Đề bài:
Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy: bài học cảnh giác hay bi kịch tình yêu ?
Bài làm:
"Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu
Trái tim nhầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc.
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu"
(Tố Hữu - Tâm sự)
An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy là truyền thuyết đẹp của người xưa với chủ đề dựng nước
và giữ nước, để lại cho đời sau bài học cảnh giác chính trị sâu sắc và thấm thía. Nhưng có phải câu chuyện
chỉ chứa dựng một tấn bi kịch là mất nước hay không? Theo tôi câu chuyện là sự đan xen giữa cả hai bi
kịch mất nước và tình yêu. Chính khi bi kịch mất nước đã tạo nên bi kịch tình yêu và bi kịch tình yêu đã mở
đường cho bi kịch mất nước.
Cả hai tấn bi kịch bắt đầu khi An Dương Vương để tình riêng lấn át tầm nhìn của một đấng minh quân.
Vua cho Trọng Thủy về ở rể mà chẳng mảy may nghi ngờ không chút cảnh giác chính vì thế vua đã để
Trọng Thủy có cơ hội mang mầm tai họa vào bén rễ trong Loa Thành. Sự mất cảnh giác đã cuốn vua vào bi
kịch mất nước do chính tay mình tạo nên; nhưng hậu quả đâu chỉ dừng lại ở đó, chính An Dương Vương đã
đẩy con gái là công chúa Mị Châu vào con đường bi kịch tình yêu.
Truyền thuyết ghi lại bởi người đời sau ngắn gọn, nhưng cốt lõi của bi kịch khá rõ ràng: mối quan hệ
thông gia giữa hai nhà vốn dĩ đối địch đã tiềm ẩn những bất trắc khó lường. Vậy mà An Dương Vương lại "
vô tình" gả con gái yêu cho con trai kẻ thù. Theo mạch kể của truyền thuyết không có lí giải nguyên nhân
sâu xa khiến Mị Châu tiếp tay cho Trọng Thủy cướp mất nỏ thần Kim Quy. Mị Châu rõ ràng đã quá yêu và
tin Trọng Thủy đến với mình bằng tình yêu chân thành vì vậy nàng đã nghe theo mọi lời nói của y. Nếu xét
dưới góc độ của một thần tử, nàng mang tội đáng chết vì một thần tử mà dám đem bí mật quân sự quốc gia
ra nói với người khác, nhất là khi đó lại là con trai của kẻ thù. Đáng trách hơn, Mị Châu bị tình yêu làm mờ
lí trí đến nỗi chẳng còn đủ tỉnh táo để nhận ra những ẩn ý trong lời nói của Trọng Thủy khi từ biệt để cảnh
báo với vua cha. Nàng không còn đủ tỉnh táo để nhận ra trong lời chồng tiềm ẩn hiếm họa binh đao: "Ta
nay về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hòa bắc nam chia cắt, ta tìm lại nàng biết lấy gì làm dấu?"
Mị Châu mê muội đến mức không biết hỏi nguyên cớ chia lìa, lại chỉ chăm chăm nghĩ về sự đoàn tụ lứa
đôi. Rồi ngay cả khi giặc của Triệu Đà đuổi đến nơi nàng vẫn chẳng chịu trở về với thực tại, mãi đắm mình
trong cơn mộng mị, vẫn còn rắc lông ngỗng làm dấu cho Trọng Thủy đuổi theo. Đặt tình riêng lên trên vận
mệnh quốc gia như vậy quả là vô cùng đáng trách, đáng phê phán. Nhưng nếu nhìn dưới góc độ của một
người con gái bình thường đang yêu một cách cuồng nhiệt thì quả thật Mị Châu đã làm tròn trách nhiệm với
con tim của mình. Dù cho có mù quáng đi chăng nữa thì tình yêu của Mị Châu thật đẹp đẽ và trong sáng.
Nàng yêu hết mình và hiến dâng tất cả cho người mình yêu. Chính vì lẽ đó mà Mị Châu trở thành thủ phạm
góp phần làm nên tấn bi kịch mất nước đồng thời nàng cũng là nạn nhân "bất đắc dĩ" của tấn bi kịch tình
yêu. Mị Châu chẳng làm tròn chữ trung chữ hiếu, nàng chỉ để lại duy nhất cho đời riêng một chữ tình mà
thôi.
Đằng sau câu chuyện tình yêu của Mị Châu - Trọng Thủy là cả một âm mưu về chính trị thâm hiểm của
Triệu Đà và không ai khác kẻ trực tiếp thực hiện âm mưu đó lại chính là Trọng Thủy. Ngay từ khi bước
chân vào Loa Thành y đã lộ nguyên hình là tên nội gián thâm độc, y luôn đặt nhiệm vụ gián điệp lên hàng
đầu. Bỉ ổi hơn, y lợi dụng luôn cả người vợ ngây thơ để thực hiện gian kế. Xét về bản chất Trọng Thủy là
một kẻ tham lam và gian trá. Chính điều đó giúp y hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, y đã làm tròn
cả chữ trung lẫn chữ hiếu. Nhưng đáng tiếc thay Trọng Thủy lại lỡ đánh rơi mất chữ tình. Trái với Mị Châu,
Trọng Thủy để cái đầu lạnh làm nguội trái tim mình. Những hành động đầy toan tính của y giúp y tạo nên
cái bẫy đưa cha con Mị Châu vào bi kịch mất nước nhưng từ thủ phạm hắn biến thành nạn nhân của chính
mình trong tấn bi kịch tình yêu.
An Dương Vương mất nước từ sự thiếu cảnh giác, khinh địch của mình. Bản thân vua mong mỏi sự hòa
bình giữa hai quốc gia, chấm dứt cảnh chiến tranh loạn lạc từ tình yêu con trẻ. Nhưng trớ trêu thay điều đó
lại tạo nên khe hở cho những toan tính của cha con Triệu Đà len lỏi vào. Bản thân An Dương Vương cũng
phải gánh chịu bi kịch khi phải tuốt gươm trừng phạt kẻ phản bội là chính con gái yêu của mình. Nhà vua
đứng trên quyền lợi quốc gia mà gạt bỏ tình riêng, hành động ấy rất được nhân dân coi trọng qua cách xử lí
của dân gian: Rùa vàng rẽ nước cho vua xuống biển. Mị Châu phải trả giá cho sự nông nổi của mình nhưng
nàng cũng kịp thức tỉnh để nhận ra bi kịch đau đớn. Một người con gái ngây thơ trong trắng đáng yêu bị
phản bội, cuối cùng đã nhận ra kẻ thù dù đã quá muộn màng. Cái nhìn nhân hậu của nhân dân ta đã dành
cho Mị Châu khi đã để nàng hóa thành ngọc thạch, máu hóa thành ngọc trai ở biển đông. Mị Châu thật đáng
trách nhưng cũng thật đáng thương. Truyền thuyết không chỉ kể lại trang sử mất nước mà còn chứa đựng cả
cái nhìn thương cảm cho lứa đôi - khi tình yêu phải đối mặt với âm mưu.
Trọng Thủy đã phải trả giá cho sự lừa dối khi hắn chỉ còn mang được xác Mị Châu về chôn cất. Với kẻ
cướp nước, nhân dân ta không để cho hắn chiếm đoạt và tiếp tục lừa phỉnh Mị Châu. Nhưng điều đáng nói
ở đây là cái chết lao đầu xuống giếng của Trọng Thủy và kết thúc câu chuyện: "Người đời sau mò được
ngọc trai ở biển Đông lấy nước giếng mà rửa thì thấy trong sáng thêm". Sự lừa dối của Trọng Thủy là lời
cảnh tỉnh người đời: Chỉ có tình yêu chân thành mới được đền đáp xứng đáng, tình yêu không bao giờ đồng
hành với những âm mưu toan tính thấp hèn, với tham vọng cướp nước.
Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy muôn đời vẫn còn giá trị từ ý nghĩa nhân văn, từ
bài học cảnh giác đến lời nhắc nhở về cách giải quyết cái chung và cái riêng, việc nước và việc nhà. Truyền
thuyết ấy như ta vẫn biết chứa đựng bài học mất nước sâu sắc, bài học mất nước là chính và không ai có thể
phủ nhận, nhưng chỉ nhắc đến bi kịch mất nước thôi là chưa đủ mà còn ẩn sâu bi kịch tình yêu còn nhiều
tranh cãi...
HÀ THỊ THIÊN THANH
HS lớp 10 chuyên Văn, Trường THPT Quốc Học - Huế