mà tạo hóa đã dành cho phần hơn : Tình mẫu tử . Em mơ ước đến với mọi chân trời góc biển , nhưng em không nỡ để mẹ nhớ , mẹ buồn . Trong hiện tại , em không thể nào rời mẹ trong khoảnh khắc . Niềm vui về người mẹ hiền cứ chói ngời mãi hồn em . Con laøm soùng nheù , meï laøm maët bieån Con laên , laên nhö laøn soùng voã Tiếng con cười giòn tan vào gối mẹ Và không ai trên đời này biết được mẹ con ta đang ở đâu ... Caâu thô Con laøm soùng nheù, meï laøm maët bieån laø moät caâu thô haøm nghóa , giaøu tính trieát lí . Không có biển thì không có sóng . Có biển mới có sóng , cũng như có mẹ mới có em thơ . Lúc sóng vỗ cũng là lúc biển reo , biển hát . Lúc con cười giòn tan vào gối mẹ là lúc mẹ hạnh phúc . Vì thế , con ngoan , vui chơi là mẹ hạnh phúc . Nhà thơ mượn sóng và biển để nói cùng tuổi thơ gần xa bao điều . Tính độc đáo của bài thơ là hai mẫõu đối thoại giữa em bé với Mây , giữa em bé với Sóng , đan xen vào lời con thủ thỉ với mẹ hiền . Một bài thơ trong sáng , hồn hậu của Ta – gor noùi veà tuoåi aáu thô . Yeâu thieân nhieân , soáng hoàn nhieân thích phieâu lieâu maïo hieåm , trí tượng phong phú , hiếu thảo ... là đời sống tinh thần và tâm hồn tuổi thơ . Em bé được nói trong Maây vaø Soùng raát yeâu thöông meï hieàn . Mây và Sóng là môït bài thơ hay nói về hạnh phúc tuổi thơ . Hình tượng Sóng ,Mây , Mẹ thấm đượm vẻ đẹp nhân văn về chủ đề ấy .. Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật). Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn Hai đứa ở hai đầu xa thẳm Đường ra trận mùa này đẹp lắm Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn tây (Trường Sơn đông , Trường Sơn tây) Năm 1970 , tập thơ vầng trăng vầng lửa của Phạm Tiến Duật ra đời . Tiếng thơ của người chiến sĩ hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn cất lên hào hùng và hồn nhiên kì lạ . Thơ Phạm Tiến Duật thể hiện tình cảm yêu nước và chí khí anh hùng của thế hệ thanh niên trong cuộc chiến tranh chống Mĩ qua những hình ảnh cô gái thanh niên xung phong và anh bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn . Đăïc biệt là hình ảnh những người chiến sĩ lái xe hiên ngang , yêu đời được thể hiện trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính .Đây là một trong nhữngbài thơ đặc sắc cuả nhà thơ Phạm Tiến Duật ở trong chùm thơ được taëng giaûi nhaát cuoäc thi thô cuûa baùo vaên ngheä 1969-1970 . Thật vậy , bài thơ về tiểu đội xe không kính là một tìm tòi mới lạ , một sự cảm nhận độc đáo sáng tạo của Phạm Tiến Duật. Với giọng điêụ thơ ngang tàng , tinh nghịch mà sôi nổi tươi trẻ đã làm sống lại hình ảnh thế hệ trẻ đặc biệt là lớp trẻở tuyến đường Trường Sơn và không khí của thời chống Mĩ ác liệt mà phơi phới tin tưởng ..

<span class='text_page_counter'>(72)</span> Mở đầu bài thơ là hình ảnh độc đáo những chiếc xe không kính vẫn băng ra chiến trường Khoângcoù kính khoâng phaûi vì xe khoâng coù kính Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi . Từ bao giờ những hình ảnh xe cộ được đưa vào thơ , thường được các nhà thơ lãng mạn hóa , mĩ lệ hóa và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực . Nhưng hình ảnh những chiếc xe trong thơ Phạm Tiến Duật rất khác , nó khác vì trước hết nó lạ mà rất thực , thực đến trần trụi Khoâng coù kính khoâng phaûi vì xe khoâng coù kính . Vì sao xe không có kính ? Nhà thơ giải thích nguyên nhân cũng rất thực : Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi . Những hình hảnh thật này được diễn đạt bằng hai câu thơ rất gần với hai câu văn xuôi lại thêm cái giọng thơ thản nhiên pha chút ngang tàng càng gây ra sự chú ý về sự khác lạ của những chiếc xe . Không chỉ xe không có kính mà bom đạn chiến tranh còn làm cho những chiếc xe ấy biến dạng thêm , trần trụi hơn nữa . Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe thùng xe có xứớc. Chiến tranh khốc liệt , chiến tranh dã man của quân thù đã làm cho những chiếc xe không còn giữ nguyên hình dạng ban sơ của nó . Hình ảnh những chiếc xe biến dạng như thế này ta thấy không hiếm trong chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn năm xưa . Đây là một hình ảnh thực nhưng phải có một tâm hồn nhạy cảm , sống gần gũi với những chiến sĩ lái xe cộng với nét ngang tàng tinh nghịch thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa nó thành hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống Mĩ cứu nước . Bài thơ không dừng lại ở việc miêu tả những chiếc xe không kính , mà cái đích của nhà thơ vươn tới trong bài thơ này là hình ảnh của những chiến sĩ lái xe trong những chiếc xe không kính đó . Họ là lớp người đang xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước mà lòng phơi phới dậy tương lai . Chính hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi rõ hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn . Mặc dù thiếu đi những điều kiện , phương tiện về vật chất tối thiểu nhưng đó là một cơ hội để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp sức mạnh tinh thaàn cuûa mình . Ung dung buoàng laùi ta ngoài Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng Pham Tiến Duật đã diễn tả một cách cụ thể và gợi cảm về hình ảnh những chiến sĩ lái xe , trước hết phải nói là ở họ có một tư thế rất ung dung hiên ngang . Lái xe không kính phải chạy trên tuyến đường Trường Sơn nhưng những chiến sĩ ấy vẫn có một tinh thần bất khuất vẫn có một tư thế nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng . Trong buồng lái qua khung cửa xe không còn kính chắn gió người lái xe cảm thấy tất cả thế giới bên ngoài ùa vào buồng lái với một tốc độ chóng mặt . Nhìn thaáy gioù vaøo xoay maét ñaéng nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Nhö sa nhö uøa vaøo buoàng laùi ..

<span class='text_page_counter'>(73)</span> Ta thấy dường như không chỉ có con đường mà cả bầu trời , với sao trời , cánh chim đều ùa vào buồng lái . Đây là những cảm giác mạnh và đột ngột cảm nhận trên một chiếc xe không kính chạy nhanh . Cảm ơn nhà thơ đã diễn tả chính xác gợi cảm xúc gây ấn tượng mạnh mẽ với mỗi chúng ta . Cảm giác ấy của nhà thơ cũng chính là cảm giác của mỗi người đọc , tưởng chừng mình đang ngồi trên những chiếc xe không kính lao ra chiến trường . Ngoài tư thế ung dung hiên ngang ta còn cảm nhận ở bài thơ những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ lái xe . Đó là tinh thần bất chấp khó khăn gian khổ , nguy hiểm Không có kính ừø thì có bụi Bụi phun tóc trắùng như người già Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha Không có kính ừ thì ướt áo Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay lái trăm cây số nữa Mưa ngừng gió lùa hô mau thôi. Đọc những câu thơ trên ta thấy ngôn ngữ rất gần với những câu văn xuôi , bình dị mộc mạc với cấu trúc lặp lại : Không có ... ừ thì ; chưa cần , giọng thơ tin tưởng pha chút ngang tàng nhà thơ diễn tả rất đúng nét tính cách ,Bất chấp khó khăn coi thường gian khổ , nguy hiểm của những chiến sĩ lái xe . Chưa hết những phẩm chất cao quý ấy còn thể hiện ở sự sôi nổi , trẻ trung , lạc quan yêu đời . Ta thấy họ lái xe thiếu đi những điều kiện của những chiếc xe không kính gian khổ nguy hiểm đang chờ , thế mà họ vẫn tươi trẻ ,vui nhộn , phì phèo châm điếu thuốc , nhìn nhau mặt lấm cười ha ha . Đó có phải chăng là tiếng cười sảng khoái , hồn nhiên , vẻ mặt trẻ trung của những người chiến sĩ dày dạn đạn bom mà vẫn tin tưởng lạc quan trong suốt chặng đường đi tới , đêm ngày những chiếc xe vẫn bon bon ra chiến trường . Song cũng có lúc đoàn xe dừng lại , ấy là lúc ngồi nghỉ hoặc tới đích . Hai khổ thơ thứ năm và thứ sáu trong bài thơ miêu tả những cuộc gặp gỡ vui vầy trong tình đồng chí , đồng đội thật cảm động Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây hợp thành tiểu đội Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi lại đi trời xanh thêm Hình tượng người chiến sĩ lái xe thêm một nét đẹp nữa , đó là tình cảm gắn bó chia ngọt xẻ bùi . Khi hành quân các anh chào hỏi nhau trong cảnh ngộ đôïc đáo Bắùt tay qua cửa kính vỡ rồi . lúc nghỉ lại các anh trò chuyện , ăn uống , nghỉ ngơi nhường nhịn nhau như.

<span class='text_page_counter'>(74)</span> anh em ruột thịt . Song cũng chỉ một thoáng chốc để rồi lại tiếp tục hành quân lại đi lại đi trời xanh thêm . Ý thơ ở đây thật lãng mạn , thật mộng mơ . Vậy sức mạnh nào giúp họ vượt qua coi thường gian khổ nguy hiểm , có lòng dũng cảm và lạc quan như thế ? Có phải đó là nhiệt tình yêu nước của thế hệ trẻ Việt Nam những năm chiến tranh chống Mĩ . Đó cũng là khát vọng giải phóng miền Nam của những chaøng trai treû vaø cuõng laø cuûa caû daân toäc : Tất cả nói một lời giải phóng ! Cứu miền Nam ! Cứu miền Nam ! Ôi cửa phật cũng dầu sôi lửa bỏng Daãu thieâu mình laøm ñuoác vaãn cam Kết thúc bài thơ trở lại hình ảnh những chiếc xe trần trụi do bom đạn chiến tranh , thiếu đi mọi cái cần có ở bên ngoài nhưng trong xe là người lái với trái tim vì miền Nam tổ quốc thì xe vẫn băng ra chiến trường . Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe thùng xe có xước Xe vẫn chay vì miền Nam phía trước Chæ caàn trong xe coù moät traùi tim Bằng sự đối lập giữa vật chất và tinh thần giữa hình ảnh những chiếc xe trần trụi và con người trong buồng lái , tác giả đã đem đến cho người đọc một ấn tượng khó phai mờ qua cách lí giải bất ngờ mà chí lí : Chỉ cần trong xe có một trái tim . Với cách lí giải này ta hiểu được côi nguồn sức mạnh của cả đoàn xe , gốc rễ phẩm chất anh hùng của mỗi người cầm lái tích tụ , đọng kết lại ở cái trái tim gan gốc kiên cường , giàu bản lĩnh và chan chứa tình yêu thương này . Phải chăng chính trái tim con người đã cầm lái ? Tình yêu tổ quốc , tình yêu đồng bào , đồng chí ở miền Nam đau khổ đã khích lệ động viên người chiến sĩ vận tải vượt qua khó khăn gian khổ , luôn lạc quan bình tĩnh năm chắc vô lăng nhìn thật đúng hướng để đưa đoàn xe khẩn trương đến đích . Ngữ điệu câu thơ thật nhẹ nhàng , song khả năng khắc họa hình tượng và khơi gợi suy luận triết lí thật sâu sắc . Câu thơ còn hướng người đọc tới một chân lí của thời đại chúng ta : Sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí , công cụ mà là con người mang trái tim nồng nàn yêu thương , ý chí kiên cường , dũng cảm niềm lạc quan và niềm tin vững chắc . Có thể nói cả bài thơ hay nhất là câu thơ này . Nó là nhãn tự ( là con mắt ) của thơ làm bật sáng chủ đề tỏa sáng vẻ đẹp của người chiến sĩ lái xe . Bài thơ về tiểu đội xe không kính có giá trị nghệ thuật đặc sắc góp vào sự phong phú của thơ ca chống Mĩ . Phạm Tiến Duật nắm bắt và đưa vào thơ những hình ảnh , những chi tiết rất thực và sinh động của hiện thực chiến tranh để ngợi ca hình ảnh các chiến sĩ lái xe . Họ là hình ảnh tiêu biểu của thế hệ trẻ , một thế hệ sống đẹp , ý thức được trách nhiệm trước vận mệnh dântộc , đất nước , trong gian khổ hi sinh vẫn phơi phới tin tưởng .. Laëng leõ sa pa (Nguyễn Thành Long). Truyeän ngaén “ Laëng leõ Sa Pa ” cuûa nhaø vaên Nguyeãn Thaønh Long saùng taùc naêm 1970 trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống chiến tranh phá hoại của giặc Mĩ.

<span class='text_page_counter'>(75)</span> trên miền Bắc nước ta . “Lặng lẽ Sa Pa” là một truyện ngắn hay giàu chất thơ và ẩn chứa bên trong nhiều ý vị sâu sắc . Đó là một lời ca ngợi cuộc sống ca ngợi tình người . Truyện ngắn “ Lặng lẽ Sa Pa ” đã ghi lại cuộc gặpï gỡ tình cờ ngắn ngủi thoáng qua trong khoảng thời gian chưa đầy 30 phút đồng hồ giữa bốn người trong một khung cảnh thiên nhiên đẹp đến hư ảo của Sa Pa đầy núi cao và mây trắng . Chính cái nơi xa xôi hẻo lánh lặng lẽ này tình người được bộc lộ một cách ấm áp nhất , trọn vẹn nhất . “ Laëng leõ Sa Pa ” noùi veà anh thanh nieân , nhaân vaät chính cuûa taùc phaåm vaø cuõng laø nhân vật gây xúc cảm mạnh mẽ nhất trong lòng người đọc . Anh là một cán bộ khí tượng kieâm vaät lí ñòa caàu . Anh soáng vaø laøm vieäc treân ñænh nuùi Yeân Sôn cao 2600m , nôi ñaây boán bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo , quanh năm suốt tháng không một bóng người chỉ biết làm bạn với âm thanh của núi rừng cho nên làm cho cảm giác cô đơn của anh lại càng tăng lên gấp bội . Đúng như lời nhận xét có tính chất vui đùa của bác lái xe anh là “ Một trong những con người cô độc nhất thế gian ”. Nhưng trong cái sự cô độc anh thấy tâm hồn lại gần gũi với con người biết chừng nào . Aám áp tình người biết chừng nào ! Chính vì điều đó mà khao khát được gặp gỡ con người , được trò truyện với con người luoân luoân loùe leân trong taâm trí anh .Vaø theá laø anh nghó ra moät caùi meïo vöaø thoâng minh nhưng lại vừa tinh nghịch : “ Khuân một thân cây ra chắn ngang giữa đường để xe dừng lại ” để anh được găp con người , nói chuyện một lát cho đỡ nhớ . Cái hành động ấy của anh không những không làm cho ai chê trách mà còn gây cho mọi người một tình cảm sâu sắc đối với anh . Thường thì trong sự cô độc con người ta dễ trở nên buông thả , bất cần , nhưng ở đây lại hoàn toàn khác . Anh thanh niên đã gắn mình vào cuộc sống chung của xã hội loài người bằng mọi hoạt động không thể thiếu được ở mỗi con người . Chúng ta hãy lắng nghe anh thanh nieân noùi veà coâng vieäc cuûa mình . “ Coâng vieäc noùi chung deã , chæ caàn chính xác , Gian khổ nhất là lần ghi và báo về lúc một giờ sáng . Rét , bác ạ! Ở đây có cả mưa tuyết đấy . Nưả đêm đang năm trong chăn , nghe chuông đồng hồ chỉ muốn đưa tay tắt đi … Xách đèn ra vườn , gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực mình ra là ào ào xô tới . Xong việc không thể nào ngủ được ”. Mặc dù gian khổ và khắc nghiệt như vậy nhưng anh đã hoàn thành tốt công việc của mình với một ý thức trách nhiệm cao , luôn say sưa với công việc và suy nghĩ rằng : “Khi ta làm việc ta với công vệc là đôi sao gọi là một mình được ?. huống chi công việc của cháu gắn liền công việc của bao anh em đồng chí dưới kia . Công việc của cháu gian khổ thế đấy chứ cất nó đi cháu buồn đến chết mất .” Và anh đã không bỏ qua một giờ làm việc nào dẫu đó là giữa ban ngày hay là lúc ban đêm , Khi gió lớn hay tuyết rơi . Bởi anh hiểu được rằng mỗi việc làm của anh là một cái móc xích trong cái chuỗi công việc chung của nhiềøu người . Ta thấy anh thanh niên đã tìm thấy hạnh phúc trong sự đóng góp của mình đối với xã hội . Dù ở vị trí gọi là “Cô độc nhất thế gian ” nhưng anh không cô độc chút nào mà trái lại anh đã tìm được ý nghĩa lớn lao trong công việc thầm lặng của mình . Không chỉ có trách nhiệm với công việc , anh thanh niên còn là một người có trách nhiệm với mọi người và với chính mình . Trách nhiệm đó đã được anh thực hiệân một cách rất thực với lòng mình . Đó là thái độ quan tâm đến nhiều người : “Tặng củ tam thất cho bác lái xe để cho vợ bác ấy ngâm rượu uống bồi dưỡng sức khỏe ”. Đó còn là sự đón tiếp ông họa sĩ và.

<span class='text_page_counter'>(76)</span> cô kĩ sư trẻ thật niềm nở và chu đáo .. Không phải chỉ tìm thấy được hạnh phúc trong sự đóng góp của mình bằng tinh thần trách nhiệm , bằng sự say sưa trong công việc mà anh còn biết tự tạo ra cho mình một cuộc sống có ý nghiã với một thời gian biểu nghiêm ngặt . Anh chăm chút cho mình một vườn hoa đẹp có nhiều loài hoa với nhiều màu sắc . ĐoÙ không chỉ là hoa của thiên nhiên mà đó còn là những cái gì tốt đẹp nhất trong cuộc đời . Đó chính là tâm hồn mà chính anh đã hào phóng tặng cho mọi người . Điều ấy đã toát lên triết lí sống : Hãy sống tốt đẹp , hãy đến với cuộc sống , đến với mọi người bằng những điều tốt đẹp nhất của mình . Qua cuộc gặp gỡ tình cờ này , qua câu chuyện của anh với mọi người ta còn thấy ở anh một con người bộc trực vô tư , hồn nhiên thật dễ thương . Anh cũng là một người hay nghĩ về người khác , nói về người khác . Nói về mình đã ít , mà cách nói lại hết sức nhẹ nhàng đó là một nét đẹp ở anh thanh niên . Khi thấy ông họa sĩ vẽ mình anh thanh niên bối rối và bảo : “Cháu không xứng đáng vẽ đâu ” và anh giới thiệu với ông họa sĩ những người xứng đáng vẽ hơn . Đó là ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa , đó là anh cán bộ khoa học chuyên nghiên cứu sét đề làm bản đồ sét cho đất nước . Cùng với nhân vật anh thanh niên ta còn thấy các nhân vật khác cũng có tâm hồn cao đẹp , trong sáng , có những phẩm chất đáng quý và luôn sống có ích cho đời . Đó là bác lái xe , nhân vật môi giới có tác dụng kích thích sự chú ý , gợi sự hứng thú cho người đọc đón chờ sự xuất hiện của anh thanh niên , để cuộc gặp gỡ trở nên thật đẹp . Bác còn là một người ân cần niềm nở , hiếu khách . Oâng họa sĩ già tuy đã được cho về hưu nhưng ông vẫn thích thú đi tìm cái lạ cho nghệ thuật và ông cho rằng : “Đối với một nghệ sĩ trong cuộc đời có hai hồi thích nhất , đó là hồi mình còn trẻ và hồi này của tôi . Mình có thể năng nổ đi vẽ như thời thanh niên , mình có thêm sự chín chắn mà mình chưa có ”. Cũng trong cuộc gặp gỡ đó người nghệ sĩ đã biết rõ sự bất lực của nghệ thuật , của hội họa trong cuộc hành trình vĩ đại của cuộc đời . Qua chuyến đi thực tế này ông họa sĩ dã tìm được cái vĩ đại của cuộc sống , yêu thêm cuộc sống và khát khao phản ánh vẻ đẹp của cuộc đời. Đó còn là cô kĩ sư trẻ mới ra trường , bước qua cuôïc đời học trò thật đẹp để bước vào cuộc sống mới tinh cái gì cũng làm cho cô háo hức , cô khao khát , cô có thể đi bất cứ nơi đâu , làm bất cứ chuyện gì , nhận bất kì lương hướng , tiếp đón như thế nào . Nhưng cũng có bao điều làm cô lo ngại trước cuộc đời mới này . May thay trong cuộc gặp gỡ này đã đểû lại trong cô một ấn tượng tốt đẹp và giúp cô luôn luôn có nghị lực để vững tin trong cuộc đời này . Tóm lại , những nhân vật được giới thiệu trong “ Lặng lẽ Sa Pa ” của Nguyễn Thành Long là những con người đáng yêu đáng quí . Họ là những con người mới của xã hội mới làm việc hết mình để phục vụ tổ quốc , phục vụ nhân dân . Beân caïnh thaønh coâng veà maët noäi dung , truyeän ngaén “ Laëng leõ Sa Pa ” coøn gaây aán tượng sâu sắc cho người đọc bằng nghệ thuật đặc sắc . Phải nói rằng đây là câu chuyện có kết cấu mạch lạc , hấp dẫn , cảnh vật thiên nhiên hiện ra thật sinh động , sát thực với đặc điểm địa lí vùng Sa Pa nên thơ . Các nhân vật trong truyện được tác giả miêu tả , xây dựng rất gần gũi với những con người giữa đời thường trong công việc lao động sản xuất và chiến đấu . Họ có diễn biến nội tâm , có việc làm sâu sắc phù hợp với hoàn cảnh.

<span class='text_page_counter'>(77)</span> sống , phù hợp với thời giạn , không gian của vùng Yên Sơn Sa Pa . Đặc biệt là những nhaân vaät khoâng coù teân keå caû nhaân vaät chính . Coù phaûi chaêng ñaây laø duïng yù ngheä thuaät cuûa tác giả để nói về những con người vô danh lặng lẽ . Họ là những người lái xe , bộ đội , kĩ sư , họa sĩ , thanh niên … say mê cống hiến . Họ gồm đủ mọi lứa tuôûi , đủ ngành nghề , ở nhieàu nôi . “ Lặng lẽ Sa Pa ” là bức tranh sinh động về cuôïc sống . Nó đã tái hiện trước người đọc những trang đời , những mảng , những nét cuộc sống một cách tinh tế và thơ mộng . Đó là cuộc gặp gỡ ngắn ngủi mà đầy thú vị của những con người biết sống đẹp . “ Lặng lẽ Sa Pa ” là truyện ngắn hay , giàu chất thơ . Truyện ca ngợi những con người sống đẹp , giàu tình nhân ái , hết lòng phục vụ đất nước và nhân dân . Sống nơi lặng lẽ non xanh nhưng họ chẳng lặng lẽ chút nào . Đúng như Bác Hồ có nói “Đất nước ta là một vườn hoa đẹp . Mỗi người là một bông hoa đẹp ”. Nhà văn Nguyễn Thành Long đã giành những lời tốt đẹp nhất nói về những con người đang sống và cống hiến giữa Sa Pa lặng lẽ . Mỗi người nơi non xanh ấy là một gương sáng , là một bông hoa ngát hương .. Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng). “Chiếc lược ngà” là truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyễn Quang Sáng . Truyện viết về tình cha con và nỗi đau trong chiến tranh do quân giặc gieo rắc thời chống Mĩ . Trong đó ông Sáu là một trong những nhân vật thể hiện sâu sắc chủ đề ấy Truyện chiếc lược ngà viết về ông Sáu xa nhà đi kháng chiến .Mãi đến khi con gái lên tám tuổi ông mới có dịp về thăm nhà , thăm con . Bé Thu không nhận ra cha vì vết thẹo trên mặt làm cho ông không còn giống với người trong bức ảnh chụp chung với mẹ mà em biết . Em đối xử với ông Sáu như người xa lạ . Đến lúc em nhận ra ông Sáu là cha , tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông sáu phải ra đi . Ở khu căn cứ , người cha dồn hết tình cảm yêu quí , nhớ thương đứa con vào việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để ntặng cô con gái bé bỏng . Trong một trận càn , ông hi sinh . Trước lúc nhắm mắt , ông còn kịp trao cây lược cho người bạn Ta thấy truyện “Chiếc lược ngà” đã thể hiện tình cảm cha con sâu sắc của ông Sáu và bé Thu trong hai tình huống : Hai cha con gặp nhau sau tám năm xa cách , nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận cha , đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu lại phải ra đi . Đây là tình huống cơ bản của truyện . Ở khu căn cứ , dồn hết tình yêu thương và mong nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con nhưng ông đã hi sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho con gái . Nếu tình huống thứ nhất bộc lộ tình cảm mảnh liệt của bé Thu đối với cha , thì tình huống thứ hai lại bộc lộ tình cảm sâu sắc của người cha đối với đứa con . Gặp lại con sau nhiều năm xa cách với bao nỗi nhớ thương nên ông Sáu không kìm được nỗi vui mừng trong phút đầu nhìn thấy đứa con . Nhưng thật trớ trêu , đáp lại sự vồ vập của người cha là thái độ ngờ vực , lãng tránh của bé Thu . Oâng Sáu càng muốn gần con thì bé Thu càng tỏ ra lạnh nhạt , xa cách . Tâm lí và thái độ ấy của Thu đã được biểu hiện qua hàng loạt chi tiết mà người kể chuyện quan sát và thuật lại rất sinh động : Nó hốt hoảng , mặt tái đi rồi vụt chạy và kêu thét lên khi mới gặp ông Sáu . Trong những.

<span class='text_page_counter'>(78)</span> ngày ông Sáu ở nhà bé Thu chỉ gọi trống không mà không chịu gọi cha . Nhất định không chịu nhờ ông giúp chắt nước nồi cơm to đang sôi , hất cái trứng cá mà ông gắp cho , cuói cùng khi bị ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà ngoại , khi xuống xuồng còn cố ý khua daây coät xuoàng keâu roãn raûng thaät to . Ta thấy bé thu có hành động và thái độ như thế là ương ngạnh nhưng sự ương ngạnh này của bé Thu là hoàn toàn không đáng trách . Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh , nío còn quá bé nhỏ để có thểû hiểu được những tình thế khắc nghiệt , éo le của đời sống và người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó đón nhận những khả năng bất thường nên nó không tin ông Sáu là cha nó chỉ vì trên khuôn mặt ông có thên vết thẹo , khác với hình ba mà mà nó đã được biết . Phản ứng tâm lí của em là hoàn toàn tự nhiên , nó càng chứng tỏ bé Thu có cá rtính mạnh mẽ , tình cảm của em sâu sắc , chân thật , em chỉ yêu ba khi tin chắc đó đúng là ba . Trong cái cứng đầu của em có ẩn chứa cả sự kiêu hãnh trẻ thơ về một tình yêu dành cho người cha khác – người trong tấm hình chụp chung với má em . Trong buổi sáng cuối cùng , trước phút ông sáu phải lên đường . thái độ và hành động của bé Thu đã đột ngột thay đổi hoàn toàn . Lần đầu tiên Thu cất tiếng gọi ba và tiếng kêu như xé : “Nó vừa kêu vừa chạy xô tới , nhanh như môït con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay oâm chaët laáy coå ba noù ” ; “Noù hoân ba noù cuøng khaép . Noù hoân toùc , hoân coå hoân vai , và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa ” ; “Hai tay nó siết chặt lấy cổ , chác nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó , nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó , và đôi vai nhoû beù cuûa noù run run .” Có thể nói nhờ cái đêm bỏ về ngoại Thu đã được bà giải thích về vết thẹo làm thay đổi khuôn mặt ba nó . Sự nghi ngờ bấy lâu đã được giải tỏa và ở Thu nảy sinh một trạng thái như là sự ân hận , hối tiếc : “ Nghe bà kể nó nằm im , lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn .” Vì thế trong giờ phút chia tay với cha , tình yêu và nỗi mong nhớ với người cha xa cách đã bị dồn nén bấy lâu nay bày ra thật mạnh mẽ , xen cả sự hối hận . Chứng kiến những biểu hiện tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông Saú phải chia tay , có gười không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì cảm thấy như có bàn tay ai naém laáy traùi tim mình . Ta thấy tình cảm ông Sáu với con được thể hiện phần nào trong chuyến về phép thăm nhà . khát khao mong muốn gặp con , muốn được ôm con vào lòng vuốt ve âu yếm , thèm một tiếng gọi cha , quan tâm chăm sóc con mặc dù đều bị con từ chối , làm cho ông Sáu buồn bã ,thất vọng . Nhưng tình cảm của người cha thể hiện sâu sắc nhất ở phần sau của truyện khi ông Sáu ở tại khu căn cứ . Nỗi day dứt , ân hận . ám ảnh ông suốt nhiều ngày sau khi chia tay với gia đình là việc ông đã đánh con khi nóng giận . rồi lời dặn của con “ Ba về ! Ba mua cho con một cây lược nghe ba ? ” đã thúc đẩy ông nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà dành cho con . Khi kiếm được khúc ngà voi , ông vô cùng vui mừng , sung sướng , rồi ông dành hết tâm trí , công sức vào việc làm cây lược . “Những lúc rỗi , anh cưa từng chiếc răng lược , thận trọng , tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc . Cây lược có khắc hàng chữ : “Yêu nhớ tặng Thu con của ba ” Chiếc lược đã thành một vật quí giá , thiêng liêng với ông Sáu . Nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến , nhớ thương mong đợi của.

<span class='text_page_counter'>(79)</span> người cha với đứa con xa cách . Nhưng rồi một tình cảm đau thương lại đến với cha con ông Sáu . Oâng đã hi sinh khi chưa kịp trao vào tay đứa con gái chiếc lược ngà . Có thểû nói câu chuyện chiếc lược ngà không chỉ nói lên tình cha con thắm thiết , sâu nặng của cha con ông Sáu mà còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những đau thương mất mát ,éo le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người , bao nhiêu gia ñình . Cùng với thành công về nội dung , ta thấy tác phẩm chiếc lược ngà còn thành công về mặt nghệthuật . Nguyễn Quang sáng đã xây dựng dược một cốt truyện khá chặt chẽ , có những yếu tố bất ngờ nhưng hợp lí . Bé Thu không nhận cha khi ông Sáu mới về thăm nhà rồi lại biểu lọ tình cảm thật nồng nhiệt , đầy xúc động với người cha trước phút chia tay . Tác giả lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp . Người kể chuyện trong vai một người bạn thân thiết của ông Sáu , không chỉ là người chứng kiến khách quan để kể lại mà còn bày tỏ sự đồng cảm , chia sẻ với nhân vật . Truytện còn khắc họa tâm lí nhân vật , hành động nhân vật thật sâu sắc , chứng tỏ tác giả am hiểu tâm lí trẻ em nên đã diễn tả sinh động với tấm lòng yêu mến , tôn trọng những tình cảm trẻ thơ . Ttruyện chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng là mọt truyện ngắn hay , tuyện đã khơi gợi trong lòng người đọc bao ý nghĩ về sự hi sinh và hạnh phúc ở đời do các thế hệ cha anh đãc đỗ máu làm nên . Và bài học “ uống nước nhớ nguồn ” càng thêm thấm thiá .. Đoàn thuyền đánh cá (Huy Cận). Bài thơ “ Đoàn thuyền đánh cá ” của Huy Cận sáng tác năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh . Có thểû noí bằng nghệ thuật đặc sắc nhà thơ đã tái hiện cảnh sắc thiên nhiên và không khí lao động sôi động , hào hứng ở một vùng biển giàu đẹp của Miền bắc nước ta trong những năm đầu xây dựng CNXH. Bài thơ là tiếng hát ca ngợi lao động đánh bắt cá trên biển , ca ngợi sự giàu đẹp của biển cả quê nhà . Thật vậy bài thơ “ Đoàn thuyền đánh cá ” là bức tranh khung cảnh lao động đánh bắt cá trên biển của người lao động mới say sưa hào hứng làm chủ vùng trời , vùng biển của tổ quốc . Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi . Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa Hoaøng hođn xuoẫng tređn bieơn cạ ñöôïc taùc giạ phaùc hóa nhö moôt böùc tranh kì vó . Bieơn chợt đỏ rực , sáng hồng “ như hòn lửa ” . Aùnh sáng lóe lên rồi chợt tắt . Cả vũ trị buông màn “ Sóng cài then ,đêm sập cửa ”lặn dần , yên ả đi vào giấc ngủ . Bằng nghệ thuật so sánh và 2 hình ảnh nhân hóa sóng là then cài , màn đêm là cánh cửa , nhà thơ như muốn nói với chúng ta một ngày đã khép lại , một đêm mới bắt đầu . Đối lập với trạng thái “ tỉnh ” trạng thái nghỉ ngơi của vũ trụ là hoạt động của con người đang bắt đầu ra khơi đánh bắt cá “ Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi ”. Sự đối lập nhau về hành động giữa con người với trời đất khiến ta thấy được khí thế và nhiệt tình lao động của con người mới . Làm việc lúc về đêm lại là môït công việc khó khăn gian khổ thế mà người lao động vẫn cất cao tiếng hát . Tiếng hát lạc quan ngân vang tràn ngập cả không gian ..

<span class='text_page_counter'>(80)</span> Caâu haùt caêng buoàm cuøng gioù khôi Giớ căng buồm hay câu hát căng buồm ? Có phải chăng tiếng hát của những người đánh bắt cá cũng cùng với gió căng buồm đưa đoàn thuyền đánh cá ra khơi xa . “Câu hát căng buồm ” không chỉ là sự mở đầu của một đêm lao động vui tươi hào hứng khẩn trương mà còn là sản phẩm của trí tưởng tượng . Nó làm cho câu thơ thêm đẹp , ý thơ phong phú để ngợi ca niềm vui , nhiệt tình lao động của con người . Đây chính là bút pháp lãng mạn của nhà thơ . Có thể nói hình ảnh , màu sắc hiện lên trong đoạn thơ này thật đẹp , thật rực rỡ . Nếu nói bài thơ “ Đoàn thuyền đánh cá ” của Huy Cận rực rỡ như một bức tranh sơn mài thì khổ thư mở đầu này cũng mang màu sắc ấy . Đọc bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá ” ta thấy tiếng hát xuyên suốt bài thơ . Tiếng hát cất lên trong niềm vui lao động khi đoàn thuyền ra khơi , tiếng hát trong khi lao động , tiếng hát khi đoàn thuyền trở về và tiếng hát ca ngợi về biển giàu đẹp . Haùt raèng caù baïc bieån ñoâng laëng Cá thu biển đông như đoàn thoi Ñeâm ngaøy deät bieån muoân luoàng saùng Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi Biển quê ta giàu lắm cá nhiều vô kể .Cá thu như đoàn thoi đêm ngày dệt biển , cá nhụ cá chim cùng cá đé , cá song lấp lánh đuốc đen hồng . Biển không chỉ giàu đẹp mà còn ân tình nhö taám loøng cuûa meï . Bieån cho ta aù nhö loøng meï Nuôi lớn đời ta tự buổi nào Đặc biệt là những con người đang đánh bắt cá ngoài biển khơi được nhà thơ miêu tả bằng yếu tố tả thực kết hợp với bút pháp lãng mạn để tạo nên những hình ảnh kì ảo thật bất ngờ . Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng Hình ảnh lãng mạn ở chỗ tưởng tượng ra rằng : Gió trời là người lái , trăng trời là cánh buồøm . Thuyền và người hòa nhịp vào thiên nhiên , lâng lâng trong cái thơ mộng của gió ,trăng , trời , biển . Hình ảnh con người hiện lên là hình ảnh con người lớn ngang tầm vũ trụ và chan hòa với khung cảnh trời nước bao la thật đẹp . Trên cái không gian bát ngát với mây cao biển bằng , con thuyền có buồm là trăng , gió lái . Thuyền lướt đi phơi phới tạo cho chúng ta một ấn tượng đẹp , một cảm xúc dâng trào , gợi cho ta niềm tự hào về vẻ đẹp của con người lao động . Công việc đánh cá do đó bỗng nhiên trở nên rất thơ mộng . Chúng ta như được cùng tác giả hòa nhập vào cái tâm trạng sảng khoái , lâng lâng của những con người làm chủ vùng biển của đất nước như nhà thơ Tố Hữu đã viết : Bây chừ sông nước về ta Ñi khôi ñi loäi , thuyeàn ra thuyeàn vaøo Bây chừ biển rộng trời cao Cá tôm cũng sướng lòng nào chẳng xuân Nhưng công việc đánh bắt cá trên biển là một công việc hết sức khó khăn gian khổ . Người đánh bắt cá trên biển thực sự là những chiến sĩ đang chiến đấu bằng sức lực, trí tuệ của mình để giành từ bàn tay thiên nhiên những của cải quí giá . Ra đậu dăm xa dò bụng biển.

<span class='text_page_counter'>(81)</span> Dàn đan thế trận lưới vây giăng Mặc dù gian khổ ,khó khăn nhưng người ngư dân vẫn cất cao tiếng hát , tiếng hát lạc quan , yêu đời , tiếng hát vang lên trong lao động khẩn trương và say mê . Ta haùt baøi ca goïi caù vaøo Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao Bài hát làm cho lao động bớt mệt nhọc “ Tiếng hát át tiếng sóng ”. Bài hát gọi cá vào lưới , nâng cao thêm cái chất thơ mộng vốn có sẵn của lao động . Bài hát lại thêm nhịp nhàng với trăng cao gõ thuyền để gọi cá vào lưới . Có thể nói hiện thực đã được bút pháp lãng mạn chắp cánh làm cho đẹp thêm công việc đánh cá trển biển cả . Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng Ta keùo xoaên tay chuøm caù naëng Vaåy baïc ñuoâi vaøng loùe raïng ñoâng Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng Một đêm trôi nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng hăng say . Trên bầu trời sao đã thưa và mờ . Cảnh kéo lưới được miêu tả đầy ấn tượng . Những cánh tay rắn chắc kéo lưới “Xoăn tay ”. “Kéo xoănë tay” là một hình ảnh đặc tả động tác kéo lưới rất căng , khỏe và đẹp . Không biết bao nhiêu là cá mắc vào lưới như những chùm trái cây treo lủng lẳng . “Chùm cá nặng ” là một hình ảnh ẩn dụ gợi tả được mùa cá . Khoang thuyền đầy ắp cá . Màu bạc của vẫy cá , màu vàng của đuôi cá “lóe rạng đông ”. Một lần nữa cho thấy nghệ thuật sự dụng màu sắc của nhà thơ rất điêu luyện . Sắc cá dưới ánh trăng và sắc cá dưới ánh rạng đông đều được miêu tả thật đẹp . Bài thơ kết thúc vào lúc rạng đông khi đoàn thuyền quay về . Lúc này người ngư dân lại cất cao tiếng hát . Đây là tiếng hát thắng lợi hân hoan . Con thuyền và mặt trời được nhân hóa . Thơ được cấu trúc song hành diễn tả nhịp sống khẩn trương Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Cảnh rạng đông với hình ảnh “ Mặt trời đội biển ” nhô lên tỏa ánh sáng chan hòa , một “ màu mới ”bao trùm biển khơi . Đoàn thuyền phóng như bay về bến như cướp lấy thời gian , giành lấy thời gian . Biện pháp thậm xưng kết hợp với nghệ thuật hoán dụ trong viêïc tả “ Mắt cá huy hoàng muôn dăm phơi ”đã vẽ nên cảnh được mùa cá và cuộc sống hạnh phúc ấm no của nhân dân vùng biển . Bằng lao độngvà mồ hôi , họ đã viết nên bài ca cuộc đời . “ Đoàn thuyền đánh cá ” là bài thơ tiêu biểu của Huy Cận sau cách mạng tháng Tám . Nếu như trước đây , thơ Huy Cận thấm một nỗi buồn “Vạn cổ sầu ” vào vũ trụ và lòng người thì những bài thơ của ông từ năm 1945 đến nay , đặc biệt là bài “ Đoàn thuyền đánh cá ” mang âm điệu ngọt ngào , niềm vui say mê và phấn chấn của nhân dân lao động đang làm chủ cuộc đời . Qua thơ Huy Cận , chúng ta như được sống những đêm trăng đẹp trên Hạ Long . Ta tự hào đất nước ta có trên ba nghìn cây số bờ biển , biển ta giàu có , bao la tiềm năng , dồi daøo haûi saûn . Tóm lại , Qua bài thơ “ Đoàn thuyền đánh cá ” Huy Cận cho ta thấy được sự giàu đẹp của biển cả quê hương và vẻ đẹp của con người lao động mới . Chất lãng mạn , trữ tình của bài thơ đã truyền cho ta cảm xúc dạt dào , ta cảm nhận được cái đẹp trong cuộc sống.

<span class='text_page_counter'>(82)</span> mới giúp ta có niềm tin thêm yêu đời , yêu cuộc sống . Với sự sáng tạo độc đáo trong bút pháp lãng mạn , bài thơ giữ được vị trí xứng đáng trong nền thơ ca hiện đại của chúng ta .. Đồng chí (Chính Hữu). “ Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều Boùng daøi treân ñænh doác cheo leo Núi không đè nổûi vai vươn tới Lá ngụy trang reo với gió đèo ” Thật đẹp làm sao hình ảnh người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam trong thơ Tố Hữu . Hình ảnh người lính trên đường ra trận trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đã để lại trong lòng bạn đọc một dấu ấn khó phai mờ . Cũng viết về người lính kháng chiến thời chống Pháp nhưng bài thơ Đồng chí của Chính Hữu lại thể hiện vẻ đẹp ở khía cạnh khác . Đó là mối tình đồng chí đồng đội được hình thành và phát triển trong điều kiện chiến đấu vô cùng thiếu thốn gian khổ để tạo nên phẩm chất dẹp đẽ , một trong những nguòn sức mạnh của quân đội ta . Thật vậy , bài thơ Đồng chí không phải là bài thơ hay nhất nhưng nó lại là bài thơ được nhiwuf người biết đến nhất , thậm chí nhắc đến Chính Hữu người ta nghĩ ngay đến Đồng chí . Bài thơ đã được phổ nhạc nhưng dù là thơ hay nhạc mãi mãi tình đồng chí keo sơn gắn bó vẫn sống mãi trong lòng mọi người . Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu được sáng tác theo thể thơ tự do , chỉ có 20 dòng nhưng đã tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí , đồng đội thật sâu sắc . Mở đầu bài thơ tác giả viết : Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Bằng thành ngữ “ Nước mặn đồng chua ” và hình ảnh gợi tả “Đất cày lên sỏi đá ” có sức khái quát cao . Tác giả đã giới thiệu với chúng ta hoàn cảnh xuất thân của những người chieân só trong nhöõng naím ñaău cụa cuoôc khaùng chieân choẫng Phaùp . Hó laø nhöõng ngöôøi sinh ra và lớn lên từ những làng quê nghèo đói “ nước mặn đồng chua ” , “đất cày lên sỏi đá ” . Họ thật sự là những người nông dân “Mới hôm qua còn tì tay lên cán cuốc ” , đang chống chọi lại với thời tiết khắc nghiệt của vùng quê chua phèn sỏi đá để khoát lên mình màu áo xanh chiến sĩ bảo vệ quê hương đất nước thân yêu . Mỗi người một vùng quê , những người tứ xứ này trước ngày vào bộ đội họ chưa hề quen bieát nhau . Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau Những người từ mọi phương trời tập hợp lại trong hàng ngủ quân đội cách mạng và chính nhờ cơ sở của sự đồng cảm giai cấp , cùng chung cảnh ngộ cho nên họ đã dễ dàng thân quen với nhau . Nhà thơ Hồng Nguyên trong bài thơ “ Nhớ ” của mình cũng thể hiện tình caûm naøy . “Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ Gặp nhau hòi chưa biết chữ.

<span class='text_page_counter'>(83)</span> Quen nhau từ buổi một hai Súng bắn chưa quen quân sự mươi bài Lòng vẫn cười vui kháng chiến ” Những người xa lạ gặp nhau thân quen nhau tạo nên tình đồng chí . trước hết phải nói tình đồng chí được nảy sinh từ sự cùng chung nhiệm vụ sát cánh bên nhau trong chiến đấu . Súng bên súng đầu sát bên đầu Ñeâm reùt chung chaên thaønh ñoâi tri kæ Súng bên sung là cách nói hàm súc , hình tượng . Cùng chung lí tưởng chiến đấu . Anh cùng tôi cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương , vì độc lập tự do và sống còn của dân tộc . “Đầu sát bên đầu ” là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm giao . Có thể nói hai hình ảnh thơ đã cụ thể hóa sự hòa nhập của những người chiến sĩ cùng chung lí tưởng chiến đấu bảo vệ tổ quốc . Súng và đầu , ý chí và tình cảm là sự gắn bó keo sơn thắm thiết của những con người cùng chung lí tưởng . Câu thơ “ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ ” là câu thơ hay và cảm động đầy ắp kỉ niệm của một thời gian khổ . Đã là đôi tri kỉ phải hiểu nhau thông cảm cho nhau , chia sẻ ngọt bùi cho nhau . Phải là người bạn chí cốt bên nhau . Để có được mối tình tri kỉ này hẳn nhiên họ phải cùng chung hoàn cảnh xuất thân , cùng chung lí tưởng chiến đấu . Câu thơ được biểu hiện bằng một hình ảnh cụ thể , giản dị mà hết sức gợi cảm . “Đồng chí ” . Câu thơ chỉ gồm hai tiếng như ghép lại tình ý sáu câu thơ đầu của bài thoiư , đồng thời tạo ra một tiếng vang ngân như một nốt nhấn nổi bật trong bản đàn , là sự kết tinh mọi cảm xúc , mọi tình cảm . Tình đồng chí là cao độ của tình bạn tình người . Ruôïng nương anh gởi bạn thân cày Gian nhaø khoâng maët keä gioù lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người trai làng ra lính Ba câu thơ đưa ta trở lại hoàn cảnh riêng , từng cảnh ngộ riêng của những người lính vốn là nông dân đó . GơÛi bạn thân cày mảnh ruộng của mình . Nhớ tới gian nhà trống không “ gió lung lay ”. Sẵn sàng gởi lại những gì quí giá thân thiết của cuộc sống người nông dân nơi làng quê để ra đi vì nghĩa lớn . Hai chữ “mặc kệ ” đã nói được một cách dứt khoát mạnh mẽ của những người lính ra trận . Họ dứt khoát nhưng không vô tình , trong lòng họ vẫn nặng tình với quê hương thân yêu . Nhà thơ Nguyễn Đình Thi có viết : Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy “Giếng nước gốc đa ” hình ảnh quê hương thân thiết được tác giả diễn tả một cách kín đáo gián tiếp qua mô típ quen thuộc về làng quê của ca dao “ Cây đa giếng nước sân đình ”. Nghệ thuật hoán dụ và nhân hóa đã bộc lộ nỗi niềm nhớ nhung của kẻ hậu phương đối người ra trận . Bút pháp nhân hóa nỗi nhớ cũng gây thêm ấn tượng mạnh mẽ .. Mối tình đồng chí keo sơn gắn bó với nhau, không chỉ cảm thông những tâm tư nỗi lòng của nhau mà đó còn là sự cùng nhau chia sẻ những gian lao thiếu thốn cuộc đời người lính ..

<span class='text_page_counter'>(84)</span> Aùo anh raùch vai Quaàn toâi coù vaøi maûnh vaù Miệng cười buốt giá Chaân khoâng giaøy Bằng những hình ảnh thơ chân thực và xúc động , gợi tả , gợi hình . Tác giả đã làm sống dậy cuộc sống gian khổ thiếu thốn trong cuộc chiến đấu của người lính thời chống Pháp . Đó là những gian khổ tột cùng của người lính , những cơn sốt run người vừng trán ứơt mồ hôi , những trang phục phong phanh giữa mùa đông giá rét . Những gian lao thiếu thoẫn aây caøng laøm noơi baôt söï cao ñép cụa anh boô ñoôi cú Hoă . Trong gian khoơ vaên noơi baôt lên nụ cười của người lính “Miệng cười buốt giá ” thật đáng yêu làm sao . Hình ảnh người lính thật đáng trân trọng mỗi khi ta đọc những câu thơ nói về cuộc sống kham khoå cuûa hoï . Aùo vaûi chaân khoâng Đi lùng giặc đánh Chúng ta mới cảm thấy khâm phục và tự hào biết bao . Vậy sức mạnh nào để giúp cho người lính vượt qua được mọi gian khổ thiếu thốn ấy ? Có phải chăng đó là tình đồng chí dồng đội “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay ”. Thật giản dị và xúc động của sự biểu hiện tình đồng chí , đồng đội thiêng liêng ở hững người lính . Đó là nguồn sức mạnh cho họ chiến thắng . Tình đồng chí còn được thử thách cao nhất là trong chiến đấu , trong sự sống chết nơi chiến hào . Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo Có thểû nói đoạn cuối của bài thơ là một bức tranh đẹp của tình đồng chí , là một biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ . Trong cảnh “Rừng hoang sương muối ” những người chiến sĩ phục kích chờ giặc đứng bên nhau , Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp họ vượt lên tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ thiếu thốn . Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ giữa cảnh rừng hoang giá rét . Trong cái đêm phục kích ấy có vầng trăng như treo trên đầu súng . Một hình ảnh thơ rất đặc sắc chỉ có bốn tiếng thôi nhưng dã gây cho người đọc một bất ngờ thú vị . Hình ảnh ấy mang ý nghĩa biểu tượng . Súng và trăng là gần và xa , thực tại và mơ mộng , chất chiến đấu và chất trữ tình , chiến sĩ và thi sĩ . Súng còn là biểu tượng của cuộc chiến đấu vì độc lập tự do . Trăng là biểu tượng của non nước thanh bình cùng đặt trên một bình diện “đầu súng trăng treo ”. Ý thơ đã đem đến cho chúng ta một liên tưởng về tâm hồn người lính rất đẹp . Trong ác liệt chiến tranh vẫn yêu đời và luôn luôn hướng về một ngày mai hòa bình yên vui . Có thể nói đó là các mặt bổ sung cho nhau , hài hòa với nhau của cuộc đời người lính cách mạng . Câu thơ mang một ý nghĩa cao đẹp trong cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc của anh bộ đội cụ Hồ . Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu rất hàm súc , mộc mạc , chân thực và có sức gợi tả khái quát cao , đã khắc họa được một trong những phẩm chất đẹp của anh bộ đội cụ Hồ . Đớ là mối tình đồng chí đồng đội gắn bó keo sơn , gian khổ có nhau , sóg chết có nhau . Bài thơ có thực có hư tạo nên vẻ đẹp hài hòa , gây cho người đọc những suy tư sâu sắc , những xúc động sâu lắng . Có thể nói bài thơ Đồng chí là một tượng đài chiến sĩ tráng lệ , moäc maïc , bình dò cao caû vaø thieâng lieâng ..

<span class='text_page_counter'>(85)</span> Những ngôi sao xa xôi (Lê Minh Khuê). Trong thời chống Mĩ có hàng ngàn , hàng vạn cô gái Việt Nam mang chí khí bà Trưng , bà Triệu xông pha ra trận để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước . Trong số họ có những người trở thành cô gái thanh niên xung phong, những cô trinh sát mặt đường , phá bom nổ chậm mở đường cho xe qua . Con đường chiến lược Trường Sơn huyền thoại đã làm nên bằng xương máu , mồ hôi và bao sự tích phi thường của những người con gái ấy . Để kể lại cuộc sống và khắc họa chân dung tâm hồn tính cách của ba cô gái trẻ – ba vì sao trên cao điểm Trường Sơn nhà văn Lê Minh Khuê viết nên truyện ngắn “ Những ngôi sao xa xoâi ”. Thật vậy , đọc truyện ngắn “ Những ngôi sao xa xôi ” của Lê Minh Khuê chúng ta thật cảm phục trước hoàn cảnh sống chiến đấu và tính cách của tổ nữ thanh niên xung phong trinh sát mặt đường . HoÏ gồm ba cô gái : Nho , Thao , Phương Định . Họ ở: trong một cái hang dưới chân cao điểm , ở đó máy bay giặc Mĩ đánh phá dữ dội . Đường bị đánh lở loét màu đất đỏ , trắng lẫn lộn . Tưởng như sự sống bị hủy diệt Không có lá xanh hai bên đường , thân cây bị tước khô cháy . Có biết bao thương tích vì bom đạn giặc .Công việc của họ vô cùng nguy hiểm và gian khổ . Khi có bom nổ thì chạy lên đo và ứơc tính khối lượng đất đá bị đào xới , đếm và đánh dấu vị trí những quả bom chưa nổ , rồi ngay sau đó làm nhiệm vụ phá bom . dùng xẻng nhỏ đào khoét sát cạnh thân bom để đặt thuốc nổ , rồi châm ngòi và chạy thật nhẹ , thật nhanh đến chỗ ẩn nấp an toàn . Ta thấy công việc của họ đó là một công việc chết người , luôn đối mặt và đùa cợt với thần chết . Công việc của họ đòi hỏi căng thẳng thần kinh , đòi hỏi sự dũng cảm , bình tĩnh , khôn ngoan , nhạy cảm , khéo léo , đòi hỏi kinh nghiệm và sẵn sàng chấp nhận hi sinh . “ Có ở đâu như thế này không ! Thần kinh căng như chão , tim đập bất chấpû nhịp điệu , chân chạy mà vẫn biết khắp chung quanh có rất nhiều bom chưa nổ . Có thể nổ ngay bây giờ , có thể chốc nữa … Nhưng nhất định sẽ nổ . Rồi khi xong việc , quay lại nhìn cảnh đoạn đường lầøn nữa , thở phaøo chaïy veà hang…” Những cô gái này còn rất trẻ và có hoàn cảnh riêng không giống nhau nhưng đều có những phẩm chất chung của những chiến sĩ thanh niên xung phong tình nguyện ở chiến trường . Đó là tinh thần trách nhiệm , ý thức tự giác cao , quyết tâm hoàn thành mọi nhiệm vụ được phân công . Đó là lòng dũng cảm , sẵn sàng hi sinh , không quản khó khăn gian khổ , hiểm nguy . Ở họ có tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó , đồng thời hay xúc động , nhiều mộng mơ , dễ vui , dễ buòn , thích làm đẹp cho cuộc sống . Trong hoàn cảnh khó khăn ác liệt vẫn lạc quan , yêu đời : Thích thêu thùa , thích hát và chép bài hát , hay nhớ về quê hưeơng , người thân . Có thể nói đây là những phẩm chất vừa cao đẹp vừa bình dò , hoăn nhieđn , lác quan cụa theâ heô trẹ Vieôt Nam trong chieân tranh choẫng Mó . Trong cái chung đó ta thấy mỗi người có cá tính riêng . Chị Thao lớn tuổi hơn nên có dự tính cho tương lai cũng thiết thực hơn , trong công việc thì bình tĩnh , quyết liệt , vậy mà rất sợ nhìn máu chảy . Nho lúc thì bướng bỉnh , mạnh mẽ , lúc lại lầm lì cực đoan , thích thêu hoa rực rỡ , lòe loẹt trên khăn gối . Còn Phương Định là một cô gái Hà nội có hai bím tóc dày , tương đối mềm , một cái cổ cao kiêu hãnh như đài hoa loa kèn . Đôi mắt Định.

<span class='text_page_counter'>(86)</span> được các anh lái xe bảo : Có cái nhìn sao mà xa xăm thì nhạy cảm , lãng mạn . Cô có một thời học sinh hồn nhiên , vô tư bên mẹ trong một căn buồng nhỏ ở một đường phố yên tĩnh trong nhiững ngày thanh bình trước chiến tranh . Những kĩ niệm êm đềm đó thường sống dậy trong trí nhớ của phương Định giữa chiến trường dữ dội làm mát dịu tâm hồn trong hoàn cảnh căng thẳng , khốc liệt của chiến trường . có thể nói sống với bom đạn nguy hiểm nhưng cô không hề mất đi sự hồn nhiên , trong sáng và những ước mơ về tương lai . Moät coâ gaùi giaøu caûm xuùc , nhaïy caûm , hay mô moäng , thích haùt vaø cuõng thích laøm ñieäu moät chút trước các chàng trai lính trẻ . Cô là một người yêu mến và gắn bó với thiên nhiên , với đồng đội trong tổ , yêu mến và cảm phục những chiến sĩ mà cô đã gặp trên đường ra mặt trận , theo cô đó là những chàng trai thông minh , tài hoa , dũng cảm nhất . “ Những ngôi sao xa xôi ” còn ghi lại một cách chân thực chiến tích thầm lặng của tổ trinh sát mặt đường . Đó là cảnh phá bom . Chúng ta hãy lần theo từng hành động , từng trạng thái tâm lí của Phương Định trong một lần phá bom . “ Tôi , một quả bom trên đồi . Nho , hai quả dưới lòng đường . Chị Thao một quả dưới chân cái hầm ba ri e cũ … Quả bom nằm lạnh lùng trên một bụi cây khô , một đầu vùi xuống đất . Đầu này có vẽ hai vòng trong màu vàng … Tôi dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom . Đất rắn . Những hòn sỏi theo tay tôi bay ra hai bên . Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom . Một tiếng động sắc đến gai người , cứa vào da thịt tôi . Tôi rùng mình và cảm thấy tại sao mình làm quá chậm . Nhanh lên một tí ! Vỏ quả bom nóng . Một dấu hiệu chẳng lành . Hoặc là nóng lên từ bên trong quả bom . Hoặc là mặt trời nung nóng ” Ta thấy tác giả tả rất tỉ mỉ , chi tiết đến từng cảm giác , ý nghĩ dù chỉ thoáng qua trong giây lát , mặc dù đây là công việc đã rất quen thuộc nhưng mỗi lần bắt đầu là Định có cảm giác như thế : hồi hộp , lo lắng , cắng thẳng , vẫn nghĩ đến cái chết mặc dù mờ nhạt không cụ thể … Từng cử động nhỏ được tả lại : Từ chỗ đến gần đào quanh quả bom , nghe cảm giác quả bom nóng dần lên , căng thẳng chờ đợi tiếng nổ . Đó là diễn tả tâm lí rất thực mà phải là người trong cuộc mới có thể tả được như vậy . Qua trạng thái tâm lí này ta cảm nhận thế giới tâm hồn Phương Định thật trong sáng , phong phú , không phức tạp , không có những băn khoăn , day dứt , trăn trở trong ý nghĩ và tình cảm của cô gái khi phải sống và chiến đấu trong thời gian dài , trong hoàn cảnh khắc nghiệt hiểm nguy . Đây cũng là cách nhìn , cách thể hiện của văn học hiện đại thời chiến tranh chống Mĩ .Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước Mà lòng phơi phới dậy tương lai Truyện “Những ngôi sao xa xôi ” có cách kể chuyện độc đáo ở ngôi thứ nhất từ điểm nhìn của nhân vật chính Phương Định giúp cho người đọc cảm nhận hình ảnh tuyệt đẹp và chiến công phi thường của tổ trinh sát mặt đường , của hàng ngàn , hàng vạn cô gái thanh niên xung phong thời chống Mĩ . Đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật thật hay khiến mọi ngừơi phải hồi hộp theo dõi từng trạng thái của nhân vật .ngoài ra còn có cách kể xen kẽ đoạn hồi ức với đoạn tả cảnh chiến đấu , Câu văn ngắn và câu văn dài , ngôn ngữ sử dụng tự nhiên gần với khẩu ngữ làm cho tuyện của Lê Minh Khuê chân thực và saâu saéc hôn . Chiến tranh đã đi qua . Sau ba thập kỉ , đọc truyện những ngôi sao xa xôi , ta như được sống lại những năm tháng hào hùng của đất nước . Trong lòng ta biết bao khâm phục và tự.

<span class='text_page_counter'>(87)</span> hào thế hệ đi trước . Mãi mãi những Phương Định , chị Thao , Nho gần xa vẫn tỏa sáng hồn ta với bao ngưỡng mộ .. Muøa Xuaân Nho Nhoû (Thanh Hải). Mùa xuân vốn là đề tài qưen thuộc trong thi ca nói riêng , văn học nghệ thuật nói chung . Cái tiết trời ấm áp , thiên nhiên tươi sáng , vạn vật sinh sôi nảy nở của mùa xuân đã đi vào trong thơ của các thi sĩ một cách tự nhiên . Vì vậy đã không ít những bài thơ đặc sắc viết về mùa xuân như : Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử . Xuân của Chế Lan Viên , một nhành xuân của Tố Hữu . Thế nhưng hễ nhắc đến mùa xuân hình như mỗi chúng ta lại không thể không nhớ tới một mùa xuân khiêm nhường , cảm động trong bài thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ của nhà thơ Thanh Hải . Bài thơ diễn tả mùa xuân thiên nhiên đất nước , con người trong chiến đấu và lao động . Nhưng có lẽ hay và đặc sắc hơn cả vẫn là những lời tâm nguyện cảm đông thiết tha của nhà thơ . Đó là ước nguyện hiến dâng cuộc đời mình cho mùa xuân đất nước . Thật vậy , Bài thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ viết theo thể thơ năm chữ ngắn gọn , nhịp nhàng , lời ít mà gợi nhiều . Mở đầu bài thơ là đôi nét phác họa về bức tranh của mùa xuân thiên nhiên xứ Huế . Mọc giữa dòng sông xanh Moät boâng hoa tím bieác Ôi con chim chieàn chieän Hót chi mà vang trời Nhà thơ có nói gì nhiều đâu chỉ một bông hoa tím mọc giữa dòng sông xanh và tiếng chim chiền chiện hót vang trời cũng đủ cho ta thấy được mùa xuân đất trời ở vẻ đẹp , ở sức sống và niềm vui rạo rực . Từ chỗ cảm nhận nhà thơ cảm xúc tràn đầy , mở rộng tâm hồn để đón nhận để ngây ngất trước cảnh vật mùa xuân . Từ cảm thán ơi và mấy tiếng hót chi mà thể hiện sự yêu thương thiết tha , cảm xúc say sưa ngây gất đó . Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng Gioït gì long lanh rôi ? Gòot möa , gioït naéng , gòot aùnh saùng, gioït muøa xuaân , gioït haïnh phúc hay giọt tiếng chim mà nhà tơ đưa tay hứng một cách nâng niu trân trọng . Rõ ràng tiếng chim chiền chiện hót vang trời mà nhà thơ nghe được đó nó đang đọng thành giọt mà tác giả nhìn thấy được và hứng được . Như vậy ta thấy có sự chuyển đổi cảm giác mang tính chuû quan cuûa nhaø thô . Hình aûnh thô coù tính chaát phi lí nhöng coù theå chaáp nhaän được vì đây là biểu hiện sự say sưa ngây ngất của nhà thơ trước cảnh đất trời vào xuân . Từ mùa xuân thiên nhiên nhà thơ nghĩ về con người trong khổ thơ này tác giả đưa ra hai hình ảnh đối xứng giữa người lính và người nông dân để nói về mùa xuân sản xuất và chiến đấu của nhân dân ta . Cấu trúc câu thơ song hành để chỉ rõ hai nhiệm vụ chiến lược aáy . Mùa xuân người cầm súng Lộc giắt đầy quanh lưng Mùa xuân người ra đồng.

<span class='text_page_counter'>(88)</span> Loäc traûi daøi nöông maï Lộc là chồi non , cành biếc mơn mởm . Khi mùa xuân về cây lá đâm chồi nẩy lộc . Lộc ở đây mang ý nghĩa tượng trưng cho vẻ đẹp mùa xuân và sức sống mãnh liệt của đất nước . Người lính khoát trên lưng vành lá ngụy trang xanh biếc , mang theo sức sống mùa xuân , sức mạnh của dân tộc để bảo vệ tổ quốc . Người nông dân , đem mồ hôi và sức lao động cần cù làm nên màu xanh cho ruộng đồng . Ý thơ vô cùng sâu sắc . Máu và mồ hôi của nhân dân đã góp phần tô điểm mùa xuân và để giữ lấy mùa xuân mãi mãi . Cả dân tộc bước vào mùa xuân với khí thế khẩn trương và náo nhiệt . Taát caû nhö hoái haû Taát caû nhö xoân xao Hoái haû nghóa laø voäi vaû , gaáp gaùp khaån tröông , xoân xao laø coù nhieàu aâm thanh xen laãn vaøo nhau , làm cho náo động . Các từ láy cùng điệp ngữ tất cả làm cho câu thơ vang lên nhịp điệu vui tươi , mạnh mẽ khác thường . Đó là hành khúc mùa xuân của thời đại Hồ Chí Minh . Đất nước bốn nghìn năm Vaát vaû vaø gian lao Đất nước như vì sao Cứ đi lên phía trước Ñeân ñađy töø muøa xuađn con ngöôøi töôi ñép nhaø thô lái nghó veă ñaât nöôùc , mođït ñaẫt nöôùc bốn ngàn năm lịch sử chồng chất biết bao vất vả và gian lao . Một đất nước từ khi xây dựng đến nay phải chống chọi lại với biết bao kẻ thù xâm lược , chống chọi lại với biết bao thiên tai hà khắc . Nhưng đất nước không dừng lại mà cứ đi lên phía trước . Bằng nghệ thuật so sánh Đất nước như vì sao nhà thơ như khẳng định lòng tin ở sự phát triển cụa ñaât nöôùc . Moôt ñaẫt nöôùc coù söùc mánh troơi daôy xeù maøn ñeđm ñen toâi maø lao veă phía trước . Từ cuộc đời chung nhà thơ nghĩ về mình , ta phải làm gì đây trong mùa xuân trời đất , mùa xuân con người và lịch sử đất nước đang ở thế phát triển không ngừng . Nhà thơ đã chọn nhiều hình ảnh để thể hiện lẽ sống tâm niệm của đời mình . Ta laøm con chim hoùt Ta laøm moät caønh hoa Ta nhaäp vaøo hoøa ca Moät noát traàm xao xuyeán Nhà thơ không mơ ước những gì to tát cao siêu , nhà thơ chỉ ước được làm một tiếng chim hoùt laùnh loùt nhö con chim chieàn chieän , goùp phaàn laøm cho muøa xuaân queâ höông thêm rạo rực , sống động . Nhà thơ nguyện làm một cành hoa nhỏ bé trong trắng tô điểm thêm cho hương sắc của mùa xuân quê hương đất nước . Nhà thơ không mơ làm một nốt nhạc bỗng cao vút trong bản hòa ca của dân tộc mà chỉ khiêm nhường làm một nốt trầm xao xuyến lòng người . Nốt trầm ấy có thể là nốt nhạc phụ nhưng không thể thiếu bởi nó là yếu tố góp phần làm nên sự thành công của bản hòà ca . Điệp ngữ ta làm được lặp lại nhiều lần như càng nhấn mạnh những ước nguyện tuy đơn sơ , bình dị nhưng không kém phần da diết , trăn trở của nhà thơ . Nếu ở những khổ thơ trên nhà t hơ xưng tôi ( Tôi đưa tay tôi hứng ) thì đến khổ thơ này nhà thơ lại xưng ta , đó là biểu tượng cho sự gặp gỡ giữa cái tôi và cái ta , cái chung và cái riêng . Đại từ ta vừa là số ít ( nhà thơ ) vừa là số nhiều (.

<span class='text_page_counter'>(89)</span> tất cả ) . Dường như ước nguyện của mỗi cá nhân đã hòa vào dòng chảy của muôn người : Taât cạ ñeău muoân coâng hieân moôt phaăn cođng söùc nhoû beù cụa mình cho queđ höông ñaẫt nöôùc . Moät muøa xuaân nho nhoû Lặng lẽ dâng cho đời Một mùa xuân nho nhỏ hay phải chăng cũng là một ẩn dụ cho cuộc đời Thanh Hải : Sống là cống hiến , cống hiến là mùa xuân của cuộc đời nhà thơ . Nhà thơ khiêm nhường xin làm một mùa xuân nho nhỏ và nếu mỗi người là một mùa xuân nho nhỏ thì sẽ có một mùa xuân lớn lao của dân tộc . Thế nhưng , có lẽ điều làm cho người đọc xúc động chính là sự khiêm nhường ấy đồng nghĩa với những hi sinh thầm lặng Lặng lẽ dâng cho đời và sự hi sinh ấy là vô điều kiện , nó vượt qua mọi không gian và thời gian qui ước . Duø laø tuoåi hai möôi Duø laø khi toùc baïc Tuổi 20 và khi tóc bạc ở đây là hai hình ảnh hoán dụ giàu sức gợi cảm . Nó không những chỉ một đời người từ trẻ đến già mà còn chỉ mọi thế hệ : già cũng như trẻ , gái cũng như trai . Điệp ngữ dù là được láy lại như một lời hứa , lời khẳng định của nhà thơ , Sống là phải cống hiến tuyệt đối . Phải chăng đó là lẽ sống đầy trách nhiệm mà Thanh Hải muốn nhắn gởi đến chúng ta . Có điều những ước mơ của nhà thơ tại sao chỉ làmột : Một nhành hoa , moät tieáng chim , moät noát traàm , moät muøa xuaân nho nhoû ...Coù leõ nhaø thô quan nieäm mùa xuân lớn lao là mùa xuân thiên nhiên đất nước được miêu tả ở các khổ thơ đầu , còn mỗi con người chỉ là một phần nhỏ bé của mùa xuân nên chỉ là con số tượng trưng cho sự tối thiểu mà thôi ! Chúng ta chợt nhớ đến những câu thơ của nhà thơ Tố Hữu .Một ngôi sao chaúng saùng ñeâm Moät boâng luùa chín chaúng neân muøa vaøng Một người đâu phải nhân gian Sống chăng một đốm lửa tàn mà thôi ! Nếu chúng ta biết rằng nhà thơ Thanh Hải đã viết những câu thơ chân thành cảm động này trên giường bệnh thì chúng ta càng đồng cảm với ước nguyện của nhà thơ hơn bởi Thanh Hải không chỉ là người trung thành với một lẽ sống cao cả đầy trách nhiệm , mà còn sống với một niềm tin và tinh thần lạc quan yêu đời đáng khâm phục . Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được kết thúc bằng tiếng hát mùa xuân . Đây là khúc ca nam ai nam bình xứ Huế trầm buồn hưng lạc quan chứa đựng tình yêu quê hương đất nước . Nước non ngàn dặm mình Nước non ngàn dặm tình Nhịp phách tiền đất Huế Có đọc và hiểu hoàn cảnh ra đời của bài thơ Mùa xuân nho nhỏ ta mới thấy hết giá trị và ý nghĩa cao đẹp của nó . Bài thơ được viết tháng 11 năm 1980 là lúc mùa đông tiết trời giá lạnh , lúc này tác giả đang nằm trên giường bệnh . Ta chợt hiểu mùa xuân trong bài thơ là mùa xuân xuất phát từ trong lòng tác giả . Đây là mùa xuân vĩnh cửu , xuân của cuộc đời , xuân của lòng người . Mùa xuân ấy giúp tác giả quên đi sự đe dọa của bệnh tật , của cái chết đem lại cho nhà thơ niềm say sưa với cuộc sống . Đau đớn thay ! đây lại là bài thơ cuối cùng của tác giả , một bài thơ ông gởi hết tâm tư tình cảm , nguyện vọng và lời nhắn nhủ của mình trước lúc ra đi ..

<span class='text_page_counter'>(90)</span> MuØa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh Hải đã góp cho thơ ca dân tộc một bài thơ xuân đẹp , đậm đà tình nghĩa . Bằng thể thơ năm chữ , giọng thơ lúc mạnh mẽ , lúc tha thiết ngân vang . Ngôn ngữ thơ trong sáng , hàm súc , các biện pháp tu từ vận dụng sắc sảo tài hoa . Chúng ta cảm nhận được tình yêu mùa xuân gắn liền với tình yêu đất nước , quê hương được Thanh Hải diễn tả sâu sắc cảm động .Mỗi cuộc đời cũng là một mùa xuân . Đất nước ta mãi mãi lànhững mùa xuân tươi đẹp .. PHẦN V CÁCH VIẾT MỞ BÀI MỘT BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VÀ TUYỂN TẬP NHỮNG MỞ BÀI THAM KHẢO I/ Cách viết phần mở bài: 1. Mục đích : Mục đích của phần mở bài là nhằm giới thiệu vấn đề mà mình sẽ viết, sẽ trao đổi, bàn bạc trong bài. Vì thế, khi viết Mở bài thưc chất là trả lời câu hỏi : Anh (chị ) định viết, định bàn bạc vấn đề gì ? Các cách mở bài dễ viết nhất : a. Mở bài trực tiếp : Tức là trả lời thẳng vào việc đó. Ví dụ : Phân tích bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu. Mở bài trực tiếp : Nói đến Chính Hữu không thể khong nói đến bài thơ “Đồng chí”.Bài thơ như một điểm sáng trong tập “Đầu súng trăng treo”- tập thơ viết về đề tài người lính của ông. b. Mở bài gián tiếp: Tức là dẫn ra một ý khác có liên quan gần gũi, sau đó, nêu vấn đề sẽ bàn trong bài. Để bài viết có không khí tự nhiên và có chất văn, người ta thường mở bài theo kiểu gián tiếp. Có nhiều cách mở bài gián tiếp này nhưng tựu trung có 4 cách cơ bản: Cách 1: Diễn dịch (suy diễn ).

<span class='text_page_counter'>(91)</span> Cách 2: Quy nạp Cách 3: Tương liên (tương đồng ) Cách 4: Tương phản (đối lập ) Dù viết mở bài gián tiếp theo cách nào thì trong đó cũng cần làm rõ 3 vấn đề: * Nêu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm, xuất xứ. * Nêu vấn đề (dựa vào gợi ý ở đề bài ) * Nêu cảm nhận của mình về vấn đề. 2 . Một số vấn đề cần tránh : - Tránh dẫn dắt vòng vo quá xa mãi mới gắn được vào việc nêu vấn đề. - Tránh ý dẫn dắt không liên quan gì đến vấn đề sẽ nêu. - Tránh nêu vấn đề quá dài dòng, chi tiết, có gì nói hết luôn rồi thân bài lại lặp lại những điều đã nói ở phần Mở bài. 3. Một mở bài hay cần phải : - Ngắn gọn: Dẫn dắt thường vài ba câu, nêu vấn đề một vài câu và giới hạn vấn đề một câu. - Đầy đủ: (đủ 3 vấn đề ) - Độc đáo : gây được sự chú ý của người đọc. - Tự nhiên :Giản dị, tự nhiên, tránh vụng vềgượng ép tránh gây cho người đọc khó chịu bởi sự giả tạo. II. Một số Mở bài tham khảo : Đề :Cảm nhận về bức tranh xuân trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”. Thời gian vẫn trôi đi và bốn mùa luôn luân chuyển. Con người chỉ xuất hiện một lần trong đời và cũng chỉ một lần ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng. Nhưng những gì là thơ, là văn, là nghệ thuật đích thực…thì vẫn còn mãi mãi với thời gian. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm nghệ thuật như thế, đặc biệt là đoạn thơ viết về Cảnh ngày xuân – một mùa xuân mới mẻ, tinh khôi và giàu sức sống. Đề : Cảm nhận về người lính lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” Có những tác phẩm đọc xong, gấp sách lại là ta quên ngay, cho đến lúc xem lại ta mới chợt nhớ là mình đã đọc rồi. Nhưng cũng có những cuốn sách như dòng sông chảy qua tâm hồn ta để lại những ấn tượng chạm khắc trong tâm khảm.“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một tác phẩm như thế. Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã xây dựng một tượng đài bằng thơ về người chiến sĩ hồn nhiên, ngang tàng và ngạo nghễ thời đại chống Mĩ. Đề : Phân tích khổ thơ đầu của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận. Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm Nỗi nhớ thương không biết đã tan chưa? (Mai sau) Trước cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận thường u sầu ảo não. Nhưng từ khi cách mạng tháng Tám thành công đã tiếp thêm cho thơ ông một luồng sinh khí mới, những trang thơ dạt dào niềm vui khi viết về cuộc sống mới, con người mới. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một tác phẩm mang cảm xúc như thế. Nó đã ghi lại hành trình đẹp đẽ của đoàn thuyền: ra khơi lúc hoàng hôn, đánh cá lúc trăng lên và trở về lúc bình minh. Nhưng có lẽ khung cảnh đẹp đẽ và hùng vĩ nhất là lúc đoàn thuyền ra khơi được thể hiện rõ trong khổ thơ đầu. Đề : Phân tích nhân vật Chí Phèo trong bài thơ cùng tên của Nam Cao..

<span class='text_page_counter'>(92)</span> Khi “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố và “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan ra đời, tôi chắc ít ai nghĩ rằng, thân phận người nông dân dưới ách đế quốc phong kiến lại có thể có một nỗi khổ nào hơn những nỗi khổ của chị Dậu, anh Pha. Nhưng khi Chí Phèo bước ra từ những trang sách của Nam cao, thì người ta mới nhận ra rằng đây là hiện thân đầy đủ những gì gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cùng ở một nước thuộc địa. Mở bài 1: Thuý Kiều là nhân vật chính trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du. Người đọc có thể cảm nhận được một phần số phận của nhân vật qua các đoạn trích học trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 9. Đó là các đoạn trích "Chị em Thuý Kiều"; "Mã Giám Sinh mua Kiều" và "Kiều ở lầu Ngưng Bích". Mở bài 2: Nguyễn Thành Long là một cây bút chuyên về truyện ngắn. Ông đã rất thành công ở các tác phẩm khai thác đề tài về những con người lao động mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là truyện ngắn "Lặng lẽ Sa Pa". Tác phẩm không chỉ vẽ ra một bức tranh thiên nhiên đẹp và thơ mộng mà còn là lời ca ngợi những con người đang ngày đêm miệt mài lao động cống hiến cho Tổ quốc. => Đây là cách mở bài gián tiếp: Khái quát sự nghiệp sáng tác của tác giả đến tác phẩm cụ thể. Mở bài 3: Được xây dựng theo một cốt truyện dân gian "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ có thể coi là một tác phẩm hay nhất trong cuốn "Truyền kỳ mạn lục". Nhân vật chính của tác phẩm là Vũ Thị Thiết (Vũ Nương) - một người con gái quê ở Nam Xương đẹp người đẹp nết. Không chỉ có vậy, khi nhắc đến nhân vật này người đọc không thể quên được nỗi oan khổ vô bờ mà nàng phải chịu vì người chồng đa nghi thô bạo. => Đây là cách mở bài gián tiếp: Dẫn dắt vấn đề kèm theo sự đánh giá của người viết. 4.Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nguyễn Duy nổi tiếng với các bài thơ như : “Tre Việt Nam”, “Hơi ấm ổ rơm”, ... Hiện nay, Nguyễn Duy vẫn tiếp tục sáng tác, ông viết đều những bài thơ tài hoa, đậm chất suy tư. “Ánh trăng” (1978) là một trong những bài thơ của Nguyễn Duy được nhiều người ưa thích bởi tình cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ, mới lạ : 5, Có một nhà văn đã nói rằng : "Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng chính cuộc sống viết ra". Cuộc chiến tranh chống Mĩ của dân tộc ta với biết bao câu chuyện đã trở thành huyền thoại được các nhà văn ghi lại như những câu chuyện cổ tích hiện đại. Trong số ấy phải kể đến "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng. Nhân vật cô bé Thu tám tuổi có một tình yêu cha đằm thắm, kì lạ, tiêu biểu cho những điều kì diệu mà những con người Việt Nam đã viết nên. 6.“Trong cái im lặng của Sa Pa [...], Sa Pa mà chỉ nghe tên, người ta chỉ nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước”. Có những người làm việc và lo nghĩ cho đất nước, đó là những con người lao động thầm lặng, hi sinh hạnh phúc cá nhân, tìm hạnh phúc trong lao động. Nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” (Nguyễn Thành Long) là một bức chân dung kí hoạ đẹp đẽ về con người này. 7.Cuộc kháng chiến đã qua đi, người lính trong chiến tranh giờ đây đã về với cuộc sống hàng ngày. Tưởng như sự bận rộn hôm nay sẽ khiến người ta quên lãng quá khứ. Nhưng có một lúc nào đó trong đời thường những kỉ niệm chiến tranh lại như những thước phim quay chậm hiện về. Nguyễn Duy gửi tới bạn đọc thi phẩm “Ánh trăng” cũng chính là gửi tới bạn đọc thông điệp : Không nên sống vô tình, phải biết thủy chung nghĩa tình cùng quá khứ..

<span class='text_page_counter'>(93)</span> 8.Nhà thơ Nguyễn Duy đã viết : Ta đi trọn kiếp con người Vẫn chưa đi hết những lời mẹ ru Lời ru của mẹ chính là nguồn năng lượng tinh thần để giúp mỗi chúng ta trưởng thành nên người. Bởi thế cảm xúc về lời ru của mẹ đã đi vào nghệ thuật và thơ ca. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng xuất phát từ truyền thống này nhưng có sự sáng tạo rất mới với Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ. 9.Đọc “Bếp lửa” của Bằng Việt tôi đã mường tượng ra một chàng trai trẻ trong cái giá lạnh của mùa đông Ki-ép ở đất nước U-crai-na xa xôi đương cặm cụi sưởi ấm những nguồn thương qua từng chữ, từng câu mà được thắp lên ngọn lửa đượm đà của một thời thơ ấu đẹp đẽ sống bên người bà yêu dấu...Đến nay đã hơn bốn thập kỉ kể từ khi bài thơ ra đời, ta thực khó rõ đã có bao nhiêu trái tim rung cảm mỗi khi đến với “Bếp lửa”. Chỉ biết đằng sau mạch cảm xúc dạt dào của hoài niệm kia sẽ là gì nếu không phải một tình lan tỏa với cái nóng, cái nồng đượm của “Bếp lửa quê nhà”, với sự ấm áp, ấp iu của “ngọn lửa tình người”. 10. Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là một "bài thơ cuộc đời". Bài thơ được sáng tác năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hòn Gai, Cẩm Phả. Thông qua một đêm đánh cá của đoàn thuyền lớn trên biển, tác giả ca ngợi kiểu lao động mới mẻ của người lao động tràn đầy lạc quan tin tưởng, làm chủ thiên nhiên, biển cả bao la. Qua bài thơ ta cảm nhận được không khí lao động khẩn trương, hăng say, nhộn nhịp của miền Bắc thời kì xây dựng CNXH. 11. Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mĩ. Bản thân là anh bộ đội Trường Sơn, tác giả cảm thông và hiểu rõ tâm tình người lính, nhất là người chiến sĩ vận tải dọc Trường Sơn chở vũ khí, quân trang từ hậu phương lớn ra tiền tuyến lớn. Cùng với thế hệ thanh niên hăng hái "Xẻ dọc trường sơn đi cứu nước / Mà lòng phơi phới dậy tương lai" Phạm Tiến Duật mang niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra chiến trường. Nhà thơ đã tạo cho mình một giọng điệu thơ rất lính : khỏe khoắn, tự nhiên, tràn đầy sức sống, tinh nghịch tươi vui mà giàu suy tưởng. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm tiêu biểu nhất của giọng thơ ấy, của hồn thơ ấy. 12. Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời chống Mĩ cứu nước. Ông được gọi là "Viên ngọc Trường Sơn của thơ ca" bởi thi sĩ đã mang cả hào khí thời đại cùng dãy Trường Sơn vào thơ. Đặc biệt mảng thơ về người lính lái xe của ông đã để lại ấn tượng thật thú vị, đó là "Vết xe lăn" nóng bỏng trong những bài thơ Trường Sơn thời chống Mĩ. Trong số những vần thơ thông minh, dí dỏm về người lính lái xe Trường Sơn của Phạm Tiến Duật, phải kể đến Bài thơ về tiểu đội xe không kính. 13.Mùa xuân luôn là nguồn cảm hứng vô tận của các thi nhân. Nguyễn Bính đã từng đánh thức người nhà quê trong mỗichúng ta bằng “Mùa xuân xanh”,Hàn Mạc Tử thì bâng khuâng xao xuyến nơi đất khách quê người với “Mùa xuân chín” .Còn ‘‘Mùa xuân xuân nho nhỏ’’củaThanh Hải lại là tâm nguyện sau cùngcủa ông về tình yêu cuộc sống,về khát vọng được cống hiến sức lực của mình cho đất nước khi ông sắp lâm chung. 14. Nếu là con chim chiếc lá Thì chim phải hót, lá phải xanh.

<span class='text_page_counter'>(94)</span> Lẽ nào vay mà không có trả Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình Một nhà thơ đã từng viết như vậy song chỉ đến khi đọc truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, tiếp xúc với các nhân vật trong tác phẩm đặc biệt là anh thanh niên ta mới thấy thấm thía hơn ý nghĩa của những vần thơ trên. Anh thanh niên trong tác phẩm là người có những phẩm chất đáng quí: cởi mở, hiếu khách, yêu công việc, khiêm tốn và có phong cách thật đẹp. 15. Nguyễn Thành Long là một cây bút có tên tuổi về truyện ngắn được nhiều bạn đọc ưa thích. Các tác phẩm của ông thường phản ánh các cuộc sống sôi động đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ trên đất nước. Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” là truyện ngắn như vậy. Truyện đã khắc hoạ được chân dung của người lao động mới, đó là anh thanh niên với những phẩm chất đáng quí: cởi mở, hiếu khách, yêu công việc, khiêm tốn và có phong cách thật đẹp. 16.Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã góp thêm những trang vàng vào lịch sử dân tộc. Đã có rất nhiều văn nghệ sẽ đã có được cảm hứng sáng tác từ đề tài này. Chính vì vậy đây cũng là giai đoạn văn học có nhiều thành công góp phần làm rạng rỡ nền văn học nước nhà. "Những ngôi sao xa xôi" của nữ tác giả Lê Minh Khuê là một trong những đóng góp như vậy. Nhân vật chính của tác phẩm là Phương Định - một cô gái đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. 17.Chúng ta đã từng biết đến hình ảnh những chiến sĩ lái xe Trường Sơn qua tác phẩm "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật. Họ là những chiến sĩ trẻ trung sôi nổi can trường mang trong mình khát vọng thống nhất non sông. Và một lần nữa chúng ta lại được gặp hình ảnh những con người gan dạ trẻ trung trên tuyến đường Trường Sơn qua tác phẩm "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê. Đó là ba cô gái nhỏ nhắn xinh xắn trong một tổ trinh sát mặt đường. Nhân vật chính trong tác phẩm và cũng là người kể chuyện là Phương Định - một cô gái Hà Nội. Nhân vật đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng đông đảo bạn đọc. 18.Trong vô số những nạn nhân của xã hội phong kiến có một tầng lớp mà hết thảy các nhà văn nhân đạo đều đau sót trân trọng và tập chung viết về họ đó là người phụ nữ. trong số những tác phẩm viết về đề tài này nổi bật nhất phảI kể đến truyện Kiều của Nguyễn Du ở cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19. Nhân vật Thuý Kiều là điển hình cho những người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, đức hạnh thanh cao nhưng lại bị cuộc đời vùi dập, xô đẩy vào những đau thương bất hạnh. Ta sẽ thấy rõ điều đó qua các đoạn trích: “Chị em Thuý Kiều”, “Mã giám Sinh mua Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. 19. Là cây bút chuyên về truyện ngắn ,trong chiến tranh Lê Minh Khuê viết về cuộc sống chiến đấu của tuổi trẻ ở tuyến đường Trường Sơn . “Những ngôi sao xa xôi” là tác phẩm đầu tay của bà ,được viết năm 1971 giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc đang diễn ra rất ác liệt.Truyện giúp ta hiểu hơn về cuộc sống của những cô gái thanh niên xung phong trên một cao điểm ở tuyến đường Trường Sơn . 20.Gấp lại truyện ngắn “Lặng lẽ Sa pa ”của Nguyễn Thành Long lòng ta cứ xao xuyến vấn vương trước vẻ đẹp của những con người ,trước những tình cảm chân thành, nồng hậu trong một cuộc sống đầy tin yêu .Dù được miêu tả ít hay nhiều nhân vật nào của “Lặng lẽ Sa pa” cũng hiện lên với nét cao quí đáng khâm phục .Trong đó anh thanh niên làm công tác khí.

<span class='text_page_counter'>(95)</span> tượng kiêm vật lý địa cầu đã để lại cho chúng ta nhiều ấn tượng khó phai mờ . 21.Kim Lân là nhà văn có vốn sống vô cùng phong phú và sâu sắc về nông thôn Việt Nam.Các sáng tác của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh hoạt của người nông dân . Văn bản “Làng” đươc sáng tác vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ,với nhân vật chính là ông Hai ,một lão nông hiền lành ,yêu làng ,yêu nước và gắn bó với kháng chiến . 22. Khoảnh khắc giao mùa có lẽ là khoảnh khắc đẹp đẽ nhất của tự nhiên,nó gieo vào lòng người những rung động nhẹ nhàng khiến ta như giao hoà, đồng điệu .Khi chúng ta chưa hết ngỡ ngàng bởi một Xuân Diệu “tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì ” thì đã gặp một Hữu Thỉnh tinh tế ,sâu sắc đến vô cùng qua một thoáng “Sang Thu” . 23. Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu n¬ước của dân tộc ta là một bản anh hùng ca bất diệt.Trong những tháng năm sục sôi khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước ”ấy nhân dân Miền Bắc đã không tiếc sức người,sức của chi viện cho Miền Nam ruột thịt. Trong những đoàn quân điệp trùng nối nhau ra trận có chàng trai trẻ Phạm Tiến Duật .Anh được tôi luyện và trưởng thành trong chiến tranh và trở thành nhà thơ chiến sỹ .Thơ anh không cuốn hút người đọc bằng ngôn từ mượt mà,âm điệu du dương mà nó khiến người đọc say bằng chính sự tự nhiên,sống động,gân guốc,độc đáo và đậm chất lính tráng.“Bài thơ về tiểu đôi xe không kính” là một thi phẩm tiêu biểu cho hồn thơ đó . 24.Trong văn học Việt Nam đã có không ít tác phẩm mang tên gọi truyền kỳ hoặc có tính chất truyền kỳ song được tôn vinh là “ thiên cổ kỳ bút” thì cho đến nay chỉ có một “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ .“Chuyện người con gái Nam Xương” được rút trong tập những câu chuyện kỳ lạ đó . Nhân vật chính của tác phẩm là Vũ Nương đã để lại trong lòng người đọc niềm cảm thương sâu sắc. 25. Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới .Sau cách mạng ông nhanh chóng hoà nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại và trường kì của dân tộc.Hoà bình lập lại,từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống đang lên.Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”được sáng tác ở Hòn Gai năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế dài ngày . Bài thơ thực sư là một bài ca ca ngợi cuộc sống của những con người lao động mới . 26. Không biết tự bao giờ trăng đã trở thành nàng thơ,thành người bạn tri âm tri kỉ của biết bao tâm hồn thi sĩ .Với ánh sáng huyền diệu,với chu kì tròn khuyết lạ lùng, trăng đã gợi cho các thi nhân cổ kim nhiều thi tứ .Trong miền thơ mênh mang ấy, “ánh trăng ”của Nguyễn Duy như một lời tâm sự chân thành ,đã neo lại trong tâm hồn người đọc những tâm trạng riêng,những suy ngẫm riêng giàu trăn trở . 27. Tình cảm gia đình, tình yêu đối với quê hương xứ sở là những tình cảm nguyên sơ nhưng cũng thiêng liêng nhất của con người Việt Nam. Lòng yêu thương con cái, ước mong thế hệ sau nối tiếp xứng đáng truyền thống của tổ tiên, dân tộc, quê hương là sự thể hiện cụ thể của tình cảm cao đẹp đó. Nhiều nhà thơ đã giãi bày những sắc thái tình cảm ấy lên trang giấy. Chúng ta bắt gặp trong bài thơ “nói với con” của tác giả Y Phương một cách diễn đạt mộc mạc, chân chất của người miền núi những lời tâm tình thiết tha, những lời dặn dò ân cần, chia sẻ của người cha đối với con lòng tự hào về con người và quê hương yêu dấu của mình..

<span class='text_page_counter'>(96)</span> 28. Cũng như mùa xuân, mùa thu luôn là đề tài gợi nhiều cảm xúc cho các thi nhân. Mỗi người lại có cách nhìn cách miêu tả rất riêng, mang đậm dấu ấn cá nhân của mình. Có nhà thơ, mùa thu là dáng liễu buồn, là màu áo mờ phai, là tiếng đạp lá vàng cuả con nai ngơ ngác. Hữu Thỉnh cũng góp vào tuyển tập thơ mủa thu của dân tộc 1 cái nhìn mới mẻ. Ông là nhà thơ viết nhiều, viết hay về những con người, cuôc sống ở nông thôn, về mùa thu. Những vẩn thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng vương vấn trước đất trời trong trẻo đang chuyển biến nhẹ nhàng. Điều này thể hiện rõ qua bài "Sang thu" đc ông sáng tác cuối năm 1977. 29. Bước ra khỏi chiến tranh, mỗi người lính có một ngã rẽ riêng để trở về với cuộc đời thường nhật. Trong vô vàn cái bãng lặng lẽ trở về ấy, ta bắt gặp như vô tình cái bãng hình nhà văn Nguyễn Minh Châu. Trở về lặng lẽ, tiếp tục tìm tòi lặng lẽ, ngòi bút Nguyễn Minh Châu vẫn chứa đựng những khám phá mới mẻ, sâu sắc, vẫn mang cái nhìn từng trải chắc chắn của con người đã tôi luyện qua lò lửa chiến tranh. Chính bằng ngòi bút ấy, nhà văn đã dựng lên một “Bến quê” mang ý nghĩa triết lí, mang đầy trải nghiệm về một đời người. Có lẽ sẽ chẳng ai gấp lại trang sách “Bến quê” mà không cảm thấy một nỗi buồn bồi hồi, xúc động trào dâng. Có chút gì đó se sẽ buồn, có chút gì đó se sẽ xót xa, ân hận nhưng những cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp bình dị, gần gũi của quê hương thì vẫn còn lắng đọng mãi mãi trong sâu thẳm tâm hồn mỗi người đọc chúng ta. 30. Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam – đã cống hiến trọn đời mình vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Người ra đi năm 1969, để lại biết bao nỗi thương nhớ và xót xa cho Tổ quốc. Có nhiều nhà thơ đã viết bài thơ tưởng nhớ về Bác, và “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một trong những bài thơ xuất sắc nhất. Chúng ta hãy cùng đến với bài thơ để cảm nhận được cảm xúc ấy. 31. Đã là người Việt nam, ai lớn lên mà chẳng mang theo, dù ít, dù nhiều hơi ấm của những lời ru, những lời yêu thương êm đềm khi xưa mẹ hát. Đã mang trong mình dòng máu Việt, ai mà chẳng có một góc tuổi thơ trong sang, hồn nhiên, chập chờn theo đôi cánh cò trắng ở nơi sâu thẳm hoài niệm, tâm hồn. Chế Lan Viên cũng vậy, ông cũng là người Việt Nam, dòng máu chảy trong huyết quản ông cũng mang tên Lạc Hồng, có lẽ vì thế, trong thơ ông, dù là suy ngẫm, dù là triết lí, ta vẫn gặp lời ru ầu ơ của mẹ, ta vẫn thấy kỉ niệm tuổi thơ nồng cháy, ta vẫn nghe trong gió thong thả nhịp vỗ cánh cò. Và “Con cò” là bài thơ tiêu biểu cho một hồn thơ như thế, một bài thơ mà chất triết lí, suy tưởng đã hoà làm một với những lời ca đẹp đẽ nhất ca ngợi tình mẹ, ca ngợi ý nghĩa của những lời hát ru với cuộc đời mỗi con người. 33. "Tre xanh, xanh tự bao giờ, Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh. Thân gầy guộc, lá mong manh Mà sao nên lũy nên thành tre ơi" ("Tre Việt Nam"-Nguyễn Duy) Tên tuổi của Nguyễn Duy gắn liền với bài thơ "Tre Việt Nam". Với một giọng thơ mộc mạc chân tình, chất thơ sâu lắng, lời thơ như thủ thỉ, tâm tình, những tác phẩm của Nguyễn Duy đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc, đẹp đẽ. Bài thơ "Ánh trăng" là một trong những bài thơ hay của Nguyễn Duy được viết trong những năm đầu sau giải phóng. Cũng từ chất thơ ấy, giọng thơ ấy, nhà thơ đã đưa vào bài thơ những trải nghiệm, những triết lý của một cuộc đời chiến đấu, gắn bó với quê hương, cuộc sống. Qua đó, nhà thơ muốn gửi gắm đến.

<span class='text_page_counter'>(97)</span> mọi người một bài học về lòng ân nghĩa, thủy chung. 34. Con cò là hình ảnh quen thuộc với làng quê Việt Nam tự bao đời. Chính vì thế mà từ lúc nào không biết, hình ảnh cò đã đi vào ca dao, dân ca Việt Nam một cách bình thường nhưng lại mang ý nghĩa sâu sắc biểu trưng cho hình tượng người phụ nữ Việt Nam chịu thương chịu khó. Và cũng có khi hình ảnh cò được mượn để ví cho thân phận người phụ nữ thấp bé trước xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Cảm nhận từ tình mẹ thiêng liêng, cảm nhận vẻ đẹp sâu sắc của hình ảnh cò, tác giả Chế Lan Viên đã mượn chất liệu là những bài ca dao, dân ca Việt Nam để dệt nên bài thơ "Con cò" ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng và nỗi nhọc nhằn nuôi con khôn lớn của người phụ nữ, người mẹ. Bài thơ đã nhanh chóng được mọi người biết đến và trở thành một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về tình mẹ. 35. Nguyễn Thành Long là một trong những cây bút văn xuôi đáng chú ý trong những năm 60 – 70, chỉ chuyên viết về truyện ngắn và kí. “Lặng lẽ Sa Pa” là một truyện ngắn nhẹ nhàng có cốt truyện đơn giản nhưng thật thú vị và ẩn chứa bên trong nhiều ý vị sâu sắc. Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của những con người lao động bình thường mà cao cả, những con người đầy quan tâm, đầy trách nhiệm đối với đất nước mà tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác quan trắc khí tượng. Nhân vật anh thanh niên chỉ hiện ra trong chốc lát nhưng vẫn là điểm sáng nổi bật nhất của bức tranh về phẩm chất và tâm hồn tốt đẹp của con người mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc mà tác giả tập trung thể hiện. 36.Cách 1 - Chính Hữu là nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp. - Phần lớn thơ ông hướng về đề tài người lính với lời thơ đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ hàm súc, cô đọng giàu hình ảnh - Bài thơ “Đồng chí” là một trong những bài thơ viết về người lính hay của ông. Bài thơ đã diễn tả thật sâu sắc tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của anh bộ đội thời kháng chiến. Cách 2: Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại, hình ảnh người lính mãi mãi là hình ảnh cao quý nhất, đẹp đẽ nhất. Hình tượng người lính đã đi vào lòng người và văn chương với tư thế, tình cảm và phẩm chất cao đẹp. Một trong những tác phẩm ra đời sớm nhất, tiêu biểu và thành công nhất viết về tình cảm của những người lính Cụ Hồ là “Đồng chí” của Chính Hữu. Bằng những rung động mới mẻ và sâu lắng, bằng chính sự trải nghiệm của người trong cuộc, qua bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu đã diễn tả thật sâu sắc tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của anh bộ đội thời kháng chiến. 37.- Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới. Sau CM thơ Huy Cận tràn đầy niềm vui, niềm tin yêu cuộc sống mới. -Thiên nhiên vũ trụ là nguồn cảm hứng dồi dào trong thơ Huy Cận và nó mang những nét đẹp riêng. - Một trong những bài thơ được nhiều người yêu thích nhất là bài “ Đoàn thuyền đánh cá” được viết năm 1958 tại vùng biển Quảng Ninh. Với bút pháp lãng mạn kết hợp hiện thực và nhiều hình ảnh kì vĩ, tráng lệ ,bài thơ đã ca ngợi thiên nhiên vũ trụ và con người lao động trong cuộc sống mới ở miền Bắc thời kỳ xây dụng chủ nghĩa xã hội. 38. Bài thơ “Đồng chí” ra đời vào đầu năm 1948, sau chiến dịch Việt Bắc của quân và dân ta đánh thắng cuộc tiến công quy mô lớn của thực dân Pháp cuối năm 1947 lên khu căn cứ địa.

<span class='text_page_counter'>(98)</span> Việt Bắc. Nhà thơ Chính Hữu lúc đó là chính trị viên đại đội thuộc trung đoàn Thủ đô, cùng đơn vị của mình tham gia chiến đấu suốt chiến dịch. Đầu năm 1948 Chính Hữu viết bài thơ này. Bài thơ là kết quả của những trãi nghiệm thực va những cảm xúc sâu xa của tác giả với đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc. Bài thơ nói về tình đồng đội, đồng chí thắm thiết, sâu nặng của những người lính cách mạng mà phần lớn họ xuất thân từ nông dân. Đồng thời bài thơ cũng thể hện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp còn rất khó khăn thiếu thốn. 39. Phạm Tiến Duật là nhà thơ trẻ và lớn lên “trong sắc áo của anh bộ đội Trường Sơn” giữa những ngày ác liệt nhất của cuộc chiến tranh nhân dân chống Mỹ.Tiếng thơ Phạm Tiến Duật hình thành và lớn lên với những bài thơ “ Trường Sơn đông-Trường Sơn tây, lửa đèn, giửi em cô thanh niên xung phong, nhớ....”đã góp phần trẻ hoá thơ Việt Nam thời chống Mỹ. Bài thơ “bài thơ về tiểu đội xe không kính” được rút ra trong tập thơ “vầng trăng-quầng lửa” của tác giả. Trong bài thơ tác giả đã xây dựng một hìng tượng độc đáo những “chiếc xe không kính” chắn gió vẫn băng băng trên đường ra trận vì chiến trường miền Nam ruột thịt. 40. Nói đến Nguyễn Đình Chiểu không những là nói đến một nhà thơ yêu nước tiêu biểu nhất của thời kỳ đất nước ta bị thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX mà ông còn được nhân dân biết đến như một nhà thơ lớn, ca ngợi đạo lí làm người, đề cao tiết hạnh của người phụ nữ, ca ngợi lòng trung hiếu và hành động vị nghĩa của nam giới mà tác phẩm Lục Vân Tiên là một minh chứng hùng hồn. Lục Vân tiên - nhân vật chính của tác phẩm, hơn ai hết đã biểu hiện rõ nét lý tưởng của người anh hùng. Đặc biệt là đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng khó phai mờ về hình ảnh một trang nghĩa sỹ đánh cướp cứu người. 41. Nói đến thơ trước hết là nói đến cảm xúc và sự chân thành. Không có cảm xúc, thơ sẽ không thể có sức lay động hồn người, không có sự chân thành chút hồn của thơ cũng chìm vào quên lãng. Một chút chân thành, một chút lãng mạn, một chút âm vang mà Chính Hữu đã gieo vào lòng người những cảm xúc khó quên. Bài thơ " Đồng chí" với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm áp, tươi vui; với ngôn ngữ bình dị dường như đã trở thành những vần thơ của niềm tin yêu, sự hy vọng, lòng cảm thông sâu sắc của một nhà thơ cách mạng. Phải chăng, chất lính đã thấm dần vào chất thơ, sự mộc mạc đã hòa dần vào cái thi vị của thơ ca tạo nên những vần thơ nhẹ nhàng và đầy cảm xúc? 42.Chúng ta đang sống trong một đất nước hoà bình, được sự dìu dắt, yêu thương của cha mẹ, được đùa vui dưới mái trường đầy ắp tiếng ca. Chúng ta có thể quên được chăng những trang sử hào hùng ấy, ngày các lớp cha anh đi trước đã hi sinh cả tính mạng. Máu của các anh đã nhuộm màu phì nhiêu cho đất nước, sự hi sinh tươi đẹp cho thế hệ chúng ta ngày hôm nay. Các anh đã hi sinh cả thể xác lẫn tinh thần, hi sinh cả những hạnh phúc mà lẽ ra các anh phải được hưởng. Chiến tranh, vùng trời của tan thương và chết chóc. Trong mưa bom lửa đạn, trong chất cay xè của mùi thuốc súng, tình cảm cao đẹp nhất của tình đồng chí đồng đội trào dâng. Những bùi ngùi dấu tận đáy lòng của những người cha lên đường chiến đấu gởi lại quê hương đứa con thân yêu nhất của mình để rồi trong giờ phút hiếm hoi giữa cuộc hành quân nỗi nhớ con không còn dấu được. Tình cảm thiêng liêng ấy càng mãnh liệt hơn trong tác phẩm “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. 43. - Giới thiệu con đường Trường Sơn trong kháng chiến chống Mĩ - được coi là biểu tượng.

<span class='text_page_counter'>(99)</span> anh hùng của cuộc chiến đấu giành độc lập tự do. - Nhà văn Lê Minh Khuê đã từng là thanh niên xung phong trên tuyến đường TS máu lửa. - Những tác phẩm của chị viết về cuộc sống chiến đấu của bộ đội và thanh niên xung phong ở đây đã gây được sự chú ý của bạn đọc mà truyện ngắn « những ngôi sao xa xôi » là một trong những tác phẩm ấy. - Truyện viết về 3 cô gái trong một tổ trinh sát mặt đường làm nhiệm vụ phá bom trên tuyến đường TS đạn bom khốc liệt. Phương Định, nhân vật kể chuyện cũng là nhân vật chính để lại nhiều ấn tượng đẹp và tình cảm sâu sắc trong lòng người đọc. 44. Cách 1 : - Cuộc kháng chiến chống Mĩ đã đi qua….. nhưng ánh sáng chói lọi của nó vẫn luôn tồn tại cùng với lịch sử dân tộc ta qua các tác phẩm văn học như….. Và có những con người bình dị, đã làm nên cuộc kháng chiến ấy, đó là những người lính, những cô thanh niên xung phong, những chiến sĩ vô danh…. « Những ngôi sao xa xôi » viết về những con người như vậy. Ba cô gái thanh niên họp thành một tổ trinh sát mặt đường…. Họ đã sống và chết. Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm nên đất nước. Cách 2 : - Truyện « những ngôi sao xa xôi » của Lê Minh Khuê được viết năm 1971, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra vô cùng ác liệt. - Truyện kể lại cuộc sống của ba cô gái thanh niên xung phong làm công tác trinh sát và phá bom thông đường trên một cao điểm của Trường Sơn những năm tháng chống Mĩ. Qua đó thể hiện và ca ngợi tâm hồn và phẩm chất cao đẹp của những người con gái Việt Nam thời chống Mĩ : Hồn nhiên, trong sáng trong cuộc sống, dũng cảm trong chiến đấu và luôn lạc quan trước tương lai. - Họ đã để lại một ấn tượng rất sâu sắc, giúp người đọc nhận ra rằng trong chiến thắng vinh quang của dân tộc trước một cường quốc lớn, có những con người làm việc và hiến dâng cả tuổi xuân, cả máu của mình cho đất nước. 45. - Mùa thu quê hương là đề tài gợi cảm xúc đối với thi nhân song mỗi người cảm xúc về mùa thu theo cảm nhận riêng của mình. Với nhà thơ Hữu Thỉnh, khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu đã rung động hồn thơ để thi sĩ vẽ nên một bức tranh thơ: “Sang thu” thật hay. - Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ : nhịp nhàng, khoan thai, êm ái, trầm lắng và thoáng chút suy tư… thể hiện một bức tranh thu trong sáng, đáng yêu ở vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. 46. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Trùng Khánh - Cao Bằng ,thấm nhuần những tinh hoa, cái đẹp của dân tộc Tày , Y Phương (1948) là một nhà thơ tiêu biểu cho các dân tộc miền núi ."Thơ Y Phương như một bức tranh thổ cẩm đan dệt nhiều màu sắc khác nhau ,phong phú và đa dạng ,nhưng trong đó có một màu sắc chủ đạo ,âm điệu chính là bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc đáo .Nét độc đáo đó nằm ở cả nội dung và hình thức .Với Y Phương ,thơ của dân tộc Tày nói riêng và thơ Việt Nam nói chung có thêm một giọng điệu mới ,một phong cách mới "( Từ điển tác giả ,tác phẩm văn học Việt Nam ). 47. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã đi qua hơn 50 năm nhưng vẫn để lại những dấu ấn ko thể mờ phai về những năm tháng hào hùng của dân tộc. trong những năm tháng ấy đã nảy sinhbiết.

<span class='text_page_counter'>(100)</span> bao h/ả đẹp mà đẹp nhất là h/ả ng lính & t/c đồng chí đồng đội của họ. Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Nhớ (Hồng Nguyên), Tây tiến (Quang Dũng) thì Đồng chí của Chính Hữu cũng là một thi phẩm đặc sắc. 48. “ Dẫu súng đạn nặng đường ra hỏa tuyến Đi đường dài em giữ Truyện Kiều theo” ( Chế Lan Viên) Trải qua mấy trăm năm với bao thử thách giông tố của thời gian Truyện Kiều của ND vẫn giữ vị trí hàng đầu trong nền văn học dân tộc. Một trong mhững ngyên nhân làm cho TK có sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc là vì nhiều nhân vật của ND đã trở thành bất tử, người đọc nhớ nhân vật hơn cả cốt truyện. Đó chính là do nghệ thuật miêu tả nhân vật của ND. Đoạn trích……… sẽ giúp ta hiểu rõ điều đó. 49. Có một nhà thơ mà người VN không ai là không yêu mến, có một truyện thơ mà hơn 200 năm qua ko mấy người VN không thuộc lòng nhiều đoạn hay vài câu. Người ấy, thơ ấy đã trở thành niềm tự hào của dân tộc VN , đúng như THữu đã ngợi ca: “ Tiếng thơ ai động đất trời Nghe như non nước vọng lời nghìn thu Ngàn năm sau nhớ Nguyễn Du Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày” 50. Khi nói đến tác giả của TK, ko chỉ nhân dân lao động mà tất cả các nhà văn, nhà nghiên cứu đều thốn nhất tên gọi: “ Đại thi hào dân tộc”. Với “con mắt trông thấu sáu cõi & tấm lòng nhĩ tới muôn đời” (Mộng Liên Đường), ND nổi tiếng trước hết bởi cái tâm của một ng luôn nghĩ đến nhân dân, luôn bênh vực cho nhg cuộc đời, những số phận éo le, oan trái, đặc biệt là ng phụ nữ trong XH cũ. Những câu thơ của ND sở dĩ có thể khắc sâu trong lòng đọc như vậy còn bởi trong TK ông đã bộc lộ sự tài hoa, sắc sảo trong việc miêu tả nhân vật. Đoạn trích…. 51. ND là một bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi như là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. ND ko chỉ giỏi về tả cảnh mà còn giỏi về tả tình, tả tâm trạng. tròn quan niệm của ông, hai yếu tố tình & cảnh ko tách rời nhau mà luôn đi liền với nhau, bổ sung cho nhau. Đoạn trích KƠLNB là sự kết hợp giao hòa của hai yếu tố này. 52. Chỉ là một tiếng gà mái nhảy ổ cục tác trong nắng trưa, chỉ là một bếp lửa chờn vờn trong sương sớm,…mà có biết bao nghĩa tình, mà sao tha thiết, lắng sâu đến thế! Thì ra, có khi nhg điều nhỏ nhoi, giản dị nhất lại ẩn chứa tâm tình, chắt đọng những điều thiêng liêng, là hiện hình của nhg t/c thiết tha chân thành, ko thể nào quên. Tiếng gà trưa đánh thức trong XQ nhg kỉ niệm về một thời thơ ấu sống trong tình yêu thương của bà. Còn với Bằng Việt, Bếp lửa lại trở thành một hình ảnh biểu trưng cho sự ấm áp nồng đượm của tình bà cháu. 53. Nguyễn Du là một nhà thơ lớn của dân tộc. ông đã đóng góp cho kho tàng văn họcVN nhiều tác phẩm đặc sắc, đặc biệt là Truyện Kiều. Đó là một trong số những đỉnh cao chóingời của nền văn học VN, cũng nhơ Văn học thế giới. TK không chỉ thành công về mặt nội dung mà còn đặc sắc về mặt nghệ thuật. Đáng chú ý là bút pháp tả cảnh ngụ tình được thể hiện khá rõ qua đoạn trích KƠLNB, tiêu biểu nhất là tám câu thơ cuối. 54. Ra đời cách đây hơn 50 năm, nhưng truyện ngắn Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, mỗi lần đọc lại vẫn đem đến cho chúng ta niềm xúc động lạ thường. Sức hấp dẫn.

<span class='text_page_counter'>(101)</span> của tác phẩm ko phải chỉ ở cốt truyện ít nhiều li kì, hay tính cách n.vật khác lạ mà chính là ở nội dung sâu sắc & cảm động của câu chuyện: Tình cha con sâu nặng trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. 55. Mùa xuân vốn là đề tài vô tận của thi nhân xưa & nay. Nếu như họa sĩ dùng đường nét & sắc màu, nhạc sĩ dùng giai điệu & âm thanh thì thi sĩ lại dùng ngôn từ để diễn tả cảm xúc của mình- đặc biệt là tình yêu thiên nhiên, yêu cảnh sắc quê hương. Ta đã từng bắt gặp một sắc cỏ xuân non tơ trong thơ ND, một nét xuân chín rạo rực của thi sĩ họ Hàn, hay một mùa xuân xanh tươi tắn nhẹ nhàng trong thơ NBính. Và xúc động biết bao khi ta được hòa mình vào Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ xứ Huế – Thanh Hải để rồi thêm hiểu & yêu cuộc sống hơn. 56. Từ ngàn đời nay văn chương đã dành bao nhiêu lời đẹp ý hay để nói về người mẹ, về tình mẫu tử, nhưng đề tài quen thuộc ấy vẫn ko bao giờ là chuyện xưa cũ. Với tuổi ấu thơ, người mẹ, tình mẹ lại luôn gắn liền với lời ru. Dòng sữa & lời hát ru ngọt ngào của mẹ đã nuôi đứa trẻ lớn lên “Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn”(Nguyễn Duy). Tình mẹ & ý nghĩa của lời ru đối với cuộc đời mỗi con ng đã được nhà thơ Chế Lan Viên gửi gắm trong những vần thơ nhẹ nhàng mà đậm chất triết lí: Con cò. 57. Quê hương là gì hả mẹ Mà cô giáo dạy phải yêu Quê hương là gì hả mẹ Ai đi xa cũng nhớ nhiều (Đỗ Trung Quân) Trong trái tim mỗi con người luôn có một khoảng dành riêng cho quê hương, tình cảm ấy dạt dào cháy bỏng & có sức sống mãnh liệt, bền bỉ. Đặc biệt trong hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm, tình cảm ấy càng tỏa sáng rạng ngời. Với ngòi bút sắc sảo chân thực cùng tâm hồn đồng cảm sâu sắc, nhiều nhà văn VN hiện đại đã khắc họa thành công hình ảnh con ng VN có tình yêu làng quê tha thiết. Nhưng có lẽthành công hơn cả là nhà văn KL với n.v ông Hai trong truyện ngắn Làng: một lão nông nghèo luôn nặng lòng với quê hương, tình quê ấy gắn bó hòa nhập trong tình yêu đát nước. 58. Thơ xưa cũng như nay, thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho các nhà văn, nhà thơ. Đặc biệt là ánh trăng. Xưa, Lý Bạch khi đối diện với vầng trăng đã giật mình thảng thốt nhớ cố hương. Nay, Nguyễn Duy, một nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ trẻ sau năm 1975 cũng góp vào mảng thơ thiên nhiên một ánh trăng.Và đối diện trước vầng trăng, người lính đã giật mình về sự vô tình trước thiên nhiên, vô tình với những kỉ niệm nghĩa tình của một thời đã qua. Bài thơ “Ánh trăng” giản dị như một niềm ân hận trong tâm sự sâu kín ấy của nhà thơ. 59. Ta gặp đâu đây ngòi bút tài hoa của Nguyễn Duy trong tác phẩm : “Tre Việt Nam”, “Hơi ấm ổ rơm”..... Nhưng khi hoà bình lập lại, ông đã chuyển sang một trang mới viết về sự chuyển mình của đất nước, của con người cuộc sống đời thường đang che lấp mất dần những điều đáng quý mà họ vốn có. Bài thơ “Ánh trăng” là một bài thơ tiêu biểu cho chủ đề đó. Bài thơ như một lời tự nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên đất nước đồng thời thức dậy trong tâm hồn người lính lòng trung hiếu trọn vẹn với nhân dân..

<span class='text_page_counter'>(102)</span> PHẦN VI MỘT SỐ ĐỀ THAM KHẢO Đề 1: Trong truyện “Người con gái Nam Xương”, nhân vật Trương Linh vội tin câu nói ngây thơ của con trẻ đã nghi oan cho Vũ Nương ruồng rẫy và đánh đu ỗi nàng đi. V ũ Nương bị oan ức nên nhảy xuống sông tự vẫn. Em hãy đọc kĩ lại tác phẩm và tìm xem có những chi tiết nào trong truy ện tác gi ả mu ốn hé mở khả năng có thể tránh được thảm kịch đau thương cho Vũ Nương. Những nguyên nhân nào làm cho thảm kịch đó vẫn diễn ra dẫn đến cái ch ết đau th ương c ũa ng ười phụ nữ đức hạnh? Em hãy bình luận về nguyên nhân cái chết đó..

<span class='text_page_counter'>(103)</span> “Truyền kì mạn lục” là một tác phẩm có giá trị của văn học cổ nước ta th ế k ỉ XVI, m ột t ập truyện văn thơ đầu tiên bằng chữ Hán ở Việt Nam. Truyện “ Người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong tác phẩm. Truyện kể rằng, Vũ Thị Thiết là một phụ nữ đức hạnh ở Nam Xương, chồng là Tr ương Linh, người nhà giàu nhưng không có học, tính lai đa nghi. Triều đình b ắt lính, Tr ương Linh phải tòng quân trong khi vợ đang mang thai. Chồng đi xa m ới đ ược m ười ngày thì nàng sinh con trai đặt tên là Đản. Năm sau, giặc tan, việc quân kết thúc, Tr ương Linh tr ở v ề thì con đã biết nói, nhưng đứa trẻ nhất định không nhận Trương Linh làm bố. Nó nói: “ Ơ hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư ? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ thin thít. Trước đây thường có một ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.” Tính Trương Linh hay ghen, nghe con nói vậy đinh ninh rằng vợ hư, đã vu oan cho V ũ Nương, ruồng rẫy và đánh đuổi nàng đi. Vũ Nương bị oan ức đã nhảy xuống sông tự vẫn. Đọc kĩ tác phẩm, em thấy truyện không phải không hé m ở kh ả n ăng có th ể d ễ dàng tránh được thảm kịch đau thương đó. Tài kể chuyện của tác giả là ở ch ỗ đó, c ởi ra r ồi l ại th ắt vào đ ẫy câu chuyện đi tới, khiến người đọc hứng thú theo dõi và suy ngh ĩ, ch ủ đ ề c ủa tác ph ẩmt ừng bước nổi lên theo dòng kể của câu chuyện. Lời con tr ẻ nghe nh ư th ật mà ch ứa đ ựng không ít điều vô lí không thể tin ngay được, nếu Trương Linh bi ết suy ngh ĩ, ng ười cha gì mà l ạ v ậy: “không biết nói, chỉ nín thin thít” chẳng bao giờ bế con mình, mà hệt như “ cái máy” - “mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi”. Câu nói đó của đứa trẻ chẳng phải là một câu đố, giảng giải được thì cái chết của Vũ Nương sẽ không xảy ra. Nh ưng Tr ương Linh c ả ghen, ít học, thiếu suy nghĩ, đã vô tình bỏ dở khả năng giải quy ết t ấm th ảm k ịch, d ẫn t ới cái ch ết oan uổng của người vợ mà chàng không phải không có tình yêu thương. Tất nhiên sự đời có thế mới thành chuyện, vả lại trên đơì làm gì có sự ghen tuông sáng suốt. Bi kịch có thể tránh được khi vợ hỏi chuyện kia ai nói, ch ỉ c ần Tr ương Linh k ể l ại l ời con nói mọi chuyện sẽ rõ ràng. Vũ Nương sẽ chứng minh cho chồng rõ ở một mình nàng hay đùa với con trỏ vào bóng mình và nói là cha Đản. Mãi sau này, một đêm phòng không v ắng v ẻ, ng ồi buồn dưới bóng đèn khuya, chợt người con chỉ vào bóng mình trên vách mà b ảo đó là cha nó, Trương Linh mới tỉnh ngô, thấu hiểu nỗi oan của vợ thì mọi chuyện đã xong. V ũ N ương không còn nữa trên đời. Câu chuyện bắt đầu từ một bi kịch gia đình, một chuyện trong nhà, m ột v ụ ghen tuông. Không ít tác phẩm xưa nay đã viết về cái chuy ện th ường tình đ ầy tai ho ạ này. V ũ n ương không may lấy phải người chồng cả ghen, nguyên nhân tr ực ti ếp d ẫn nàng đ ến cái ch ết bi thảm là “máu ghen” của người chồng nông nổi. Nhưng sự thực vẫn là sự thực!cái chết oan uổng quá và người chồng độc đoán quá! Một phụ nữ đức hạnh, tâm hồn như ngọc sáng mà bị nghi oan bởi một chuy ện không đâu ở một lời con trẻ, một câu nói đùa của mẹ với con mà ph ải tìm đ ến cái ch ết bi th ảm, ai oán trong lòng sông thăm thẳm. Câu chuyện đau lòng vượt ra ngoài khuôn kh ổ cu ả m ột gia đình, nó buộc chúng ta phải suy nghĩ tới số phận mong manh c ủa con ng ười trong m ột xã h ội mà những oan khuất, bất công, tai hoạ có thể xảy ra bất cứ lúc nào đối v ới h ọ mà nh ững nguyên nhân dẫn đến nhiều khi rất lạ lùng không thể lường tr ước đ ược. Đó là xã h ội phong ki ến ở nước ta, nhất là ở thời nó đã suy vong. Xã hội đó đã sinh ra nh ững chàng Tr ương Sinh, nh ững.

<span class='text_page_counter'>(104)</span> người đàn ông đặc đầu óc “nam quyền”, chà đạp lên quyền sống của người phụ nữ. Tính ghen tuông của cá nhân cộng với tư tưởng “ nam quyền” trong xã hội đã làm nên một Trương Sinh độc đoán đến kỳ cục, khư khư theo ý riêng, nhất thiết không nghe ý ki ến c ủa ng ười khác. Đứa tr ẻ nói thì tin ngay, còn vợ than khóc giãi bày thống thi ết thì nh ất đ ịnh không tin, h ọ hàng, làng xóm phân giải công minh cũng chẳng ăn thua gì. Hậu quả là cái chết thảm thương của Vũ nương mà nguyên nhân sâu xa là chế độ phong kiến bất công cùng ch ế đ ộ “ nam quyền” bất bình đẳng của nó đã gây ra bao nhiêu tai hoạ cho người phụ nữ nói riêng và con người thời đó nói chung. Đề 2: Phân tích truyện “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm có giá trị của văn học cổ nước ta ở thế kỷ XVI, một tập truyện văn xuôi bằng chữ Hán đầu tiên ở Việt Nam. Truyện “ Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong tác phẩm đó được trích trong Truy ền kì m ạn l ục c ủa Nguyễn Dữ. Truyện kể về một người phụ nữ tên là Vũ Thị Thiết ở huyện Nam Xương, tỉnh Hà Nam. Vốn là một người vợ đoan chính, đảm đang. Nàng giữ lòng chung thu ỷ, h ầu h ạ m ẹ ch ồng, chăm sóc con thơ trong suốt thời gian chồng đi lính ở phương xa. Khi tr ở v ề vì nghe l ời ngây thơ của con trẻ, người chồng nghi ngờ nàng thất tiết nên đánh m ắng đu ổi đi. Không th ể phân giải được oan tình, nàng trẫm mình ở sông Hoàng Giang. Cảm đ ộng vì lòng trung th ực của nàng, Linh Phi (vợ vua biển) cứu vớt nàng và cho ở lại Long Cung. Người chồng biết v ợ bị oan nên rất hối hận, lập đàn giải oan cho nàng. Vũ Nương hiện lên, ẩn hiện trong ch ốc lát rồi trở lại Long Cung. Chuyện ca ngợi một người phụ nữ có phẩm chất, có tâm h ồn trong sáng, sáng ng ời nh ư ng ọc lại bị nỗi oan tày trời vì một chuyện vờ ghen vớ vẩn c ủa ng ười ch ồng nông n ổi. Cu ối cùng nàng phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan tình. Tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau, qua đó b ộc l ộ nh ững ph ẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Vũ Nương vốn là người con gái có t ư dung t ốt đ ẹp, tính tình thuỳ mị, nết na. Khi lấy chồng, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không đ ể v ợ ch ồng ph ải th ất hoà dù Trương Sinh vốn có tính hay ghen. Khi ch ồng đi lính, V ũ N ương rót chén r ượi đ ầy ti ễn chồng. Lời của nàng thật xúc động, nói về niềm yêu th ương, mong nh ớ c ủa mình đ ối v ới người chồng sẽ đi xa, rồi bày tỏ nỗi lo lắng trước những gian lao nguy hi ểm mà ng ười chồng sẽ trải qua, niềm mong ước được đoàn tụ ... làm m ọi người trong ti ệc đ ều ứa hai hàng lệ. Chồng đi đánh giặc ngoài biên ải, nàng một lòng son s ắt, thu ỷ chung, “cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết”, mong đợi chồng về trong cô đơn mòn mỏi “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể, chân trời không thể nào ng ăn được”. Hơn nữa, nàng là một người con dâu hiếu kính, tận tuỵ chăm sóc khi mẹ ch ồng còn s ống, chôn c ất m ẹ ch ồng khi mẹ qua đời (lo liệu như đối với mẹ đẻ mình). Rồi đằng đẳng thời gian trôi qua, chồng ra lính trở về, cùng là lúc nàng b ị nghi oan. V ũ N ương đã phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình: “Thiếp vốn con kẻ khó ... mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Nàng đã nói đến thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng đ ịnh lòng chung thuỷ, hết lòng tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy c ơ b ị tan v ỡ. Dù h ọ hàng, làng xóm có bênh vực và biện bạch, Trương Sinh vẫn không tin. B ất đ ắc d ĩ V ũ N ương.

<span class='text_page_counter'>(105)</span> thống thiết: “Thiếp sỡ dĩ nương tựa vào chàng ... đâu có thể lên núi vọng phu kia nữa! ”. Đó là hạnh phúc gia đình, niềm khao khát của cả đời nàng gi ờ đây tan v ỡ. Tình yêu không còn, c ả n ỗi đau khổ chờ chồng giờ đây hoá đá.... Tuyệt vọng vì phải gành chịu nỗi oan khuất tày trời không phương gi ải bày, c ứu ch ữa nàng đành mượn cái chết để chứng tỏ tiết hạnh trong sáng của mình. lời khấn nguyện với thần linh vô cùng thảm thiết: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Nga Mĩ. Nhựợc bằng lòng chim, d ạ cá, l ừa d ối ch ồng con, được xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ ...” lời khấn nguyện đã làm cho người đọc xót xa - con người rơi c ảnh ngộ b ế t ắc, không thể tiếp tục sống để tự giải oan tình mà phải tìm đến cái chết để thần linh chứng dám. Sau một năm ở thuỷ cung, khi nghe kể chuyện nhà, nàng đã ứa nước m ắt khóc, ngh ĩ đ ến câu “ngựa Hồ gầm giá Bắc, chim Việt đậu cành Nam” rồi hiện về trên dòng nước cho thoả lòng nhớ chồng, con. Qua những hoàn cảnh khác nhau của vũ Nương, với những lời tự thoại c ủa nàng, truy ện đã khẳng định những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam - một ng ười ph ụ n ữ đẹp người, lại nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vát, rất mực hiếu kính v ới m ẹ ch ồng, gi ữ vẹn lòng chung thuỷ sắt son với chồng, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình, .... l ẽ ra ph ải được hạnh phúc trọn vẹn thế mà phải chết một cách oan uổng, đau đớn. Cái chết của Vũ Nương có nhiều nguyên nhân sâu xa, bắt nguồn từ hi ện thực nghiệt ngã c ủa lễ giáo phong kiến của xã hội cũ, với chế độ “nam quyền”, coi rẻ thân phận của người phụ nữ, rồi tính đa nghi, ghen tuông của chồng, thói hung b ạo, gia tr ưởng c ủa ch ồng đã làm kh ổ đau bao cuộc đời những người phụ nữ. Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đ ẳng ( thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu). Xã hội phong kiến lại coi trọng “nam quyền”, hơn nữa Trương Linh lại có tính đa nghi, đối với vợ thì phòng ngừa quá mức. Những chi tiết này chuẩn bị cho những hành động độc đoán của Trương Sinh sau này. Khi đánh giặc trở về, Trương Sinh cũng mang một tâm tr ạng n ặng n ề: m ẹ qua đ ời, con v ừa học nói, lòng buồn bã. Trong hoàn cảnh như thế, lời của Bé Đản dễ kích đ ộng tính hay ghen của Trương Sinh: “trước đây, thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến...” Điều đáng trách là thái độ và hành động độc đoán của Trương Sinh khi ấy. Không đủ bình tĩnh để tìm hiểu vấn đề, chàng bỏ ngoài tai những lời phân trần của v ợ, nh ững l ời bênh v ực c ủa h ọ hàng, làng xóm, không chịu nói ra duyên cớ ghen hờn. Cuối cùng, Sinh l ại m ắng nhi ếc nàng và đánh đuổi nàng đi. Thái độ và hành động của Trương Sinh vô hình dung d ẫn đ ến cái ch ết oan nghi ệt của Vũ Nương. Hành động gieo mình xuống sông Hoàng Giang của Vũ Nương phản ánh một thực trạng v ề thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ bị buộc ch ặt trong khuôn kh ổ kh ắt khe của lễ giáo, bị đối xử bất công, bị áp bức và chịu nhi ều kh ổ đau, b ất h ạnh. Đó c ũng chính là giá trị tố cáo hiện thực của tác phẩm. Đằng sau nỗi oan c ủa ng ười thi ếu ph ụ Nam x ương, còn bao nhiêu oan tình bất hạnh mà người phụ nữ ngày xưa phải gánh ch ịu: Nàng Ki ều trong “Truyện Kiề”u của Nguyễn Du, người cung nữ trong “ cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ lỡ duyên tình trong thơ Hồ Xuân Hương, ....

<span class='text_page_counter'>(106)</span> Phải nhận thấy rõ rằng với truyện ngắn đầu tiên vi ết bằng ch ữ Hán, Nguy ễn D ữ đã có nh ững mặt thành công trong nghệ thuật xây dựng truyện, xây dựng nh ững đo ạn đ ối tho ại. Cách k ể chuyện hấp dẫn, xây dựng tình tiết, thắt nút và gỡ nút th ật b ất ng ờ, đ ầy k ịch tính, càng làm cho nỗi oan tình của nhân vật hiện ra với tất cả nét thảm khốc. “Thắt nút” truyện bằng yếu tố bất ngờ. Một câu nói ngây thơ nghe như thật của trẻ thơ mà gây bão tố dây chuyền trong cuộc đời. Bão tố nghi kị trong một đầu óc nam quyền độc đoán, thi ếu trí tuệ ; bão tố bất hoà dữ dội phá tan hạnh phúc của m ột gia đình êm ấm. Bão t ố oan khiên phá nát cuộc đời của một người con gái trong trắng, phải kết thúc bi thảm trêm một dòng sông. “Gỡ nút” cũng bất ngờ bằng một câu nói trẻ thơ non dại (khi chỉ cái bóng c ủa chàng Tr ương trên vách: “cha Đản lại đến kia kìa” thì bao nhiêu oan khiên gây thảm kịch trong phút ch ốc bỗng được sáng tỏ. Truyện có những đoạn đối thoại và những lời tâm tình của nhân v ật đ ược s ắp x ếp đúng ch ỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần khắc ho ạ di ễn bi ến tâm lí và tính cách nhân v ật ; l ời nói của bà mẹ Trương Sinh nhân hậu, từng trải ; lời lẽ c ủa Vũ Nương bao gi ờ c ũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có lí, có tình - lời của người ph ụ n ữ hi ền th ục, đoan chính ; l ời của Bé Đản hồn nhiên, ngây thơ, thật thà. Chuyện đáng lẽ có thể kết thúc ở đoạn “ gỡ nút” truyện, chàng Trương Sinh tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của Vũ Nương nhưng Nguyễn Dữ đã thêm phần Vũ N ương tr ở v ề d ương th ế, g ặp chồng trong thoáng chốc. So với truyện cổ tích “ Vợ chàng Trương”, Nguyễn Dữ đã tái tạo truyền kì từ cổ tích để nâng truyện lên những giá trị tư tưởng và thẩm m ĩ m ới. Đi ều đó, làm tăng thêm sức hấp dẫn của truyện và hoàn chỉnh tính cách nhân vật V ũ N ương, tho ả mãn ước mơ của nhân dân là “ở hiền gặp lành”, ngưởi tốt sẽ được đền bù. Truyện kết thúc có hậu. Trong truyện, những yếu tố truyền kì tập trung ở phần sau của truyện như con rùa mai xanh được Phan Lang cứu, Vũ Nương được ở lại Thuỷ Cung, rồi hiện về với kiệu hoa r ực r ỡ trên sông... đó là những tình tiết kì ảo, không có thực nhưng đã tạo ra m ột th ế gi ới ngh ệ thu ật lung linh huyền ảo. Số phận và cuộc đời thực sự vẫn là thực xưa nay. Y ếu tố hoang đ ường truy ền kì không th ể cứu được cuộc đời Vũ nương với số phận bi thảm của nàng. V ũ N ương mu ốn s ống l ại mà không được sống, muốn trở về với chồng con và quê hương mà không thể trở về được. Truyện “Người con gái Nam Xương” có giá trị hiện thực tố cáo và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nghĩ về Vũ Nương và biết bao thân phận người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến đ ược ph ản ánh trong các tác phẩm văn học cổ, chúng ta càng thấy rõ giá tr ị cu ộc s ống c ủa nh ững ng ười phụ nữ Việt Nam trong một xã hội tốt đẹp hôm nay. H ọ đang v ươn lên làm ch ủ cu ộc đ ời, sống bình đẳng, hạnh phúc với chồng con và được đề cao nhân phẩm trong xã h ộ, xã h ội c ủa thời đại mới. Đề 3: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương ” của Nguyễn Dữ. “Truyền kì mạn lục” là một tác phẩm văn xuôi có giá trị của văn học cổ nước ta ở th ế kỉ XVI, một tập truyện văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Hán ở Việt Nam..

<span class='text_page_counter'>(107)</span> “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, tác phẩm truền kì mạn lục là một tác phẩm hay trong tập truyện đó. Nhân vật chính là v ũ n ương, m ột ph ụ n ữ đ ếp ng ười, đ ẹp n ết đã phải lấy cái chết để minh oan trước sự ghen tuông vô cớ của chồng mình. Có thể nói Nguyễn Dữ là tác giả văn xuôi tiêu biểu của văn h ọc c ổ th ế k ỉ XVI. Hình ảnh người con gái Nam Xương là nhân vật từng có ảnh hưởng sâu s ắc đ ến lòng ng ười m ọi th ời. Lê Thánh Tông đã từng xúc động viết trong bài thơ “miếu vợ chàng Trương”: “Nghi ngút đầu ghềnh toả khỏi hương, Miếu ai như miếu vợ chàng Trương... “ Câu chuyện về Vũ Nương phản ánh cuộc đời đau khổ và bi th ảm c ủa V ũ n ương - ng ười ph ụ nữ dưới chế độ xã hội phong kiến. Người vợ phải tự vẫn để minh oan cho sự thuỷ chung của mình. Tác phẩm nêu cao chủ nghĩa nhân đạo khi ến ta xúc đ ộng khi v ề nhân v ật V ũ N ương trong truyện. Trước hết, đọc truyện, người đọc càng thương cho thân phận V ũ N ươn và d ễ dàng nh ận th ấy được Vũ Nương là một người phụ nữ nết na, đức hạnh, đối xử với mẹ chồng và chồng r ất phải đạo và là người vợ rất mực đảm đang, nhân hậu, giàu đức khiêm tốn. Có tư dung tốt đẹp, nhưng trong cuộc sống gia đình, nàng can tâm làm m ột ng ười v ợ hi ền, ngoan nết “chẳng lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”, và cho dù Trường Sinh, chồng c ủa nàng, tuy là con nhà hào phú, lại ít học, đa nghi quá sức. Sự khiêm nhường, cam chịu của Vũ Nương là điều kiện tạo nên s ự đ ầm ấm c ủa gia đình, mặc cho chế độ nam quyền độc đoán đè nặng trong đầu óc kẻ vị kỉ ít học như chồng mình. Nếu lấy sự kiện ngày Trường Sinh đi lính thú thì hạnh đ ộng và l ời l ẽ đ ưa ti ễn ch ồng c ủa người vợ hiền, lời thiết tha cầu mong của Vũ Nương: “Chẳng mong chàng ái g ấm tr ở v ề quê cũ, chỉ mong được hai chữ bình yên thế là đủ rồi”..., “thư tính, nghìn hàng, áo rét gửi người ải xa...”, “ là chi tiết cho cái “công-dung-ngôn-hạnh” mà Vũ Nương đã làm được một cách chân thành. Thế rồi, nỗi nhớ nhung, sự cô đơn, giữ mình của người vợ trẻ càng khi ến chúng ta ph ải ca ngợi con người nhân hậu và đảm đang đó. Tính cách cao đ ẹp c ủa V ũ N ương còn là lòng hi ếu thảo với mẹ chồng, lòng chung thuỷ son sắt với chồng của nàng. Khi chồng vào lính, Vũ Nương một mình đảm đang, nuôi dạy con thơ, ch ăm sóc thu ốc thang cho mẹ chồng đau yếu, làm ma chay tống tang khi mẹ chồng qua đời. V ũ n ương gi ữ tròn hiếu đạo với mẹ chồng, giữ tròn tình nghĩa với chồng. Cái thói đời xưa nay thường không thể hoà hợp giữa mẹ chồng nàng dâu, nh ất là trong gia đình phong kiến. Thế nhưng, dù chỉ có hai mẹ con sống với nhau (Vũ N ương v ới m ẹ ch ồng) nhưng nàng xem mẹ chồng như mẹ đẻ, điều đó còn được thể hiện qua l ời tr ăng tr ối c ủa m ẹ chồng nàng trước khi bà qua đời: “xanh kia sẽ chẳng ph ụ con c ũng nh ư con đã ch ẳng ph ụ m ẹ ... “ Rồi sự chu đáo của Vũ Nương trong việc ma chay, cúng lễ đã th ể hiện tấm lòng th ơm th ảo của người con dâu đáng quý như Vũ Nương. Lòng chung thuỷ của V ũ N ương còn đ ược th ể hiện ở hành động nuôi con, chờ chồng suốt những tháng ngày Tr ương Sinh đi lính mà ch ưa rõ mặt con. Chỉ có hai mẹ con côi cút đùm bọc, gắn bó. C ậu Bé Đản th ơ ngây, đêm đ ến đ ược m ẹ ch ỉ vào cái bóng của mình trên tường gọi là cha (đó là một cách dỗ dành con ngủ thật hồn nhiên nhưng sau đó lại là nguyên nhân gây ra cái tội thậtt vô tình)..

<span class='text_page_counter'>(108)</span> Nôi hàm oan không được quyền nói, suy xét cho ra là bởi con ng ười đ ộc đoán, phàm phu l ại kém văn hoá như Trương Sinh khi chàng ra lính trở về (nghe lời đ ứa con non d ại) đã gây nên n ỗi oan tày trời cho Vũ Nương. Bị chồng ghen tuông vô cớ, bao nhiêu l ời giãi bày c ủa v ũ N ương và lời khuyên ngăn của láng giềng, bà con, cô bác, tr ương Sinh v ẫn không tin và đinh ninh là “vợ hư” , mối nghi ngờ càng ngày càng lún sâu không có cách gì g ỡ ra đ ược. Chàng m ắng nhi ếc v ợ thật thậm tệ rồi “đánh đuổi nàng đi”. Vũ Nương không hề có lỗi lầm gì, nàng thuỷ chung, trinh trắng, đức hạnh vẹn toàn nhưng sự đối xử của chồng làm cho nàng hoàn toàn thất v ọng, không hiểu nỗi oan khuất từ đâu mà ra. Không có cách nào đ ể giãi bày, th ất v ọng b ởi h ạnh phúc niềm vui “nghi gia nghi thất” không còn nữa, nàng phải tìm đến cái chết để minh oan. Hành động tự vẫn là thái độ cuối cùng nàng được phép bởi không th ể gi ải bày đ ược v ới ch ồng, ti ết hạnh của nàng sẽ bị hoen ố, biết bao giờ phai mờ đi trong tâm trí của chồng. Một người vợ hiền lành, đầy tiết nghĩa, thuỷ chung phải chết dẫu không có t ội tình gì. Mãi đến sau cái chết đo, người chồng mới hiểu nỗi oan ức c ủa vợ mình. chính s ự đ ộc đoán c ủa người đàn ông trong gia đình Phong kiến mà Nho giáo nuôi dưỡng dung túng là đ ề tài mà Nguy ễn Dữ muốn phê phán. Bởi không chỉ hình ảnh nhân vật Vũ Nương, mà còn biết bao thân ph ận ph ụ n ữ “Bảy nổi, ba chìm” đã phải sống trong cảnh đời như vậy: “Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” Cái chết của Vũ Nương là số phận, nhưng cũng là lời tố cáo thói nghen tuông ích k ỉ, s ự h ồ đ ồ, vũ phu của đàn ông- người chồng vô học, đa nghi như Tr ương Sinh- là l ời t ố cáo lu ật l ệ phong kiến hà khắc dung túng cho sự độc ác, bất công- “chế độ nam quyền” dưới thời phong kiến ngự trị. Vũ Nương trong truyện là một nhân vật rất đẹp, theo đúng quan ni ệm đ ặc đi ểm truy ền th ống, nhưng phải chịu nổi oan tày trời và phải chứng thực sự vô t ội c ủa mình b ằng cái ch ết. Cái chết đau đớn bất công, chỉ vì sự hiểu nhầm, từ m ột câu nói th ơ ngây c ủa con tr ẻ mà ng ười chồng Trương Sinh đã nghi oan, đã làm mất đi người vợ quý trên đ ời. Nguyên nhân sâu xa c ủa bi kịch nát lòng này chính là do chiến tranh loạn l ạc và l ễ giáo phong ki ến tr ọng nam quy ền trong xã hội ngày trước. Đề 4: Phân tích bài thơ “Đồng chí” của chính Hữu). Bài thơ “Đồng chí” ra đời vào đầu năm 1948, sau chiến dịch Việt Bắc của quân và dân ta đánh thắng cuộc tiến công quy mô lớn của thực dân Pháp cuối năm 1947 lên khu c ăn c ứ đ ịa Vi ệt Bắc. Nhà thơ Chính Hữu lúc đó là chính trị viên đại đội thuộc trung đoàn Th ủ đô, cùng đ ơn v ị c ủa mình tham gia chiến đấu suốt chiến dịch. Đầu năm 1948 Chính H ữu vi ết bài th ơ này. Bài th ơ là kết quả của những trãi nghiệm thực va những cảm xúc sâu xa c ủa tác gi ả v ới đ ồng đ ội trong chiến dịch Việt Bắc. Bài thơ nói về tình đồng đội, đồng chí thắm thiết, sâu n ặng c ủa nh ững người lính cách mạng mà phần lớn họ xuất thân từ nông dân. Đồng th ời bài th ơ c ũng th ể h ện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội trong thời kì đ ầu c ủa cu ộc kháng chiến chống thực dân Pháp còn rất khó khăn thiếu thốn. Bài thơ” Đồng Chí” viết theo thể thơ tự do, với hai mươi dòng thơ, chia làm ba đo ạn. C ả bài thơ đều tập trung vào thể hiện chủ đề về tình”Đồng Chí”..

<span class='text_page_counter'>(109)</span> Cái bắt gặp đầu tiên của những người lính là từ nh ững ngày đ ầu g ặp m ặt. H ọ đ ều có s ự t ương đồng về cảnh ngộ nghèo khó ”quê hương anh nước mặn đồng chua, lành tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”. Những người lính là những người của làng quê nghèo lam l ũ, v ất v ả v ới cày c ấy, ruộng đồng với những làng quê khác nhau. Họ từ các phương tr ời không h ề quen nhau ”từ muôn phương về tụ hội trong hàng ngũ của những người lính cách m ạng”. Đó chính là cơ sở của tình đồng chí sự đồng cảm giai cấp của những người lính cùng chung nhi ệm v ụ chi ến đấu để giải phóng quê hương, đất nước. Diễn đạt ý nghĩa đó, tác giả đã diễn tả bằng hình ảnh: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. “Súng - đầu” sát bên nhau là tượng trung cho ý chí và tình c ảm, cùng chung lí t ưởng, nhi ệm v ụ chiến đấu, sát cánh bên nhau. Tình đồng chí, đồng đội nảy n ở và hình thành b ền ch ặt trong s ự chan hoà và chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui. Đó là m ối tình tri k ỉ c ủa nh ững ng ười bạn chí cốt mà tác giả đã biểu hiện bằng một hình ảnh cụ thể, giản d ị mà h ết s ức g ợi c ảm: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Sau câu thơ này, nhà thơ hạ một câu, một dòng thơ, hai tiếng “Đồng chí” vang lên như một “nốt nhấn”, là sự kết tinh của mọi cảm xúc, mọi tình cảm. Câu thơ “Đồng chí” vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định, đồng thời lại nh ư một cái bản lề gắn kết đoạn đầu với đoạn thứ hai của bài th ơ. Dòng th ơ hai tiéng “Đồng chí” như khép lại, như lắng sâu vào lòng người cái tình ý sáu câu th ơ đ ầu c ủa bài th ơ, nh ư m ột s ự lí giải về cơ sở của tình đồng chí. Sáu câu thơ trước hai ti ếng “Đồng chí” ấy là cội nguồn và sự hình thành của tình đồng chí keo sơn giữa những người đồng đội. Mạch cảm xúc và suy nghĩ trong bài thơ được triển khai trong đo ạn th ơ th ứ hai là nh ững bi ểu hiện cụ thể của tình đồng chí và sức mạnh của tình đồng chí. Sự biểu hi ện c ủa tình đ ồng chí và sức mạnh của nó được tác giả gợi bằng hình ảnh ở những câu thơ tiếp: “ Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính” “Đồng chí”- đó là sự cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng c ủa nhau. Ba câu th ơ trên đ ưa người đọc trở lại với hoàn cảnh riêng của những người lính vốn là nh ững ng ười nông dân đó. Họ ra đi trở thành những người lính nhưng mỗi người có một tâm tư, m ột n ỗi lòng v ề hoàn cảnh gia đình, người thân, công việc đồng quê. Họ gửi lại tất cả cho hậu ph ương, g ửi b ạn thân cày cấy ruộng nương của mình. Họ nhớ lại những gian nhf trống không “mặc kệ gió lung lay”. Nhưng đành để lại, đành gửi lại, họ phải ra đi vì nghĩa lớn “cứu nước, cứu nhà.” Giờ ở tiền tuyến, họ nhớ về hậu phương với một tình cảm lưu luyến khó quên. Hậu phương, tiền tuyến (người ở lại nơi giếng nứơc, gốc đa) không nguôi nhớ thương người thân của mình là những người lính nơi tiền tuyến. Tuy dứt khoát, m ạnh m ẻ ra đi nh ưng những người lính không chút vô tình. Trong chiến đấu gian kh ổ, hay trên đ ường hành quân h ọ đều nhớ đến hậu phương- những người thân yêu nhất của mình: “ Ôi! Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồi hồi nhớ mắt người yêu” (Nguyễn Đình Thi) “Đồng chí”-đó là cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời ng ười lính v ới nh ững hình ảnh chân thực, xúc động, gợi tả và gợi hình (từng cơn ốm lạnh sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi,áo rách vai, quần vài mãnh vá, miệng cười buốt giá, chân không giày) những ngày tháng ở rừng..

<span class='text_page_counter'>(110)</span> Để diển tả được sự gắn bó, chia sẻ, sự giống nhau vế cảnh ngộ người lính tác gi ả đã xây dựng những câu thơ sóng đôi, đối ứng với nhau trong từng cặp, từng câu: “ Anh với tôi biết từng cơn ốm lạnh Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi” ................................................ Miệng cười buốt giá Chân không giày” Sức mạnh nào đã giúp họ vượt qua tất cả? Hình ảnh” thương nhau tay nắm lấy bàn tay” biểu hiện thật giản đị và xúc động của tình c ảm đồnh chí, đồng đội thiêng liêng của những người lính. Tình cảm đó là ngu ồn s ức m ạnh và ni ềm vui để họ vượt qua. Cái “bắt tay”(như bàn tay biết nói) chính là tình cảm của người lính truyền cho nhau sức mạnh và niềm tin để họ vượt qua tất cả những gian lao, thi ếu th ốn, thử thách trong chiến đấu. Tình đồng chí, đồng đội còn biểu hiện ở sự thử thách. Đoạn th ơ cu ối th ật cô đ ọng b ằng hình ảnh khi nhà thơ viết: Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo”. Đây là một bức tranh đẹp của tình đồng chí, đồng đội- một bức tranh đặc sắc và có ý nghĩa. Bức tranh trên là mội cảnh thực trong mội đêm phục kích “chờ giặc tới” tại một cảnh ”rừng hoang sương muối” hoang vắng lạnh lẻo nổi bập lên ba hình ảnh gắn k ết v ới nhau ”vầng trăng khẩu súng và người lính” vầng trăng như treo khẩu súng của người lính. Người lính thì “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Câu thơ “đầu súng trăng treo” (chỉ có 4 chữ) gây cho người đọc một sự bất ngờ lí thú “ súng và trăng” sao lại hoà quỵên vào nhau đẹp thế! Hình ảnh thơ nói lên ý ngh ĩa cao đ ẹp c ủa cu ộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của anh bộ đội cụ Hồ trong những năm đầu khánh chi ến ch ống Pháp. Bài thơ có ba khổ, ba tứ thơ, chủ yếu tạo thành ý chung xuyên su ốt toàn bài th ơ “Đồng chí”.“Đồng ch í -thương nhau nắm lấy bàn tay - đầu súng trăng treo” Bài thư hàm xúc, mộc mạc, chân thực trong sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh, gi ợi t ả, có s ức khái quát cao, khắc hoạ được một trong những phẩm chất tốt đ ẹp c ủa anh b ộ đôi c ụ H ồ. Đó là mối tình đồng chí, đồng đội gắn bó, keo sơn, thắm đượm tình cảm, gian kh ổ có nhau, s ống chết có nhau. Bài thơ có thực, có mơ toạ nên vẻ đ ẹp c ủa bài th ơ, gây cho ng ười đ ọc nh ững suy tư sâu sắc những cảm xúc sâu lắng. Bài thơ “Đồng chí” có những nét thành công trong việc khắc hoạ hình ảnh người lính cách mạng trong thơ ca kháng chiến. Đề 5: Phân tích bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”của Phạm Tiến Duật Phạm Tiến Duật là nhà thơ trẻ và lớn lên “trong sắc áo của anh bộ đội Trường Sơn” giữa những ngày ác liệt nhất của cuộc chiến tranh nhân dân chống Mỹ. Tiếng thơ Phạm Tiến Duật hình thành và lớn lên với nh ững bài th ơ “ Trường Sơn đôngTrường Sơn tây, lửa đèn, giửi em cô thanh niên xung phong, nh ớ....” đã góp phần trẻ hoá thơ Việt Nam thời chống Mỹ. Bài thơ “bài thơ về tiểu đội xe không kính” được rút ra trong tập thơ “vầng trăng-quầng lửa” của tác giả. Trong bài thơ tác giả đã xây dựng một hìng t ượng đ ộc.

<span class='text_page_counter'>(111)</span> đáo những “chiếc xe không kính” chắn gió vẫn băng băng trên đường ra trận vì chi ến tr ường miền Nam ruột thịt. Mở đầu bài thơ, tác giả đã giải thích vì sao tất cả xe trong ti ểu đ ội đ ều “không có kính” vì bom đạn giặc Mỹ làm “kính vỡ đi rồi”. Chỉ một chi tiết nhỏ “không có kính vì xe không có kínhbom giật, bom rung kính vỡ mất rồi” tác giả đã làm cho người đọc hiểu được sự ác liệt, tàn b ạo của cuộc chiến tranh do đế quốc Mỹ gây ra. Những chi ếc xe này đã làm n ổi b ật hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm ch ống M ỹ c ứu nước. Thế mà, những người lính trên những chiếc “xe không kính” vẫn “ung dung buồng lái ta ngồi nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng!” Thái dộ ung dung và “cái nhìn” của anh lái xe như bất chấp, coi thường tất cả nguy hi ểm ở phía trước mác dù “bụi phun tóc trắng như người già”, cho dù “mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”...các anh vẫn “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” hoặc tếu táo “phì phèo châm điếu thuốc” hay “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.” Hình ảnh trong các câu thơ trên đã làm nổi rõ cái hiên ngang, d ũng c ảm, b ất ch ấp m ọi nguy hi ểm của các chiến sĩ lái xe, để lái những chiếc xe không kính ra m ặt tr ận v ới m ột ni ềm tin ni ềm vui của tuổi trẻ. Khung kính đã bị vỡ, không có gì để chắn gió tr ời ùa vào, đ ập th ẳng vào m ắt. Th ế mà, tác gi ả l ại viết: “ nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng”. “ Xoa” là cử chỉ nhẹ nhàng vuốt ve âu yếm. Qua cách diễn đạt c ủa câu th ơ thì ở đây, gió không làm đau, làm rát mắt của người lái xe mà ngược lại gió còn vỗ v ề nhè nh ẹ vào đôi m ắt “đắng”. Và, con đường trước mặt- con đường ra trận trở nên gần sát hơn đang chạy ng ược l ại “Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Vì không có kính chắn, nên người lái xe có cảm giác và ấn tượng “Con đường chạy thẳng vào tim”. Con đường thực trước mặt đó củng chính là con đường được nhà thơ nâng lên thành con đường lý tưởng con đường cách m ạng..., con đ ường ở trong trái tim của người chiến sĩ. Chính là con đường đó đã giúp cho cac chi ến s ĩ lái xe thêm s ức mạnh, niềm tin, bất chấp bom đạn của kẻ thù, tiến lên phía tr ước: “ Thấy sao trời và đột ngột cánh chim- như sa như ùa vào buồng lái”. Người lái xe vẫn vui với “ sao trời” và “Cánh chim”, “ sao trời và cánh chim” ngày đêm như bầu bạn với người lính lái xe. Ngày cũng nhưu đêm, thiên nhiên, đất trời luôn sát cánh với người chiến sĩ lái xe trên su ốt ch ặng đ ường dài ra tr ận. Với nghệ thuật nhân hoá tài tình, nhà thơ đã bi ến những khó kh ăn tr ở ng ại khio lái nh ững chi ếc xe không kính trở thành gần gủi gắn bó thân thương h ơn. Gi ọng đi ệu th ơ có khi th ật ngang, tự nhiên, bất chấp gian khổ được thể hiện rõ trong cấu trúc đựoc lặp lại “ Ừ thì...”, “Chưa cần rửa”, “Chưa cần thay” ..., “Lái trăm cây số nữa...”. Dường như gian khổ nguy hiểm, ác liệt của chiến tranh không làm ảnh hưởng đến tinh thần của họ, trái l ại, nh ững ng ười lính lái xe xem như là một nhịp để rèn thử thách sức mạnh và ý chí của mình “ chí làm trai” -tuổi trẻ người lính”. Những người lái xe còn là những chàng trai trẻ, sôi n ổi, vui nh ộn, l ạc quan. H ọ “nhìn nhau”, “bát tay nhau”, và trên đường ra trận thì “ bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời- chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”, và cứ thế “ võng mắc chong chênh đường xe chạy”, trước mắt họ những chiếc xe lại tiến lê phía trước, là ta cứ đi, lại đi “trời xanh thêm” không có gì ngăn cản đuợc đường ra mặt trận..

<span class='text_page_counter'>(112)</span> Cái gì đẫ làm nên sức mạnh ở họ để coi thường gian khổ bất chấp gian nan nh ư v ậy? Đó chính là ý chí chiến đấu để giải phóng miền nam là tình yêu nước nồng nhi ệt ở tu ổi tr ẻ th ời đánh Mỹ cứu nước. Những chiếc xe bị bom đạn Mỹ làm cho biến dạng tr ơ tr ụi, tr ụi tr ần ”Không có kính rồi xe không đèn- không có mui xe, thùng xe có xước” Nhưng điều kì lạ là những chiếc xe trụi trần ấy vẫn chạy, vẫn băng ra tiền tuyến. Tác giả lại một làn nữa lí giải b ất ng ờ và r ất chí lí: “chỉ cần trong xe có một trái tim” Trái tim người lính cách mạng- trái tim của lòng quả cảm. Với lời thơ tự nhiên như lời nói bình thường, giọng điệu thơ gần gủi, vui tươi, dí d ỏm, bài thơ đã nêu bật hình ảnh người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn: d ũng c ảm hiên ngang, v ới niềm vui sôi nổi, lạc quan yêu đời bất chấp mọi khó kh ăn, nguy hi ểm đ ể ra tr ận vì Mi ền Nam ruột thịt thân yêu. Họ luôn đối diện với khó khăn thử thách, mà v ẫn c ười đùa, t ếu táo, h ồn nhiên, tự tin. Đó là nét đặc sắc của bài thơ cũng như ngôn ng ữ, gi ọng đi ệu riêng c ủa th ơ Ph ạm Tiến Duật. Hôm nay đất nước dã hoà bình sau hơn 30 n ăm gi ải phóng Mi ền Nam con đ ường Trường Sơn đã đi vào lịch sử, đọc lại bài thơ này, chúng ta càng t ự hào và khâm ph ục bi ết bao các chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn ngày trước cùng bộ đội Trường Sơn đã góp ph ần vào chi ến th ắng huy hoàng của dân tộc. Đề 6: Cảm nhận của em về chân dung người lính lái xe trong “ Bài th ơ ti ểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật Phạm Tiến Duật là nhà thơ nổi lên từ phong trào ch ống M ỹ c ứu n ước. N ăm 1964, t ốt nghi ệp khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội I. Ông vào bộ đội và xung phong vào tuy ến l ửa khu Bốn. Từng là lính lái xe nên ông có những bài thơ vi ết rất hay v ề binh ch ủng này. “ Tiểu đội xe không kính” là một bài thơ tiêu biểu. Bài thơ là khúc hát ca ngợi những người lính lái xe đã đã v ượt lên hi ện th ực d ữ d ội, ác li ệt c ủa khói lửa chiến tranh thời chống Mỹ để hoàn thành nhiệm vụ. Bài thơ đã xây dựng một hình tượng độc đáo đó là những chiếc xe, nói cho đúng là c ả m ột ti ểu đ ội xe không có kính chắn gió, chắn bụi băng băng ra tr ận. Mà đ ộc đáo th ật, vì ch ỉ g ặp ở Vi ệt Nam, ở những chiến sĩ lái xe quân sự thời chống Mỹ. Có thể nói “ chất” độc đáo này được lên men từ chiến trường ác liệt: “Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi” Nguyên nhân xe không kính là vậy. Đấy là mội hiện thực trần trụi mà tác giả không thể hư cấu. Bên cạnh hiện thực trần trụi đấy là hình ảnh người lính lái xe hi ện lên r ất đ ẹp. C ứ t ưởng v ới hiện thực dữ dội, ác liệt, trớ trêu ấy, người lính lái xe phải bó tay, th ế nh ưng v ẫn n ổi lên v ới tư thế: “Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.” Nghĩa là xe cứ đi. Không những ung dung mà người lính lái xe còn t ỏ ra r ất ch ủ đ ộng, hiên ngang vượt lên tất cả. Nói đến người lái xe là nói đến con mắt, nói đến cái nhìn. Tô đ ậm cái nhìn c ủa ng ười lái xe, ch ỉ trong một dòng thơ, tác giả đã sử dụng 3 lần từ “ nhìn” (điệp từ). Nhìn trời là để phát hiện máy.

<span class='text_page_counter'>(113)</span> bay hay pháo sáng về ban đêm. Nhìn thẳng là cái nhìn ngh ề nghi ệp, hiên ngang. Và c ũng t ừ ca bin không kính, qua cái nhìn đã tạo nên những ấn tượng, cảm giác rất sinh động, cụ thể đối với người lái xe: “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa, như ùa vào buồng lái” Những cảm giác này, dù mang ý nghĩa tả thực hay t ượng tr ưng, đ ều th ể hi ện cái th ế ung dung tinh thần vượt lên của người lái xe. Hai khổ thơ tiếp, hình ảnh người lái xe được tô đậm. Cái tài của Phạm Ti ến Du ật trong kh ổ thơ này là cứ hai câu đầu nói về hiện thực nghiệt ngã ph ải ch ấp nh ận thì hai câu sau nói lên tinh thần vượt lên hoàn cảnh để chiến thắng hoàn c ảnh c ủa ng ười lái xe trong th ời gian chi ến tranh ác liệt. Xe không kính nên “bụi phun tóc trắng như người già ” là lẽ đương nhiên, xe không có kính nên “ướt áo, mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” là lẽ tất nhiên. Những cụm từ “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo” chứng tỏ họ không những đã ý thức được mà còn rất quen với những gian khổ đó. Chính vì thế: “Chưa cần lửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” Và cao hơn: ”Chưa cần thay lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.” Đây là những câu thơ đậm chất người lính, nói rất đúng tinh thần và cuộc s ống c ủa ng ười lính Các động tác “phì phèo châm điếu thuốc” tuy có vụng về nhưng sao đáng yêu thế?. Cái cười “ ha ha” nở ra trên khuôn mặt lấm lem của mọi người sao mà rạng ngời đến thế? B ởi vậy, đ ọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần nào cuộc sống của người lính ngoài chi ến tr ường những năm tháng đánh Mỹ. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đ ạn ác li ệt nh ưng tràn đ ầy tinh thần lạc quan, yêu đời và tinh thần hoàn thành nhiệm vụ cao. Hai khổ thơ tiếp nói về cảnh sinh hoạt và sự họp mặt sau nh ững chuy ến v ận t ải trên nh ững chặng “đường đi tới”. Vẫn những câu thơ có giọng điệu riêng, đậm chất văn xuôi r ất riêng của Phạm Tiến Duật đã thể hiện được tình đồng chí, đồng đội trong kháng chi ến. Ở hai kh ổ thơ này, tác giả vẫn tô đậm cái hình tượng thơ “ xe không kính”, nhưng lại có cách nói khác rất lính: “Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” Khổ thơ cuối cùng, kết thúc bài thơ, tác giả muốn nói với chúng ta m ột đi ều nh ư m ột đi ều d ự báo: đâu chỉ là tiểu đội xe không kính mà tương lai còn là ti ểu đ ội xe không đèn, không mui xe, ... Hiện thực của cuộc chiến tranh diễn ra còn hết sức ác liệt, ng ười lính lái xe còn ph ải đ ối mặt với bao nhiêu nghiệt ngã, thử thách: “ Không có kính rồi xe không đèn, không có mui, thùng xe có xước” nhưng nhất định họ sẽ hoàn thành nhiệm vụ, sẽ chiến thắng bởi vì phía tr ước họ là miến Nam thân yêu và vì họ sẵn có một nhiệt tình cách m ạng, một trái tim qu ả c ảm - trái tim người lính Bác Hồ..

<span class='text_page_counter'>(114)</span> “ Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim” Bài thơ là bức tượng đài nghệ thuật về người lính lái xe trong cuọoc kháng chi ến ch ống M ỹ cứu nước của dân tộc ta. Đề 7: Phân tích cảnh ra khơi của” Đoàn thuyền đánh cá” được miêu tả trong bốn câu đầu trong bài thơ “ Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận: ”Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi” Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là bài thơ được Huy Cận sáng tác vào năm 1958, nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hồng Gia - Cẩn Phả - Quảng Ninh. Bài thơ đã dụng được một không khí khẩn trương, hăng say của những người lao động đánh cá trong m ột đêm trên bi ển, v ới t ư th ế làm chủ thiên nhiên, biển cả. Bốn câu thơ đầu diển tả c ảnh ra kh ơi c ủa “Đoàn thuyền đánh cá”, mở đầu cho một đêm đánh cá trên biển. Hai câu thơ đầu diển tả thời điểm ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”. Thời gian ở đây là lúc ngày tàn, được miêu tả bằng những chi tiết, hình ảnh cụ thể, giàu giá tr ị g ợi c ảm: ”Mặt trời xuống biển như hòn lửa-sóng đã cài then đêm sập cửa”. Ơ câu thơ này, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh. Màu đỏ của “mặt trời” được so sánh với “hòn lửa”. Viết về cảnh biển đêm, ngày tàn, nhưng cảnh vẫn không hoang vắng nhờ hình ảnh rực sáng này. Trong c ản quan c ủa Huy Cận, vũ trụ là một ngôi nhà khổng lồ. Khi ngày đã tàn, “Mặt trời xuống biển”, màn đêm buông xuống “Đêm sập cửa” thì sóng biển như “then cài” đóng lại cánh cửa khổng lồ ấy. Những hình ảnh ẩn dụ này chứng tỏ nhà thơ có trí tưởng tượng phong phú. Đối với thiên nhiên thì một ngày đã khép lại, nhưng với đoàn thuy ền đánh cá thì đây l ại là th ời đi ểm bắt đầu cho công việc đánh cá trên biển trong đêm. “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi” Từ “lại” nói lên rằng hằng ngày vào cái thời điểm ấy, khi tr ời yên bi ển l ặng, đoàn thuy ền ra khơi đã thành một cảnh quen thuộc. Hình ảnh thơ “Câu hát căng buồn cùng gió khơi” là một hình ảnh được xây dựng nhờ một trí tưởng tượng phong phú. Huy Cận đã miêu tả, đã c ụ th ể hoá ti ếng hát c ủa nh ững ng ười lao đ ộng. Những người lao động đánh cá ra khơi cùng với tiếng hát kho ẻ kho ắn đ ến m ức t ạo nên m ột s ức mạnh (cùng với gió khơi) làm căng những cánh buồm. Họ ra khơi với một ni ềm ph ấn kh ởi, niềm tin vào thành quả lao động. Bốn câu thơ mở đầu miêu tả cảnh ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”. Cảnh ngày tàn mà vẫn ấm áp, vẫn tràn đầy niềm vui, niềm lạc quan của người lao động. Không khí chung c ủa b ốn câu thơ mở đầu này chi phối không khí chung của cả bài thơ. Đề 8: Phân tích bài thơ ” Đoàn thuyền đánh cá”của Huy Cận: Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là bài thơ được Huy Cận sáng tác vào năm 1958, nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hồng Gia - Cẩn Phả - Quảng Ninh. Thông qua một đêm đánh cá của một.

<span class='text_page_counter'>(115)</span> đoàn thyền trên biển, nhà thơ ca ngợi không khí lao đ ộng m ới, tràn đ ầy ni ềm l ạc quan, làm ch ủ thiên nhiên, biển cả bao la. Bài thơ đã dựng được không khí lao động khẩn trương, hăng say, nhộn nhịp c ủa mi ền B ắc những năm đầu bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bài thơ mở đầu bằng cảnh “Mặt trời xuống biển như hòn lửa” và kết thúc bằng hình ảnh “Mặt trời đội biển như màu nước-mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi”. Như vậy là cảnh lao động của đoàn thuyền đánh cá diển ra trong một đêm ròng. Thế nh ưng, bài th ơ là m ột b ức tranh với những đường nét khoẻ khoắn, màu sắc tươi sáng lạ thường. Đánh cá trên bi ển mênh mông thực chất là một công việc lao động nặng nhọc, đầy nguy hi ểm. V ậy mà c ả bài th ơ là m ột khúc ca sảng khoái, tràn đầy niềm vui, phối hợp nhạc điệu v ới nh ững đ ộng tác kho ẻ m ạnh, d ồn dập. Bài thơ lặp lại nhiều lần chữ “hát”, và tiếng hát đã thực sự trở thành âm thanh chủ đạo của bài thơ. Cùng với tiếng hát được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc, trong bài th ơ này, tác gi ả còn t ập trung miêu tả hình ảnh những con cá, những đàn cá gợi lên m ột b ức tranh sinh đ ộng v ề c ảnh biển giàu, đẹp. Hình ảnh đàn cá liên tiếp suất hiện, lấp lánh ánh sáng màu s ắc nh ư m ột b ức s ơn mài: “Hát rằng cá bạc biển Đông lặng Cá thu biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày đệt biển muôn luồng sáng Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi! Cá nục cá chim cùng cá đé Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em vẩy trắng vàng choé Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông” Giữa khung cảnh biển đêm mênh mông, hình ảnh con ng ười lao đ ộng xu ất hi ện v ới t ư thế làm chủ biển khơi, làm chủ công việc của mình. Hình ảnh h ọ xu ất hi ện th ật gân guốc, khoẻ khoắn: “Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng - Ta kéo xoăn tay chùm cá n ặng”. Bằng cảm hứng lãng mạn, Huy Cận đã dựng lên hình ảnh nh ững ng ười con lao đ ộng m ới với tầm vóc ngang tầm vũ tru và hoà hợp với khung cảnh trời nước bao la: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng.” Trên cái không gian bát ngát, con thuyền có bu ồn là tr ăng, đ ược lái b ằng gió l ướt sóng đi ph ơi phới, gợi lên niềm vui niềm tự hoà chân chính của con người mới, làm ch ủ thiên nhiên, h ăng say lao động làm giàu cho Tổ quốc. Huy Cận đã nhìn cảnh đánh cá trên bi ển kh ơi b ằng con m ắt lạc quan phơi phới của mình. Sau một đêm đánh cá trên biển, bình minh lên, đoàn thuyền đánh cá l ại tr ở v ề b ến bãi. V ẫn là câu hát nhưng đây là câu hát tràn ngập niềm vui c ủa con ng ười sau m ột đêm lao đ ộng kh ẩn tr ương và đ ạt sản lượng mong muốn. Thiên nhiên như chia sẻ niềm vui đó: ”Câu hát căng buốm cùng gió khơi” và cảnh trở nên vô cung sinh động. Trên mặt biển mênh mông, đoàn thuy ền lao vùn v ụt:.

<span class='text_page_counter'>(116)</span> ”Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Đoàn thuyền như chạy đua cùng với thời gian với niềm vui háo hức để trở về với bến bờ đang nhộn nhịp đón chờ.... Bài thơ là khúc ca sảng khoái của người lao động đánh cá, thể hiện ni ềm ph ấn kh ởi tr ước nh ững thành quả lao động của mình. Hình ảnh con người hiện lên trong bài th ơ là hình ảnh conng ười mới làm chủ thiên nhiên, nhiệt tình lao động sản xuất để làm giàu cho t ổ qu ốc, g ắn v ới bi ển c ả quê hương. Đề 9: Phân tích hình ảnh người mẹ Tà -ôi trong bài thơ “Khúc hát ru nh ững em bé trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm Bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đời giữa những năm tháng quyết liệt của cuộc kháng chiến chống M ỹ c ứu n ước trên c ả hai mi ền Bắc-Nam. Thời kì này, cuộc sống của cán bộ, nhân dân ta trên các chi ến khu (phần lớn là những vùng miền núi) rất gian nan, thiếu thốn. Cán bộ, nhân dân ta phải bám r ẫy, bám đất đ ể t ăng gia sản xuất, vừa sẳn sàng chiến đấu bảo vệ căn cứ. Bài th ơ là l ời hát ru nh ững em bé dân t ộc Tà-ôi lớn trên lưng mẹ ở vùng chiến khu Trị-Thiên trong thời kì chiến tranh chống Mỹ. Hình ảnh người mẹ Tà-ôi trong bài thơ, qua từng đoạn thơ với từng khúc hát ru đ ược g ắn v ới hoàn cảnh, công việc cụ thể. Ơ khúc thứ nhất, người mẹ hiện lên với dáng tần tảo, lam lũ, v ất v ả v ới công vi ệc gi ả g ạo nuôi bộ đội. Mẹ giã gao, con vẫn trên lưng m ẹ. Câu th ơ: “Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối” thật cảm động. Mẹ gầy vì công việc giúp nuôi bộ đội đánh giặc. M ẹ gầy vì nuôi cho con nhanh lớn. Nhưng trái tim của mẹ vẫn hát về ước mơ: “Mai sau con lớn vung chày lún sân” Trong khúc ru thứ hai, diễn tả công việc mẹ lên núi tr ỉa b ắp. Câu th ơ: “Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ” hình thành theo kết cấu đối lập làm nổi bật hình ảnh me v ới công vi ệc v ất v ả. Núi thì to, nương bắp thì rộng, mà sức mẹ có hạn. Trên lưng mẹ, em vẫn ngủ say: “Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng” Hình ảnh “Mặt trời” trong câu thơ sau được chuyển nghĩa (ẩn dụ): Cu Tai là m ặt tr ời c ủa mẹ. Em còn là tất cả của mẹ, là lí tưởng, là hi vọng của mẹ. Mẹ mơ ước về con: “Mai sau lớn lên phát mười Ka-lưi” Đến khổ thứ ba, lời ru đồn đập, mạnh mẻ, gấp rút, bởi “giặc Mỹ đến đánh”, đuổi ta phải rời suối rời nương “Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối”. Mẹ phải chuyển lán, đạp rừng , cùng tham gia đánh giặc. Mẹ đến chiến trường, em vẩn trên lưng: “Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường Từ trong đói khổ em vào Trương Sơn” Trong khói lửa của chiến tranh mẹ mong ước: “Mai sau con lớn làm người tự do”. Ba khúc hát ru cũng là ba đoạn thơ điển tả công việc cùng t ấm lòng c ủa m ẹ ở trong chi ến khu gian khổ, người mẹ Tà-ôi trong bài thơ còn thắm thiết yêu con và c ũng nặng tình th ương buôn làng, quê hương, bộ đội và khao khát mong cho đất nước độc lập, tự do. Lời ru gắn với tình yêu con tha thiết của người mẹ dân tộc Tà-ôi. Lời ru thủ thỉ những điều đang diển tả trong thực tại mà người con chưa thể biết: “Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng.

<span class='text_page_counter'>(117)</span> Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối Lưng đưa nôi và tim hát thành lời” Lời ru theo nhịp giã gạo, mỗi câu bị ngắt nhịp làm hai như theo nhịp chày, nh ịp th ở. Hai m ẹ con cùng chung một nhịp, mẹ làm việc, con ngủ ngon “Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng”. Hai từ “Nghiêng” đứng trong một câu thơ thể hiện niềm say mê của mẹ hoà cùng giấc ngủ của bé. Mẹ làm việc khổ cực trong hiện tại, nhưng lời ru c ủa m ẹ cao vút đ ến ngày mai. “Mai sau con lớn vung chày lún sân!!.. Lời ru trên nương khi trỉa bắp ở trên núi Ka-lưi, vẫn theo nh ịp “chọc lỗ” trỉa bắp nhưng hình ảnh lúc này thiên về đối lập “Lưng núi to- lưng mẹ nhỏ” và đối xứng “Mặt trời của bắp- mặt trời của mẹ”, tất cả toát lên tình thương vô hạn của người mẹ nghèo vẫn thương con, thương cách mạng, “mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”- người mẹ vừa chịu đựng cái nóng vừa tha thiết yêu thương. Lời ru của mẹ không chỉ hướng vào thực tại mà còn hướng về tương lai: “Ngủ ngoan A-kay ơi, ngủ ngoan A-kay hỡi Mẹ thương A-kay, mẹ thương làng đói Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều Mai sau con lớn phát mười Ka-Lưi” Khi chuyển lán, trong lời ru thứ ba, nhịp thơ vẫn ngắt đôi, m ỗi dòng theo b ước chân đi nh ưng lời thơ xếp theo lối hùn điệp, đuổi nhau giục giã, khẩn trương: “Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối ........................................................ Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn”. Cũng như đoạn thơ trên, lời ru của mẹ hướng vào đất nước, hướng vào tương lai chiến thắng” “ Ngủ ngoan A-kay ơi, ngủ ngoan A-kay hỡi Mẹ thương A-kay, mẹ thương đất nước Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ Mai sau con lớn làm người tự do”. Tình yêu thương con của người mẹ gắn liền với tình cảm đ ối v ới cán b ộ, xóm làng, đ ất n ước. Tình yêu của người mẹ Tà- ôi gắn liền với tình cảm cao đẹp khác. Đó là lòng th ương yêu b ộ đội, yêu thương dân làng, yêu thương đất nước. Những lời ru c ủa ng ười m ẹ còn th ể hi ện ước mơ và ý chí của nhân dân ta. Người mẹ mong con lớn lên giúp m ẹ giã g ạo “vung chày lún sân”, giúp mẹ trỉa ngô, làm rẫy “phát mười Ka-lưi”. Đó là niềm mong ước mọi người được sống ấm no “hạt gạo trắng ngần, hạt bắp lên đều”. Lời hát ru còn thể hiện ý chí chiến đấu, khát vọng tự do và niềm tin vào thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống M ỹ: “Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ Mai sau con lớn làm người tự do...” Bài thơ xây dựng hình ảnh người mẹ Tà-ôi, nuôi con thơ mà làm đ ủ m ọi vi ệc cho công cu ộc chống Mỹ, góp phần vào thắng lợi chung cho đất nước. Một ng ười m ẹ tuy lao đ ộng nh ọc nhằn mà ước mơ bay bổng, toát lên một niềm tin vững chắc cho tương lai. Đây là m ột hình.

<span class='text_page_counter'>(118)</span> tượng hiếm có trong thơ ca cách mạng hiện đại, sánh cùng với nh ững hình t ượng khác hình ảnh người mẹ khác trong hai cuộc chiến của dân tộc ta đó là: m ẹ T ơm, m ẹ Su ốt, ng ười m ẹngười cầm súng Út Tịch.....đã góp nên một bài ca c ủa nh ững ng ười m ẹ Vi ệt Nam anh hùng : “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” với tám chữ vàng mà Bác Hồ trao tặng. Đề 10: Qua việc tìm hiểu cốt truyện và các đoạn trích trong SGK ngữ văn 9, tập I, em hãy phân tích nhân vật Thuý Kiều để làm nổi bật giá trị nhân đạo của Truyện Kiều. Kiệt tác truyền Kiều của đại thi hào Ng.Du có 2 giá trị lớn là giá tr ị hi ện th ực và giá tr ị nhân đ ạo. Truyện Kiều là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn b ạo (n ửa cu ối th ế k ỉ XVIII đầu thế kỉ XIX - cuối Lê đầu Nguyễn), là tiếng nói c ủa thương c ảm tr ước s ố ph ận (th ời đ ại) bi kịch của con người, tiếng nói lên án, tố cáo những th ế lực x ấu xa, ti ếng nói kh ẳng đ ịnh, đ ề cao tài năng, nhân phẩm và những khát vọng chân chính c ủa con ng ười nh ư khát v ọng v ề quyền sống, khát vọng tự do, công lý, khát vọng tình yêu hạnh phúc... Tiếng nói nhân đạo ấy toát lên từ hình tượng nhân vật Thuý Ki ều trong truy ện Thuý Ki ều. Thuý Kiều là hiện thân của nổi đau và bất hạnh. Nàng là m ột ng ười con gái tài s ắc, giàu tình c ảm nhưng bị xã hội phong kiến vùi dập, đoạ đày. Nhân vật Thuý Kiều là hiện thân những bi kịch của người phụ nữ trong xã h ội phong ki ến trước đây. Đời Kiều là một tấm gương oan khổ. Số phận Kiều hội đủ những bi k ịch c ủa người phụ nữ. Tuy nhiên hai bi kịch lớn nhất ở Kiều là bi kịch tình yêu tan v ỡ và bi k ịch b ị chà đạp nhân phẩm. Tình yêu Kim Trọng- Thuý Kiều là một tình yêu lí tưởng với “Người quốc sắc,kẻ thiên tài”, nhưng cuối cùng “giữa đường đứt gánh tương tư”, “nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Tình yêu tan vỡ và không bao giờ hàn gắn được-tuy “màn đoàn viên” có hậu về cơ bản cũng chỉ là “một cung gió thảm mưa sầu”.Hạnh phúc nàng toan được nắm trong tay thì cuộc đời cướp mất. Kiều là người luôn có ý thức về nhân phẩm nhưng cuối cùng l ại b ị chà đ ạp v ề nhân ph ẩm. Nàng trở thành “món hàng” để kẻ buôn người họ Mã “cò kè bớt một thêm hai”. Rồi nàng phải thất thân với những kẻ như Mã Giám Sinh, phải “Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”- Nổi đau nhất của cuộc đời Kiều chính là: “Thân lươn bao quản lần đầu- chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa”. Có nổi đau nào lớn hơn khi con người trọng nhân phẩm, luôn có ý th ức v ề nhân ph ẩm mà cuối cùng phải tuyên bố từ bỏ nhân phẩm? Đời Kiều không phải chỉ là một tấm bi kịch, mà là những chuổi dài nh ững bi k ịch n ối ti ếp nhau, mỗi lần nàng cố cất đầu ra khỏi bùn nhơ là một lần bị dúi xuống, b ị đ ạp xu ống sâu thêm một tầng nữa. Thuý Kiều là hiện thân của một vẻ đẹp nhan sắc, tài hoa. Sắc và tài c ủa Ki ều đã đ ạt t ới m ức lí tưởng. Thể hiện vẻ đẹp, tài năng của Kiều Ng.Du đã sử dụng bút pháp ước lệ của văn h ọc c ổ có phần lí tưởng hoá để trân trọng một vẽ đẹp. “ Một hai nghiêng nước nghiêng thành Sắc đành đồi một tài đành hoạ hai”. Tâm hồn đẹp đẽ của người con gái họ Vương thể hiện ở tấm lòng vị tha, nhân hậu. Nàng hi sinh tình yêu để cứu gia đình, cha mẹ. Khi ở lầu Ng ưng Bích, Ki ều nh ớ t ới cha m ẹ v ới những tình cảm chân thực. Nàng tưởng tượng bóng dáng tội nghiệp “Tựa cửa hôm mai” của người sinh dưỡng Nàng. Kiều day dứt không nguôi vì một nổi là không được ch ăm sóc cha.

<span class='text_page_counter'>(119)</span> mẹ già: “Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ”. Thuý Kiều là người chí tình chí nghĩa “Ơn ai một chút chẳng quên”. Khi có điều kiện, nàng đã trả ơn, hậu tạ những người cưu mang mình, nhưng nàng vẫn thấy công ơn đó không gì có thể đền đáp nổi “Nghìn vàng gọi chút lễ thường Mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân”. Thuý Kiều là hiện thân của nổi khát vọng tình yêu tự do, khát v ọng h ạnh phúc và khát v ọng v ề quyền sống. Khát vọng tình yêu tự do đậm màu sắc lãng mạn được thể hiện qua mối quan h ệ Thuý Ki ềuKim Trọng. Mới gặp chàng Kim lần đầu, hai bên chưa ti ện nói v ới nhau m ột l ời, mà m ối tình không lời ấy đã như một chén rượu nồng, khiến người ta choáng váng đê mê: “Tình trong như đã mặt ngoài còn e Chập chờn cơn tỉnh cơn mê...” Yêu nhau nàng chủ động xây dựng tương lai với người yêu. Gót chân nàng tho ăn tho ắt đi sang nhà Kim Trọng, cái hình ảnh nàng “Xăm xăm băng nẻo vườn khuya một mình” Thật là nhiệt thành cho một mối tình đầu trong trắng. Ng.Du đã dành tất cả tài năng và tâm huy ết đ ể vi ết lên m ột bản tình ca say đắm có một khong hai trong lịch sử văn học Việt Nam. Mối tình Kim-Kiều vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến bằng tình yêu t ự do , ch ủ đ ộng c ủa hai người. Khác với nhiều người phụ nữ xưa phải chịu sự sắp đ ặt c ủa cha m ẹ, Ki ều ch ủ đ ộng đến với tình yêu theo tiếng gọi của trái tim. Kiều táo bạo, chủ động nhưng đ ồng th ời c ũng là người thuỷ chung nhất trong tình yêu. Khát vọng về hạnh phúc, về quyền sống đã đưa Kiều trở thành đại diện cho con người bị áp bức vùng lên làm chủ số phận của mình trong tư thế chiến tháng, tư thế chính nghĩa: “Nàng rằng: Lồng lộn trời cao Hại nhân nhân hại sự nào tại ta”. Ở đây, Thuý Kiều đẫ gặp gở bao nhiêu người phụ nữ bị áp bức khác vùng lên đòi quy ền s ống, đòi lẽ công bằng, trừng trị kẻ ác. “Cái thế giằng co giữa sự sống và sự chết ở trong Tấm Cám, Thạch Sanh, trong nhiều truyện nôm khuyết danh khác cũng như trong truy ện Kiều, v ề c ăn bản nào có khác gì nhau, chỉ khác... Một bên nhiều khi con người mượn y ếu tố th ần linh ph ụ trợ, một bên đã vươn tới tư tưởng trị nhân dân và con người quyết định theo công lí của mình”(Cao Huy Đỉnh) Với nhân vật Thuý Kiều Ng.Du là nhà nhân đạo chủ nghĩa rất m ực yêu th ương r ất m ực đ ề cao con người, đề cao những khát vọng chân chính của con ng ười- đ ặc bi ệt là thân ph ận ng ười phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy bất công, tàn bạo và lễ giáo phong kiến. Đề 11: Phân tích đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” để thấy rỏ “Với bút pháp tinh di ệu, Nguyển Du không những xây dựng lên hai chân dung “M ỗi ng ười m ột v ẻ m ười phân vẹn mười” mà dường như còn nói được cả tính cách, thân phận...toát ra từ diện m ạo của mỗi vẻ đẹp riêng”. Đoạn trích “Hai chị em Thuý Kiều” nằm ở phần đàu của câu chuyện. Trong đoạn trích này, Nguyễn Du tập trung miêu tả hai chân dung tuyệt m ỹ của ch ị em Thuý Ki ều. Đằng sau những nét bút miêu tả tinh tế và độc đáo, người đ ọc có th ể nh ận th ấy t ấm lòng ưu ái, trân tr ọng đ ặc biệt của Nguyễn Du đối với nhân vật của mình. Qua ngòi bút c ủa Nguy ễn Du, hai ch ị em.

<span class='text_page_counter'>(120)</span> Thuý Kiều đều xinh đẹp, nhưng “mỗi người (tài tình) mỗi vẻ” với dự báo trước số phận, tính cách, cuộc đời của mỗi nhân vật, đặc biệt là Thuý Kiều, nhân vật của truyện. Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du giới thiệu vẻ đẹp chung về hai chị em với bốn câu thơ: “Đầu lòng hai ả tố nga Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân Mai cốt cách, tuyết tinh thần Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười” Cả hai chị em đều có vẻ đẹp toàn mỹ, từ hình thức bên ngoài “Mai cốt cách” đến vẻ đẹp bên trong tâm hồn “Tuyết tinh thần”. Vẻ đẹp của Thuý Vân được miêu tả ở bốn câu thơ tiếp: “Vân xen trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” Vẻ đẹp của Thuý Vân được Nguyễn Du miêu tả một cách toàn vẹn từ khuôn m ặt, nét ngài, màu da, mái tóc đến tiếng nói, nụ cười và cốt cách. Thuý Vân hiện ra qua nh ững hình ảnh, nh ững tính chất ước lệ của văn học cổ trung đại. Nguyễn Du tập trung tô đậm vẻ đ ẹp phúc h ậu, đoan trang của Thuý Vân. Vẫn là cách thức quen thuộc của văn học cổ, lấy vẻ đ ẹp c ủa thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp con người, nhưng bức chân dung của Thuý Vân, qua nét v ẻ thân tình của Nguyễn du bổng rở nên sống động là nhờ đã ch ứa đ ựng trong đó quan ni ệm v ề tài sá của chính nhà thơ. Gương mặt xinh đẹp đầy đặn, vẻ đẹp đoan trang phúc h ậu c ủa Thuý Vânmột vẻ đẹp và thiên nhiên sẵn lòng nhường nhịn “Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”- như dự báo trước một cuộc đời, một số phận êm đềm, tròn trịa, bình yên của nàng. Quả thật, với những từ ngữ trau chuốt, những hình ảnh ước lệ tượng trưng vẻ đ ẹp và giàu sức gợi tả, được lọc qua tâm hồn mẫn cảm, tinh t ế, Ng.Du đã kh ắc ho ạ khá s ống đ ộng v ẻ đ ẹp đài các, đoan trang viên mãn, mơn mởn sức sống của Thuý Vân, bi ểu hi ện m ột tâm h ồn vô t ư, d ự báo trước một cuộc đời yên ổn, vinh hoa, phú quý sẽ mỉm cười, vui vẻ rước đón nàng. Song, việc miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân, không phải là chủ đích ngh ệ thu ật c ủa tác gi ả. Đó thực chất chỉ là việc tạo tiền đề, tao ra một đi ểm tựa ngh ệ thu ật “tả khách hình chủ” để làm nổi bật hơn tài sắc của Thuý Kiều, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Khác với Thuý Vân, Th Kiều có một vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà” cả tài lẫn sắc đạt tới mức tuyệt vời.Cũng những từ ngữ, hình ảnh ước lệ tượng trưng, qua ngòi bút miêu tả tài hoa c ủa Ng Du, hình ảnh nàng Kiều hiện lên lộng lẫy, sắc nước hương trời đến hoa phải “ghen”, liễu phải “hờn”. Đôi mắt đẹp của nàng trong như nước mùa thu, lông mày xin xắn, t ươi non nh ư s ắc núi mùa xuân “làn thu thuỷ, nét xuân sơn”. Nếu như vẻ đẹp của Thuý Vân trời xanh còn có thể nhường nhịn, thì trước sắc đẹp của Thuý Kiều, thiên nhiên tạo hoá cũng trở nên đố kị ghen ghét “ Kiều càng sắc sảo mặn mà, So bề tài sắc lại là phần hơn Làn thu thuỷ nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh” Thiên nhiên đố kị, ghen ghét với nàng. Hồng nhan b ạc m ệnh, cái s ắc đ ẹp “sắc sảo mặn mà” khiến thiên nhiên cũng phải đố kị, ghen ghét ấy đã d ự báo tr ước m ột cu ộc đ ời đ ầy sóng gió s ẽ ập đến với nàng. Ng Du đã không tiếc lời ca ngợi sắc đẹp và tài nghệ của nàng Kiều. Khác h ẳn Thuý.

<span class='text_page_counter'>(121)</span> Vân, Th Kiều thông minh, đa tài, đa cảm, m ột con ng ười nh ất m ực tài hoa: Tài th ơ, tài ho ạ, tài đàn của Th Kiều đạt tới mức tuyệt diệu: “ Thông minh vốn sẳn tính trời Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm Cung thương lầu bậc ngũ âm Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. Cả diện mạo bên ngoài và diên mạo tâm hồn cũng hé mở dần tính cách số phận của nàng Kiều. Rõ ràng, Ng.Du khi miêu tả sắc đẹp của nàng Kiều đã gửi gắm quan ni ệm “Tài hoa bạc mệnh” vào đấy - dự báo trước cuộc đời, số phận long đong, lận đận, đầy bất hạnh của nàng. Sử dụng bút pháp miêu tả ước lệ tượng trưng của văn học cổ điển, với ngòi bút tài hoa, ch ắt lọc, trau chuốt ngôn từ, Ng.Du đã khắc hoạ thật sinh động hai b ức chân dung Th.Vân và Th.Kiều, mỗi người một vẻ đẹp riêng, toát lên từ tính cách, từng số phận riêng, không l ẫn vào nhau, không thể phai nhạt trong tâm hồn người đọc. Đây là thành công trong bút pháp ngh ệ thu ật miêu tả người của Ng.Du. Đã hơn hai thế kỉ rồi, với truyện Kiều và nghẹ thuật tả người đ ặc sắc, tinh tế của Ng.Du, đẫ là bậc thầy làm rung đ ộng và s ự c ảm ph ục, trân tr ọng c ủa bao th ế hệ đối với đại thi hào dân tộc Ng.Du. Đề 12:Hãy phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” để th ấy rằng: Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Sau khi tự nguyện bán mình để cứu cha, Kiều không ngờ ph ải r ơi vào m ột tên cò m ồi Mã Giám Sinh và mụ chủ lầu xanh Tú Bà. Biết chưa ép đ ược Ki ều ti ếp khách làng ch ơi, Tú Bà bèn đ ưa Kiều ra ở lầu Ngưng Bích. Thực ra, đây cũng chỉ là khoảnh kh ắc t ạm th ời yên thân đ ể r ồi sau đó, đời nàng bị xô đẩy đi giữa bao mưu mô độc ác của mụ Tú Bà mà nàng ch ưa l ường h ết đ ược. Đoạn thơ trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đúng là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Nguy ễn Du đã đặt nhân vật Thuý kiều vào cảnh ngộ ấy để cho Kiều tự bộc lộ tâm trạng của mình. Trong giờ phút mà bên ngoài tưởng như yên tĩnh này thì chính trong lòng nàng Ki ều đang ng ổn ngang, tăm tối. Tất cả những gì xảy ra trước đó lại được tái hi ện, đ ể r ồi ch ỉ còn l ại c ảm giác đau buồn, nhớ thương vô hạn xoáy sâu vào tâm can nàng. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là v ầng tr ăng nh ư sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng tr ải dài vô t ận, lác đác nh ư “bụi hồng” nhỏ bé. Cả một không gian mênh mông, hoang vắng không m ột bóng ng ười, không m ột ti ếng chim, càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này: “Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia” Nàng cảm thấy buồn tủi, chán chường, cảnh thế nào lòng mình thế ấy: “Trống trải, đơn côi”: “Bẽ bàng mây sớm đèn khuya Nữa tình nữa cảnh như chia tấm lòng” Nàng tự đối thoại với lòng mình, biết tâm sự cùng ai nữa..

<span class='text_page_counter'>(122)</span> Trước hết, nàng nhớ tới Kim Trọng, nhớ đến những lới thề nguyền dưới ánh trăng vằng vặc, nàng hình dung được nổi sầu muộn, chờ mong của chang và tự h ứa v ới lòng mình gi ữ trọn mối tình chung thuỷ. Có lẻ lúc này, nàng thương chàng Kim vô hạn, bởi trước lúc chia li không nói v ới nhau đ ược một lời, nổi oan gia quá ư đột ngột: “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng Tinh sương luống những rày trông mai chờ Bên trời góc bể bơ vơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai” Với cha mẹ cũng vậy, mặc dầu nàng đã “liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân”, cứu được cha, em thoát khỏi vòng tù tội, nhưng lúc này nàng v ẫn c ảm th ấy xót xa, c ảm th ấy ch ưa x ứng là phận làm con. Bởi lúc cha mẹ già yếu, mình không được chăm sóc, không được hầu hạ: “Xót người tựa của hôm mai Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ? Sân Lai cách mấy nắng mưa Có khi gốc tử đã vừa người ôm” Buồn biết bao khi phải dấn thân vào nơi vô dịnh. Buồn biết bao khi ph ải mãi mãi xa cách người yêu. Buồn biết bao khi có cha, mẹ mà không đ ược ph ụng d ưỡng s ớm hôm. N ổi bu ồn đó đang thức dậy trong lòng Thuý Kiều “Xuân xanh đang tuổi đến tuần cập kê” -một cô thiếu nữ sắc, tài vẹn toàn, vốn đa tình, đa cảm. Một nổi buồn mênh mông nh ư đè n ặng, bao quang lấy nàng. Nhìn vào đầu nàng cũng thấy buồn, cảnh vật dù có đổi thay nhưng nôi bu ồn c ủa nàng thì nh ư cố định. Nàng cảm nhận được những gì sẽ đ ến v ới mình, đ ối v ới ng ười con gái h ọ V ương tàisắc này như một định mệnh không sao thoát được! Từ tâm trạng nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng cuối cùng nàng Ki ều l ại quay v ề v ới chính cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình. Mỗi một cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều gợi lên trong tâm trí c ủa nàng m ột nét bu ồn. Và Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nổi buồn của mình. N ổi buồn sâu s ắc c ủa Thuý Ki ều được ngòi bút bậc thầy-Nguyễn Du mỗi lúc lại càng tô đ ậm thêm b ằng cách dùng đi ệp ng ữ liên hoàn rất độc đáo “Buồn trông” ...”Buồn trông cửa bể chiều hôm” ...”Buồn trông ngọn nước mới sa” ...”Buồn trông nội cỏ rầu rầu” ..”Buồn trông gió cuốn mặt duềnh” Từng cảnh vật dưới con mắt của Kiều đều nhuộm một nổi buồn khó tả, c ũng có trời nước, nhưng mây trời thì nhàn nhạt, dòng nước thì mãi mi ết cu ốn trôi nh ững càng hoa r ơi. Cùng với gió, sóng nhưng là “gió cuốn”, “sóng xô”....giữa cái mênh mông của biển trời, lại vào lúc hoang hôn buông xuống, nàng chỉ đủ sức để nhận ra một con thuyền, m ột cách bu ồng th ấp thoáng phía xa “Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”. Mỗi cảnh vật như gợi một nổi buồn riêng trong mối dây liên tưởng với tâm tr ạng bu ồn chán về cuộc đời, về số phận của mình..

<span class='text_page_counter'>(123)</span> Nếu như “Thuyền ai thấp thoáng” làm nàng chạnh nghĩ đến cuộc đời trôi nổi, bấp bênh thì cảnh “nước chảy hoa trôi” lại gợi đến cảnh đời lưu lạc-một cuộc sống vô đ ịnh, không còn phương hướng “biết là về đâu”. Đến cái hướng cuối cùng thì nổi buồn hầu như đã dâng lên tột đỉnh: “Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Âm ầm tiếng sóng kêu quang ghế ngồi” Tiếng sấm ầm ầm, dữ dội vây khắp bốn phía như muốn cuốn đi cái thân phận bé nh ỏ b ất cứ lúc nào. Ta tưởng nàng có thể ngất lịm đi trong âm thanh kh ủng khi ếp đó. Phải chăng như Nguyễn Du đã viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” . Qua điệp khúc “Buồn trông....” của Kiều, ta cảm nhận được nổi đau đớn mà nàng phải trải qua trong suốt quảng đời 15 năm lưu lạc, có lửa nồng, có “Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần”-“Cười ra tiếng khóc -khóc trên trận cười”. Trong đoạn thơ này, chúng ta nhận ra được một đặc đi ểm trong bút pháp Nguy ễn Du: c ảnh và tình bao giờ cũng hoà hợp, tả cảnh là để tả tình, trong tả cảnh đã có tả tình. Truy ện Ki ều có hơn ba ngàn câu (3254 câu). Đoạn trích ở trên chỉ chiếm một ph ần r ất nh ỏ trong ki ệt tác đó. Nhưng đây là đoạn thơ được nhièu người biết đến và quý trong nhất, vì cái tài l ớn c ủa nhà th ơ, nhưng trước hết là vì cái tình lớn của nhà thơ đối với nhân vật, đ ối v ới con ng ười, đ ối v ới cu ộc đời. Đề 13: Phân tích tám câu thơ cuối của đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” Kiều bị cấm cung ở lầu Ngưng Bích, nhưng thực chất là bị Tú Bà giam l ỏng ở đ ấy, dùng “Mưu ma chước quỷ” lừa gạt nàng, để buộc nàng phải ra tiếp khách ở lầu xanh. Sau lưng nàng là những tai biến, đau đớn, nhục nhã, ê ch ề: gia đình b ị m ắc oan, ph ải trao duyên cho Thuý Vân, bị Mã Giám Sinh giả danh cưới về làm lẽ và bị gã lừa gạt, làm nhục ngay ở dọc đường, bị Tú Bà xỉ nhục và dở trò đánh đạp để ra uy. Từ tâm trạng của mình, nhìn cảnh v ật bên ngoài, do đó, những ghi nhận về cảnh là những ghi nhận về tình. Vì m ối quan h ệ tình c ảnh đó, ng ười đ ọc càng hiểu sâu sắc tâm trạng của Thuý Kiều trong đoạn trích này: “Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngon nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một mầu xanh xanh Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Âm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi”. Mã Giám Sinh nói dối, mua Kiều về làm vợ lẽ. Kiều đã “thất thân” với Mã. Thật ra Mã mua Kiều về cho mụ Tú Bà. Tú Bà khi biết hành vi của Mã đã n ổi gi ận đùng đùng, đánh đ ập Ki ều, b ắt Ki ều ti ếp khách. Phẫn uất khi bị lừa dối, bị hành hạ, Kiều quy ết đ ịnh t ự v ẫn. Lo ng ại vì v ốn li ếng có thể “thất thoát”...Tú Bà dùng thủ đoạn khuyên nhủ, dỗ dành và hứa s ẽ tìm m ột n ơi x ứng đáng cho nàng về sau, Tú Bà đưa Kiều về lầu Ngưng Bích..

<span class='text_page_counter'>(124)</span> Sau những đau đớn ê chề, trong lẻ loi, Kiều ngóng đ ợi tin t ức ng ười tình “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng-tinh sương ...trông mai chờ”. Nàng nghĩ về cha mẹ tuổi già bóng xế “Xót thương .....-quạt nồng ......đó giờ?” Chính trong tâm trạng ngổn ngang nhiều nỗi đó, Kiều nhìn ra cái mênh mông c ủa bi ển c ả. T ừ trong cảnh soi vào lòng mình hiện tại, Kiều gặp lại lòng mình: “Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?” Giữa cái mênh mông của trời biển, trong màu xanh xam xám c ủa ban chi ều, có nh ững cánh buồm lúc ẩn lúc hiện: chiếc thuyền ra khơi, chiếc thuyền hướng về đất liền. T ừ n ội tâm đang đau khổ, Kiều như nhìn nhận “từ trong ai đó”,”Trong những chiếc thuyền từ biển khơi”, trong tầm mắt xa khơi của cảnh và con người. Đang trông v ọng m ột n ỗi h ội t ụ mà sao l ại cách biệt, chia li làm vậy? Lời thơ bình dị, những gì gợi lên trong âm hưởng của câu thơ - là n ổi kh ắc kho ải, xoáy sâu vào lòng Kiều: “Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu?” Trông ngọn nước đang cuồn cuộn chảy, nhiều cánh hoa trôi dạt. Có thật là cánh hoa ch ăng? Không phải vậy! Người đọc cảm nhận được trong dòng nước đang cu ồn cu ộn ch ảy kia “nhiều cánh hoa trôi dạt”. Cũng có thể là cánh hoa, cũng có thể là dòng nước cu ồn cu ộn thi ếu gì những bọt bèo trôi nổi. Trong cái mênh mông vô định, cái c ảnh “ nước chảy, hoa trôi lỡ làng” ấy gắn hợp với thân phận con người bị ném vào cảnh sống đầy biến động, đầy bất công và bạc ác - thân phận Thuý Kiều, chúng ta mới hiểu được tâm trạng của nàng Kiều trong lúc này. Lời thơ rất giản dị và hình ảnh ẩn dụ sắc sảo về cuộc đời- cuộc đời người đàn bà (như người đời thường quan niệm “đời hoa”) Nhiều lần Kiều cũng tự ví mình “Hoa trôi, bèo dạt đã đành. Bi ết duyên mình, bi ết ph ận mình thế thôi” Buồn bã, Kiều lại nhìn vào đồng nội: Buồn trông nội cỏ dầu dầu Chân mây, mặt đất một màu xanh xanh. Màu mây, màu cỏ nhạt hoà vào với nhau thành một màu “xanh xanh” khó phân biệt. Mà làm sao phân biệt được “màu trời, sắc mây” trong cảnh chiều tà, giữa cái mênh mông, bát ngát trong lúc tâm h ồn còn nhiều ngổn ngang như thế. Và cuối cùng: “Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi” Trong câu thơ, đọc lên, ta nghe có “tiếng gió” và “tiếng sóng biển” đang “ầm ầm” kêu quanh ... nàng Kiều như đang ở trong tâm trạng lo lắng, hoảng sợ tưởng như không ng ồi trên đ ất li ền nữa mà như đang ngồi giữa biển khơi, bốn phía “ầm ầm tiếng sóng”. Tiếng sóng ở đây, trong câu thơ không phải là âm thanh của tiếng sóng bình thường: sóng vỗ, sóng xô, sóng dào d ạt, ... mà “tiếng sóng kêu” ầm ầm tứ phía, ngầm dự báo cơn sóng gió, bão táp của cuộc đời thật dữ dội sẽ ập đến với Thuý Kiều, với đoạn trường mười lăm năm lưu lạc đang chờ đợi nàng. Đoạn thơ này hay không những vì đã khái quát được tâm tr ạng của nàng Ki ều khi ở l ầu Ng ưng Bích mà còn mở ra những điều dự báo về sau của cuộc đời Kiều..

<span class='text_page_counter'>(125)</span> Những dự báo mơ hồ của tâm linh không lâu đã đến với Kiều. Tám câu th ơ cu ối c ủa đo ạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” càng khẳng định ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du trong bút pháp t ả cảnh, tả nội tâm nhân vật tài tình, gợi cảm, đ ể lại ấn t ượng sâu l ắng trong lòng ng ười đ ọc x ưa và nay, thấm đãm tinh thần nhân đạo sâu sắc. Đề 14: Phân tích đoạn thơ trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”. Đang sống trong hạnh phúc của mối tình đầu say mê, trong tr ắng v ới Kim Tr ọng thì b ất ng ờ gia đình Kiều bị vu oan, giáng hoạ. Không đành lòng đ ể cho gia đình tan nát, Thuý Ki ều đau đ ớn trao duyên cho Thuý Vân, tự nguyện bán mình để lấy tiền cứu cha và em trai. L ợi d ụng tình cảnh đau đớn của Kiều, Mã Giám Sinh “vốn là một đứa phong tình đã quen” đánh tiếng cưới nàng về làm thiếp nhưng thực sự là hắn mua Kiều về cửa hàng thanh lâu c ủa h ắn v ới m ụ Tú Bà ở Lâm Tri. Đoạn trích này miêu tả màn kịch mua bán, qua đó “ lột mặt nạ” của Mã Giám Sinh và thể hiện nỗi đau đớn ê chề, mở đầu cho đoạn trường mười lăm năm lưu lạc đ ầy cay đ ắng của nàng Kiều. Với ngòi bút sắc sảo trong miêu tả và nỗi c ăm ghét c ủa nhà th ơ, Nguy ễn Du đã l ột t ả b ộ m ặt b ỉ ổi, tàn ác, ghê tởm của bọn “buôn bán thịt người”. Trong màn kịch này, Mã Giám Sinh đóng vai chàng sinh viên Quốc Tử Giám đến để làm “ lễ vấn danh”, xem mặt, dạm hỏi Thuý Kiều về làm vợ lẽ. Gã sinh viên giả hiệu “người viễn khách” mờ ám này, mù mờ từ tên họ đến tên quán. Và ngòi bút thần tình của Nguyễn Du cứ mỗi nét lại khắc hoạ rõ h ơn chân dung c ủa Mã Giám Sinh và cái bản chất con buôn ghê tởm của hắn: “Quá niên trạc ngoại tứ tuần Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao. Trước thầy, sau tớ xôn xao Nhà băng đưa mối, rước vào lầu trong”... ...“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng” Mã Giám Sinh đã “ngoại tứ tuần” mà vẫn “áo quần bảnh bao”, “mày râu nhẵn nhụi”, rõ ra một gã trai lơ. Lũ thầy, tớ chúng kéo đến nhà Kiều thật là nhốn nháo, lố lăng ... và cái c ử ch ỉ “ ghế trên ngồi tót sỗ sàng” đã làm rơi cái mặt nạ sinh viên, phơi bày chân t ướng c ủa m ột tên vô h ọc, thô l ỗ của hắn. Nguyễn Du cứ “khách quan” miêu tả cảnh mua bán vậy mà cái bản chất th ật c ủa Mã Giám Sinh vẫn bị lột trần, phơi bày bằng hết. Dẫu được khéo léo che đ ậy b ằng m ọi th ứ mánh l ới x ảo quyệt nhưng diện mạo, thái độ, cử chỉ, hành vi và ngôn ngữ c ủa hắn v ẫn t ự t ố cáo b ản ch ất đích thực của một tên “buôn thịt bán người” đê tiện. Trong con mắt của Mã Giám Sinh, nàng Kiều cùng với tài s ắc c ủa nàng ch ỉ là m ột món hàng r ồi đây sẽ sinh lợi cho hắn. Hắn đắn đo khi “cân sắc, cân tài”, hắn “ép”, hắn “thử” tài nghệ của nàng; nhấc lên, đặt xuống, xoay vần đủ kiểu hệt như người ta mua bán một món hàng. Khi đã hoàn toàn vừa ý, bản chất con buôn của hắn vẫn còn lộ ra ở cái thái độ “ tuỳ cơ dặt dìu” khi mặc cả. Bản chất đó còn được che đậy bằng những lời lẽ mĩ miều, sang trọng: “ Rằng mua ngọc đến Lam Kiều Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?” Thì cuối cùng bộc lộ một cách trắng trợn và bỉ ổi nhất: “Cò kè bớt một, thêm hai Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”.

<span class='text_page_counter'>(126)</span> Với sự mặc cả “cò kè” ti tiện, bẩn thỉu này, màn kịch “lễ vấn danh” lộ rõ thực chất là một cảnh “mua thịt bán người” một cách trắng trợn và Mã Giám Sinh hiện nguyên hình là m ột tên con buôn ghê tởm và đê tiện nhất. Trong đoạn trích này, hình ảnh Thuý kiều hiện ra với tất cả những bu ồn kh ổ, xót xa, ê ch ề, tủi hổ. Là một cô gái tài sắc vẹn toàn, đang sống trong c ảnh “êm đềm trướng rủ, màn che, tường đong ong bướm đi về mặc ai”, lại đang ngây ngất trong hạnh phúc của mối tình đầu trong trắng thì thình lình tai hoạ ập đến, Kiều trở thành m ột món hàng cho b ọn “buôn thịt, bán người” trao tay mua bán, cò kè, mặc cả. Tâm hồn nhạy cảm của nàng đã cảm nhận sâu s ắc c ảnh ngộ éo le, vừa hổ thẹn, vừa dơ dáy, vừa đau đớn, nhục nhã của mình: “ Nỗi mình thêm tức nỗi nhà Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng! Ngại ngùng dợn gió, e sương, Ngừng hoa bỗng thẹn, trông gương mặt dày”. Kiều vừa xót xa cho mối tình của mình ( nỗi mình), vừa xót xa cho gia đình ( nỗi nhà), lệ rơi khôn cầm. Kiều ra với Mã Giám Sinh như cành hoa đem ra tr ước s ương gió, cho nên “ dợn gió, e sương”, vì sương gió làm cho hoa tàn, hoa rụng. Và vì t ự ví mình v ới hoa nên th ẹn thùng khi nhìn thấy hoa, tự thấy không xứng với hoa. Đó là cái đạo đức thầm kín của Kiều. Trong khi đó mụ mối cứ giới thiệu Kiều như một món hàng, một đồ vật: “ vén tóc, bắt tay” cho khách xem. Bắt nàng làm thơ, đánh đàn cho khách thấy. Còn Kiều thì “nét buồn như cúc, điệu gầy như mai”. Trong màn kịch “lễ vấn danh” này, dưới sự “đạo diễn” của mụ mối và theo đòi hỏi, nài ép của Mã Giám Sinh, Kiều “nhất cử, nhất động” đánh đàn , làm thơ như một “cái máy”. Bán mình để chuộc cha, cứu em là hành động tự nguyện của nàng nên nàng ch ịu đ ựng và cam ch ịu t ất c ả. Qua ngòi bút của Nguyễn Du, nàng Kiều hiện lên với sự im lặng tuyệt đối mà v ẫn không sao d ấu được sự đau đớn, xót xa, tủi nhục, ê chề bởi nàng là ng ười luôn có ý th ức v ề nhân ph ẩm mà l ại b ị chà đạp lên nhân phẩm một cách nhục nhã. Kiều đau uất tr ước c ảnh đời ngang trái, đau khi ngh ĩ tới”nỗi mình” - tình duyên dang dở, uất bởi “ nỗi nhà” bị “vu oan giáng hoạ”, Bao trùm lên tâm trạng của Kiều là sự đau đớn, tái tê “thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng”! Phải nói, trước sau, Nguyễn Du cũng đã miêu tả cảnh bán người như là cảnh “ cành hoa đem bán cho thuyến lái buôn” Bằng việc miêu tả ngoại hình, cử chỉ và ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn du đã kh ắc ho ạ đ ược tính cách nhân vật, tác giả đã bóc trần bản chất xấu xa, đê ti ện c ủa Mã Giám Sinh, qua đó lên án những thế lực tàn bạo chà đạp lên tài sắc, nhân phẩm của người phụ nữ đồng th ời b ộc l ộ s ự thương cảm sâu sắc bởi nỗi đau oan trái của Thuý Kiều ngay từ buổi đầu c ủa đo ạn đ ời l ưu lạc đầy bất hạnh của nàng. Đề 15: Phân tích nghệ thuật miêu tả nhân vật được thể hiện qua ngôn ngữ đối thoại nhằm khắc hoạ tính cách nhân vật Thuý Kiều, Hoạn Thư trong đoạn trích “Thuý Kiều báo ân, báo oán” (Trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du) Trải qua “hết hạn nọ đến hạn kia”, Kiều đã nếm đủ hết mọi điều cay đắng, tưởng rằng nàng sẽ buông xuôi trước số phận “biết thân chạy chẳng khỏi trời - cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh”. Chính lúc kiều đang vô vọng thì Từ Hải xuất hiện. Ki ều g ăph T ừ H ải- m ột bước ngoặt quan trọng đã mở ra trên hành trình số phận c ủa ng ười con gái h ọ V ương. Ng ười.

<span class='text_page_counter'>(127)</span> anh hùng “đội trời, đạp đất” chẳng những cứu Kiều thoát khỏi cuộc sống ở lầu xanh mà còn đưa nàng từ thân phận “ con ong, cái kiến” bước lên địa vị một quan toà cầm cán cân công lý “ơn đền, oán trả”. Đoạn trích “Thuý Kiều báo ân, báo oán” miêu tả cảnh thuý Kiều đền ơn những người đã cưu mang, giúp đỡ nàng đồng thời trừng trị những kẻ bất nhân, tàn ác. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Du có khi được th ể hi ện qua bút pháp ước l ệ miêu tả ngoại hình (đoạn trích “chị em Thuý Kiều”) , có khi được thể hiện qua ngôn ngữ độc thoại, qua bút pháp tả cảnh ngụ tình để miêu tả tâm tr ạng ( đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”). Trong đoạn trích “Thuý Kiều báo ân, báo oán”, nghệ thuật miêu tả nhân vật được thể hiện qua ngôn ngữ đối thoại để làm nổi rõ tính cách nhân vật Thuý Kiều, Hoạn Thư. Trước hết, nhà thơ miêu tả cảnh Thuý Kiều trả ơn Thúc Sinh trong m ười hai câu th ơ đ ầu “ cho gươm mời đến Thúc lang .... mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”. Thúc Sinh được mời tới trong cảnh oai nghiêm của nơi Kiều xử án: “Cho gươm mời đến Thúc lang Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run”. Trước những “gươm lớn, giáo dài”, chàng thúc hoảng sợ đến mức “mặt như chàm đổ”, người run lên như đi không vững. Hình ảnh tội nghiệp này hoàn toàn phù h ợp v ới tính cách có ph ần nhu nhược của Thúc Sinh. Hình ảnh tội nghiệp của Thúc Sinh làm cho nàng Ki ều đ ộng lòng tr ắc ẩn và họ tạo nên sự bất ngờ trong việc trả ơn, báo oán tiếp theo. Qua l ời nói c ủa Ki ều “ nghĩa nặng nghìn non”, “sâm thương chẳng vẹn chữ tòng, tại ai há dám ph ụ lòng c ố nhân” ... , có thể nói rằng nàng rất trọng tấm lòng và giúp đỡ mà Thúc Sinh dành cho nàng trong cơn hoạn nạn. Thúc Sinh đưa Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát kh ỏi c ảnh đ ời ô nh ục. Cùng v ới chàng thúc, Kiều có những tháng ngày êm ấm trong cuộc sống gia đình. Nàng g ọi đó là “nghĩa nặng nghìn non”. Trong hình thức của cách nói văn chương, sách vở là t ấm lòng bi ết ơn chân th ật c ủa Kiều. “Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không ?”. Hai chữ “người cũ”, tiếng việt mang sắc thái thân mật, gần gũi. Vì gắn bó với Thúc Sinh mà đời kiều thêm một lần khổ với thân ph ận làm l ẽ đau đ ớn h ơn m ột kẻ tôi đòi. Tuy nhiên Kiều hiểu nỗi đau khổ của nàng không ph ải do Thúc Sinh gây ra mà th ủ phạm là Hoạn Thư. Thuý Kiều hiểu hoàn cảnh của Thúc Sinh: “ tại ai há dám phụ lòng cố nhân?”. Với Kiều thì dù có “gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân” cũng chưa xứng với ân nghĩa của Thúc Sinh. Tấm lòng ”nghĩa nặng nghìn non” thì gấm vóc, bạc vàng nào có thể cân cho được? Khi nói với Thúc Sinh, Kiều dùng những từ Hán - Vi ệt “ nghĩa tòng”, “cố nhân”, ... tiễn cố “sâm thương”. Cách nói trang trọng này phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc, đồng th ời di ễn t ả đ ược tấm lòng biết ơn trân trọng của nàng Kiều. Trong khi nói với Thúc Sinh, Kiều đã nói về Hoạn Thư, đi ều đó ch ứng t ỏ v ết th ương lòng mà Hoạn Thư gây ra cho Kiều đang còn qua xót xa. Lúc nói v ề Ho ạn Th ư thì ngôn ng ữ c ủa Ki ều lại hết sức nôm na, bình dị. Nàng dùng những thành ngư quen thuộc “ kẻ cắp, bà già gặp nhau”, “kiến bò miệng chén” với những từ tiếng Việt đễ hiểu. Hành động trừng ph ạt cái ác theo quan điểm của nhân dân phải được diễn đạt bằng lời ăn, tiếng nói của nhân dân. Đoạn thơ sau, còn lại trong đoạn trích là cuộc đối đáp giữa Kiều và Hoạn Thư trong c ảnh báo oán “thoắt trông nàng đã chào thưa ... truyền quân lệnh xuống trướng ti ền tha ngay”. Hành động và lời nói của Kiều biểu thị thái độ mỉa mai đối với Hoạn Thư. Nàng v ẫn dùng cách x ưng hô như hồi còn làm hoa nô cho nhà họ Hoạn, vẫn m ột điều “ chào thưa”, hai điều “tiểu thư”. Cách.

<span class='text_page_counter'>(128)</span> xưng hô này trong hoàn cảnh giữa Kiều và Hoạn Th ư đã có s ự thay b ậc, đ ổi ngôi là m ột đòn m ỉa mai quất mạnh vào danh gia họ Hoạn. Trong lời nói của Kiều có c ả gi ọng đay nghi ến, câu thơ như dằn ra từng tiếng; từ ngữ được lặp lại, nhấn mạnh: ( dễ có, dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, mấy gan, đời xưa, đời nay, càng cay nghiệt, càng oan trái, .. . ) cách nói này hoàn toàn phù hợp với dối tượng Hoạn Thư, phù hợp với con người “bề ngoài thơn thớt nói cười - bề trong nham hiểm giết người không dao”. Giọng điệu mỉa mai, đay nghiến của Kiều cho thấy nàng quyết trừng trị Hoạn Thư theo đúng quan niệm “mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”. Trong lời nói, thái độ của Kiều, phút giây đầu Hoạn Thư có “ hồn lạc phách xiêu” nhưng ngay trong hoàn cảnh ấy, Hoạn Thư vẫn kịp “ liệu điều kêu ca”. đây quả là con người khôn ngoan, giảo hoạt. Lời “kêu ca” của Hoạn Thư thực chất là cách lí giải để gỡ tội cho mình. Trước hết, Hoạn Thư dựa vào tâm lí thường tình của người phụ nữ đ ể g ỡ t ội “rằng tôi chút phận đàn bà - ghen tuông thì cũng người ta thường tình”. Lí lẽ này đã xoá đi sự đối lập giữa Kiều và Hoàn Thư, đưa Kiều từ vị thế đối lập trở thành người đồng c ảnh, cùng chung “ chút phận đàn bà”. Nếu Hoạn Thư có tội thì cũng là do tâm lí chung c ủa giới nữ. “ chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”. Từ tội nhân, Hoạn Thư đã biện bạch để mình trở thành nạn nhân của chế độ đa thê. Tiếp đến, Hoạn Thư kể lại “ công” đã cho Kiều ra viết kinh ở gác Quan Âm và không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà Hoạn Thư: “Nghĩ cho khi gác viết kinh Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo”. Cuối cùng, Hoạn Thư nhận tất cả tội lỗi về mình, chỉ còn biết trông c ậy vào t ấm lòng khoan dung, độ lượng rộng lớn như trời biển của Kiều “còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”. Trước những lời kêu ca của Hoạn Thư, Kiều đã phải thừa nhận đây là con ng ười “khôn ngoan đến mực nói năng phải lời”. Hoạn Thư đã đưa Kiều tới chỗ khó xử “tha ra thì cũng may đời - làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen” . Nàng có răn đe Hoạn Thư nhưng rồi lại khoan dung đ ộ lượng “đã lòng tri quá thì nên”. Hoạn Thư đã biết lỗi, đã xin tha thì Kiều cũng c ư xử theo quan điểm triết lý dân gian “đánh người chạy đi chứ không đánh người chạy lại”! Qua cách lí lẽ để gỡ tội, có thể thấy Hoạn Thư “ sâu sắc nước đời” đến “quỷ quái tinh ma”. Tuy nhiên, việc Hoạn Thư được tha bổng không hoàn toàn ph ụ thu ộc vào s ự “tự bào chữa” mà chủ yếu là do tấm lòng độ lượng của Kiều. Đoạn “Thuý Kiều báo ân, báo oán” một lần nữa đã làm ngời lên tấm lòng vị tha, nhân h ậu c ủa người con gái họ Vương. Từ thân phận con người bị áp bức, đau kh ổ, Thuý ki ều đã tr ở thành v ị quan toà cầm cán cân công lý. Đoạn trích này là sự phản ánh khát v ọng, ước m ơ công lý chính nghĩa của thời đại Nguyễn Du. Đó cũng chính là ước mơ công lý chính nghĩa theo quan đi ểm của quần chúng nhân dân: những con người bị áp bức, đau kh ổ vùng lên đòi s ự công b ằng cho chính họ - “ở hiến gặp lành, ở ác gặp ác”. Đề 16: Phân tích nét nổi bật của tính cách nhân vật Lục Vân Tiên trong đo ạn trích “L ục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” của Nguyễn Đình Chiểu. Nói đến Nguyễn Đình Chiểu không những là nói đến m ột nhà th ơ yêu n ước tiêu bi ểu nh ất c ủa thời kỳ đất nước ta bị thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX mà ông còn đ ược nhân dân bi ết đến như một nhà thơ lớn, ca ngợi đạo lí làm người, đề cao tiết hạnh của người ph ụ n ữ, ca.

<span class='text_page_counter'>(129)</span> ngợi lòng trung hiếu và hành động vị nghĩa của nam giới mà tác ph ẩm L ục Vân Tiên là m ột minh chứng hùng hồn. Lục Vân tiên - nhân vật chính của tác phẩm, hơn ai hết đã bi ểu hi ện rõ nét lý t ưởng c ủa ng ười anh hùng. Đặc biệt là đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng khó phai mờ về hình ảnh một trang nghĩa sỹ đánh cướp cứu người. Lục Vân tiên là một nhân vật lý tưởng, nhân vật đẹp nhất trong truyện “ Lục Vân Tiên” của Nguuyễn Đình Chiểu. Chàng là con một gia đình thường dân ở quận Đông Thành, m ột ng ười học trò khôi ngô, có tài, có đức, văn võ song toàn: “Có người ở quận Đông Thành Tu nhân tích đức sớm sinh con hiền. Đặt tên là Lục Vân Tiên Tuổi vừa hai tám nghề chuyên học hành” Nói theo nhà văn, nhà phê bình văn học Hoài Thanh: “ Trong cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong một xã hội suy tàn, Nguyễn Đình Chiểu đã đưa vào trận cả một đạo quân tưng bừng khí thế, kiên quyết vì chính nghĩa mà chiến đấu và chiến thắng thì thủ lĩnh đạo quân đó phải là Lục Vân Tiên chớ không phải là một ai khác”. Chính Lục Vân Tiên tiêu biểu cho lý tưởng sống, đạo đức cao đẹp c ủa nhân dân ta lúc b ấy gi ờ. Chàng là người học rộng, tài cao, văn võ kiêm toàn lại luôn sẵn sàng ra tay c ứu giúp ng ười khác khi hoạn nạn. Vừa từ tạ tôn sư xuống núi, định về kinh ứng thi, trên đ ường đi, ch ợt th ấy m ột đám người khóc than bỏ chạy, chàng liến hỏi chuyện mới hay có m ột b ọn c ướp d ữ v ừa phá làng xóm và bắt đi hai cô gái. Lục Vân Tiên không chịu nổi cản bất bình, nổi giận: “Vân Tiên nổi giận lôi đình Hỏi thăm lũi nó còn đình nơi nao. Tôi xin ra sức anh hào Cứu người cho khỏi lao đao buổi này”. Thấy người mắc nạn, Lục Vân tiên liền ra tay: “Vân tiên ghé lạibên đàng Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô” Dẫu chỉ mỗi một mình, bọn cướp thì đông ; dẫu trước đó, dân làng hết sức khuyên chàng tu ổi trẻ không nê dính vào việc này, e sẽ mang hoạ vào thân, nh ưng L ục Vân tiên ch ủ đ ộng đi tìm cướp, đánh tan chúng để cứu người gặp nạn yếu đuối. Hành động đánh cướp, tr ước h ết b ộc l ộ tính cách anh hùng, tài năng và tấm lòng vị nghĩa của Vân Tiên. Hành đông “ bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô” của chành trai Vân Tiên thật đẹp đẽ và mãnh li ệt vì đã kh ắc ho ạ đ ược hình ảnh m ột chàng trai nghĩa sĩ sẵn sàng trừ ác giúp dân. Chàng ch ỉ có m ột mình, hai tay không trong khi b ọn cướp đông người, gươm giáo đầy đủ, thanh thế lẫy lừng “người đều sợ nó có tài khôn đương”. Vậy mà Vân Tiên vẫn bẻ cây làm gậy xông vào đánh c ướp. Hình ảnh Vân Tiên trong tr ận đánh thật dũng mãnh, bất chấp bọn cướp bao vây tứ phía. Lục Vân Tiên đã d ũng c ảm “ tả đột, hữu xông”, “khác nào Triệu Tử mở vòng Đương Dương ”. Ngay từ phần mở đầu truyện thơ, Nguyễn Đình Chiểu đã giới thiệu Vân Tiên là người “ văn đà khởi phụng đằng giao - võ thêm tam lược lục thao ai bì”. Thì lúc này, chính là cơ hội để chàng thi thố tài năng võ ngh ệ c ủa mình. hình ảnh Vân Tiên tung hoành với chiệc gậy trong tay, tạo m ột ấn t ượng sâu s ắc trong lòng người đọc của mọi thế hệ. Sức mạnh của chàng trai trẻ đã khiến bọn “lâu la khiếp sợ”: “Lâu la bốn phía vờ tan.

<span class='text_page_counter'>(130)</span> Đều quăng ươm giáo tìm đường chạy ngay” Bọn lâu la phải quăng cả vũ khí để chạy tháo thân, còn tênđầu đảng thì: “Phong lai trở chẳng kịp tay Bị Tiên một gậy thác rày thân vong” Thế là chỉ một mình, Vân Tiên đã tài giỏi dẹp xong lũ c ướp. Nhưng đi ều đáng quý h ơn c ả c ủa chàng nghĩa sỹ là thái độ vô tư. Làm xong việc nghĩa, chàng đã không coi đó là công ơn và t ừ ch ối việc đền ơn. Kiều Nguyệt Nga thì thoát nạn, cảm tạ chàng và xin được đền ơn: “ Hà Khê qua đó cũng gần Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng. Gặp đây đang lúc giữa đàng Của tiền không có, bạc vàng cũng không. Tưởng câu báo đức thù công Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi!” Nhưng Vân Tiên đã khẳng khái từ chối mọi sự đền đáp: “Vân Tiên nghe nói liền cười Làm ơn há dễ trông người trả ơn.” Nụ cười của trang nghĩa sỹ này mới đẹp làm sao! Trong nụ c ười ấy nh ư hàm ch ứa c ả s ự thông cảm lẫn sự bao dung. Vân Tiên đã làm việc nghĩa một cách vô điều kiện và coi đó là lẽ tự nhiên: ở đ ời là ph ải th ế, không thể nào khác được. Vân Tiên cứu người mắc nạn là vì ngh ĩa, đó cùng chính là lý t ưởng mà chàng ôm ấp và thực hiện: “Nhớ câu kiến ngãi bất vi Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.” Tóm lại, Lục Vân Tiên là mẫu người hào hiệp, sẵn mạng trong mình truy ền th ống tr ọng ngh ĩa khinh tài của dân tộc ta. Phẩm chất cao đẹp ấy đáng đ ược ng ười đ ời sau tru ền t ụng, h ọc t ập và phát huy. Lục Vân Tiên cho chúng ta một bài học lớn v ề tinh th ần ngh ĩa hi ệp, không th ể làm ngơ trước tai hoạ và đau khổ của người khác. Trong xã hội ngày any, m ẫu ng ười nh ư th ế không phải là không có. Đọc báo, nghe đài , đọc sách chúng ta v ẫn g ặp h ọ đâu đó ở ch ỗ này, ch ỗ khác. Họ xứng đáng được xã hội biểu dương. Gấp trang sách lại, hình ảnh hào hùng của chàng nghĩa sỹ sẵn sàng ra tay “trừ thói hồ đồ hại dân” vẫn cứ hiện rõ. Trong lời thơ mộc mạc của nhà thơ vẫn âm vang mãi một tấm gương sáng về tinh thần thượng võ. Ngày nay, đâu phải việc “ cứu khốn, phò nguy” là không cần thiết nữa, do đo, Lục Vân Tiên vẫn góp phần giúp cho chúng ta sống đ ẹp hơn và x ứng đáng h ơn v ới l ời tâm niệm: “Nhớ câu kiến ngãi bất vi Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”. Đề 17: Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguễn Quang Sáng là một truy ện cảm động nhất là đoạn kể về 3 ngày nghỉ phép của anh Sáu. Em hãy k ể l ại chuy ện x ảy ra ở gia đình anh Sáu trong 3 ngày anh nghỉ phép. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng là một truyện cảm đ ộng v ề tình cha con của những gia đình Việt Nam mà ở đó “lớp cha trước, lớp con sau, đã thành đồng.

<span class='text_page_counter'>(131)</span> chí chung câu quân hành”. Trong truyện đoạn cảm động nhất là đoạn “ ba ngày nghỉ phép về quê của anh Sáu”. Năm 1946, năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, anh Sáu lên đ ường theo ti ếng g ọi c ủa quê hương. Bấy giờ, bé Thu, con gái anh chưa đầy m ột tuổi. Chín n ăm đ ằng đ ẳng xa quê, xa nhà, anh Sáu vẫn mong có một ngày trở về quê gặp lại v ợ con. Th ế r ồi, kháng chi ến th ắng l ợi, anh được nghỉ 3 ngày phép về thăm quê, một làng nhỏ bên b ờ sông C ửu Long. V ề đ ến nhà, anh tưởng tượng bé Thu - con gái anh sẽ rất vui mừng khi đ ược g ặp cha. Gi ờ đây, nó c ũng đã m ười tuổi rồi còn gì. Mang một nỗi niềm rạo rực, phấn chấn, anh nôn nóng cho mau về đến nhà. Không chờ xuồng cập bến, anh đã nhảy lên bờ vừa bước, v ừa g ọi: “ Thu! Con!” thật tha thiết. Ta co thể tưởng tượng nỗi vui sướng của anh như thế nào. Khi anh v ừa b ước đi, v ừa lom khom người xuống đưa tay chờ con. Thế nhưng ngược lại v ới nh ững đi ều anh Sáu mong chờ. Bé Thu tròn mắt nhìn anh ngạc nhiên rồi bỏ chạy. Phản ứng của bé Thu khi ến anh Sáu s ửng sờ, đau khổ. Còn gì đáng buồn hơn khi đứa con mà anh h ết lòng th ương yêu và kh ắc kho ải t ừng ngày để được gặp mặt, giờ đây trở nên xa lạ đến mức phũ phàng ấy. Thế rôì, anh Sáu tìm mọi cách gặp con để làm quen dần vì anh ngh ĩ r ằng khi anh đi nó v ừa mấy tháng tuổi nên nó lạ. Anh mong sao nó gọi một tiếng “ ba”, vào ăn cơm nó chỉ nói trống không “Vô ăn cơm!” Bữa sau, cũng là ngày phép thứ hai, bé Thu trông hộ mẹ nồi cơm để chị Sáu ch ạy mua th ức ăn. Trước khi đi, chị Sáu dặn nó có gì cần thì gọi ba giúp cho. N ồi c ơm quá to mà bé thu thì còn nh ỏ, vậy mà khi nồi cơm sôi không tìm được cách nào đ ể ch ắt n ước, loay hoay mãi, nó nhìn anh Sáu một lúc rồi kêu lên: “Cơm sôi rồi, chắt nước dùm cái!” anh Sáu vẫn ngồi im, chờ đợi sự thay đổi của nó. Thế nhưng, nó nghĩ ra cách lấy vá múc ra từng vá nước chứ nhất định không ch ịu g ọi anh Sáu bàng “Ba”. Con bé thật đáo để! Đến bữa ăn cơm, anh Sáu gắp cho bé Thu một cái trứng cá to, vàng b ỏ vào chén. Lúc đ ầu nó đ ể đó rồi bất thần hất cái trứng ra làm cơm đổ tung toé. Giận quá, không kìm đ ược n ữa, anh Sáu vung tay đánh vào mông nó. Thế là bé Thu vội chạy ra xuồng mở “lòi tói” rồi bơi qua sông lên nhà bà ngoại. Phép chỉ còn ngày cuối cùng, anh Sáu phải trở về đ ơn v ị đ ể nh ận nhi ệm v ụ m ới. Bao nhiêu m ơ ước được hôn, ôm con vào lòng từ bấy lâu nay của anh Sáu giờ ch ỉ càng làm cho anh thêm đau lòng và gần như anh không còn để ý đến nó nữa. Thân nhân, họ hàng đến chia tay anh cũng khá đông nên anh cứ bịn rịn mãi. Chị Sáu c ũng lo s ắp xếp đồ đạc cho chồng, không ai quan tâm bé Thu đang đứng bơ vơ một mình bên cửa nhà. Thì ra nó theo bà ngoại trở về vì bà ngoại sang đây đ ể tiễn chân anh Sáu. Gi ờ này, trên g ương m ặt Thu không còn cái vẻ bướng bỉnh, ương ngạnh nữa , mà thoáng m ột nét bu ồn trông đ ến d ễ th ương. Nó nhìn mọi người, nhìn anh Sáu. Đến lúc mang ba lô và b ắt tay v ới m ọi ng ười, anh Sáu m ới nhìn quanh tìm bé Thu. Thấy con, dường như mọi vi ệc trong ba ngày phép hi ện lên trong anh nên anh chỉ đứng nhìn con với bao nỗi xót xa ... cuối cùng, anh c ũng ph ải nói lên l ời chia tay với con mà không hy vọng bé Thu sẽ gọi một tiếng “ba” thiêng liêng ấy. Thật là đột ngột và không ngờ, bé Thu chạy đến bên anh Sáu và ti ếng “ Ba!” được thốt lên thật cảm động biết nhường nào. Nó ôm chầm thật chặt như không muốn r ời ba n ữa. Nó khóc,.

<span class='text_page_counter'>(132)</span> khóc thật nhiều và thét lên những lời khiến mọi người xung quanh đều xúc đ ộng: “ Không cho ba đi nữa, ba ở nhà với con!” Sung sướng, hạnh phúc và cũng thật đau lòng, anh Sáu c ũng chỉ biết ôm con và khóc cùng v ới con. Rồi cũng đến lúc phải chia tay, thật bịn rịn vô cùng. V ừa m ới nhận đ ược ti ếng “ ba” của đứa con thân yêu cũng là lúc phải nghẹn ngào chia tay v ới con đ ể tr ở v ề đ ơn v ị làm tròn trách nhiệm khi đang ở quân ngũ. Trước kia anh Sáu đã thương con, giờ đây anh càng thương con gấp bội. B ởi l ẽ anh đã hi ểu lí do vì sao bé Thu quyết định từ chối không gọi anh bằng “ba” từ ba hôm nay. Làm sao chấp nhận một người xa lạ mà khuôn mặt không giống trong t ấm ảnh mà m ẹ nó thường ngày vẫn nói với nó đó là “ ba” được. Chính vết sẹo quái ác kia đã làm cho bé Thu không nhận anh Sáu, hằn học với anh Sáu. Sau khi hiểu rõ nguyên nhân c ủa v ết s ẹo h ằn trên g ương mặt của ba, bé Thu mới thấy hổ thẹn và ăn năn. Tình c ảm cha con b ỗng dâng đ ầy, tràn ng ập trong lòng em. Tình cảm đó được thể hiện bằng thái độ, cử chỉ dồn dập, gấp rút khi nó g ọi và ôm chầm lấy anh Sáu. Ba ngày phép ngắn ngủi nhưng lại rất ngặng nề với anh Sáu và bé Thu. Ngh ịch c ảnh này là m ột trong muôn ngàn nghịch cảnh khác mà đã có biết bao gia đình ph ải ng ậm ngùi vì nh ững ng ộ nhận đáng thương. Đó cũng là một sự thật đau lòng của nước Việt Nam ta trong nh ững n ăm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đề 18: Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích “Tức nước v ỡ b ờ” (tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố) Chị Dậu phải dứt tình “bán con gái đầu lòng cùng đàn chó” để nộp sưu cho chồng, nào ngờ chị còn phải đóng thêm một suất sưu của chú Hợi- em chồng đã chết từ năm ngoái. Anh Dậu vẫn bị trói, đánh cho chết đi sống lại nhiều lần và bọn chúng đem tr ả cho ch ị D ậu trong tình c ảnh “thập tử nhất sinh”. Sáng hôm sau, vừa tỉnh lại một lát. Run rẩy vừa k ề bát cháo đ ến mi ệng thì bọn cai lệ, người nhà lý trưởng hùng hổ xông vào định trói anh Dậu giải ra đình. anh h ốt hoảng “lăn đùng ra không nói được câu gì”. Trong những lần chống trả lại thế lực đen tối của xã hội, đây là l ần ch ống tr ả quy ết li ệt nhất. Một mình chị đánh trả lại cả một bọn “đầu trâu mặt ngựa”, “tay thước, tay đao”. Sức mạnh của lòng căm thù, tình yêu thương chồng tha thiết đã tiếp thêm ngh ị l ực cho ch ị đ ể ch ị chiến thắng kẻ thù áp bức chị. Hình ảnh chị Dậu trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” trong tiểu thuyết Tắt đèn đã làm sáng tỏ điều đó. Phải thấy rõ rằng chị Dậu là một phụ nữ rất yêu th ương ch ồng. Trong hoàn c ảnh chồng bị đau ốm, vừa tỉnh lại đã bị cai lệ và người nhà lý tr ưởng đ ến b ắt, tình th ế hi ểm nguy, tính mạng chồng bị đe doạ chị đã hết lời van xin “hai ông làm phúc nói với ông lý cho cháu khất”. Chị tự kiềm chế, nín chịu, dằn lòng xuống để cầu khẩn thiết tha: “Xin ông dừng lại, cháu van ông, ông tha cho, ...” nhưng bọn chúng không chút động lòng, một mực không buông tha, chạy sầm sập đến trói anh Dậu. Tức quá, không thể chịu được nữa, chị Dậu liều mạng cự lại : “chồng tôi đau ốm không được phép hành hạ”. Tình thế ấy buộc người đàn bà quê mùa, hiền lành như chị Dậu phải hành động để bào vệ tính mạng chồng, bảo vệ cuộc sống c ủa chính mình và các con. Ch ị dùng lí l ẽ đanh thép để cự lại, cách xưng hô đã thay đổi, tỏ thái đ ộ ngang hàng, kiên quy ết sau khi đã ch ịu.

<span class='text_page_counter'>(133)</span> đựng, nhẫn nhục đến cùng. Bị dồn vào thế chân tường, không còn con đ ường nào khác, ch ị ph ải đánh trả lại bọn chúng - cai lệ và người nhà lí trưởng. Cái tát giáng vào mặt chị như lửa đổ thêm dầu, làm bừng lên ngọn lửa căn h ờn, ch ị nghi ến hai hàm răng: “ Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Chị vụt đứng lên trong tư thế của kẻ đầy tự tin, chị “túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa... “ làm hco hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất. Khi người nhà lí trưởng bước đến giơ gậy chực đánh, nhanh như cắt, chị Dậu nắm lấy gậy h ắn, ch ỉ hai bàn tay không, người đàn bà con mọn ấy đứng thẳng dậy tuyên chi ến v ới k ẻ thù. M ột tr ận đ ấu không cân sức nhưng chị đã chiến thắng bằng chính s ức m ạnh c ủa tình yêu và lòng c ăn thù “chị túm lấy tóc, lẳng một cái làm cho nó ngã nhào ra thềm” Hành động của chị Dậu tuy bột phát nhưng nó phản ánh một quy lu ật c ủa cu ộc s ống “Tức nước vỡ bờ - có áp bức, có đấu tranh”. Chị Dậu vốn là người đàn bà nhu mì, hiền lành, chưa h ề gây gổ để làm mất lòng ai nhưng với kẻ thù chị đã tỏ ra quy ết li ệt: “Thà ngồi tù chứ để cho chúng làm tình làm tội mãi, tôi không chịu được”. Trong tình cảnh bị áp bức quá sức chịu đựng, chị đã đứng dậy chống lại th ế l ực th ống tr ị, áp bức tàn bạo, giành lại quyền sống. Cho dù sự phản kháng ấy hoàn toàn là s ự đ ấu tranh t ự phát, chưa giải quyết được tận cùng những mâu thuẩn đối kháng đ ể r ồi cu ối cùng ch ị D ậu v ẫn phải “chạy ra ngoài trời, trời tối như mực, như cái tiền đồ của chị Dậu” (Đoạn cuối tác phẩm). Đoạn trích này miêu tả lại cảnh chị Dậu đánh lại tên cai lệ và người nhà lí trưởng, dám chống lại kẻ ác vẫn khiến cho người đọc hả hê. Có thể nói, Ngô Tất Tố qua cách miêu tả thái độ phản kháng quy ết liệt c ủa nhân v ật ch ị D ậu, nhà văn đã khẳng định sức mạnh phản kháng của ng ười nông dân b ị áp b ức là t ất y ếu. T ừ đó góp phần thổi bùng lên ngọn lủa đấu tranh cách mạng của người nông dân ta ch ống l ại k ẻ thù xâm lược và tay sai phong kiến sau này nhất là tư khi có Đảng lãnh đạo mà trong “Tắt đèn” chưa có ánh sáng của Đảng rọi chiếu. Ngô Tất Tố chưa miêu tả những người đã giác ngộ mà chỉ mới miêu tả quá trình phát triển từ chỗ bị áp bức đến chỗ hành động tự phát nhưng ông đã hé m ở cho thấy được tính quy lu ật trong s ự phát triển của hiện thực xã hội Việt nam. Đề 19: Hãy giải thích câu tục ngữ “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” Ông cha chúng rta từ xưa đến nay vẫn thường căn dặn con cháu ph ải bi ết nh ớ đ ến nh ững người đã không tiếc máu xương để giành lại quyền đ ộc l ập, t ự do cho đ ất n ước Vi ệt Nam ta như hôm nay. Nhưng đó không chỉ là các anh bộ đ ội, các ch ị thanh niên xung phong mà còn là bi ết bao thế hệ người Việt Nam ta đã cùng chung sức, chung lòng m ới có đ ược đất n ước Vi ệt Nam tươi đẹp, phồn vinh nnhư hôm nay. Chúng ta, những thế hệ cháu con ph ải bi ết kh ắc c ốt, ghi tâm công lao trời biển đó của ông cha ta và không ngừng phát huy nh ững thành qu ả mà nh ững người đi trước đã nhọc nhằn mang lại. Đây chính là lời khuyên mà câu t ục ng ữ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” muốn gửi đến mọi người chúng ta và muôn dời con cháu mai sau. Được hưởng một nền độc lập, tự do như hôm nay nhi ều bạn HS đã quên m ất m ột đi ều r ằng cuộc sống hôm nay được đổi bằng máu xương, mồ hôi và nước m ắt c ủa bao l ớp ng ười đi trước. Câu tục ngữ là một lời khuyên với chúng ta: khi ăn một quả thơm ngon ta ph ải nh ớ đ ến người đã trồng ra cây đó. Trồng được một quả ngọt phải đổ bao nhiêu m ồ hôi và ph ải dãi d ầu mưa nắng. Như ý nghĩa sâu xa của câu tục ngữ lại muốn khuyên chúng ta khi đ ược h ưởng.

<span class='text_page_counter'>(134)</span> m,ột thành quả nào đó thì phải nhớ ơn những người đã tạo ra thành qu ả đó. “ăn quả” ở đây là hình ảnh nói về những người hưởng thành quả, còn “trồng cây” là hình ảnh nói về những người làm ra thành quả cho người khác hưởng thụ. Nếu ta hiểu cuộc sống ấm no t ốt đ ẹp này hôm nay là thành quả mà ta hưởng thụ vậy ai là người đã làm ra thành qu ả c ủa ngày hôm nay? Tr ước hết đó là cha, mẹ người đã có công sinh thành và nuôi dưỡng t ừ khi ta còn bé cho đ ến ngày l ớn khôn. Họ là người luôn dõi theo từng bước đi của chúng ta, an ủi, động viên, dìu dắt chúng ta trở thành những người có ích cho xã hội. Đó là thầy, cô giáo - ng ười đã cho chúng ta ánh sáng tri th ức một hành trang qúi giá nhất để chúng ta vững bước vào đời. Đó là những anh bộ d ội, nh ững ch ị thanh niên xung phong đã cống hiến cả tuổi thanh xuân cùng m ột ph ần x ương máu c ủa mình đ ể góp phần tạo nên cuộc sống tươi đẹp hôm nay. Đó là những nhà khoa h ọc đã d ốc s ức lao đ ộng trí óc để tạo nên những của cải, vật chất làm giàu cho xã hội, cho chúng ta được hưởng thụ và còn biết bao nhiêu người khác nữa đang âm thầm cống hiến mà không c ần đ ược tôn vinh. Nh ững con người đó dù ở vị trí nào vẫn luôn luôn cố gắng hết mình, phấn đấu hết mình để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đất nước... Vậy vì sao “ăn quả” phải nhớ “kẻ trồng cây”? vì tất cả những người trồng cây đã không tiếc mồ hôi, công sức, trí tuệ thậm chí cả xương máu, cả cuộc đời đ ể đem lại “quả ngọt” cho đời. Đã bao giờ ta tự hỏi: Tại sao ta lại có m ặt trên cuộc đ ời này? Đó b ởi công ơn c ủa cha mẹ đã mang nặng, đẻ đau đã sinh ra ta từ một hòn máu đỏ. Giây phút chúng ta cất tiếng khóc chào đời cũng chính là giây phút hạnh phúc ngập tràn trong lòng cha m ẹ. R ồi Ng ười ch ăm b ẵm, d ạy d ỗ chúng ta khôn lớn thành người. Tiếng gọi Mẹ, Ba và những b ước đi chập ch ững đ ầu tiên c ủa con trẻ chính là những nấc thang tột cùng hạnh phúc c ủa m ẹ cha. H ọ luôn ở bên c ạnh chúng ta có được cuộc sống bình yên, hạnh phúc như ngày hôm nay. R ồi nh ững ng ười công nhân, k ĩ s ư, bác sĩ đã không tiếc công sức, mồ hôi, trí tuệ lao động xây dựng cu ộc s ống. H ọ là nh ững ng ười dám hi sinh tất cả cuộc đời mình để cống hiến cho đ ất n ước.đi ều đó c ũng r ất phù h ợp v ới tình người. Bởi vậy, chúng ta phải nhớ ơn họ vì đây là truy ền th ống t ốt đ ẹp c ủa dân t ộc Vi ệt Nam đã được truyền dạy từ bao thế hệ nay: “Uống nước nhớ nguồn”, “Chim có tổ, người có tông”. Các câu ca dao, tục ngữ trên chính là những lời khuyên mà ông bà chúng ta mu ốn truy ền d ạy l ại cho con cháu. Đó là những nét đẹp về văn hoá của dân t ộc chúng ta mà th ế h ệ con cháu chúng ta dù sống trong hoàn cảnh nào cũng phải luôn nhớ tới. Hiểu vấn đề như thế, vậy chúng ta phải hành động thế nào? Cu ộc s ống c ủa chúng ta ph ải đ ền ơn, đáp nghĩa rất nhiều. Trong kháng chiến, chúng ta có phong trào Tr ần Qu ốc To ản giúp đ ỡ các gia đình thương binh, liệt sĩ. Phong trào này được nhanh chóng lan r ộng ra trên kh ắp m ọi n ơi. Các bạn nhỏ sau giờ học đều toả ra các xóm, giúp đỡ các gia đình thương binh, liệt sĩ, , các gia đình có công với Cách mạng bằng những việc làm tuy nh ỏ nh ưng mang n ặng ngh ĩa tình, góp phần động viên, an ủi rất lớn đối với họ. Xã hội luôn nh ớ đ ến công ơn mà nh ững ng ười chồng, người cha, người con của họ đã hi sinh để bảo v ệ T ổ qu ốc. Trong xã h ội bây gi ờ, cuộc sống tuy có đổi khác nhưng Đảng, Nhà nước đã có nh ững ch ế đ ọ, chính sách đói v ới nh ững gia đình thương binh, liệt sĩ. Phong trào nhanh chóng đ ược lan r ộng ra kh ắp m ọi n ơi, các b ạn nhỏhằng ngày, sau giờ học, đều toả ra những lối xóm để giúp đ ở nh ững gia đình th ương binh liêt sĩ neo đơn bằng những đóng góp và những việc làm c ụ th ể mang n ặng tình ngh ĩa. Nh ưũng việc làm tuy nhỏ bé nhưng góp phần an ủi động viên rất lớn đối với nh ững gia đình th ương.

<span class='text_page_counter'>(135)</span> binh, liệt sĩ. Xã hội vẫn luôn nhớ đến công ơn mà người con, người cha, ng ười ch ồng c ủa họ đã hi sinh để bảo vệ Tổ quốc. Trong xã hội bây gi ờ, cu ộc s ống tuy đ ổi khác, nh ưng Đảng và nhà nước ta vẫn luôn nhớ đến công ơn của họ bằng cách xây d ựng nh ững ngôi nhà tình ngh ĩa, có chế độ chính sách riêng đối với những gia đình thương binh, li ệt s ĩ. Đối v ới cha m ẹ, c ũng có những người con hết mực thương yêu, kính trọng cha m ẹ vì h ọ hi ểu chính cha m ẹ đã cho họ cuộc sống tươi đẹp như hôm nay:”Công cha nặng lắm cha ơi! Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang”. Bên cạng đó trong xã hội của chúng ta vẫn còn tồn tại những k ẻ vô ơn. Ngoài xã h ội, c ũng có những kẻ quên quá khứ tình nghĩa, “Vong ân bội nghĩa”, “Ăn cháo đá bát” chỉ biêt coi trọng đồng tiền, giàu sang, phú quý, chạy theo dang vọng mà quên r ằng: ai là ng ười sinh ra h ọ, đã nuôi dưỡng và dạy dỗ họ nên người. Đối với cha mẹ, họ ỷ lại vào công việc, mà không quan tâm chăm sóc mẹ mình. Ỷ lai đồng tiền, họ bỏ mắc ba mẹ ở trại dưỡng lão, không thèm h ỏi han quan tâm đến cha mẹ của mình. Đối với loại người đó, xã hội chúng ta cần lên án và phê phán. Qua đó, nâng tầm nhận thức để chúng ta luôn luôn nhớ ơn nh ững ng ười đi tr ước, nh ững ng ười đã hi sinh xương máu cho đất nước. Câu tục ngữ trên mộc mạc, đơn giản nhưng đã dạy cho chúng ta nh ững bài h ọc quý giá: không có thành quả nào tự nhiên mà có được mà tất cả đều được tạo ra từ thành quả lao động, bằng mô hôi, xương máu của những người đi trước để có được thành quả như ngày hôm nay. Chúng ta thế hệ mầm non của tương lai của đất nước nguyện sẽ chăm chỉ học tập đ ể có th ể xây d ựng b ảo vệ và giữ gìn những thành quả mà ông cha ta đã tạo ra và luôn luôn nhác nhở nhau :”Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đề 20: Ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân là ng ười yêu m ến, g ắn bó với làng quê của mình. Em hãy làm sáng tỏ nhận định trên qua truy ện ng ắn “Làng” đã học. Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và có sáng tác đ ăng báo tr ước cách m ạng tháng 8/1945. Vốn gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống ở nông thôn, Kim Lân h ầu nh ư ch ỉ vi ết v ề sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của người nông dân. Truy ện ngắn “Làng” được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Ông Hai, nhân vật chính của truyện rất yêu mến và gắn bó với làng quê của mình. Đặc điểm trên đã thể hiện rõ qua các tr ạng thái tình c ảm khác nhau c ủa ông với làng. Ông Hai, thật vậy, đã yêu cái làng chợ D ầu c ủa mình b ằng m ột tình yêu đ ặc bi ệt. Đấy là n ơi t ổ tiên, cha mẹ ông đã từng sinh trưởng và cũng là nơi chôn rau c ắt r ốn c ủa ông. Do v ậy, ông yêu làng này bằng một tình yêu vốn có từ lâu, sâu sắc và bền vững như tình yêu của m ột nông dân g ắn bó với quê hương, nói cụ thể hơn là gắn bó với cảnh vật và con người của mảnh đất quê hương ấy. Bởi thế, mỗi lần nói đến làng chợ Dầu ấy, ông đều nói với giọng say mê, náo n ức l ạ thường. “Hai con mắt sáng hẳn lên. Cái mặt biến chuyển hoạt động ”... Ông yêu tất cả những cảnh vật ở làng ông, nên mạnh dạn tự hào: ”Nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh”, đường trong làng ”toàn lát đá xanh, trời mưa đi, bùn không dính đến gót chân” , “phơi thóc rơm thì tốt thượng hạng”. Đôi khi ông cường điệu, ông tự hào mãnh liệt đến cả cái sinh ph ần c ủa c ụ Th ượng “vườn hoa cây cảnh nom như động ấy”..

<span class='text_page_counter'>(136)</span> Mãi đến sau cách mạng thánh Tám, ông mới nhận ra chính cái dinh c ơ c ủa quan T ổng đ ốc ấy đã đem lại bao nỗi khổ ải cho dân làng. Có người bệnh, có ng ười ch ết, bao nhiêu ng ười làm vi ệc không công. Riêng phần ông đã bị một đống gạch đ ổ vào b ại m ột bên hông. C ả cái chân ông sau này khập khiểng, đi đứng không ngay ngắn được cũng là do cái lăng tai ác ấy. D ưới m ắt ông, cái gì của làng chợ Dầu cũng lớn, cũng đẹp hơn hẳn những thứ c ủa thiên h ạ. T ừ cái phòng thông tin triển lãm “sáng sủa và rộng rãi nhất vùng”, đến cái chòi phát thanh trong làng, cả đến cây lúa ngoài đồng... Cái gì của làng cũng làm ông say mê, hãnh diện, tự hào. Lúc cuộc kháng chiến của cả dân tộc bùng lên, lòng yêu m ến làng quê c ủa ông Hai đã có nh ững chuyển biến rõ rệt. Nếu trước kia, ông hãnh diện vì làng ch ợ D ầu giàu có, t ươi đ ẹp, cái sinh phần của cụ Thượng tốt tươi, mới lạ, thì sau cách mạng tháng Tám, nhờ giác ng ộ chính tr ị, ông lại tự hào về không khí cách mạng sôi nổi ở làng ông. T ừ nh ững bu ổi t ập quân s ự, nh ững hố, những ụ, những giao thông hào chiến đấu, ông đã b ộc l ộ ni ềm sung s ướng c ủa mình truớc những sự thay đổi đó. Sự xuất hiện của những phòng thông tin, chòi phát thanh, đúng là cuộc đời, số phận ông thực sự gắn liền với những thăng trầm của làng Dầu yêu dấu của ông.Đối với ông Hai khi ấy, tình yêu làng mạc và tình yêu đ ất n ước đã chan hoà làm m ột trong tình cảm và nhận thức của ông. Những ngày đầu kháng chiến, ông luôn luôn tự hào v ề vi ệc làng D ầu c ủa mình đã tham gia vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc. Ngay bản thân ông cũng đã nhi ệt tình cùng v ới m ọi ng ười đi đào đường, đắp ụ để cản giặc và ông tha thiết muốn ở lại làng để trực tiếp chi ến đấu. Nh ưng sau đó ông Hai phải theo vợ con tản cư đến một làng khác. Nỗi nhớ làng không nguôi, ở n ơi tản cư, ông đã tin tức về kháng chiến. Không đọc được báo, ông đã tìm hỏi tin cho b ằng đ ược. Trước tin một em bé ở ban tuyên truyền xung phong dũng c ảm c ắm c ờ lên Tháp Rùa; m ột anh trung đội trưởng giết được bảy tên giặc đã tự sát b ằng qu ả l ựu đ ạn cu ối cùng, ông Hai c ứ t ấm tắc khen: “Khiếp thật! Tinh là những người giỏi cả”. Ngoài việc khâm phục những người anh hùng trong kháng chiến, ông Hai còn hả hê trước thất bại c ủa đ ịch: Chỗ này gi ết đ ược tên Pháp với hai tên việt gian, chỗ kia phá đ ổ một xe t ăng và m ột xe díp “ruột gan của lão cứ múa cả lên, vui quá”. Nhưng không có gì đâu đớn, tủi nhục cho ông Hai bằng khi nghe m ột ng ười đàn bà t ản c ư t ừ dưới xuôi lên nói: “Cả làng chúng nó (làng Dầu) việt gian theo Tây ”, “Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông à!”, “cổ ông Hai cứ nghẹn lại, da mặt tê rân rân ”. “Ông lặng đi tưởng như không bao giờ thở được”. Niềm tự hào bao lâu bỗng chốc tan tành, sụp đổ. Giá không yêu n ơi sinh trưởng của mình, ông đâu cảm thấy đau đớn và nhục nhã đ ến thế. Ông v ờ đ ứng l ảng ra chỗ khác rồi đi thẳng, “cúi gằm mặt xuống mà đi”. Về đến nhà, “ông nằm vật ra giường”, nước mắt ông cứ tràn ra. Khi nhìn đàn con, chưa bao gi ờ ông đau đ ớn đ ến th ế, ngh ĩ r ằng: “Chúng nó là trẻ con làng việt gian đấy ư?” Ông Hai căm ghét bọn phản bội làng, phản bội T ổ qu ốc. N ỗi đau đ ớn và nh ục nhã và lo s ợ c ủa ông lên tới cao độ khi nghe tin nhân dân địa phương có người làng Dầu tản c ư đến là h ọ tẩy chay dân làng ông, “đến đâu có người chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi ”, ngay mụ chủ nhà cũng đã đuổi khéo vợ chồng, con cái ông ra khỏi nhà. Tr ước tình c ảnh ấy, ông Hai b ế t ắc nhưng nhất định không chịu trở về làng: “ Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”. Cũng không thể đi đâu, ở đâu, người ta cũng đuổi người làng chợ Dầu của ông..

<span class='text_page_counter'>(137)</span> Từ đau đớn nhục nhã như thế, ông Hai lại biết bao vui sướng khi nh ận đ ược tin làng ông b ị giặc phá, nhà ông bị giặc đốt. Nghĩa là làng Dầu của ông không hề theo giặc. “Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ, đốt nhẵn rồi”. Ông Hai cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy cho mọi người. “ Vui mừng vì nhà mình bị đốt!” một niềm vui thể hiện một cách đau xót và đầy xúc động thể hiện tinh thần yêu nước, yêu cách mạng của người nông dân Việt Nam trong cu ộc kháng chi ến chống giặc ngoại xâm. Nỗi vui mừng của ông Hai ở đây thật vô b ờ b ến. Ông hào phóng mua quà cho các con, ông muốn san sẻ niềm vui sướng ấy cho m ọi ng ười trong đó có c ả m ụ ch ủ nhà từng gieo cho ông nhiều nỗi bực dọc, căm tức. Từ một người yêu mến đắm say làng mạc của mình, ông Hai đã gắn tình yêu ấy với tình yêu đ ất nước, chính vì thế mà làng Dầu của ông có như thế nào đi nữa, ông v ẫn m ột lòng, m ột d ạ ủng hộ kháng chiến, ủng hộ Cụ Hồ. Thật đúng như nhà văn I-li-a Ê-ran-bua nói: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu đồng quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Quả thật, ông Hai là hình ảnh đẹp của những người nông dân bình th ường nh ưng giàu lòng yêu nước trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tr ước đây (1946-1954). Nhà văn Kim Lân đã có những thành công trong việc xây d ựng hình t ượng ng ười nông dân trong cu ộc kháng chiến chống Pháp với những tình cảm chân thực và thăm đ ượm tình yêu quê h ương, đ ất nước. ĐỀ 21 : Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu Đồng chí ! Ôi tiếng gọi sao mà thân thương tha thiết. Bởi đây biểu hiện thật đầy đủ tình đồng đội của anh bộ đội Cụ Hồ thời kháng Pháp. Cảm nhận được tình cảm vừa thân quen vừa mới lạ trong cuộc sống chiến đấu ấy, Chính Hữu, một nhà thơ - chiến sĩ đã xúc động viết bài thơ Đồng chí. Với lời thơ chân chất, tràn đầy tình cảm, bài thơ đã để lại bao cảm xúc trong lòng người đọc. Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội keo sơn gắn bó giữa những người chiến sĩ quân đội nhân dân trong cuộc sống chiến đấu gian khổ. Họ là những người xuất thân từ nhân dân lao động chỉ quen việc "cuốc cày" ở những vùng quê nghèo khác nhau, vì có chung tấm lòng yêu nước, họ đã gặp nhau từ xa lạ bỗng trở thành thân quen. Chính Hữu đã kể về những con người ấy bằng lời thơ thật xúc động : Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau Họ đều xuất thân từ những vùng đất khô cằn, nghèo khổ "nước mặn đồng chua", "đất cày lên sỏi đá". Từ "xa lạ" gặp nhau. Thật là thú vị, nhà thơ không nói hai người xa lạ mà là "đôi người xa lạ", vì thế ý thơ được nhấn mạnh, mở rộng thêm. "Hai người" cụ thể quá. Đôi người là từng "đôi" một - nhiều người. Trong đơn vị quân đội ấy, ai cũng thế. Hình ảnh những con người chẳng hẹn quen nhau nói lên một sự thật. Những con người vốn xa lạ khi tham gia kháng chiến, đã cùng nhau chiến đấu, cùng nhau chịu đựng gian khổ, chung lưng đấu cật bên nhau. Vì thế họ trở thành thân nhau, hiểu nhau, thương nhau và gọi nhau là "đồng chí". Súng bên súng, đầu sát bên đầu.

<span class='text_page_counter'>(138)</span> Ñeâm reùt chung chaên thaønh ñoâi tri kæ Đồng chí Tình caûm aáy thaät thaân thöông, thaät tha thieát. Gioïng thô ñang lieàn maïch nheï nhaøng, thuû thỉ tâm tình, bỗng ngắt nhịp đột ngột. Từ Đồng chí lại được tách ra làm câu riêng, một đoạn riêng. Với cấu trúc thơ khác thường ấy tác giả đã làm nổi bật ý thơ. Nó như một nốt nhấn của bản nhạc, bật lên âm hưởng gây xúc động lòng người. Câu thơ chỉ có một từ Đồng chí - một tiếng nói thiêng liêng. Đồng chí - một tiếng reo, một sự cảm kích chất chứa nhiều đổi thay trong quan hệ tình cảm. Tình cảm ấy lại đựơc biểu hiện cụ thể trong cuộc sống chiến đấu kể cho nhau nghe chuyện quê nhà. Chuyện "Ruộng nương anh gửi bạn thân cày", "Gian nhà không mặc kệ gió lung lay", cả chuyện "Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính"... Từ những tâm tình ấy, ta hiểu, các anh chiến sĩ mỗi người đều có một quê hương, có những kỉ niệm thân thiết gắn bó với quê nhà và khi ra đi họ mang theo hình bóng quê hương. Các miền quê tuy khác nhau nhưng đều có những nét gần quí nhau. Các anh cùng chia sẻ ngọt bùi, cùng chịu gian khổ bên nhau. Trong gian lao vất vả họ tìm được niềm vui, niềm hạnh phúc trong mối tình đồng chí. Làm sao các anh có thể quên được những lúc ướt mồ hôi, cùng chịu với nhau từng cơn ớn lạnh. Cuộc sống bộ đội nghèo vất vả nhưng không thiếu niềm vui. Dẫu áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá... dẫu trời có buốt giá thì miệng vẫn cười tươi. Tình cảm chân thành tha thiết ấy không diễn tả bằng lời mà lại thể hiện bằng cách nắm lấy bàn tay. Thật giản dị và cảm động. Không là vật chất của cải, không là lời hoa mĩ phô trương. Những người chiến sĩ biểu hiện tình đồng chí "tay trong tay". Chính đôi bàn tay nắm chặt đã nói lên tất cả ý nghĩ thiêng liêng cao đẹp của mối tình đồng chí. Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo Đoạn thơ kết vừa tả cảnh thực vừa mang nét tượng trưng. Tác giả tả cảnh những người lính phục kích chờ giặc trong đêm sương muối giữa đèo núi cao. Vầng trăng lơ lửng giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Đồng thời "Đầu súng trăng treo" còn mang ý nghĩa tượng trưng. Vừa thực, vừa mơ, vừa xa vừa gần, vừa mang tính chiến đấu vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn. Đây là hình ảnh đẹp tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí đang nảy nở, vươn cao, tỏa sáng từ cuộc đời chiến đấu. Hình ảnh thật độc đáo gây xúc động bất ngờ, thú vị cho người đọc. Nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục đích lí tưởng chiến đấu và mối tình đồng chí thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ. Bằng ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh chân thực gợi tả có sự khái quát cao. Bài thơ là niềm xúc động về tình cảm cách mạng của người lính trong chiến đấu chống kẻ thù chung. Nhà thơ đã xây dựng hình ảnh thơ từ những chi tiết thực của cuộc sống đời thường của người chiến sĩ, không phô trương, không lãng mạn hóa, thi vị hóa. Chính những nét thực đó tạo nên sự thành công của tác phẩm. Bài thơ đánh dấu một bước ngoặt mới trong phương pháp sáng tác và cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ trong thơ thời kì chống Pháp. Đề 22 : Phân tích đoạn thơ :.

<span class='text_page_counter'>(139)</span> Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chæ caàn trong xe coù moät traùi tim (Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật) Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời chống Mĩ cứu nước. Ông được gọi là "Viên ngọc Trường Sơn của thơ ca" bởi đã mang cả hào khí thời đại cùng dãy Trường Sơn vào thơ. Đặc biệt mảng thơ về người lính lái xe của thi sĩ đã để lại ấn tượng thật thú vị. Đó là những "Vết xe lăn" nóng bỏng trong những bài thơ trên đường ra trận thời chống Mĩ. Trong số những vần thơ thông minh, dí dỏm về người lính lái xe này của Phạm Tiến Duật, phải kể đến Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Bài thơ được viết năm 1969, in trong tập "Vầng trăng - Quầng lửa". Hình tượng thơ hết sức độc đáo : những chiếc xe không kính băng băng ra trận bất chấp hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh. Để cuối bài thơ, tác giả đưa ra một ý tưởng thật bất ngờ - đó là "traùi tim caàm laùi": Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước Chæ caàn trong xe coù moät traùi tim Ở phần đầu bài thơ, Phạm Tiến Duật đã giải thích rất đơn giản mà sắc sảo : "Không có kính không phải vì xe không có kính" bởi vì : "Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi". Chiến tranh bom đạn tàn phá, xe không kính chắn gió vẫn ra trận thanh thản mà ung dung. Hai câu đầu khi kết, tác giả một lần nữa tả hình dáng của chiếc xe quân sự thời chống Mĩ : Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe thùng xe có xước Đã không kính - gió, bụi, mưa tuôn vào buồng lái, khó khăn chồng chất hơn khi xe lại không có đèn, rồi không có mui xe thùng xe có xước. Một hình ảnh thực qua bao trận chiến. Người lái xe phải huy động mọi giác quan, năng lực để lái xe trong hiểm nguy. Tất cả đều vượt qua bởi : Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chæ caàn trong xe coù moät traùi tim Đây là chủ đề sâu thẳm của bài thơ. Đây mới là điều hệ trọng và thiêng liêng mà cả bài thơ đầy giọng "ngang tàng", lạc quan chưa hé lộ. Nhà thơ đã nói đúng tinh thần thời đại : Xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy tương lai (Tố Hữu). Cả nước lên đường đánh Mĩ vì Miền Nam ruột thịt. Vậy là trái tim đã giúp những người lính vượt qua gian khổ trên những chiếc xe không kính, không đèn, không mui xe... Trái tim rực lửa căm thù giặc và nóng bỏng yêu thương đồng bào Miền Nam ấy chính là vẻ đẹp sâu thẳm của tâm hồn Việt Nam thời đánh Mĩ, là trái tim nhân hậu, thủy chung của cả dân tộc . Thơ là thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. Phạm Tiến Duật đã thể hiện thành công tâm hồn thế hệ trẻ Việt Nam yêu nước trong những năm tháng đánh Mĩ hi sinh gian khổ mà vĩ đại của dân tộc ta..

<span class='text_page_counter'>(140)</span> Chiến tranh đã lùi xa mãi mãi, nhưng những "dấu xe trên dãy Trường Sơn" của những chiếc xe độc đáo một thời góp phần làm nên kì tích trong thơ Phạm Tién Duật sẽ còn đánh thức tâm hồn chúng ta. ĐỀ 23 : Phân tích tính biểu tượng của hình ảnh : "Đầu súng trăng treo" (Đồng chí Chính Hữu) và hình ảnh "trăng" (Ánh trăng - Nguyễn Duy). Hình ảnh Đầu súng trăng treo của Chính Hữu. Đầu súng trăng treo là câu kết bài thơ Đồng chí, cũng là một biểu tượng đẹp về người chiến sĩ thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Trong đêm phục kích giữa rừng, bên cạnh hình ảnh thực là súng, là nhiệm vụ chiến đấu tạo nên con người chiến sĩ thì cái mộng, cái trữ tình là trăng. Hình ảnh trăng tạo nên con người thi sĩ. Hình ảnh chiến sĩ, thi sĩ hài hòa với nhau trong cuộc đời người lính cách mạng. Hai hình ảnh tưởng là đối lập đặt cạnh nhau tạo ra ý nghĩa hoà hợp vô cùng độc đáo. Súng là chiến đấu, gian khổ, hi sinh là hiện thực. Còn trăng là tượng trưng cho hòa bình, gợi lên sự đẹp đẽ, thơ mộng, dịu dàng là lãng mạn. Người lính cầm súng để bảo vệ hòa bình, khát khao hòa bình, không ngại gian khổ, hi sinh nhưng xét về phương diện tinh thần, tình cảm thì đây chính là cuộc chiến mang vẻ đẹp của chính nghĩa, của lòng yêu nước. Súng và trăng : cứng rắn và dịu hiền, chiến sĩ và thi sĩ, có người còn gọi đây là một cặp đồng chí. Chính Hữu đã thành công với hình ảnh Đầu súng trăng treo - một biểu tượng thơ giàu sức gợi cảm. Tác giả đã từng nói : "Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng đi phục kích giặc trong đêm trước mắt tôi chỉ có ba nhân vật : Khẩu súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu. Ba nhân vật quện với nhau tạo ra hình ảnh đầu súng trăng treo" Đầu súng trăng treo, đã trở thành một biểu tượng đẹp của người lính cách mạng Việt Nam : Hiện thực và lãng mạn, chiến sĩ và thi sĩ. Hình aûnh traêng cuûa Nguyeãn Duy Ánh trăng của Nguyễn Duy với hình ảnh trăng không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên đất nước mà còn gắn bó với tuổi thơ, với những ngày kháng chiến gian khổ. Vầng trăng mà mỗi chúng ta không bao giờ có thể quên và đừng vô tình lãng quên. Hình ảnh trăng bắt đầu gắn với cuộc sống bình thường của con người và vầng trăng thời chiến tranh. Đầy ắp những kỉ niệm về vầng trăng trải rộng trên một thiên nhiên bao la với sông, với đồng, với bể. Thời chiến tranh máu lửa vầng trăng đã thành tri kỉ với người lính. Vầng trăng là biểu tượng đẹp của những năm tháng nghĩa tình ngỡ không bao giờ có thể queân. Thật đáng sợ là sự thay đổi của lòng người. Từ ở rừng, sau chiến thắng về thành phố, được sống cuộc sống tiện nghi : ở buyn đinh, quen ánh điện, cửa gương... Và vầng trăng tri kỉ, nghĩa tình đã bị người tri kỉ xưa lãng quên, dửng dưng. Trăng được nhân hóa, lặng lẽ đi qua đường, như người dưng, chẳng còn ai nhớ, chẳng ai hay. Bất ngờăngời gặpmột tình huống của nhịp sống thị thành : thình lình đèn điện tắt. Vầng trăng xưa xuất hiện, vẫn tròn, vẫn đẹp, vẫn thủy chung với người. Nước mắt rưng rưng của ngưòi lính, cái giật mình của người lính trước sự im lặng của trăng xưa hiện về nơi thành phố hôm nay là một biểu tượng nghệ thuật mang tính hàm nghĩa độc đáo. Đó là sự bao dung, độ lượng, nghĩa tình, thủy chung của nhân dân, sự trong sáng mà không hề đòi hỏi.

<span class='text_page_counter'>(141)</span> được đền đáp. Đây chính là phẩm chất cao đẹp của nhân dân mà tác giả muốn ngợi ca, tự haøo. Cũng là thông điệp hãy biết nhớ về quá khứ tốt đẹp, không nên sống vô tình. Đó chính là ý nghĩa sâu sắc của hình ảnh trăng trong bài thơ của Nguyễn Duy tự nhắc nhủ mình và muốn gửi gắm. ĐỀ 24 :Vẻ đẹp của người lính trong khổ cuối bài thơ Đồng chí của Chính Hữu. Là người lính thuộc trung đoàn thủ đô rồi trở thành nhà thơ quân đội, Chính Hữu chủ yếu viết về người lính và hai cuộc kháng chiến. Đồng chí được sáng tác năm 1948, là bài thơ thành công nhất của ông. Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội, đồng chí gắn bó keo sơn của những chiến sĩ quân đội nhân dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Bài thơ mở đầu bằng những câu thơ mộc mạc, giản dị, chân chất khi tác giả giới thiệu về quê hương của các anh bộ đội. Các anh mỗi người một quê - những vùng quê nghèo khó - song đã về đây để cùng tham gia kháng chiến, cùng chịu đựng gian khổ, chung lưng đấu cật bên nhau Cuộc sống người lính vất vả biết bao nhiêu. Nào : Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá... Lại nữa, những đêm trời rét chỉ có một mảnh chăn mỏng hay những cơn sốt rét rừng hành hạ... Vượt lên trên tất cả những khó khăn đó để "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Chính đôi tay nắm chặt ấy đã nói lên ý nghĩa thiêng liêng, cao đẹp của tình đồng đội, của ý chí quyết tâm đánh giặc Baøi thô keát thuùc baèng hình aûnh ñaëc saéc : Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo Ba câu thơ là bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính, là biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ. Trong bức tranh trên, nổi bật là ba hình ảnh gắn kết với nhau : Người lính, khẩu súng, vầng trăng giữa cảnh rừng hoang sương muối phục kích giặc. Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp họ vượt lên tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ, thiếu thốn. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ. Hình ảnh Đầu súng trăng treo là hình ảnh đẹp nhất vì nó vừa là hình ảnh thực vừa là hình ảnh tượng trưng Tác giả Chính Hữu đã từng nói : "Đầu súng trăng treo, ngoài hình ảnh, bốn chữ này còn có nhịp điệu như lắc của một cái gì lơ lửng chông chênh trong sự bát ngát. Nó nói lên một cái gì lơ lửng ở rất xa chứ không phải là buộc chặt, suốt đêm vầng trăng ở bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng như một người bạn" Đó là hình ảnh thực của cuộc kháng chiến, của những người lính khi chờ giặc tới. Ngoài tả thực, hình ảnh "Đầu súng trăng treo" còn mang ý nghĩa tượng trưng. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, vừa thực, vừa mơ, vừa xa vừa gần, vừa mang tính chiến đấu, vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ. Đây là hình ảnh tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí đang nảy nở, vươn cao, tỏa sáng từ cuộc đời chiến đấu. Hình ảnh thơ thật độc đáo, gây xúc động bất ngờ, thú.

<span class='text_page_counter'>(142)</span> vị cho người đọc. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục đích lí tưởng chiến đấu và tình nghĩa thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ. Với nhịp chậm, giọng thơ hơi cao, ba câu thơ cuối của bài một lần nữa khắc họa chân thực mà sâu sắc về hình ảnh người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Tình cảm đồng chí, đồng đội là tình cảm thiêng liêng cao đẹp nhất của những người lính. Đó là sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả mọi khó khăn trở ngại, mọi thiếu thốn để chiến thắng kẻ thù. Bài thơ Đồng chí đặc biệt là ba câu kết như một lời nhắn nhủ với mọi người : Hãy biết nâng niu và gìn giữ những tình cảm đẹp trong cuộc sống, phải biết kính trọng những người lính Đề 25 : Từ hiểu biết về bài Đồng chí của Chính Hữu, em hãy viết một đoan văn theo luận đề : Đồng chí mang một vẻ đẹp của thời đại mới. Vẻ đẹp của thời đại mới trong hình tượng thơ ở đây là tình đồng chí, đồng đội gắn với giai cấp của người lính. Cả bài thơ khai thác đời sống nội tâm, tình cảm của người lính. Vẻ đẹp của bài thơ Đồng chí là vẻ đẹp đời sống tâm hồn người lính, nơi phát ra vầng ánh sáng lung linh nhất là tình đồng chí đồng đội : "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Chỉ cần thương nhau tay nắm lấy bàn tay là đủ hơi ấm để chống chọi với cái rét run người nơi đại ngàn. Những đêm rừng hoang sương muối... Trong cái cầm tay nhau ấy, hình ảnh đất nước và tinh thần đoàn kết giai cấp được diễn đạt thật cao đẹp, cô đọng và thuyết phục. Chính tình cảm cao đẹp và lí tưởng sáng ngời "Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới" đó mà những người lính được nâng lên tầm cao khái quát trong đó có sự hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, trữ tình. Đầu súng trăng treo mang ý nghĩa sâu sắc cho tinh thần thời đại. ĐỀ 26 : Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã cho thấy hành trang mang theo con đường ra trận là trái tim yêu nước. Ý kiến của em Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mĩ. Bản thân là anh bộ đội Trường Sơn, tác giả cảm thông và hiểu rõ tâm tình người lính, nhất là người chiến sĩ vận tải dọc Trường Sơn chở vũ khí, quân trang từ hậu phương lớn ra tiền tuyến lớn. Cùng với thế hệ thanh niên hăng hái "Xẻ dọc trường sơn đi cứu nước / Mà lòng phơi phới dậy tương lai" Phạm Tiến Duật mang niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra chiến trường. Nhà thơ đã tạo cho mình một giọng điệu thơ rất lính : khỏe khoắn, tự nhiên, tràn đầy sức sống, tinh nghịch tươi vui mà giàu suy tưởng. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm tiêu biểu nhất của giọng thơ ấy, của hồn thơ ấy. Kết cấu của bài thơ là hành trình của con đường ra trận. Hành trình đó có những lúc dãi dầu nắng mưa, có những ngày vượt suối băng đèo và có tiếng reo cười trong tình thân chan hòa đồng đội, trong một mái ấm gia đình giữa đất trời bao la. Kết cấu đó trước hết thể hiện qua số lượng chữ trong câu : Mở đầu chặng đường hành quân là những khó khăn. Vì vậy khổ 1, câu thơ đầu dài ra 10 chữ và kết thúc bằng thanh trắc - hoàn toàn trái quy luật phối thanh bình thường của thơ vaàn nhòp. Noù laø ñieäu noùi : Khoâng coù kính khoâng phaûi vì xe khoâng coù kính.

<span class='text_page_counter'>(143)</span> Ba câu tiếp theo, khó khăn dần rút lại, tạo nên sự ung dung phong thái đỉnh đạc với số lượng chữ rút dần xuống và đằm lại về thanh điệu : 8 - 6 - 6, bằng - bằng - trắc. Hai câu thơ cuối khổ, thanh bằng chiếm tỉ lệ nhiều hơn, khoảng 2/3. Chính sự thắng thế của thanh bằng đã tạo nên sự thanh thản, ung dung cho khổ thơ mặc dù kết thúc của nó lại là thanh trắc. Chính thanh trắc này lại mở đường cho xe đi tới : Nhìn thẳng. Năm khổ thơ tiếp theo, số lượng câu chữ trở lại bình thường, hoán đổi đều đặn ở hai kiểu kết hợp : 7- 8- 8- 7- và 7- 7- 8- 7. Đường ra trận đẹp lắm, nên xe không kính cứ chạy băng băng, người lái xe đã nhìn thấy, nhìn thấy và thấy. Thấy gió xoa mắt đắng, thấy con đường chạy thẳng vào tim. Quan trọng nhất, thấy được nụ cười rạng rỡ của nhau. Ấy cũng chính là thấy được lòng dũng cảm tiềm ẩn đằng sau những câu đùa vui và hành động tếu táo : Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi Khổ thơ có một sự thay đổi đặc biệt so với toàn bài ở số lượng chữ trong câu thơ : 8- 8- 88. Bốn câu thơ 32 chữ chia đều nhau thanh điệu bằng trắc ở bốn chữ cuối và trở lại kiểu phối âm bình thường bằng- trắc- trắc- bằng. Câu kết của bài thơ mở rộng bằng sự phối hợp, luyến láy. Bằng trắc tạo ra sự khẳng định vừa điềm tĩnh vừa kiên nghị : Chæ caàn trong xe coù moät traùi tim Đây là câu thơ mấu chốt của cả khổ thơ và cả bài thơ. Hóa ra tất cả khó khăn thử thách ở phía trên kia chẳng là gì cả, dù cho bom rơi, pháo thả, dù xe không kính, dù đường ra mặt trận có khi đồng nghĩa với cái chết thì người lính lái xe ra trận cũng luôn cảm thấy bình yên, an toàn bởi vì có một trái tim. Đó là trái tim biết thức vì Miền Nam, biết khát khao chaân lí, hoøa bình. Haønh trang ra traän caàn bieát bao moät traùi tim nhö theá. Bài thơ đã khắc họa đậm nét hình ảnh người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam : Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi. Bài thơ không chứa đựng một ẩn ý sâu xa nào khiến người đọc phải suy luận, nêu giả thiết hoặc là thế này hoặc là thế kia. Tạo dựng hình ảnh thơ bằng ngôn ngữ thô mộc của đời sống thường nhật, không sử dụng các loại mĩ từ, mĩ cảm, ẩn dụ, chỉ ghi lại sự thật về những con người và cảm xúc mến yêu, tự hào về họ hình ảnh thơ thể hiện đã đạt tới độ chân thực cao mà vẫn rất thơ, đó là tài nghệ của Phạm Tiến Duật trong lao động sáng tạo. Bài thơ có đầy đủ yếu tố cách tân và hiện đại nhưng vẫn mang đậm bản sắc của thơ ca dân tộc, nối tiếp truyền thống của thơ ca cách mạng viết về anh bộ đội trong hai cuộc trường chinh cứu nước vĩ đại của dân tộc ở thế kỉ XX. ĐỀ 27 : Hình ảnh người lính trong hai bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Lớp cha trước lớp con sau Đã thành đồng chí chung câu quân hành (Tố Hữu) Trải qua ba mươi năm chiến tranh vệ quốc vĩ đại, dân tộc ta đã làm nên kỳ tích hào hùng : đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Có thể nói, nhân vật trung tâm của thời đại đã làm nên huyền thoại, đó là anh bộ đội Cụ Hồ. Hình tượng anh bộ đội Cụ Hồ đã trở thành cảm hứng đẹp trong thơ ca hiện đại. Trong số những bài thơ viết về đề tài này phải kể đến Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu.

<span class='text_page_counter'>(144)</span> đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Hai bài thơ gắn với hai giai đoạn kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ sẽ giúp chúng ta cảm nhận đầy đủ hơn về hình ảnh người lính. Chính Hữu sinh năm 1926. Năm 1946 ông nhập ngũ, là lính trung đoàn Thủ đô. Đầu năm 1948 bài thơ Đồng chí ra đời khi ông là chính trị viên đại đội. Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, năm 1964 gia nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường sơn. Bài thơ về tiểu đội xe không kính sáng tác năm 1969. Hai nhà thơ thuộc hai thế hệ thi nhân nối tiếp nhau trong cuộc trường chinh của dân tộc. Hai thi phẩm mà chúng ta đề cập tới đều trong số những tác phẩm tiêu biểu của mỗi giai đoạn văn học thể hiện thành công hình ảnh người chiến sĩ, sẽ còn sống mãi với thời gian. Đọc Đồng chí, cảm nhận chung của chúng ta là, người lính cách mạng trong kháng chiến chống Pháp xuất thân từ nông dân. Hình ảnh họ được Chính Hữu mô tả chân thực, giản dị mà cao đẹp. Khác với khuynh hướng lãng mạn anh hùng mang dáng dấp tráng sĩ trượng phu của thơ ca đầu chống Pháp, cảm hứng của Chính Hữu trong Đồng chí hướng về chất thực của đời sống, khai thác cái đẹp và chất thơ trong cái "đời thực" của cuộc chiến đấu và người chiến sĩ. Cái đẹp trong khó khăn, thiếu thốn và nhất là cái đẹp trong tình đồng chí, đồng đội, thắm thiết, sâu nặng : Quê hương anh nước mặn đồng chua làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Tôi với anh đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau Súng bên súng đầu sát bên đầu Ñeâm reùt chung chaên thaønh ñoâi tri kæ Đồng chí ! Đoạn mở đầu này có bảy dòng, theo ba cặp và cuối cùng dồn lại ở một từ : Đồng chí. Một sự lí giải tình đồng chí của nguời lính. Đó là xuất phát từ sự giống nhau ở cảnh ngộ, xuất thân từ nghèo khó, là cùng chung mục đích, lí tưởng, nhiệm vụ, chia sẻ gian lao (Súng bên súng đầu sát bên đầu/ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ...) Một chữ chung khiến những người vốn xa lạ thành đôi tri kỉ và cao hơn là thành đồng chí. Người xưa đánh giá tình bạn cao nhất bằng tri kỉ. Chính Hữu nhìn thấy ở anh bộ đội Cụ Hồ một tình cảm còn sâu sắc hơn, gắn bó hơn - tình đồng chí. Tình cảm này không phải chỉ vì sự cảm thông sâu xa tâm tư, nỗi lòng của nhau mà là cái chung lớn lao. Tất cả diễn đạt bằng lời không đủ, bao nhiêu lời thân thương, trìu mến nhất cũng trở thành sáo rỗng, không chuyên chở nổi sức nặng cảm động giữa những người lính, người đồng đội. Vì thế đoạn thơ thứ hai có 10 dòng vẫn theo từng cặp tương ứng để cuối cùng dồn lại một hành động thay cho muôn lời : "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Tình đồng chí giữa những người lính vệ quốc, nói như Chính Hữu : Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi AÙo anh raùch vai Quaàn toâi coù vaøi maûnh vaù Miệng cười buốt giá Chaân khoâng giaøy....

<span class='text_page_counter'>(145)</span> Là tình cảm của cha ông thuở mới nổi dậy chống Pháp hồi giữa thế kỉ XIX truyền lại. Tình của những dân ấp, dân lân, "Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm - Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó" (Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc Nguyễn Đình Chiểu). Những con người ấy vốn dĩ không đi vào cuộc chiến đấu cam go, thiếu thốn này bằng óc lãng mạn. Nhưng cuộc chiến đấu trên chiến hào bảo vệ Tổ quốc đã khiến họ thành oai hùng, lãng mạn. Bức tượng đài cuối bài thơ là sự phát triển tất yếu từ tình đồng chí : Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo Đó là cuộc đời thực của những người lính nông dân nghèo khổ nơi : nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá, áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày ... được tình cảm cách mạng cao đẹp tạc thành dáng hình mới. Nếu Đồng chí là hình ảnh của anh lính nông dân chưa biết chữ thời kì đầu kháng Pháp thì người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một hóa thân khác. Họ là những thanh niên học sinh đã qua 20 năm dưới mái trường Miền Bắc đi chiến đấu, giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước. Người chiến sĩ trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính, cũng như Đồng chí vẫn cùng bốn phương hội tụ, nhưng với tất cả sự trong sáng, hồn nhiên, vô tư. Họ, những người chiến sĩ lái xe, những chiếc xe từ trong bom đạn : đã về đây họp thành tiểu đội : Không có kính rồi xe không có đèn, không có mui xe... Bởi vì : Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi. Nên phải chịu bao gian khổ : gió, bụi, mưa xối xả song : Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước Chæ caàn trong xe coù moät traùi tim Tình đồng chí, đồng đội trong bài thơ của Phạm Tiến Duật có cái tên chung là ta, chúng ta. Tất cả đều là đồng chí : trẻ, khỏe, dũng cảm bất chấp nguy hiểm. Không có kính không phải vì xe không có kính / bom giật bom rung kính vỡ đi rồi . Nhưng : Ung dung buồng lái ta ngồi/ Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng.../Bụi phun tóc trắng... cười ha ha / Mưa tuôn... mau thôi / Gặp bè bạn... kính vỡ rồi / Họ không cần nhiều tìm hiểu, không cần phải đồng cảnh ngộ, với họ từ trong bom rơi... họp thành tiểu đội . Nếu hình ảnh người chiến sĩ trong bài Đồng chí là một bức tượng đài : Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới/ Đầu súng trăng treo thì người lính trong thơ Phạm Tiến Duật là một phù điêu những khuôn mặt trai trẻ, hồn nhiên. Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là hai tiêu điểm trong các tiêu điểm của hình tượng người lính - Anh bộ đội Cụ Hồ mà thơ ca dựng lên từ 30 năm chiến đấu gian khổ đến ngày toàn thắng 1975. ĐỀ 28 : Không khí lao động khẩn trương, khỏe khoắn và tươi vui trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận. Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là một "bài thơ cuộc đời". Bài thơ được sáng tác năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hòn Gai, Cẩm Phả. Thông qua một đêm đánh cá của đoàn thuyền lớn trên biển, tác giả ca ngợi kiểu lao động mới mẻ của người lao động tràn đầy lạc quan tin tưởng, làm chủ thiên nhiên, biển cả bao la. Qua bài thơ ta.

<span class='text_page_counter'>(146)</span> cảm nhận được không khí lao động khẩn trương, hăng say, nhộn nhịp của miền Bắc thời kì xây dựng CNXH. Bài thơ mở đầu bằng khung cảnh : Mặt trời xuống biển như hòn lửa Giới thiệu một ngày sắp kết thúc, sự vật bắt đầu nghỉ ngơi sau hành trình 12 giờ mệt mỏi. Thế nhưng với con người làm nghề đánh cá thì lại khác, dấu hiệu mặt trời xuống biển mở ra một sự bắt đầu với Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi. Đánh cá trên biển là công việc nặng nhọc, đầy nguy hiểm. Vậy mà những người đánh cá "lại" ra khơi với một tinh thần sảng khoái, tràn trề niềm vui, phấn chấn : Caâu haùt caêng buoàm cuøng gioù khôi Tiếng hát được nhắc đi nhắc lại nhiều lần như một điệp khúc và nó trở thành âm thanh chủ đạo trong bài thơ: - Haùt raèng : caù baïc bieån Ñoâng laëng - Ta haùt baøi ca goïi caù vaøo Tác giả miêu tả những con cá, những đàn cá gợi nên bức tranh sinh động về biển cả. Hình ảnh đàn cá lóng lánh màu sắc như một bức tranh sơn mài. Giữa khung cảnh mênh mông, rộng lớn, hình ảnh người lao động xuất hiện với tư thế làm chuû thieân nhieân, bieån caû, laøm chuû coâng vieäc cuûa mình. Hình aûnh thaät khoûe khoaén, raén chaéc : Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng Ta keùo xoaên tay chuøm caù naëng Bằng cảm hứng lãng mạn, Huy Cận đã tô đậm lên hình ảnh những người lao động mới với tầm vóc ngang tầm vũ trụ và hòa nhập với khung cảnh trời nước bao la : Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng Trên cái không gian bát ngát của trăng, gió, trời, biển ấy, hình ảnh con người mới xuất hiện với chiều kích của không gian. Đó chính là bởi niềm vui hăng say lao động, làm giàu cho Toå quoác. Công việc nặng nhọc của người lao động đánh cá đã trở thành bài ca lạc quan, nhịp nhaøng cuøng thieân nhieân: Ta haùt baøi ca goïi caù vaøo Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao Tiếng hát bay bổng, chứa chan tình cảm. Bóng trăng xô sóng nước như gõ vào mạn thuyền. Cái hiện thực đã được bút pháp lãng mạn chắp cánh làm đẹp thêm công việc đánh cá của người lao động. Con người lao động hoà vào thiên nhiên, cất baìo ca giữa thiên nhiên. Bài thơ kết thúc với cảnh rạng đông khi đoàn thuyền quay trở về: Caâu haùt caêng buoàm cuøng gioù khôi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

<span class='text_page_counter'>(147)</span> Cuối câu thơ đậm bức tranh sống động, hấp dẫn về thành quả của người lao động. Sau một đêm làm việc vất vả, mệt nhọc, khẩn trương nay họ đã về bến với hình ảnh mắt cá huy hoàng cá phơi dài muôn dặm. Đoàn thuyền đánh cá là khung cảnh lao động đầy khí thế của những con người mới, của cuộc sống mới những tháng ngày hăng say xây dựng CNXH. Bài thơ là bài ca yêu nghề, yêu đời, yêu cuộc sống, yêu sự nghiệp xây dựng đất nước của những người lao động. Với bút pháp lãng mạn và cảm hứng không gian quen thuộc, Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là một bài thơ hay của thơ ca hiện đại sau cách mạng Tháng Tám. Đề 29 : Chép lại theo trí nhớ 4 câu thơ đầu và 4 câu thơ cuối bài Đoàn thuyền đánh cá. a) Phân tích ý nghĩa của hai hình ảnh thơ Mặt trời xuống biển và Mặt trời đội biển. Bình luận tính chính xác của hai từ xuống và đội. b) Trong hai đoạn thơ này, tác giả diễn tả tâm trạng của ai ? Đó là tâm trạng gì ? Khổ thơ đầu : Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Caâu haùt caêng buoàm cuøng gioù khôi Khoå thô keát : Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi a) Đoàn thuyền đánh cá là bài thơ nổi tiếng của Huy Cận, lấy cảm hứng từ cuộc sống lao động đánh cá trên biển Hòn Gai vào cuối những năm 50 của thế kỷ XX. Trong bài thơ này tác giả sử dụng rất nhiều hình ảnh đẹp, kì vĩ của thiên nhiên, vũ trụ, đặc biệt là hình ảnh "mặt trời xuống biển" và "mặt trời đội biển" ở khổ thơ đầu và khổ thơ kết. Đây là hai hình aûnh ngheä thuaät ñaëc saéc goùp phaàn laøm neân thaønh coâng cuûa baøi thô. "Mặt trời xuống biển" và "Mặt trời đội biển" là hai không gian, thời gian gắn liền với hoạt động của đoàn thuyền đánh cá. Đoàn thuyền xuất phát khi biển vào đêm, lúc vũ trụ nghỉ ngơi là lúc con người hoạt động. Đoàn thuyền trở về khi một ngày mới xuất hiện trên biển, con người lao động thật hăng say, nâng lên tầm vóc vũ trụ. Từ "xuống" rất chính xác, diễn tả cảnh mặt trời lặn, nhưng là xuống biển, tức là đoàn thuyền xuất phát từ đảo xa bờ, không có bóng dáng đất liền, chỉ có bốn bề là biển mênh mông. Còn từ "đội" ở phần kết cũng rất chính xác vì diễn tả cảnh bình minh trên biển, mặt trời như được mọc lên từ biển, xuyên qua biển, tạo nên bình minh rực rỡ. Hai hình ảnh này có ý nghĩa diễn tả đoàn thuyền lênh đênh trên biển, như thách thức biển khơi. b) Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là tiếng hát lãng mạn, hăng say lao động trên biển. Cái tôi trữ tình của nhà thơ hòa vào cái ta chung để diễn tả tâm trạng của những con người lao động mới xây dựng miền Bắc XHCN. Đó là cái chất hào hùng không còn phải cúi mình trước biển khơi. Bài thơ đem đến một cảm hứng lạc quan, khắc tạc tư thế chiến thắng của.

<span class='text_page_counter'>(148)</span> con người. Họ lao mình vào biển và đêm trở về trong ánh hào quang. Họ là những con người làm chủ thiên nhiên, làm nên những kì tích. ĐỀ 30 : Hãy chọn một số câu thơ có giá trị nghệ thuật độc đáo trong bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận để viết một bài văn có tiêu đề: Những hình ảnh thơ tráng lệ và laõng maïn Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là bài ca tuyệt đẹp của con người lao động mới hăng say, khỏe khoắn giữa thiên nhiên kì ảo. Gam màu chủ yếu của bức tranh thơ này là màu sáng lóng lánh. Để rồi, khi đọc thi phẩm ta cảm tưởng lạc vào đêm hoa đăng chiến thaéng treân bieån - haøo huøng, traùng leä vaø laõng maïn. Như bao bài thơ khác của Huy Cận, thiên nhiên xuất hiện trong Đoàn thuyền đánh cá thật quen thuộc : mặt trời, trăng, sao, gió, mây... Tuy nhiên, bằng cái nhìn của thi sĩ XHCN, đi giữa miền Bắc hòa bình với ngòi bút miêu tả theo phong cách ấn tượng đầy tài năng ở bài thơ này, thiên nhiên đã trở nên chân thực, sống động mà tráng lệ, rực rỡ kì vĩ, lớn lao mà tinh tế. Bên cạnh hình ảnh thiên nhiên ấy, con người hiện lên khoáng đạt, lãng mạn, tin yêu cuộc sống và tinh thần hăng hái lao động. Đặt mình vào tư cách con người lao động trên biển khơi mênh mông, Huy Cận đã lắng nghe được sự hòa hợp tuyệt diệu giữa thiên nhiên và con người. Bài thơ miêu tả hành trình ra khơi và trở về trong thắng lợi của đoàn thuyền đánh cá gắn với hình ảnh mặt trời tráng lệ : "Mặt trời xuống biển như hòn lửa" - "Mặt trời đội biển nhô màu mới". Trong câu thơ đầu tác giả sử dụng hình ảnh ví von vô cùng biểu cảm, giàu sức gợi và chuẩn xác. Khi mặt trời xuống biển là lúc có hình dáng quả cầu đỏ sẫm. Những tia sáng phản chiếu dưới mặt nước, lung linh như hoa lửa. Vẫn mang nét tráng lệ, nhưng khác với hình ảnh mặt trời hoàng hôn ở phần đầu bài thơ, hình ảnh mặt trời ở cuối bài thơ lại là linh hồn của bình minh và đồng hiện cùng với sự cập bến đầy tốt lành của đoàn thuyền đánh cá. Hình ảnh bao quát bài thơ cho ta cảm giác về vũ trụ bao la thơ mộng. Đó là mối quan hệ tương hợp giữa con người với thiên nhiên trong lao động, với mặt trời tráng lệ, với đêm trăng huyền ảo, với mây trời, sóng nước và với cá - sinh lực, tinh lực của biển. Những hình ảnh thơ tráng lệ và lãng mạn trong bài chủ yếu là những hình ảnh miêu tả trực tiếp thiên nhiên nhưng đã gián tiếp làm rõ vẻ đẹp khỏe khoắn, khoáng đạt, tinh thần lao động hăng say, nhiệt tình của con người. Chúng ta hãy đọc những vần thơ : ... Caâu haùt caêng buoàm cung gioù khôi ... Thuyền ta lái gió với buồm trăng ... Ta haùt baøi ca goïi caù vaøo ... Đêm thở : sao lùa nước Hạ Long Hàng loạt các hình ảnh thiên nhiên hiện ra cùng với hoạt động và tiếng hát của con người cùng đưa con thuyền lao động tiến vào trùng dương. Trăng, sao, điểm tô cho bức vẽ con người xông pha vào đại dương bao la thêm phơi phới hơn. Nhịp điệu lao động của con người đã mang nhịp thiên nhiên, vũ trụ một cách nhịp nhàng, hài hòa. Trong bài thơ : trời, mây, biển cả được tráng lệ hóa để mang hồn lao động, con người lao động được cao cả hóa để mang tầm vũ trụ..

<span class='text_page_counter'>(149)</span> Gấp trang thơ của Huy Cận lại, những hình ảnh thơ tráng lệ và lãng mạn vẫn còn mãi trong trí tưởng tượng của chúng ta. Với cách sử dụng màu sắc, với cách vận dụng các thủ pháp ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa và thậm xưng, Huy Cận đã sáng tạo nhiều hình ảnh đẹp, đầy ý nghĩa. Một không gian tráng lệ tràn ngập niềm vui và câu hát, một rạng đông trên biển và một rạng đông trong lòng người, vì đối với Huy Cận "Trời mỗi ngày lại sáng" và "bieån ñang haùt" . ĐỀ 31 : Viết lời bình cho khổ thơ sau đây : Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. (Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận) Đoàn thuyền đánh cá là bài thơ nổi tiếng của Huy Cận sau Cách mạng Tháng Tám, được in trong tập thơ "Trời mỗi ngày lại sáng". Đây là bài thơ có kết cấu độc đáo : đoàn thuyền đánh cá xuất phát khi đêm xuống trên biển và trở về khi bình minh đón chào một ngày mới trên biển. Cả bài thơ là bức tranh lao động lung linh sáng đẹp trên biển, vừa là tiếng hát lạc quan của những chủ nhân biển khơi. Khổ thơ cuối khép lại bài thơ bằng âm hưởng của tiếng hát vui say lao động vẫn ngân nga trong lòng người : Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi Câu đầu tiên của khổ thơ này được lặp lại gần như nguyên vẹn câu thứ tư của khổ thơ đầu bài thơ, chỉ thay chữ "cùng" bằng chữ "với", nhưng đã tạo ra cảm giác tuần hoàn. Câu hát căng buồm đưa thuyền đi thì giờ đây vẫn câu hát căng buồm lại đưa thuyền về. Và bây giờ đoàn thuyền đã trở về trong một tư thế mới "chạy đua cùng mặt trời ". Màu nắng chan hòa làm thành quả lao động thêm rực rỡ. Hình ảnh mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi là sự kết hợp giữa màu sắc của mắt cá sống động, long lanh và ánh sáng chan hòa của mặt trời. Câu thơ kết là hay nhất bởi cách dùng chữ thật tài tình : Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Huy Cận miêu tả chính xác chuyển động của mặt trời, chuyển động từ từ, ban đầu là ánh sáng hừng lên, sau đó mặt trời nhô lên kết thúc một đêm. Khổ thơ này tạo tương xứng với mặt trời xuống biển - đoàn thuyền ra khơi ở đầu bài thơ. Và thành quả tốt đẹp (mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi) chính là cao trào của bài ca lao động. Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là bài ca ngợi ca lao động, ngợi ca biển trời quê hương giàu đẹp cùng những chủ nhân của đất nước. Sự hài hòa giữa con người, thiên nhiên, tấm lòng, tình cảm của nhà thơ trong một trí tưởng tượng phong phú đã giúp thơ gây được sức hấp dẫn, ấn tượng về cuộc sống mới và con người mới. ĐỀ 32 :Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt.

<span class='text_page_counter'>(150)</span> Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương Đó là tâm trạng của những người xa quê. Những cái bình thường quen thuộc hàng ngày tưởng chừng như chẳng có gì đáng nhớ nhưng đến khi xa rồi mới biết chẳng thể nào quên. Nhưng nỗi nhớ quê ấy ở mỗi người có những sắc thái cảm xúc khác nhau. Có khi là hình aûnh dung dò moät baùt canh rau muoáng, moät cheùn caø daàm töông,... Coù khi laïi laø moät aùnh trăng quê... Còn riêng với Bằng Việt, trong những năm tháng du học ở Liên xô, nhà thơ nhớ da diết bếp lửa của bà : Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm... Cảm xúc về bếp lửa của Bằng Việt bắt đầu từ đây. Chúng ta hãy cùng đọc và khẽ ngâm lên từng lời thơ để hòa nhập hồn mình bâng khuâng theo dòng cảm xúc đang trào dâng cuûa taùc giaû. Thật xúc động biết bao ! Từ một đất nước công nghiệp chỉ toàn bếp điện, bếp hơi, với những ống khói con tàu, tác giả nhớ về một bếp lửa đang chờn vờn trong sương sớm. Và từ bếp lửa, nhớ đến kỉ niệm ấu thơ : Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. Cả một thiên hồi ức hiện về trong tâm trí nhà thơ, suốt một quãng đời vất vả bà cháu bên nhau : Mới lên bốn tuổi đã quen mùi khói. Làng đói kém, bố đi đánh xe thật vất vả - Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay. Hồi tưởng những năm tháng bà cháu cùng sớm hôm có nhau. Bà kể chuyện những ngày ở Huế, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học, bà dặn cháu viết thư cho bố ở chiến khu, bà sớm chiều nhen bếp lửa... Lời kể sao mà tha thiết thế ! Nó gợi trong lòng người bao niềm xúc động sâu xa. Làm sao quên được : Những năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi . Bà đã dặn cháu : Bố ở chiến khu, bố còn việc bố Mày có viết thư chớ kẻ này kể nọ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên Hình ảnh người bà hiện lên trong lời thơ ấy đẹp làm sao ! Bà lúc nào cũng sẵn sàng chịu đựng. Bà là thế đấy! Suốt một đời tận tụy vì con, vì cháu. Nhưng không chỉ có thế. Vượt lên trên tình thương ấy, bà còn là người làm việc âm thầm, lặng lẽ, biểu lộ ý thức trách nhiệm của mình với Tổ quốc. Bà đã cùng chịu đựng gian khổ, cùng chia sẻ hi sinh cho cuộc kháng chiến này. Càng lớn khôn, tác giả càng nhận thức rõ tấm lòng cao quí của bà. Người đã lận đận biết mấy nắng mưa để nhen nhóm trong lòng đứa cháu yêu quí của mình ngay từ tuổi thơ một tình cảm rộng lớn hơn tình bà cháu thông thường, đó là một ngọn lửa chứa chan niềm tin dai dẳng đối với đất nước, con người : Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm Nhoùm nieàm thöông yeâu khoai saén ngoït buøi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi kì lạ và thiêng bếp lửa Hình ảnh bếp lửa được lặp lại nhiều trong bài thơ có giá trị tu từ độc đáo. Đây là hình ảnh tả thực trong cuộc sống đời thường. Song, đối với người đi xa quê hương lại là một dấu ấn khó phai mờ - Bởi vì chính bên cạnh bếp lửa hồng ấy, hình ảnh người bà , "chập chờn trong sương sớm" in đậm tâm trí tác giả từ tuổi nhỏ. Nhờ bếp lửa mà thời ấu thơ của tác.

<span class='text_page_counter'>(151)</span> giả êm đềm, ấm áp như những câu chuyện cổ tích mà bà thường hay kể. Bếp lửa và người bà chính là nguồn sáng tâm hồn, nuôi dưỡng tình cảm thương yêu cho người cháu. Điều đáng nói nhất về bài thơ chính là ý nghĩa tượng trưng của hình tượng bếp lửa. Đó là ngọn lửa niềm tin, ngọn lửa tình yêu, ngọn lửa của tâm hồn dân tộc đã nhóm lên trong tâm hồn trẻ thơ những cảm xúc và suy nghĩ chân tình, đẹp đẽ. Hình ảnh bếp lửa trong quá khứ, trong hiện tại đan cài vào nhau, nâng cảm xúc và tư duy nhà thơ bay bổng dạt dào, hướng về gia đình, về nguồn cội, về quê hương đất nước. Sức hấp dẫn của bài thơ chính là ở đó. Với giọng thơ ân tình tha thiết, nhà thơ hồi tưởng những năm tháng cùng bà "nhóm lửa". Hình ảnh chim tu hú kêu trên những cánh đồng xa gợi lên không khí của một buổi sớm tinh mơ, vắng vẻ, quạnh hiu... Cùng với hình ảnh chim tu hú, hình ảnh bà cũng hiện lên lụi cụi, vất vả. Các vần nối tiếp nhau để diễn tả cảm xúc ấy : Xa, nhà, Huế, thế, về... tạo âm hưởng kéo dài liên tục không dứt. Nhạc điệu buồn, tha thiết, trầm lặng thể hiện nỗi nhớ nhung baø : Giờ cháu đi xa có ngọn khói trăm tàu Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ? Chính tình bà cháu cao đẹp và thiêng liêng kì diệu đã nhen nhóm trong lòng nhà thơ niềm tin yêu cuộc sống, con người, tình yêu quê hương đất nước. Đây là một bài thơ dạt dào cảm xúc. Tác giả đã khéo léo sử dụng cách gieo vần, láy điệp từ và những hình ảnh có sức liên tưởng độc đáo tạo nên giá trị cho bài thơ. Ta cảm nhận được tấm lòng biết ơn, nỗi nhớ nhung của nhà thơ giành cho bà yêu dấu của mình. Bếp lửa đã khơi dậy trong ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, quê hương, đất nước. Đặc biệt là lòng biết ơn sâu nặng đối với bà. ĐỀ 33 : Bằng một bài văn ngắn, hãy viết cảm nhận của em về hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa Bếp lửa tái hiện hình ảnh người bà quen thuộc, yêu thương mà trong thơ hiện đại không phaûi deã gaëp. Bẳng Việt đã đem đến một biểu tượng tình bà yêu cháu vô cùng sâu nặng. Đó là những tháng năm xa chỉ còn trong kí ức, mẹ cha bận công tác, giữa thời bom đạn, bà chăm chút, yêu thương dạy bảo cháu nên người. Bà là nguồn sống gia đình, là những gì tảo tần, nhẫn naïi, giaøu nieàm tin, heát loøng yeâu thöông, chaêm lo, chi chuùt cho chaùu vaø gia ñình. Baø laø ngoïn lửa của tình thương hạnh phúc con cháu. Bà khơi dậy và làm bùng lên khát vọng. Hành động nhóm bếp không chỉ là hình ảnh đời thường ấm áp mà chính là ngọn lửa của sự sống. Khi viết những dòng thơ Bếp lửa, tác giả đang ở xa Tổ quốc và đã trưởng thành. Đây là một bài thơ thật sự sâu sắc về tình yêu đất nước, quê hương trong hình ảnh dung dị của bà. Bà ta cũng như mẹ ta không ra chiến trường, lập nên chiến công lừng lẫy nhưng là nơi giữ gìn coäi nguoàn beàn chaéc cho moãi chuùng ta khi bay cao, bay xa. Hồi ức về những người thân yêu bao giờ cũng sinh động, ta càng rời xa tuổi thơ thì kỉ niệm càng thân thiết, gần gũi, cảm động. Bếp lửa là một hồi ức tuyệt đẹp về bà, nhắc nhở.

<span class='text_page_counter'>(152)</span> mỗi người về một tình yêu thân thiết trong tâm hồn và trái tim những người Việt Nam yêu nước. ĐỀ 34 : Phân tích hình ảnh người mẹ trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên löng meï cuûa Nguyeãn Khoa Ñieàm “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác vào ngày 25 tháng 3 năm 1971, là một trong số những bài thơ hay của ông. Nổi bật trong bài là hình ảnh người mẹ Tà Ôi như là biểu tượng về người mẹ Việt Nam anh hùng. Đó là một con người rất mực thương con nhưng cũng vô cùng yêu nước. Dường như đứa con yêu quí và đất nước thân thương nuôi con nên người và đánh giặc giải phóng quê hương là những gì trọng đại nhất cao quí nhất của người mẹ này trong những năm đất nước phải gồng mình chống đế quốc Mĩ xâm lược. Bài thơ đồng thời là lời hát ru. Tác giả ru em Cu Tai ngủ ngoan (đồng thời miêu tả hình ảnh người mẹ). Người mẹ trong bài ru em ngủ ngoan nhưng đó là lời ru thầm, lời ru trong tim (Lưng đưa nôi và tim hát thành lời). Lời ru của tác giả và lời ru của người mẹ nối tiếp nhau, đan cài, hoà quyện vào nhau làm nên những khúc hát ru vừa đằm thắm, dịu dàng, vừa trầm tư, sâu lắng. Vì kết cấu bài thơ như những khúc hát ru nên bài thơ cứ trở đi trở lại một số khúc giống nhau như những nét nhạc chủ đạo trong một bài hát. Bài thơ có ba khúc ru. Mỗi khúc hát ru là một đoạn thơ. Ở đoạn thơ thứ nhất, người mẹ ru con khi địu con trên lưng và giã gạo nuôi bộ đội. Giấc ngủ của em nghiêng nghiêng theo nhịp chày, thấm mồ hôi lao động vất cả của mẹ. Người mẹ Tà Ôi thương con nhất mực không lúc nào chịu rời con đã lấy lưng làm nôi và đôi vai gầy làm gối cho con. Và lời ru con của mẹ cất lên bên cối gạo giữa sàn nhà cũng chính là lời tâm sự, lời tự nhủ, lời mẹ thầm nói với chính mình. Lòng yêu con của mẹ gắn liền với tình thương yêu bộ đội : “Mẹ thương A Kay, mẹ thương bộ đội Con mô cho meï haït gaïo traéng ngaàn Mai sau con lớn vung chày lún sân...” Ước mơ của người mẹ nối liền với giấc mơ của con và cùng hội tụ lại trong tình thương yêu sâu sắc những anh bộ đội. Trong đoạn thơ thứ hai, bà mẹ Tà Ôi địu con đi tỉa bắp trên núi Ka Lưi. Tình thương yêu và niềm hi vọng vô bờ của người mẹ đối với đứa con được thể hiện bằng lời và những hình ảnh độc đáo : “Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi Mặt trời của mẹ con nằm trên lưng.” Trong câu thơ trên hình ảnh mặt trời là một hình ảnh thực. Mặt trời đem lại ánh sáng, sự soáng cho caây coû, laøm cho caây coû theâm töôi toát, nhö caây ngoâ baép to, haït maåy. Hình aûnh maët trời ở câu thơ sau là ẩn dụ. Tác giả so sánh ngầm Cu Tai là mặt trời của mẹ. Coi con như mặt trời thì quả là lòng mẹ yêu quí con vô hạn, mong đợi ở con rất nhiều. Đó là ánh sáng, laø nguoàn soáng, laø nieàm vui, laø nieàm haïnh phuùc, laø taát caû töông lai cuûa meï. Hai caâu thô, hai hình ảnh tôn nhau lên, đối ý với nhau, đã làm nổi bật tình thương yêu sâu sắc và niềm hi vọng lớn lao của người mẹ đối với đứa con. Lời ru của người mẹ Tà Ôi ngân nga trong trái tim mẹ khi mẹ địu con đi tỉa bắp vẫn hướng về đứa con thơ yêu quí của mình. Lòng thương.

<span class='text_page_counter'>(153)</span> yêu con của mẹ trong hoàn cảnh này gắn liền với tình thương yêu dân làng - những người dân lao động nghèo đói : “Mẹ thương A Kay, Mẹ thương làng đói Con mơ cho mẹ hạy bắp lên đều Mai sau con lớn phát mười Ka Lưi”. Trong đoạn thơ thứ ba, người mẹ địu con trong tư thế đang “chuyển lán”, “đạp rừng”. Bà mẹ băng rừng, địu con trên lưng đưa con đi “để giành trận cuối”. Lòng yêu con của mẹ đến đây gắn liền với lòng yêu nước : “Mẹ thương A Kay mẹ thương đất nước ”. Người mẹ gửi gắm vào giấc mơ của con niềm khao khát được gặp Bác Hồ và mong đất nước được độc lập tự do : “Con mơ cho mẹ được gặp Bác Hồ Mai sau con lớn thành người tự do”. Tiếng hát ru con của người mẹ Tà Ôi không phải được cất lên bên cánh võng hay trên giường ấm nệm êm trong phòng ngủ. Tiếng hát ru ấy ngân lên trong trái tim của mẹ khi mẹ địu con giã gạo, tỉa bắp trên núi, khi mẹ “chuyển lán”, “đạp rừng” hoặc trên đường ra chiến trường để giành trận cuối. Như vậy, bà mẹ Tà Ôi là một người mẹ lao động, trực tiếp sản xuất, phục vụ cho chiến đấu của toàn dân tộc. Tình thương con, thương bộ đội, thương dân làng, thương đất nước hoà quyện vào nhau trong tấm lòng của một người mẹ miền núi yêu nước trong những năm tháng chống Mĩ khó khăn, gian khổ. Theo lời ru (và cũng là tình yêu thương của mẹ), theo bước chân của người mẹ Tà Ôi, không gian cũng được mở rộng dần: từ sân (khi mẹ giã gạo) đến ngọn núi Ka Lưi (khi mẹ đi tỉa bắp) rồi đến những rừng những suối khi mẹ chuyển lán đạp rừng. Và ước mơ, khát vọng của người mẹ gửi gắm qua lời hát ru tha thiết, nặng tình nặng nghĩa ấy cũng mỗi lúc một lớn dần : “Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần” đến “Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều”... Từ mong muốn “Mai sau con lớn vung chày lún sân” đến “Mai sau con lớn phát mười Ka Lưi” cuối cùng cũng bùng lên thành một khát vọng cháy bỏng “Mai sau con lớn làm người tự do”. Tinh thần, không khí sục sôi của đất nước trong những năm tháng đánh Mĩ đã đi vào lời hát ru của những bà mẹ. Cuộc chiến tranh nhân dân khiến cả đến những bà mẹ miền núi có con nhỏ vào cuộc chiến đấu hi sinh, gian khổ. Biết bao em bé đã “ lớn trên lưng mẹ” đi “đến chiến trường” và trong số họ không ít những người đã thành những anh hùng dũng sĩ. Qua những khúc hát ru với những điệp khúc đã trở đi trở lại nhưng vẫn có sự biến hoá phát triển, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện thật sinh động, ám ảnh đầy sức mạnh nghệ thuật về tình mẹ con và khát vọng mãnh liệt độc lập tự do của toàn dân tộc ĐỀ 35 : Phân tích đoạn thơ : Em Cu Tai nguû treân löng meï ôi ................................................. Lưng đưa nôi và tim hát thành lời (Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ) Nhà thơ Nguyễn Duy đã viết : Ta đi trọn kiếp con người Vẫn chưa đi hết những lời mẹ ru.

<span class='text_page_counter'>(154)</span> Lời ru của mẹ chính là nguồn năng lượng tinh thần để giúp mỗi chúng ta trưởng thành nên người. Bởi thế cảm xúc về lời ru của mẹ đã đi vào nghệ thuật và thơ ca. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng xuất phát từ truyền thống này nhưng có sự sáng tạo rất mới với Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ. Bài thơ được viết năm 1971 in trong tập "Đất và khát vọng". Cảm xúc bao trùm bài thơ là tình cảm chân thành của tác giả về hình ảnh người mẹ dân tộc Tà Ôi với tình thương con, thương bộ đội, yêu đất nước. Đoạn thơ mở đầu chính là lời hát ru của tác giả nói về hình ảnh mẹ giã gạo nuôi bộ đội vaø raát yeâu thöông con : Em cu Tai nguû treân löng meï ôi ............................................ Lưng đưa nôi và tim hát thành lời Mở đầu là điệp khúc ngọt ngào tha thiết: Em Cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi/ Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ.Tác giả vỗ về em Cu Tai ngủ bởi vì : mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội, nhòp chaøy nghieâng giaác nguû em nghieâng. Tieáng ru con nguû "nghieâng" theo nhòp chaøy laøm cho giaác nguû cuûa em cuõng "nghieâng" theo. Con cuõng ñang chia seû theo coâng vieäc cuûa người mẹ. Vì sự nghiệp chung của toàn dân tộc kháng chiến chống Mĩ. Đặc biệt hình ảnh mẹ được diễn tả chân thật và xúc động. Moà hoâi meï rôi maù em noùng hoåi Vai meï gaày nhaáp nhoâ laøm goái Lưng đưa nôi và tim hát thành lời Hàng loạt các hoán dụ : mồ hôi, vai, lưng, má, tim, được sử dụng rất đắt thể hiện trái tim yêu thương mênh mông của người mẹ nghèo. Đặc biệt là các hình ảnh "mẹ nôi đưa”. Vai mẹ là gối, lưng mẹ là nôi để con lớn lên, tim mẹ dạt dào tình mẫu tử hát thành lời. Đó là tiếng hát từ trái tim, từ cảm xúc yêu thương con và tình yêu đất nước của người mẹ. Qua đoạn thơ thứ nhất, khúc hát ru của tác giả, ta thấy được tình cảm chân thành của người mẹ nghèo vất vả, lam lũ nhưng thương con, yêu nước. Người mẹ Tà Ôi đã trở thành biểu tượng của đất nước. ĐỀ 36 :Viết về những kỉ niệm sâu sắc với bà kính yêu trong đó có sử dụng yếu tố nghị luaän. Bố mẹ tôi đều làm ruộng nên ngày ấy nhà tôi nghèo lắm. Bấy giờ, bà nội tôi tuy tuổi đã cao, những vẫn còn khoẻ mạnh nên bà thường đỡ đần bố mẹ tôi công việc nội trợ, bếp núc. Bà tôi bảo : “Đối với con người, hạt gạo là quí giá nhất !”. Mỗi lần đong gạo từ thùng ra cái rá, bà tôi thường làm rất thong thả, cẩn thận : không bao giờ để vương vãi hạt nào ra ngoài. Một lần bà tôi bị mệt nên tôi phải lo chuyện cơm nước. Khi tôi bê cái rá gạo ra cửa, chẳng may trượt chân, nhưng vẫn gượng gạo đi, chỉ có vài ba hạt gạo văng ra ngoài. Tôi thản nhiên đi xuống bếp nấu cơm. Xong việc, tôi định bụng khoe với bà về cái sự giỏi giang của mình thì ... Tôi bỗng đứng sững... Bà tôi đang chống gậy dò đi từng bước để nhặt các hạt gạo vương vãi trên nền nhà... Tôi vội chạy lại đỡ bà, nói : “Bà ơi có mấy hạt gạo bõ bèn gì mà bà phải khổ sở thế ?”. Bà tôi thều thào : “Cháu ơi... thóc gạo là Đức Phật đấy... Không có nó thì cũng chẳng có ai hương khói nơi cửa Phật đâu...”. Lúc ấy, tôi chưa.

<span class='text_page_counter'>(155)</span> hiểu câu nói của bà lắm, nhưng bây giờ tôi đã hiểu... Suốt một đời tần tảo lam lũ, bà tôi không có gì cả đâu, ngoài những hạt thóc do chính bà làm ra bằng một nắng hai sương và cuõng chính do baø xay, giaõ, giaàn, saøng. ĐỀ 37 : Từ hai câu thơ :. Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng Hãy viết một bài văn với nhan đề : Mặt trời của mẹ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác năm 1971, là một tượng đài bằng thơ khắc hoạ hình ảnh người mẹ Việt Nam anh hùng trong chống Mĩ cứu nước. Tình yêu nước thiết tha, tình mẹ con ruột thịt sâu nặng tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ và một trong những câu thơ trong đó đã làm rung động hàng triệu trái tim bạn đọc : “Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”. Điều lí thú ở đây là cách tư duy rất cụ thể của bà mẹ Tà Ôi. Trong suy nghĩ của mẹ, mặt trời là của bắp và con là mặt trời của mẹ. Những cây bắp đang lớn lên từng ngày trên nương rộng lớn kia là nhờ công sức của mẹ, nhờ có nguồn sáng, hơi ấm vô tận nhận được hàng ngày từ mặt trời tự nhiên. Còn em Cu Tai, đứa con bé bỏng, nhưng lại là nguồn sáng, nguồn năng lượng to lớn không thể thiếu được của đời mẹ. Nhờ có đứa con ngủ yên trên lưng này, mà với sức vóc dù nhỏ yếu, mẹ vẫn lao động hăng say, vẫn giã gạo, để nuôi bộ đội. Ta hiểu những hạt gạo nuôi quân trắng trong nhờ nhịp chày của mẹ đã góp phần không nhỏ vào chiến công của các chiến sĩ ngoài mặt trận. Rồi cũng nhờ có em Cu Tai ngủ ngoan không rời lưng mẹ, mà dù lưng núi thì to, lưng mẹ thì nhỏ, mẹ vẫn kiên trì gieo tỉa để những hạt bắp mọc xanh núi Ka Lưi. Phép tu từ so sánh và tu từ ẩn dụ khiến cho hình ảnh thơ hiện lên thật giản dị mà cũng thật giaøu yù nghóa. Treân caùi neàn xanh cuûa caây baép meânh moâng löng nuùi nguùt ngaøn, loàng loäng một người mẹ lưng địu con đang lao động say sưa. Trên cao là mặt trời toả sáng, trên lưng mẹ là gương mặt đứa con cũng đang ngời sáng trong giấc ngủ say sưa. Hình ảnh mặt trời của mẹ sẽ mãi đi vào thơ ca như biểu tượng nghệ thuật về tình mẫu tử, về người mẹ - chiến sĩ trong những tháng năm chống Mĩ cứu nước. ĐỀ 38 : Từ bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy hãy viết về những suy tư của người lính sau chieán tranh. Cuộc kháng chiến đã qua đi, người lính trong chiến tranh giờ đây đã về với cuộc sống hàng ngày. Sự bận rộn hôm nay khiến người ta quên lãng quá khứ. Nhưng có một lúc nào đó trong đời thường những kỉ niệm chiến tranh lại như những thước phim quay chậm hiện về. Nguyễn Duy gửi tới bạn đọc thi phẩm “Ánh trăng” cũng chính là gửi tới bạn đọc thông điệp : Không nên sống vô tình, phải biết thủy chung nghĩa tình cùng quá khứ. “Hồi nhỏ sống với đồng Với sông rồi với bể Hồi chiến tranh ở rừng Vaàng traêng thaønh tri kæ”..

<span class='text_page_counter'>(156)</span> Hình ảnh những đồng, sông, bể, rừng nguyên sơ, thuần hậu trong khổ thơ đầu này là nơi đã nuôi dưỡng, che chở cho tuổi thơ và năm tháng chiến tranh, cả một quãng đường dài sống trong tình thương yêu, gắn bó với thiên nhiên, với những miền quê ấy, vầng trăng thành tri kỉ. Trăng như mái nhà, như người bạn thân thiết của tâm hồn. Ở đó tâm hồn tình cảm con người cũng đơn sơ thuần phác như chính thiên nhiên. Trăng và người đã tạo nên mối giao tiếp, giao hoà thủy chung tưởng như không bao giờ có thể quên được. “Từ hồi về thành phố Quen ánh điện cửa gương Vaàng traêng ñi qua ngoõ Như người dưng qua đường”. Khi chiến tranh kết thúc. Người lính trở về bị hấp dẫn bởi đô thị, với ánh điện, cửa gương, những ánh sáng nhân tạo đã làm họ quên đi ánh sáng tự nhiên hiền dịu của trăng. Cuộc sống hiện đại với nhiều tiện nghi đã làm cho con người thờ ơ, vô tình với những ngày gian khổ, cùng đồng đội, đồng chí chung một chiến hào mà trăng là biểu tượng. “Vaàng traêng ñi qua ngoõ Như người dưng qua đường”. Từ hình ảnh vầng trăng “tri kỉ”, vầng trăng tình nghĩa trở thành người dưng qua đường, Nguyễn Duy đã diễn tả được cái đổi thay của lòng người, cái lãng quên, dửng dưng cùng thời gian “xa mặt cách lòng” đến phũ phàng. So sánh thật thấm thía: “như người dưng qua đường”. Cũng như dòng sông có khúc phẳng lặng êm đềm, cũng có khúc ghềnh thác dữ dội. Cuộc đời vốn cũng nhiều biến động. Ghi lại một tình huống, cuộc sống nơi thị thành của những con người từ rừng về thành phố, Nguyễn Duy đặt con người vào bối cảnh. “Thình lình đèn điện tắt Phoøng buynh ñinh toái om Vội bật tung cửa sổ Đột ngột vầng trăng tròn”. Khi aùnh traêng nhaân taïo vuït taét, boùng toái bao truøm khaép khoâng gian thì vaàng traêng xuaát hieän khiến con người ngỡ ngàng trước ánh trăng thân thương của tuổi thơ trên những nẻo đường ta sống và trong cuộc chiến gian khổ, ác liệt. Cuộc sống hiện đại làm cho lòng người thay đổi... Trước người bạn vô tình ấy, trăng chẳng nói, chẳng trách khiến người lính cảm thấy có cái gì rưng rưng. Ánh trăng soi chiếu khiến người ta nhận ra độ lệch của nhân cách mình. “Trăng cứ tròn vành vạnh Kể chi người vô tình AÙnh traêng im phaêng phaéc Đủ cho ta giật mình”. Ánh trăng trước sau vẫn vậy mộc mạc, giản dị và thủy chung. Trăng lặng lẽ tròn đầy một cách trong sáng, vô tư, mặc cho thời gian trôi, mặc cho bạn bầu xưa ai đó quay lưng dù trong quá khứ vốn là tri kỉ. Nhưng trăng cũng khơi gợi niềm xúc động, đánh thức lương tâm ở con người. Cái giật mình được diễn tả trong khổ thơ “vô ngôn” thể hiện sự thức tỉnh đáng quí này. Qua bài thơ, Nguyễn Duy đã khám phá ra vẻ đẹp không bao giờ kết thúc của lương tri. Dường như cuộc sống mới đầy đủ hơn khiến cho con người lãng quên ánh.

<span class='text_page_counter'>(157)</span> trăng. Hành trình đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu trong tâm hồn con người không bao giờ ngơi nghỉ và việc hoàn thiện mình của chính mỗi con người cũng không phải một sớm một chieàu. Cuộc đấu tranh hướng thiện âm thầm mà khốc liệt, nó đòi hỏi lòng dũng cảm của con người. Người lính năm xưa đã dành trọn quá khứ soi mình trong hiện tại để đấu tranh loại bỏ sự vô tình vô nghĩa của bản thân, hướng tới sự cao cả, tốt đẹp. “Ánh trăng” là bài thơ không quên về quá trình hướng thiện, quá trình hoàn thiện mình của mỗi con người trong cuộc sống hôm nay. ĐỀ 39 : Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy để cảm nhận được bài học sâu sắc mà tác giả muốn gửi gắm. Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nguyễn Duy nổi tiếng với các bài thơ như : “Tre Việt Nam”, “Hơi ấm ổ rơm”, ... Hiện nay, Nguyễn Duy vẫn tiếp tục sáng tác, ông viết đều những bài thơ tài hoa, đậm chất suy tö. “Ánh trăng” (1978) là một trong những bài thơ của Nguyễn Duy được nhiều người ưa thích bởi tình cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ, mới lạ. Hai khổ thơ đầu, tác giả nhắc đến những kỉ niệm đẹp : “Hồi nhỏ sống với đồng. Với sông rồi với bể Hồi chiến tranh ở rừng Vaàng traêng thaønh tri kæ”. Trăng gắn bó với tác giả ngay từ thời thơ ấu. Trăng gắn với đồng ruộng, dòng sông, biển cả. Dù ở đâu, đi đâu trăng cũng gắn bó với người. Nhưng phải đến khi ở rừng, nghĩa là lúc tác giả sống trên tuyến đường Trường Sơn xa gia đình, quê hương vầng trăng mới trở thành “tri kỉ”. Trăng với tác giả là đôi bạn không thể thiếu nhau. Trăng chia ngọt, sẻ bùi, trăng đồng cam cộng khổ. Tác giả khái quát vẻ đẹp của trăng, khẳng định tình yêu thương quí trọng của mình với traêng : “Trần trụi với thiên nhiên Hoàn nhieân nhö caây coû Ngỡ không bao giờ quên Caùi vaàng traêng tình nghóa”. Trăng có vẻ đẹp vô cùng bình dị, một vẻ đẹp không cần trang sức, đẹp một cách vô tư, hồn nhiên nên trăng hoà vào thiên nhiên, hoà vào cây cỏ. “Vầng trăng tình nghĩa”, bởi trăng từng chia ngọt, sẻ bùi, đồng cam cộng khổ, bởi trăng là người bạn, tri âm, tri kỉ. Ấy mà có những lúc tác giả tự thú nhận là mình đã lãng quên cái “vầng trăng tình nghĩa” aáy : “Từ hồi về thành phố Quen ánh điện, cửa gương Vaàng traêng ñi qua ngoõ Như người dưng qua đường”..

<span class='text_page_counter'>(158)</span> Trước đây, tác giả sống với sông, với bể, với rừng bây giờ môi trường đã thay đổi. Từ hồi về thành phố đời sống cũng thay đổi theo :“quen ánh điện, cửa gương”. “Ánh điện”, “cửa gương” tượng trưng cho cuộc sống sung túc, tiện nghi, sang trọng ... dần dần “cái vầng trăng tình nghĩa” ngày nào bị lãng quên. “Vầng trăng” ở đây tượng trưng cho những tháng năm gian khổ, cho tình bạn, tình đồng chí hình thành từ những tháng năm ấy. Trăng bây giờ thành “người dưng”... Con người ta thường hay đổi thay như vậy. Bởi thế đời vẫn thường nhắc nhau : “ngọt bùi nhớ lúc đắng cay”. Ở thành phố vì quen với “ánh điện, cửa gương” quen với cuộc sống đầy đủ tiện nghi nên người đã không thèm để ý đến “Vầng trăng” - con người, mảnh đất từng là tri kỉ một thời. Phải đến lúc toàn thành phố mất điện : “Phoøng buyn ñinh toái om Vội bật tung cửa sổ Đột ngột vầng trăng tròn” “Vầng trăng” xuất hiện thật bất ngờ. Khoảnh khắc ấy, phút giây ấy... người lính năm xưa mới bàng hoàng thức tỉnh. Bao nhiêu kỉ niệm xưa bỗng ùa về làm "Con người này" cứ “rưng rưng” nước mắt. “Ngửa mặt lên nhìn mặt Coù caùi gì röng röng..." "... AÙnh traêng im phaêng phaéc Đủ cho ta giật mình...”. Trăng vẫn thủy chung mặc cho ai thay đổi, vô tình với trăng. Trăng bao dung và độ lượng biết bao ! Tấm lòng bao dung độ lượng ấy “đủ cho ta giật mình” mặc dù trăng không một lời trách cứ. Trăng tượng trưng cho vẻ đẹp bền vững, phẩm chất cao quí của nhân dân, tượng trưng cho vẻ đẹp bền vững của tình bạn, tình đồng đội trong những tháng năm “không thể nào quên”. Tượng trưng cho "mảnh đất nuôi ta thành dũng sĩ”. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy đã gây được nhiều xúc động đối với độc giả bởi cách diễn đạt bình dị như lời tâm sự, lời tự thú, lời tự nhắc chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ mới lạ ,“Ánh trăng” còn mang ý nghĩa triết lí về sự thuỷ chung khiến cho người đọc phải “giật mình” suy nghĩ, nhìn lại chính mình để sống đẹp hơn, nghĩa tình hơn. ĐỀ 40 : Viết lời bình cho đoạn thơ sau : Ngửa mặt lên nhìn mặt ...................................... Đủ cho ta giật mình. (AÙnh traêng, Nguyeãn Duy) Hàng ngàn năm nay, vầng trăng đã hiện diện trong thơ. Trăng như một biểu tượng thơ mộng gắn với tâm hồn thi sĩ. Nhưng có một nhà thơ cũng viết về trăng, không chỉ tìm thấy ở đấy cái thơ mộng, mà còn gửi gắm những nỗi niềm tâm sự mang tính hàm nghĩa độc đáo. Đó là trường hợp bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy viết năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh. Khác với những bài thơ thời chiến tranh mà con người chỉ có một lí tưởng là chiến đấu và sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc, con người không có điều kiện để sống cho những gì thuộc về.

<span class='text_page_counter'>(159)</span> riêng tư, hay chuyện đời thường. Đọc bài thơ này ta nhận ra cái điều mới lạ ấy. Bước từ chiến tranh sang thời bình, con người bắt đầu có những toan tính, những ham muốn được hưởng thụ. Nguyễn Duy mượn vầng trăng và người lính nói về một sự thay đổi trong lòng người. Vầng trăng trong thời tuổi thơ và chiến tranh gắn bó đẹp là vậy thế mà do hoàn cảnh, con người đã lãng quên để rồi từ trong sâu thẳm tâm hồn, con người phải day dứt. Hai khổ kết bài thơ là một sự thức tỉnh, một bài học làm người. Trăng cứ tròn vành vạnh ..................................... Đủ cho ta giật mình Vầng trăng vẫn đẹp và tròn đầy như biểu tượng bao dung, nghĩa tình của nhân dân không đòi hỏi được đền đáp. Nhưng trăng cũng "im phăng phắc" với ánh mắt nghiêm nghị, thái độ nghiêm khắc. Khiến tình cảm người lính trong giây lát đã lãng quên quá khứ, trong sa ngã đời sống đã tự vấn lương tâm mình, tự sám hối với lòng mình. Cái rưng rưng muốn bật khóc và cái giật mình tỉnh ngộ là tấm lòng chân thực của người lính vốn cao đẹp không thể khaùc. Với ý nghĩa này, Ánh trăng mang tính chất triết lí sâu sắc, có tác dụng cảnh tỉnh những ai dễ lãng quên quá khứ tốt đẹp. Cần biết sống thủy chung, nghĩa tình. Sau chiến tranh "Thời tôi sống biết bao câu hỏi lớn/ Câu trả lời thật không dễ dàng chi". Ánh trăng của Nguyễn Duy giúp mỗi người tìm được câu trả lời thấm thía trong cái "giật mình", "röng röng" aáy. ĐỀ 41 : Diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân (chủ yếu từ khi ông nghe tin làng theo giặc chở đi). “Làng” (Kim Lân) thuộc loại truyện có cốt truyện tâm lí, không xây dựng trên diễn biến sự việc mà chú trọng miêu tả diễn biến nội tâm nhân vật, từ đó làm nổi rõ tình yêu làng thống nhất trong tình yêu nước và tinh thần kháng chiến ở nhân vật ông Hai. Là một người nông dân suốt cuộc đời sống ở quê, gắn bó máu thịt với từng nếp nhà, thửa ruộng..., vì giặc ngoại xâm ông Hai phải đi tản cư nhưng lòng vẫn không thôi đau đáu về quê, ông bày tỏ nỗi nhớ, tình yêu quê của mình trong những câu chuyện hàng ngày. Cũng vì quá yêu làng, tự hào về làng, ông lại càng chua xót, tủi khổ hơn khi nghe cái tin làng ông làm Việt gian theo Tây mà chính ông nghe được từ miệng những người tản cư dưới xuôi lên. Tin đó quá đột ngột khiến ông Hai sững sờ “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được...”. Trong điều kiện, hoàn cảnh lúc này, ông không thể biết được tin này thực hư ra sao. Nhưng những người tản cư đã kể quá rành rọt, họ còn khẳng định “vừa ở dưới ấy lên”, làm ông không thể không tin, nên càng khiến ông đau buồn, khổ sở. Tin ấy không chỉ làm cho ông cảm thấy đau về thể xác mà còn xâm chiếm, ám ảnh , day dứt tinh thần. Tiếng cười nói xôn xao của đám người mới tản cư lên ấy vẫn cứ dõi theo “Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó !... Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!” khiến ông đau đớn, xấu hổ “cúi gằm mặt xuoáng maø ñi”..

<span class='text_page_counter'>(160)</span> Về đến nhà, ông nằm vật ra giường, nhìn lũ con, cảm thấy tủi thân, nước mắt cứ giàn ra. “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư ? chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi ư ?...” Tin hay không tin ? Ông ngờ ngợ như lời mình nói không được đúng lắm ? Nhưng rồi nghĩ rằng “người ta hơi đâu bịa ra những chuyện ấy ”. Suốt cả ngày sau, ông không dám đi đâu, chỉ quanh quẩn trong gian nhà chật hẹp, lắng tai nghe ngóng động tĩnh bên ngoài. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy...”. Tác giả đã diễn tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề, biến động dữ dội trong nội tâm nhân vật, sự sợ hãi ám ảnh tâm trạng ông Hai. Càng yêu làng, tự hào về làng, thì khi làng theo Tây càng tỏ nỗi đau, nỗi nhục ở ông Hai. Cái đau, cái nhục ấy cũng chính là lòng yêu làng, yêu nước của ông Hai. Bao nhiêu ý nghĩ ghê rợn nối tiếp bời bời trong đầu óc ông, đẩy ông Hai vào tình huống phải lựa chọn “ hay là quay về làng ?”, “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ ”. Tình yêu quê và tình yêu Tổ quốc xung đột dữ dội trong lòng ông. Cuối cùng ông đã lựa chọn “Không thể được ! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù ”. Đối với người nông dân thuần phác ấy, tình yêu nước rộng lớn, hướng về kháng chiến, cụ Hồ đã bao trùm lên tình yêu queâ. Nỗi lòng đó của ông được trút vào những lời thủ thỉ tâm sự với đứa con nhỏ: “Thế con có thích về làng Chợ Dầu không?”; “Thế con ủng hộ ai ?”... Phải chẳng, cũng chính là lời ông Hai tự nhủ với mình, tự giãi bày nỗi lòng. Ông Hai bày tỏ nỗi lòng sâu xa, chân thành của người nông dân với quê, với Tổ quốc, với cách mạng mà biểu tượng là Cụ Hồ. Tình yêu làng, lòng tin ở làng, cùng với nỗi day dứt, đau khổ lo lắng đã được giải toả ở tình huống cuối cùng của câu chuyện. Đó là việc ông chủ tịch làng Dầu lên cải chính cái tin làng Dầu đi làm Việt gian. Bao sung sướng, hạnh phúc, tự hào về làng trở về với ông Hai. Trên khuôn mặt buồn thiu mọi ngày bỗng rạng rỡ lên. Mặc dù biết Tây nó đốt cả nhà mình mà ông không xót xa. Cái dáng vẻ “lật đật” đi đâu cũng múa tay lên mà khoe tin ấy, tưởng như không bình thường nhưng hoàn toàn chân thực. Ông Hai đã quên sự mất mát riêng để tự hào sung sướng trong vẻ đẹp, sức mạnh chung của quê hương đất nước. Tình yêu làng của ông đã mở rộng hoà trong tình yêu nước. Thành công của Kim Lân là diễn tả diễn biến tâm lý cụ thể ở một con người - ông Hai, mang tình cảm chung của người nông dân Việt Nam đối với làng, với nước. Bên cạnh đó, truyện để lại ấn tượng trong lòng người đọc bởi chính cảm xúc, khát khao, vui buồn của nhaø vaên, taïo dö aâm vang voïng cho taùc phaåm. ĐỀ 42 : Vẻ đẹp tâm hồn người nông dân Việt nam trong truyện ngắn “Làng” của Kim Laân. a) Đảm bảo bài viết là một văn bản nghị luận văn học hoàn chỉnh có bố cục rõ ràng, hợp lí ; có cách diễn đạt trong sáng, gãy gọn, gợi cảm ; không mắc lỗi diễn đạt và chính tả. b) Giới thiệu được tác giả, tác phẩm. c) Phân tích, đánh giá được vẻ đẹp tâm hồn của ông Hai - người nông dân Việt Nam, trong truyeän ngaén “Laøng"..

<span class='text_page_counter'>(161)</span> - Xác định vẻ đẹp tâm hồn chính là vẻ đẹp của tình yêu làng quê, tình yêu đất nước, trung thành với cách mạng, kháng chiến của ông Hai. - Trước cách mạng, ông Hai là người luôn gắn bó, tự hào về làng chợ Dầu quê ông, tuy nhiên tình cảm đó còn có những hạn chế do chưa được giác ngộ. Bên cạnh niềm tự hào chính đáng về quê hương giàu đẹp, được biểu hiện qua thói khoe làng của ông (nêu được dẫn chứng và phân tích). Đặc biệt ông còn khoe về cái sinh phần viên tổng đốc làng ông, điều này khi được giác ngộ ông thấy chỉ đáng thù nó vì nó đã làm cho ông và dân làng oâng khoå. - Sau cách mạng, lòng yêu làng của ông Hai tiếp tục được phát triển, hoà nhập với lòng yêu nước, yêu cách mạng, trung thành với kháng chiến, với lãnh tụ : + Khi buộc phải xa làng đi tản cư vì hiểu đi tản cư cũng là kháng chiến, ông Hai luôn nhớ về làng và càng hay khoe làng nhưng ông đã khoe khác (học sinh nêu được dẫn chứng và phân tích các dẫn chứng ấy, chú ý thái độ khi khoe làng và nội dung lời khoe của ông Hai). + Ông Hai vô cùng đau khổ, tủi hổ khi đột ngột nghe tin làng ông theo giặc từ người đàn bà tản cư ở dưới xuôi lên. Phân tích diễn biến tâm lí của ông Hai được tác giả miêu tả hết sức cụ thể nhưng tinh tế từ lúc mới nghe tin, lúc trở về nhà. + Phân tích được nỗi ám ảnh nặng nề đã biến thành nỗi sợ hãi trong ông Hai. + Trong lúc lâm vào tình thế đau khổ, bế tắc cùng cực ông Hai càng bộc lộ lòng yêu làng, yêu nước của mình. Khi nghe tin làng theo giặc trong ông diễn ra cuộc xung đột nội tâm sâu sắc: làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù. Tình yêu nước rộng lớn hơn, bao trùm tình yêu làng, tuy nhiên dù xác định như vậy ông vẫn không dứt bỏ tình cảm với làng, và điều này càng làm ông đau khổ. (dẫn chứng và phân tích). Khi mụ chủ nhà biết tin, rơi vào tình thế cùng đường, ông càng bộc lộ rõ tình yêu đất nước. Ông không biết đi đâu, ông cũng không muốn trở về làng vì về làng là chịu quay lại làm việt gian cho thằng Tây... Chú ý phân tích làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của ông Hai với tư cách công dân bằng cách so sánh đối chiếu với người nông dân trước cách mạng ; chú ý phân tích đoạn đối thoại và độc thoại nội tâm hết sức chân thực thể hiện một cách cảm động tình yêu làng quê - yêu đất nước, trung thành với cách mạng, kháng chiến của ông Hai. + Ông Hai vô cùng sung sướng, hạnh phúc khi nghe tin cải chính. Ông trở lại vui vẻ, linh hoạt như xưa, lại đi khoe cái tin ấy khắp mọi nơi cùng với tin nhà ông bị giặc đốt trụi. - Ông Hai đau khổ hạnh phúc... cuộc sống của ông đều gắn liền với làng quê, đất nước của mình. Ở ông tình yêu làng đã thống nhất, hoà nhập với lòng yêu nước, yêu cách mạng. Vẻ đẹp trong tâm hồn ông chính là vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Vẻ đẹp đó kế thừa và phát huy vẻ đẹp, giá trị truyền thống của dân tộc được Đảng và Bác Hồ giác ngộ đưa lên một tầm cao mới, tạo nên giá trị mới, là cội nguồn sức mạnh của dân tộc. ĐỀ 43 : Tưởng tượng lúc ông Sáu hấp hối, ông đã nhớ lại cuộc gặp gỡ với bé Thu, đứa con gái mà ông vô cùng yêu quý. Hãy đóng vai nhân vật ông Sáu lúc đó kể lại tâm trạng mình từ lúc về thăm nhà đến lúc chia tay và trở lại chiến khu..

<span class='text_page_counter'>(162)</span> Hôm nay trời nắng và mát,từng cơn gió nhẹ thổi qua gian nhà lá làm tôi sảng khóai lạ.Hôm vừa rồi các cán bộ có họp bảo có thể Tây sẽ càn trong vài ngày tới nên mọi ng ai cũng gấp rút lo chuẩn bị hành trang và thu dọn đồ đạc sẵn sàng di chuyển cơ quan theo cách an tòan nhất.Vậy mà sáng giờ loay hoay mãi với đống tài lịêu và sổ sách vẫn chưa làm đc gì cả,mồ hôi rơi lã chã trên trán k phải vì nóng nực mà vì căng thẳng quá,giờ mà quay sang đống đồ chắc tôi mệt xĩu, cố nằm nghỉ chút rồi hẵng tính.Vừa ngồi lên võng,đug đưa theo nhịp gío, móc từ trog túi ra chiếc lược bằng ngà voi mà tôi đã làm năm ngóai định tặng cho bé Thu-đứa con yêu quý của tôi, định khi nào về phép lần nữa sẽ trao cho con bé nhưng đến giờ vẫn chưa có dịp,bỗng nhớ nó quá, cái con bé ấy thấy thế mà giống tôi ra phết, tính tình chẳng khác tí nào, hèn gì nó cứng rắn y như con trai vậy,càng nghĩ càng thấy thương con thương vợ ở nhà k bíêt sống ra sao nữa.Từ ngày ra đi tôi chưa lo cho hai mẹ con đc 1 ngày trọn vẹn, tòan làm khổ họ mà thôi,cũg may vợ tôi là ng hiểu chuyện lại một mực thương yêu chồng nên lúc nào cũng thông cảm và động viên tôi hòan thành công tác, lại còn lo lắng cho con rất mực chu đáo, thật hiếm thấy gia đình nào hạnh phúc và may mắn như tôi.Duy chỉ có điều tôi lấy làm tiếc là trước giờ xa con lâu quá, chưa cho con nhận thấy tình cha là bao mà lại chia xa, giờ k biết con bé đang làm gì và có nhớ tới cha nó k nữa?...Tôi như chìm đắm vào dòng suy nghĩ miên man ấy mà quên mất công việc của mình, bỗng từ đâu có tiếng la hét, rồi chú Ba-ng cùng quê với tôi đã từng về phép thăm con trong lần trước, hớt h ơ hớt hải chạy vào nói k kịp thở: -Anh Sáu…mau chuẩn bị đi…giặc…giặc tới rồi anh Sáu à…nhanh đi…kẻo k kịp đó…thu dọn mau… Tôi hỏang hồn,tay chân bối rối vơ ngay cái balô cũ để ở góc giường tre, lập tức dồn nhét đc bất kì thứ gì ,giấy tờ bảo mật và cần thiết đi theo, k cần sắp xếp chi nữa cả vì giờ k còn thời gian Tay tôi run run cầm chiếc lược ngà trắng đục trao cho anh Ba- ng tôi tin tưởng nhất từ trước tới nay đặc biệt là trong hòan cảnh thế này,vết thương càng lúc càng đau và xót quá, tôi biết mình chẳng thể nào qua khỏi đc, biết thế nào rồi tôi cũng sang thế giới bên kia mà thôi.Nhưng trước giờ tôi chưa bao giờ chuẩn bị tâm lí cho việc này mặc dù tôi sống bao năm trong chiến trường, hằng ngày tôi vẫn băn khoăn và ấp ủ niềm thương nhớ tới đứa con gái bé bỏng đáng yêu của tôi, k biết giờ nó còn nhớ đến ng ba khốn khổ này k, k bíêt nó có nghĩ về tôi như tôi vẫn luôn nghĩ về nó k…trong đầu tôi ẩn hiện biết bao câu hỏi, nhưng càng hỏi tôi càng thấy đầu óc mình thêm chóang và mọi vật như quay cuồng theo hình tròn làm tôi k thể chịu đc.Rồi từ đâu trong kí ức tôi hịên về ngày đó, ngày đầu tiên tôi đc gặp con và có thể nói là ngày cuối cùng đc đòan tụ của gia đình tôi… Hôm ấy tôi và anh Ba đều đc nghỉ phép, cả 2 nhất trí về quê thăm gia đình vì đã bảy năm nay chúng tôi k 1 lần đc gặp lại ng thân,riêng có vợ tôi đã vài lần vào thăm tôi nhưng mỗi lần k đc bao lâu và tôi cũng chưa hề đc nhìn thấy mặt đứa con gái yêu dấu của mình từ khi chia xa nó năm nó 1 tuổi.Ngồi trên xuồng mà lòng tôi cứ k yên, giống như có trống đag đánh trong lồng ngực tôi vậy, sự háo hức quá đỗi làm tôi thêm phấn chấn và mong sao chiếc xùông lao đi thật nhanh để tôi còn đc về nhà nữa chứ. Xuồng chưa kịp cặp bến tôi đã lom khom đứng dậy bắt đà rồi nhảy phóc lên bờ, k kịp nghe tiếng kêu ý ới của anh Ba -Anh Sáu đi nhanh quá, đợi tôi với,vội gì mà vội thế? Vừa lên đc sân nhà tôi đứng sững lại, trước mắt tôi lúc này là 1 bé gái dáng nhỏ xinh mặc chiếc áo bông cà,trong phút chốc có lẽ tôi hơi lúng túng k biết làm thế nào nên đứng sững lại nhưng rồi k chút chần chừ, trong đầu tôi lúc ấy cứ như có ai đó thúc giục và đảm bảo rằng con bé chính là đứa con gái mà tôi luôn ao ước từng ngày đc gặp mặt và đc nghe nói cất tiếng gọi “ba”,tôi nhanh chân, bước từng bước dài nhất có thể tiến nhanh về phía con bé,tôi khom ng, đưa hai tay dang rộng về phía trước với hi vọng con bé sẽ chạy đến và nhảy vào lòng tôi, ôm.

<span class='text_page_counter'>(163)</span> hôn tôi thật chặt như bao đứa con khác vẫn mừng cha nó như thế khi cha nó đc trở về,tôi gọi -Thu, ba nè con…ba chính là ba của con đây…ba đã về rồi con à… .Một điều bất ngờ xảy đến,con bé vẫn đứng như trời trồng ra đấy, k nói 1 lời nào mà vẻ mặt của nó còn ngơ ngác như muốn hỏi tôi là ai mà k dám hỏi vì rõ ràng con bé đang sợ hãi đìêu gì đó, nó hét lên -Mẹ…mẹ ơi…!!! Tôi như kẻ từ thiên đường bỗng dưng trở về địa ngục,tôi như chết lặng k thể nói đc câu nào, cổ họng nghẹn lại như có cái j chắn ngang,tôi k muốn nói gì và cũng k bíêt phải nói gì nữa, nỗi đau này còn hơn cả vết thương mà thằg Tây nó ban cho tôi,anh Ba cũng đứng đấy mà nói lời nào như thể chính anh cũng bất ngờ như tôi đây.Từ trong nhà 1 ng phụ nữ tóc bới cao hình củ tỏi, mặc bộ bà ba đen đã cũ và bạc màu, trên tay cầm đôi đũa xới cơm,cô ấy nhìn tôi đầy sững sờ, đôi mắt mở to hết mức có thể,rồi cô ấy nở nụ cười lao vội về phía tôi , tiến đến và ôm chầm tôi ,nói trong nc mắt nghẹn ngào:-Mình…mình đã về…em nhớ mình quá…lâu rồi k gặp mình…mình trông ốm hẳn đi…em lo cho mình ở ngòai ấy lắm mà lâu rồi k có dịp đi thăm… Vợ tôi nức nở, kể ra cũng thương lắm,lúc tôi công tác ở đâu đó thuộc miền tây nhưng khá xa nhà nên k thể về đc, vậy mà cô ấy vẫn k quản ngại khó nhọc, lặn lội đường xa để đến thăm tôi,tôi thương vợ thương nhà nhưng chưa làm gì đc cho gia đình cả, nay trở về lại phải gánh thêm nỗi u sầu về con gái tôi Suốt 3 ngày đó tôi đã tìm đủ mọi cách gần con bé nhưng hầu như nó k muốn ở gần bên tôi, tôi cũng k hỉêu vì sao nữa,k lẽ con bé k muốn có ba, k , k thể thế, con bé rất khao khát có ba và đc gọi ba cũng như tôi cũng khao khát đc làm ba và nghe con gọi mình là ba, chỉ cần nhìn vào đôi mắt long lanh ấy là tôi có thể hiểu nhưng tôi k thể hiểu vì sao con bé nhất nhất k chịu nhận ba dù vợ tôi có hết lời năn nỉ ,phải thích và phân bua thế nào chăng nữa.Tôi chỉ buồn thầm trong lòng nhưng k muốn nói ra,nỗi ưu phiền chất chứa ấy cứ tăng dần theo từng ngày nhưng chưa lúc nào tôi từ bỏ hi vọng đc làm ba và thực hịên bổn phận ng làm cha 1 cách tốt nhất. Tôi k ngừng quan tâm đến con bé,nhưng nó cứ từ chối và quyết k nhận chút quan tâm nào từ phía tôi.Hôm mẹ nó bảo nó ra gọi “ba” (tức là tôi) vào ăn cơm, con bé vâng lời nhưng chỉ nói trổng chứ k thèm thốt lên tiếng ba, lòng tôi chợt nhói lên , có cái gì đó cứ quặng thắt trong lòng, tôi lắc đầu và cười thầm cho số phận của mình sao “bùôn cười”, con gái mà k gọi ba, chuyện này có lẽ chỉ có mình tôi trải qua mà thôi. Hôm sau, lúc vợ tôi đi vắng có để lại nồi cơm cho bé canh chừng, cơm đang sôi mà vợ tôi chưa về, có thể con bé nghĩ sức nó chắt nc k nổi nên ngỏ ý muốn nhờ tôi mà lại k thèm gọi ba mà lại nói trổng như hôm trước: -“Chắt nc giùm cái!” Tôi vẫn ngồi im hút điếu thuốc làm lơ như k hay k biết gì cả,đợi đến khi nào con bé chịu k nổi, k thể làm khác đc mà gọi ba thì tôi mới làm,kể ra cũng hơi ích kỉ nhưng nỗi khát khao của tôi lớn quá nên giờ tôi chẳng tiếc gì nữa cả, chỉ múôn đc làm ba “dù chỉ 1 lần trong đời”.Nét mặt con bé đanh lại,có lẽ nó giận lắm mà k nói, sắc mặt như có gì thay đổi, tức mà k thể làm gì, dù nó gọi tôi bao nhiêu lần có giục tôi bao lâu tôi vẫn sẽ k làm nếu con bé còn chưa chịu gọi tôi là ba,nồi cơm thì cứ sôi mà tôi vẫn cứ ngồi im, để 1 lát nữa là cơm sẽ nhão ngay và con bé sẽ bị mắng cho xem, tôi mừg thầm trong bụng nghĩ lần này nhất định sẽ thắng.Nào ngờ con bé gan lì quá mức, nó lấy vá múc nc ra mà k cần đến sự trợ giúp của tôi, vừa làm còn vừa làu bàu tức giận nữa chứ,giờ tôi chỉ biết xót xa mà ngậm cười cho chữ đời éo le mà thôi. Đến bữa ăn hôm đó tôi cố tình gắp cho con bé cái trứng cá to nhất ,nhưng con bé k hài lòng,nó cố tình hất ra khỏi chén làm cơm văng tứ tung cả măm cơm.Trong ng tôi lúc ấy như có lửa đốt, tôi k kềm chế đc nữa, cơn nóng giận và nỗi bực tức của tôi mấy hôm nay như đc dồn nén lại và chỉ chờ phát tán có lúc này thôi, tôi lao tới chỗ con bé vung tay tát vào mông nó 1 cái thật đau, vợ tôi hỏang hốt kéo tay tôi lại tỏ ý can ngăn nhưng tôi cứ muốn xông tới đánh cho.

<span class='text_page_counter'>(164)</span> nó 1 trận cho nó chừa thói làm hung với ng lớn.Nó lẳng lặng, k nói gì, bỏ đũa, bước xuống mâm cơm, k hề khóc, tôi để ý rất kĩ nó k hề khóc mặc dù cái đánh của tôi rất đau,tay tôi đỏ tấy cả lên thế mà nó vẫn chịu đc.Nó xuống xuồng, mở dây lòi tói bơi sang nhà ngọai, nó cố tình mở dây kêu thật to để trút sự tức giận và “oan uổng” của mình. Tối hôm đó tôi suy nghĩ nhiều về con, tôi k biết sao lúc chìêu mình lại làm thế nữa, cứ như bị ma nhập ấy, chẳng hiểu sao lại làm vậy nữa,tôi băn khoăn và cố tìm ra nhìêu cách trả lời cho câu hỏi vì sao con tôi lại k chịu nhân ba nó dù tôi có quan tâm tới mức nào.Phải chăng vì nó chưa đc gặp tôi nên k tin tôi là ba ,hay vì con bé thấy tôi xa lạ và còn chưa quen, hay vì tôi mang trên ng mùi thuốc súng và vết tích chiến tranh??? ( chả là tôi có 1 vết sẹo dài trên má do bọn Tây “tặng” tôi làm “kỉ niệm”, sau lần đó nhìn tôi cứ như lưu manh chứ k giống bộ đội tí nào cả).Tôi chẳg biết mình nên làm sao để đc con bé chấp nhận, thực sự giờ tôi đã hết cách, ngày mai là tôi sẽ ra đi, tôi vẫn mong đc ôm hôn con trước khi ra đi, nhưng có vẻ nỗi niềm ấy ước mơ ấy sẽ còn xa vời lắm…Cả đêm tôi thức trắng để suy nghĩ mà cuối cùng cũng chẳng đc gì, tất cả bao quanh tôi mang màu đen như màu của đêm tối k sao k trăng vậy. Sáng hôm ấy họ hàng nhà ngọai nhà nội sang thăm tôi đông lắm,trong đó có cả ngọai dẫn bé Thu về nữa,nhìn thấy nó lòng tôi bỗng se thắt lại như có cái gì cùôn cuộn xóay trong lòng.Cả buổi lo tiếp chuỵên với mọi ng nhưng k lúc nào tôi ngừng quan sát con bé.Tôi bỗng thấy con bé hôm nay thực sự có cái gì rất khác lạ, k như thường ngày nữa.Đôi mắt đó k còn sắc béng và lạnh nhạt nữa mà thay vào đó là cái gì đó mỏng manh,xao xuyến và chứa đầy tình cảm,tôi k thể lí giải vì sao nữa, con bé mới tám tuổi mà cứ như ng lớn khiến tôi k thể nào đóan đc bé nghĩ gì cả.Tôi nhận ra bé cứ nhìn tôi suốt, bé núp sau cánh cửa, chỉ im thin thít, có đôi lúc 2 viên ngọc ấy như xao động và tìm kíếm cảm giác gọi là thể hịên tình cảm, có lẽ cả đời tôi k bao giờ quên đc hình ảnh ấy vì nó quá đẹp , đẹp cả về vẻ bề ngòai lẫn cái bên trong sâu thẳm trong lòng bé. Tôi bắt tay từng ng từ biệt họ,xong cả thảy mọi ng giờ chỉ còn lại mình Thu , tôi cũng muốn đến ôm và hôn con trước lúc chia tay lắm, vì lần này về tôi vẫn chưa thỏa đc ước mong mà tôi thì k biết có thể về nữa hay k…chiến trường vốn khốc liệt mà…Nhưng thôi, dù muốn tôi cũng phải kềm lòng lại, tôi k muốn làm khó dễ con bé và làm con bé giãy nảy lên phản đối, tôi giơ tay lên chào khe khẽ : -Ba đi nghe con… Tôi ngậm ngùi bước đi mà lòng như dao cắt, tôi thực sự k muốn, k muốn phải đi nhưng sao chân tôi vẫn bước, tôi k muốn thốt lên câu đó nhưng rồi k cản đc mìh, tôi nghĩ chắc tôi phải mang nỗi ân hận này xuống mồ vì nó là tâm huýêt cả đời tôi. -Ba…a…a…a!!!!!!!!!!!!! Tôi quay lại theo bản năng và quỳ xuống và chỉ kịp nhìn thấy mái tóc đen xoa vào mặt tôi thật dịu dàng,cuối cùng con bé cũng gọi ba, ôi tiếng ba ấy sao mà thiêng liêng quá,tôi tin rằng k ng cha nào trên thế giới này hạnh phúc như tôi lúc này, tôi tin chỉ có tôi mới có đc cảm giác thần tiên này thôi.Ba nhiêu mơ ước và hi vọng, bao nhiêu nìêm tin và cố gắnng nay k còn là vô nghĩa nữa,con bé đã thốt lên lời mà nó muốn nói từ bấy lâu nay, tíêng nói mà tôi luôn mogn chờ, “tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi ng.”Con bé ôm và hôn tôi cùng khắp mọi nơi, như chưa bao giờ nó đc hôn vậy, tôi như chìm vào nìêm hạnh phúc tuyệt vời, nó còn hôn lên cả vết sẹo dài và to ở bên má tôi, tôi cứ ngỡ con bé sẽ sợ hãi nhưng nó lại hôn…tôi thực sự k thể kiền chế lòng mìh, chính lúc đó tôi cũng k bíêt mình đã sung sướng như thế nào nữa, chỉ biết là đó là điều tôi mong chờ bao lâu nay đã thành hiện thực, tôi k còn là ng vốn là cha nhưng k đc làm cha. Giờ thì có lẽ điều tôi nghĩ thành hịên thực rồi, đó là tiếng ba đầu tiên cũng là tiếng ba cuối cùng tôi đc nghe cũng như Thu đc thốt ra với ba ruột của mình.Đầu óc tôi giờ trở nên chóang váng lạ kì, tôi thấy mệt mỏi quá, cứ múôn thiếp đi trong 1 giấc mộgn dài, trong giấc mộng đó.

<span class='text_page_counter'>(165)</span> tôi sẽ đc gặp con, gặp vợ tôi, gặp lại hàng xóm va xóm làng thân yêu.Nhưng trước khi ngủ tôi phải trao cho anh Ba vật quan trọng nhất , nhờ anh ấy thay tôi đưa cho Thu- đứa con tôi yêu quý nhất.Tôi bíêt tôi k trụ đc nữa, tay tôi mỏi lắm, khắp ng ê ẩm, và k còn sức nữa…tôi chìm trong giấc ngủ…1 giấc ngủ ngon và sâu…thật sâu…. ĐỀ 44 : Viết một đoạn văn ngắn nêu cảm nhận của em về đoạn thơ sau: Rồi sớm rồi chiều bếp lửa bà nhen Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng “Bếp lửa” của Bằng Việt đã để lại nhìêu ấn tượng nơi ng đọc về tuổi thơ của ông,những tình cảm thắm thiết đối với quê hương đặc biệt là hình ảnh ng bà và tình cảm của ông với bà trong những ngày đc sống bên bà tuy đầy gian khó nhưng lại chứa chan tình cảm.Đặc biệt đc thể hịên trong đọan thơ: “Rồi sớm rồi chìêu lại bếp lửa bà nhen Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng” Suốt cả bài thơ từ “bếp lửa”đc lặp đi lặp lại nhiều lần nhưng trong khổ thơ này nhà thơ k dùng là “bếp lửa” nữa mà dùng là “ngọn lửa”. “Ngọn lửa” của bà là ngọn lửa tìh thương,ngọn lửa niềm tin luôn tỏa sáng lung linh,là ngọn lửa mang tính biểu tưởng.Ngọn lửa ấy đc bà nhóm lên hằng ngày, k bao giờ ngừng nghỉ, 1 ngày nào đó bà còn sức bà sẽ k bỏ cuộc và sẽ k bao giờ dừng công việc “thiêng liêng”của mình ấy”Ngọn lửa”ấy k chỉ đc thắp lên bằng nhiên liệu mà còn đc thắp lên bởi tấm lòng của ng bà,lòng yêu thương và đức hi sinh cao cả ấy đã nhen nhóm lên trong lòng biết bao con ng và biết bao thế hệ.Tấm lòng rộng mở của bà hiếm ai có đc,chính nó đã nhen lên những hi vọng , những niềm vui và mang đến những tia sáng cho tương lai tốt đẹpĐó còn là ngọn lửa của tình yêu và tâm hồn của dân tộc Việt Nam ta đã nhóm dậy trong lòng nhà thơ những cảm xúc và suy nghĩ chân thành đẹp đẽ thấm đượm trong bài thơ.Bằng cách sử dụng biện pháp ẩn dụ thật độc đáo, Bằng Việt đã làm nổi bật tình cảm của bà cũng như tô đậm thêm tình yêu bà của bản thân ông.Đức hi sinh và biển cả tình thương của bà là vô bờ bến, đó là nơi có nguồn sức mạnh và nguồn năng lượng k bao giờ cạn cũng như chính “bếp lửa” và “ngọn lửa” mãi mãi sống, sống trong bà và trong lòng biết bao con ng sống trên đất Việt. ĐỀ 45 : Viết đoạn văn khoảng 5 câu nêu những cảm nhận của em về một nhân vật em thích nhất trong văn bản “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long. Anh thanh niên là một chàng trai trẻ nhưng lại sống một mình trên đỉnh núi cao,quanh năm suốt tháng sống giữa cỏ cây và mây núi Sa pa.Công việc của anh là"đo gió,đo mưa,đo nắng,đo chấn động mặt đất,tham dự vào việc báo trước thời tiết hàn ngày,phục vụ sản xuát,chiến đấu",đó quả là một công việc khó khăn và đòi hỏi cao về kinh nghiệm và tinh thần làm việc bởi nơi anh sống và làm việc có khí hậu rất khắc nghiệt.Quả thực anh đã hoàn thành tốt nhiệm vụ cho dù có tuyết và mưa lạnh như thế nào,anh quả là con ng có trách nhiệm với công việc,đó là một đức tính đáng quí mà thanh niên ngày nay cần học tập.Anh thanh niên làm việc một cách âm thầm lặng lẽ nhưng những j mà anh cống hiến thì hok hề nhỏ bé,khi đc ông hoạ sĩ phác hoạ chân dung,anh lại nhiệt tình giới thiệu cho ông những ng khác như ông kĩ sư ở vườn rau SP,anh cán bộ nghiên cứu lập bản đò sét vì anh cho rằng những j mình làm đc thật nhỏ bé,hok đáng để nhắc tới,đây chính là đức tính khiiem tốn mà em yêu thik nhất ở anh thanh niên.Không chỉ thế,anh thanh niên rất cởi mở,chân thành,rất quí trọng mọi ng,luôn tiếp đãi mọi ng một cách chu đáo ,luôn gây thiện cảm cho những ng tiếp xúc với anh,và anh cũng khá "thật thà" khi không nhận ra ẩn ý của cô kĩ sư trẻ wa chiếc khăn cô cố tình để lại cho anh.Anh.

<span class='text_page_counter'>(166)</span> quả là người yêu nghề, có ý thức trách nhiệm trong công việc, ý thức kỷ luật cao,là người có tính tình cởi mở, ân cần chu đáo, hiếu khách, khiêm tốn,lạc quan yêu đời, sẵn sàng cống hiến tuổi trẻ, tài năng cho đất nước... ĐỀ 46 ; Viết bài văn giới thiệu bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu. Chính Hữu tên là Trần Đình Đắc quê ở Can Lộc- Nghệ Tĩnh. Ông sáng tác ít nhưng để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc. Bất kể ai trong chúng ta đều rất quen thuộc với những vần thơ mộc mạc giản dị ở bài “Đồng chí”. Vậy bài thơ “Đồng chí” ấy được ra đời trong hoàn cảnh nào? Đó là câu hỏi không ít người đặt ra sau khi đọc bài thơ này. Vào quân đội, ông làm chính trị viên đại đội, đơn vị toàn là dân Hà Nội, học sinh sinh viên thành thị, mãi tới khi lên Việt Bắc mới thực sự tiếp xúc với nông dân, lắng nghe tâm sự của họ và dần dần ông đã tìm cho mình một cách nhìn khác trung thực hơn. Đó là cơ sở để ông có thể cất lên những vần thơ mộc mạc về những con người nơi “nước mặn đồng chua” và “đất cày lên sỏi đá”. Chính Hữu trực tiếp tham gia chiến dịch ở Thái Nguyên. Đơn vị của ông có nhiệm vụ bảo vệ cơ quan đầu não kháng chiến bám sát địch không cho chúng tiến sâu vào căn cứ của ta. Vì truy kích địch thường phải cắt rừng đi tắt nên cấp dưỡng theo không kịp, nhiều khi phải nhịn đói, ăn quả, củ rừng. Ông bị sốt rét ác tính nhưng không có thuốc men gì cả. Đơn vị vẫn hành quân và để lại một đồng chí chăm sóc. Sự ân cần của đồng chí đó khiến ông nhớ đến những lần đau ốm được mẹ được chị chăm sóc. Đấy là những gợi ý đầu tiên cho bài thơ “Đồng chí”. Tất cả những gian khổ thiếu thốn mà người lính phải chịu đựng trong bài đều xuất phát từ chính cuộc đời thực. Kết thúc bài thơ là hình ảnh đẹp và lãng mạn “đầu súng trăng treo”. Buổi đêm rừng núi Việt Bắc rét mướt, sương muối thấm lạnh tê tái, còn chưa kể đến các loài thú độc, hổ báo rắn rết. Đơn vị phải phân công nhau canh suốt đêm ở các vị trí khác nhau. Bầu trời miền rừng núi bao giờ cũng có cảm giác trong hơn, rộng hơn và thấp hơn so với bầu trời các miền khác. Lúc ấy ánh trăng thật trong và thật sáng. Người lính canh giữa ánh trăng bao giờ nòng súng cũng hướng lên chuẩn bị sẵn sàng. Họ thường đứng hai người cạnh nhau. Khi đó người đồng chí sẽ có ba người bạn: Người đồng chí đứng bên cạnh khẩu súng và ánh trăng. Ba hình ảnh đó tạo nên cái khung của hình ảnh “đầu súng trăng treo”. Nhà thơ hoàn toàn không có ý tưởng từ trước, câu thơ viết ra một cách tự nhiên. Ông thường hay đi kiểm tra và thấy hình như luôn luôn có mảnh trăng treo trên đầu ngọn súng. Hình ảnh ấy tạo một cảm giác kì lạ, như mảnh trăng luôn đung đưa trên ngọn súng. Không phải là đầu súng rung rung mà chính là cái cảm giác mảnh trăng đung đưa như quả lắc trên bầu trời. Khi viết, trong ông sống lại hình ảnh ấy và câu thơ năm chữ hiện ra tức thì “đầu súng mảnh trăng treo” nhưng sau này bỏ chữ “mảnh” đi để tạo ra câu thơ bốn chữ “đầu súng trăng treo” như nhịp một, hai vừa cân đối giữa hai hình ảnh vừa là nhịp lắc của đồng hồ. Mặt khác nhà thơ muốn dùng hỉnh ảnh này để nói lên nhịp đập “trái tim đồng chí”. Trong đêm thanh vắng người nọ sẽ nghe rõ tiếng trái tim người kia đập… Nhịp một, hai của mặt trăng “lắc” trên đầu súng cũng là nhịp tim chan chứa của hai người lính cảm nhận được nơi nhau. Nhịp tim đó gắn với họ làm một, làm nên “con người đồng chí” với nhịp đập nhanh hơn, nồng nàn hơn. Nhịp “một, hai” của ánh trăng cũng chính là nhịp đập vĩnh cửu của tình đồng chí. Đó cũng là ý nghĩa mà ông muốn gửi gắm xuyên suốt cả bài thơ. ĐỀ 47 : CẢM NHẬN HÌNH ẢNH BẾP LỬA TRONG BÀI THƠ "BẾP LỬA" CỦA BẰNG VIỆT Quê hương - hai chữ thiêng liêng mà trong tim mỗi người ai cũng dành một tình cảm riêng. Những tình cảm ấy thật cao đẹp và đáng trân trọng. Ai đi xa nơi đất khách quê người vẫn luôn.

<span class='text_page_counter'>(167)</span> hướng về quê hương - nơi chôn rau cắt rốn. Trong tâm khảm mỗi người, ai cũng lưu giữ những âm thanh, cảnh sắc quê nhà, những kỉ niệm cảm động và nhất là tiếng ru ầu ơ, dịu ngọt của mẹ, mái tóc bạc phơ của bà - người đã tần tảo chăm chút, nuôi ta khôn lớn. Bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt đã thổi một nguồn sống mới thức tỉnh những năm tháng tuổi thơ vào lòng triệu con người. Những tình cảm đẹp ấy được diễn tả rất thơ... Bếp lửa là tiếng thơ của một tấm lòng có cội nguồn của một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế, phong phú và mới mẻ. Trong nỗi nhớ của nhà thơ, hình ảnh người bà bao giờ cũng hiện lên cùng bếp lửa. Vì hoàn cảnh gia đình, bố mẹ đi kháng chiến, tuổi thơ Bằng Việt sống cùng bà. Mỗi ngày của tuổi thơ lận đận đều bắt đầu từ ngọn lửa bà nhen. Sự sống của cháu đã được nhen lên và giữ gìn cùng ngọn lửa ấy. Ở đất nào, ngọn lửa cũng là cội nguồn của sự sống, bếp lửa nào cũng nhọc nhằn, tần tảo, bếp lửa nào cũng nồng đượm, ấp iu. Trong tâm thức của tác giả, “một bếp lửa ấp iu nồng đượm” luôn túc trực, lắng đọng; hìh ảnh bà sóng đôi với hình ảnh bếp lửa, gắn với sự chăm chút cho đứa cháu luôn xa cha mẹ. “Một bếp lửa” là động đến cõi cao sâu trong kí ức của mỗi người về hơi ấm gia đình nhất là khi xa nhà sống ở nơi xa lạ và điệp ngữ ngày dùng để diễn tả cảm xúc đang dâng lên cùng với kí ức, hồi tưởng. Bếp lửa hiện lên nồng nàn trong tình cảm, dạt dào trong cảm xúc. Toàn bài giọng cảm thương, nhớ nhung da diết như muốn trào dâng lấn át tất cả. Mỗi kỉ niệm thức dậy là biết bao tâm tình sống dậy. Mỗi kỉ niệm được bao bọc trong nỗi nhớ thương vừa trào dâng vừa sâu lắng. Cả bài thơ là một dòng tâm trạng, một dòng hồi ức. Ngần ất sự việc suốt mấy chục năm trời chỉ xuay quanh hình ảnh bếp lửa của bà. Lửa là ánh sáng, lửa là hơi ấm. Bếp lửa lặng thâm nuôi dưỡng mọi gia đình, nuôi dưỡng cả sự sống này. Nép mình trong bếp có gì mộc mạc, khiêm nhường hơn bếp lửa? những cũng có gì cao quý thiêng liêng hơn? Cho nên nhớ về bếp lửa là nhớ về bà. Bằng Việt đã thổi bừng lên hết thảy những bếp lửa “ấp iu nồng đượm” trong ký ức của mỗi chúng ta. Và cả mối tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích của nhà thơ cũng như riêng của tuổi thơ chùng mình. Trong thơ ca còn có mối tình bà cháu nào cảm động hơn? Mối tình bà cháu đẹp như một dòng sông, dòng sông êm đềm và trong vắt, mặt dòng sông chở đầy kỉ niệm. Một bếp lửa và một làn sương sớm. Những kỉ niệm trôi qua theo một nhạc điệu tâm tình âm ĩ thầm thì triền miên như nỗi nhớ chất thơ lan toả trong từng con chữ có cả sắc màu, hương vị, ký ức và hồn người, tình người lan toả vào cảnh, ấp ủ thành tình yêu quê hương. Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa! Đó là lời thốt lên từ niềm trân trọng, biết ơn cũng là lời thốt lên khi chợt nhận ra trong một vật đơn sơ, lại ẩn náu bao điều kì diệu. Hình ảnh bếp lửa cứ cháy, trong những kỉ niệm của tình bà cháu. Cháu bắt đầu biết đến mùi khói từ khi lên bốn, thì đó cũng là những năm đói khổ, chiến tranh ác liệt. Bởi thế mùi khói từ những năm đầu đời đến tận bây giờ vẫn cứ còn nguyên trong kí ức, chẳng thể tiêu tan. “Lên bốn tuổi cháu đã quen múi khói”… Đoạn thơ thật cảm động, dù cho ngọn lửa hung tàn của giặc đang thiêu huỷ làng xóm thì chính bếp lửa ấm cùng, ân cần của bà đang nhen lên sự sống. Bà đã chịu đựng tất cả vất vả, khó khăn, hy sinh, mất mát. Vì vậy những gì bị thiêu cháy trong ngọn lửa dã man, kỳ lạ thay đang hồi sinh trong ngọn lửa của lòng bà. Ngọn lửa ấy, bếp lửa ấy đã sưởi ấm tâm hồn đứa cháu ngây thơ từ những tháng năm lên bốn. Kì lạ và thiêng liêng nhất là tình yêu quê hương, xứ sở bắt đầu từ sự gắn bó với những gì đơn sơ, bình dị và gần gũi nhất. Tình bà cháu gắn bó với lòng yêu nước thật thiêng liêng, cao cả. Cháu lớn khôn trưởng thành trong đôi bàn tay nâng niu trong tấm lòng yêu thương vo hạn của bà. Ngọn lửa mà bà đã nhóm lên từ “bếp lửa” ấy đã sưởi ấm và soi sáng cuộc đời đi lên phía trước của cháu. Và đứa cháu hiếu thảo ấy đã lớn, đã đi rất xa nơi bếp lửa của bà, đã biết đến ngọn khói trăm miền, đã vui với ngọn lửa trăm nhà. Nhưng trong lòng cháu chỉ nhớ về ngọn khói đã làm nhèm mắt cháu, chì nhớ về ngọn lửa tảo tần nắng mưa nơi góc bếp của bà. Cháu chẳng bao giờ quên.

<span class='text_page_counter'>(168)</span> “bếp lửa”, bởi đó là cội nguồn, bởi cuộc đời cháu đã được nhen lên từ ngọn lửa ấy. Ngọn lửa của bà đã cháy trong lòng cháu, một bếp lửa mới của cuộc đời đã nhen lên ngọn lửa của sự sống truyền đời, bất diệt! “Bếp lửa” là bài thơ cảm động, tình cảm dạt dào trong lòng đã tìm đến một giọng điệu, một nhịp điệu thật phù hợp. Ấy là giọng nồng đượm của lửa, ấy là nhịp bập bồng của lửa, giọng kể lể cứ tràn ra, dâng lên một ngày một nồng nàn, ấm nóng… Bằng Việt đã khéo lựa chọn và sắp xếp để hình ảnh người và bà bếp lửa luôn đi đôi với nhau. Đọc “Bếp lửa” chẳng những thấy được một dòng tâm sự sâu nặng, dạt dào mà nhà thơ còn muốn đề cao một điều rất đỗi giản dị: “Tình yêu quê hương đất nước bắt nguồn từ những cái cụ thể gần gũi, thân thương với mỗi con người”.. --- MỤC LỤC --PHẦN I VĂN TỰ SỰ Đề 1: Tưởng tượng 20 năm sau, vào một ngày hè ,em về thăm lại trường xưa.Hãy viết thư cho một bạn học hồi ấy kể về buổi thăm trường đầy xúc động đó. Đề 2: Kể về 1 giấc mơ trong đó em gặp người thân đã xa cách lâu ngày. Đề 3 Đã có lần em cùng gia đình đi thăm mộ người thân trong dịp lễ tết .Hãy viết bài văn kể về buổi đi thăm đáng nhớ đó Đề 4 : Hãy kể lại một lần em trót xem nhật ký của bạn. Đề 5 : Kể về cuộc gặp gỡ với các chú bộ đội nhân ngày 22/12.Trong buổi gặp đó em thay mặt các bạn phát biểu những suy nghĩ , tình cảm của thế hệ sau đối với thế hệ cha anh đi trước . Đề 6:Kể lại kỉ niệm đáng nhớ giữa mình và thầy cô giáo cũ nhân ngày 20-11 PHẦN II NGHỊ LUẬN XÃ HỘI ĐỀ 1 : SUY NGHĨ VỀ TINH THẦN TỰ HỌC . Đề 2: HÚT THUỐC LÁ CÓ HẠI Đề 3: Vấn Đề Rác Thải Với Môi Trường … Đề 4: CHẤT ĐỘC MÀU DA CAM … ĐỀ 5: TRÒ CHƠI ĐIỆN TỬ.. . ĐỀ 6: NHIỀU HỌC SINH ĐOẠT HUY CHƯƠNG VÀNG ... ĐỀ 7 :UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN . ĐỀ 8: SUY NGHĨ VỀ BÁC HỒ … ĐỀ 9 NHỮNG CON NGƯỜI KHÔNG CHỊU THUA SỐ PHẬN ĐỀ 10 “ THÀNH CÔNG CHỈ ĐẾN KHI BẠN LÀM VIỆC TẬN TÂM VÀ LUÔN NGHĨ ĐẾN NHỮNG ĐIỀU TỐT ĐẸP”. SUY NGHĨ CỦA ANH CHỊ VỀ Ý KIẾN TRÊN ĐỀ 11:NGƯỜI HẠNH PHÚC NHẤT LÀ NGƯỜI ĐEM HẠNH PHÚC ĐẾN CHO NHIỀU NGƯỜI NHẤT. Đề 12 : ANTOÀN GIAO THÔNG.

<span class='text_page_counter'>(169)</span> ĐẾ 14 : SỬ DỤNG ĐIỆN THOẠI DI ĐÔNG PHẦN III NGHỊ LUẬN VĂN HỌC Đề 1 :Suy nghĩ của em về văn bản : “Những ngôi sao xa xôi ”của Lê Minh Khuê ĐỀ 2 : Suy nghĩ của em về nhân vật anh thanh nên trong văn bản “Lặng lẽ Sa pa” của Nguyễn Thành Long Đề 3: Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong tác phẩm “Làng ”của Kim Lân. ĐỀ 4 Suy nghĩ của em về tình cảm cha con trong chiến tranh qua văn bản “Chiếc lược ngà ”của Nguyễn Quang Sáng Đề 5 : Suy nghĩ của em về bài thơ “Sang thu”của Hữu Thỉnh. Đề 6 :Suy nghĩ của em về bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ ” của Thanh Hải . Đề 7: Suy nghĩ của em về bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương ĐỀ 8 :Suy nghĩ của em về nhân vật Lục Vân Tiên Trong đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” . ĐỀ 9 :Suy nghĩ của em về tình đồng chí đồng đội trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu . ĐỀ 10:Suy nghĩ của em về hình ảnh những chiến sĩ lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính ”của Phạm Tiến Duật. ĐỀ 11 :Vẻ đẹp của Thuý Vân và Thuý Kiều ĐỀ 12: Phân tích 4 câu thơ miêu tả Thuý Vân ĐỀ 13 :Suy nghĩ về nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”của Nguyễn Dữ . ĐỀ 14 : Suy nghĩ của em về bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận . ĐỀ 15 :Suy nghĩ của em về bài thơ “ Ánh trăng ”của Nguyễn Duy. PHẦN IV VĂN PHÂN TÍCH. Vieáng laêng Baùc Sang thu “ Laøng ” Aùnh traêng Bếp lửa Con coø Beán queâ Những ngôi sao xa xôi Nói với con Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ Maây vaø soùng Bài thơ về tiểu đội xe không kính Laëng leõ sa pa Chiếc lược ngà Đoàn thuyền đánh cá Đồng chí Những ngôi sao xa xôi.

<span class='text_page_counter'>(170)</span> Muøa Xuaân Nho Nhoû PHẦN V CÁCH VIẾT MỞ BÀI MỘT BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VÀ TUYỂN TẬP NHỮNG MỞ BÀI THAM KHẢO I/ Cách viết phần mở bài: II. Một số Mở bài tham khảo : PHẦN VI MỘT SỐ ĐỀ THAM KHẢO Đề 1: Trong truyện “Người con gái Nam Xương”, nhân vật Trương Linh vội tin câu nói ngây thơ của con trẻ đã nghi oan cho Vũ Nương ruồng rẫy và đánh đuỗi nàng đi. Vũ Nương bị oan ức nên nhảy xuống sông tự vẫn. Em hãy đọc kĩ lại tác phẩm và tìm xem có những chi tiết nào trong truyện tác giả muốn hé mở khả năng có thể tránh được thảm kịch đau thương cho Vũ Nương. Những nguyên nhân nào làm cho thảm kịch đó vẫn diễn ra dẫn đến cái chết đau thương cũa người phụ nữ đức hạnh? Em hãy bình luận về nguyên nhân cái chết đó. Đề 2: Phân tích truyện “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ Đề 3: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Đề 4: Phân tích bài thơ “Đồng chí” của chính Hữu). Đề 5: Phân tích bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”của Phạm Tiến Duật Đề 6: Cảm nhận của em về chân dung người lính lái xe trong “ Bài thơ tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật Đề 8: Phân tích bài thơ ” Đoàn thuyền đánh cá”của Huy Cận: Đề 9: Phân tích hình ảnh người mẹ Tà -ôi trong bài thơ “Khúc hát ru những em bé trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm Đề 10: Qua việc tìm hiểu cốt truyện và các đoạn trích trong SGK ngữ văn 9, tập I, em hãy phân tích nhân vật Thuý Kiều để làm nổi bật giá trị nhân đạo của Truyện Kiều. Đề 11: Phân tích đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” để thấy rỏ “Với bút pháp tinh diệu, Nguyển Du không những xây dựng lên hai chân dung “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười” mà dường như còn nói được cả tính cách, thân phận...toát ra từ diện mạo của mỗi vẻ đẹp riêng”. Đề 12:Hãy phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” để thấy rằng: Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Đề 13: Phân tích tám câu thơ cuối của đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” Đề 14: Phân tích đoạn thơ trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”. Đề 15: Phân tích nghệ thuật miêu tả nhân vật được thể hiện qua ngôn ngữ đối thoại nhằm khắc hoạ tính cách nhân vật Thuý Kiều, Hoạn Thư trong đoạn trích “Thuý Kiều báo ân, báo oán” (Trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du) Đề 16: Phân tích nét nổi bật của tính cách nhân vật Lục Vân Tiên trong đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” của Nguyễn Đình Chiểu. Đề 17: Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguễn Quang Sáng là một truyện cảm động nhất là đoạn kể về 3 ngày nghỉ phép của anh Sáu. Em hãy kể lại chuyện xảy ra ở gia đình anh Sáu trong 3 ngày anh nghỉ phép. Đề 18: Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” (tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố) Đề 19: Hãy giải thích câu tục ngữ “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.

<span class='text_page_counter'>(171)</span> Đề 20: Ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân là người yêu mến, gắn bó với làng quê của mình. Em hãy làm sáng tỏ nhận định trên qua truyện ngắn “Làng” đã học ĐỀ 21 : Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu Đề 22 : Phân tích đoạn thơ : Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chæ caàn trong xe coù moät traùi tim ĐỀ 23 : Phân tích tính biểu tượng của hình ảnh : "Đầu súng trăng treo" (Đồng chí - Chính Hữu) và hình ảnh "trăng" (Ánh trăng - Nguyễn Duy). Hình ảnh Đầu súng trăng treo của Chính Hữu. ĐỀ 24 :Vẻ đẹp của người lính trong khổ cuối bài thơ Đồng chí của Chính Hữu. Đề 25 : Từ hiểu biết về bài Đồng chí của Chính Hữu, em hãy viết một đoan văn theo luận đề : Đồng chí mang một vẻ đẹp của thời đại mới ĐỀ 26 : Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã cho thấy hành trang mang theo con đường ra trận là trái tim yêu nước. Ý kiến của em ĐỀ 27 : Hình ảnh người lính trong hai bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. ĐỀ 28 : Không khí lao động khẩn trương, khỏe khoắn và tươi vui trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận. Đề 29 : Chép lại theo trí nhớ 4 câu thơ đầu và 4 câu thơ cuối bài Đoàn thuyền đánh cá. a) Phân tích ý nghĩa của hai hình ảnh thơ Mặt trời xuống biển và Mặt trời đội biển. Bình luận tính chính xác của hai từ xuống và đội. b) Trong hai đoạn thơ này, tác giả diễn tả tâm trạng của ai ? Đó là tâm trạng gì ĐỀ 30 : Hãy chọn một số câu thơ có giá trị nghệ thuật độc đáo trong bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận để viết một bài văn có tiêu đề: Những hình ảnh thơ tráng lệ và lãng mạn ĐỀ 31 : Viết lời bình cho khổ thơ sau đây : Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. (Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận) ĐỀ 32 :Phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt ĐỀ 33 : Bằng một bài văn ngắn, hãy viết cảm nhận của em về hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa ĐỀ 34 : Phân tích hình ảnh người mẹ trong bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng meï cuûa Nguyeãn Khoa Ñieàm ĐỀ 35 : Phân tích đoạn thơ : Em Cu Tai nguû treân löng meï ôi ................................................. Lưng đưa nôi và tim hát thành lời.

<span class='text_page_counter'>(172)</span> ĐỀ 36 :Viết về những kỉ niệm sâu sắc với bà kính yêu trong đó có sử dụng yếu tố nghị luaän. ĐỀ 37 : Từ hai câu thơ : Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng Hãy viết một bài văn với nhan đề : Mặt trời của mẹ ĐỀ 38 : Từ bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy hãy viết về những suy tư của người lính sau chieán tranh. ĐỀ 39 : Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy để cảm nhận được bài học sâu sắc mà tác giả muốn gửi gắm. ĐỀ 40 : Viết lời bình cho đoạn thơ sau : Ngửa mặt lên nhìn mặt ...................................... Đủ cho ta giật mình ĐỀ 41 : Diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân (chủ yếu từ khi ông nghe tin làng theo giặc chở đi). ĐỀ 42 : Vẻ đẹp tâm hồn người nông dân Việt nam trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân ĐỀ 43 : Tưởng tượng lúc ông Sáu hấp hối, ông đã nhớ lại cuộc gặp gỡ với bé Thu, đứa con gái mà ông vô cùng yêu quý. Hãy đóng vai nhân vật ông Sáu lúc đó kể lại tâm trạng mình từ lúc về thăm nhà đến lúc chia tay và trở lại chiến khu. ĐỀ 44 : Viết một đoạn văn ngắn nêu cảm nhận của em về đoạn thơ sau: Rồi sớm rồi chiều bếp lửa bà nhen Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng ĐỀ 45 : Viết đoạn văn khoảng 5 câu nêu những cảm nhận của em về một nhân vật em thích nhất trong văn bản “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long ĐỀ 46 ; Viết bài văn giới thiệu bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu. ĐỀ 47 : CẢM NHẬN HÌNH ẢNH BẾP LỬA TRONG BÀI THƠ "BẾP LỬA" CỦA BẰNG VIỆT.

<span class='text_page_counter'>(173)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×