Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Đánh giá quy định về điều kiện kết hôn theo quy định của luật hôn nhân và gia đình năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.77 KB, 17 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP HỌC KỲ
MƠN: LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
ĐỀ SỐ 05
“Đánh giá quy định về điều kiện kết hôn theo quy
định của Luật hơn nhân và gia đình năm 2014”
HỌ VÀ TÊN

:

MSSV

:

LỚP

:

Hà Nội, 2020


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Hơn nhân đâu phải cần mỗi tình u, mà bên cạnh đấy là
nhiều điều kiện khác như: kinh tế, sự cảm thông,…hay không
phải chỉ cần dắc tay nhau lên phường đăng ký kết hôn là thành
vợ chồng, mà bên cạnh đấy cần phải có những điều kiện mà nhà


nước đặt ra, không chỉ để đảm bảo trật tự xã hội, đảm bảo sự
phát triển ổ định của xã và hơn hết là bảo vệ lợi ích mỗi cá nhân,
mỗi công dân trong xã hội. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
đã có những quy định chặt chẽ về kết hôn, ly hôn, quyền và
nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con,…
nhưng để thực hiện được các quyền và nghĩa vụ giữa vợ và
chồng, giữa cha mẹ và con; để có thể ly hơn… thì trước hết cần
phải kết hơn. Điều kiện kết hơn là một trong những chế định
quan trọng hàng đầu của Luật hơn nhân và gia đình và để hiểu
them về điều kiện kết hôn, em xin chọn đề bài số 5: “Đánh giá
quy định về điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hơn nhân
và gia đình năm 2014” làm bài tập học kỳ của mình.
Trong thời gian nghiên cứu, em khơng tránh khỏi thiếu sót,
kính mong thầy cơ có thể bỏ qua cho em để kết quả học tập mà
em đang phấn đấu, nỗ lực được tốt nhất có thể. Em xin trân
thành cảm ơn!

NỘI DUNG
I.
1.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN KẾT HƠN
Khái niệm kết hơn

Theo Luật hơn nhân và gia đình năm 2014 quy định về khái
niệm kết hôn:
Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng khi thỏa
mãn các điều kiện kết hôn và thực hiện đăng ký kết hôn tại cơ
quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Kết hơn là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ hôn nhân.

2.

Khái niệm điều kiện kết hôn
3


Điều kiện kết hôn là yêu cầu pháp lý được thể hiện thông qua
quy phạm pháp luật, đặt ra đối với các bên nam nữ buộc họ phải
đáp ứng, trên cơ sở đó việc kết hơn của họ mới được công nhận
là hợp pháp.
3. Quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về

điều kiện kết hơn
Kết hơn theo ngôn ngữ pháp lý được hiểu là việc nam nữ xác
lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật Hơn nhân
gia đình năm 2014 về điều kiện kết hơn và đăng ký kết hơn.
Theo đó, khơng phải cứ có tình u hay hai người muốn kết hơn
là kết hơn, pháp luật quy định khi có đủ các điều kiện nhất định
thì mới được kết hơn và được nhà nước công nhận là kết hôn hợp
pháp. Tuy nhiên, không phải ai cũng nắm rõ pháp luật và hiểu
hết các điều kiện để có thể kết hơn hợp pháp, bằng chứng cho
thấy trên thực tế vẫn tồn tại rất nhiều cuộc hôn nhân là kết hôn
trái pháp luật dẫn tới hậu quả là bị hủy kết hôn trái pháp luật.Kết
hôn được coi là hợp pháp nếu đáp ứng đủ các điều kiện kết hôn
theo quy định tại Khoản 1 Điều 8 Luật Hơn nhân và gia đình năm
2014
Cụ thể các điều kiện bao gồm:
“1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện
sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;

b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm
kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5
của Luật này”
II.
1.

ĐÁNH GIÁ QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KIỆN KẾT HÔN THEO
LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014
Điều kiện về độ tuổi kết hôn

Điều kiện về độ tuổi kết hôn được Luật hơn nhân và gia đình
năm 2014 quy định: nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi
trở lên.
Điều này so với luật pháp phong kiến Việt Nam thì đã có sự
khác biệt khi mà lần đầu tiên độ tuổi kết hôn được quy định: “
4


Con trai 18 tuổi, con gái 16 tuổi mới có thể thành hơn” trong Bộ
Quốc triều hình luật ( hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức) quy định.
Như vậy, pháp luật thời kỳ này đã có sự phân biệt về độ tuổi kết
hôn tối thiểu giữa con trai và con gái. Hay trong thời kỳ Pháp
thuộc, độ tuổi kết hôn lại không được quy định thống nhất giữa
các Bộ luật. Pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay cũng đã có
bước chuyển biến mạnh mẽ về độ tuổi kết hơn với những nhận
thức càng ngày càng hồn thiện hơn. Quy định của Luật hơn
nhân và gia đình năm 1959 quy định về độ tuổi kết hôn “nam từ
20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên” hay so với “nam từ 20 tuổi

trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên” như Luật Hơn nhân và gia đình năm
2000. Sự thay đổi này thể hiện sự tiến bộ trong việc xây dựng pháp
luật nhằm giải quyết những bất cập trong q trình áp dụng pháp
luật.
"Từ đủ" có thể hiểu là kể từ thời điểm bạn đạt độ đủ tuổi luật
định (tính trịn năm), bạn có thể đăng ký kết hơn ngay khi bạn
đủ tuổi hoặc sau đó bao lâu cũng được. Mà theo nghiên cứu, độ
tuổi này là hợp lý cả về tâm sinh lý của nam nữa và đảm bảo sự
thống nhất trong hệ thuống pháp luật. Ví dụ chị X sinh ngày
1/1/2000 thì đến ngày 1/1/2018 thì chị X trịn 18 tuổi và từ sau
ngày 1/1/2018 chị X có quyền kết hơn




Về tâm sinh lí:
Khi người phụ nữ đủ 18 tuổi thì cơ thể hồn thiện, việc
mang thai và sinh con sẽ an toàn hơn, mặt khác khi
này tâm lí đã hồn thiện nên việc tiếp nhận khối lượng
kiến thức và kinh nghiệm trong cuộc sống sẽ tốt hơn, xư
lý được các vấn đề trong cuộc sống.
- Trung bình con gái bắt đầu dậy thì lúc 10-12 tuổi, con trai
bắt đầu dậy thì lúc 11-13 tuổi. Con gái thường dậy thì
xong lúc 15-17 tuổi, trong khi con trai dậy thì xong lúc
17-19 tuổi. Như vậy, con trai dậy thì muộn hơn, trưởng
thành chậm hơn 2 năm so với con gái. Do đó quy định
tuổi kết hơn của nam chậm hơn 2 tuổi là phù hợp với đặc
thù sinh lý của 2 giới, khơng thể xem đó là "phân biệt đối
xư về giới" (tương tự như việc quy định vợ được nghỉ thai
sản lâu hơn chồng cũng không bị coi là phân biệt đối xư).

Sự thống nhất trong hệ thống pháp luật:
Thiếu sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống văn bản pháp
luật. Theo quy định của BLDS thì người chưa đủ 18 tuổi là
người chưa thành niên. Người từ đủ 16 tuổi đến chưa đủ 18
5




2.

tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người
đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ
nhu cầu sinh hoạt hoặc pháp luật có quy định khác. Đồng
thời, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì đương sự
là người từ đủ 18 tuổi trở lên mới có đầy đủ năng lực hành vi
tố tụng dân sự. Như vậy, nếu cho phép người chưa đủ 18
tuổi kết hôn không những tạo ra sự thiếu thống nhất, đồng
bộ trong hệ thống văn bản pháp luật mà còn hạn chế một số
quyền của người nữ khi xác lập giao dịch, hạn chế quyền
u cầu ly hơn (phải có người đại diện). Luật Hơn nhân và
gia đình 2014 quy định tuổi kết hơn từ đủ 18 tuổi giúp đồng
bộ hóa hệ thống pháp luật, đảm bảo đầy đủ quyền, nghĩa vụ
dân sự của người nữ.
Hơn nữa, Tại Việt Nam, có một đặc thù là nam giới từ 18
tuổi trở lên đều phải đăng ký tham gia nghĩa vụ quân sự,
sau 2 năm thì xuất ngũ, khi đó nam giới vừa đủ 20 tuổi để
có thể kết hơn. Nếu hạ tuổi kết hơn của nam xuống 18 tuổi
thì sẽ dẫn tới hệ lụy là có nhiều thanh niên tìm cách trốn
nghĩa vụ qn sự bằng cách đăng ký kết hơn (trong thời

bình, việc tuyển quân thường ưu tiên lấy nam giới độc
thân). Đồng thời, sẽ có những cặp vợ chồng vừa kết hơn,
người vợ đang mang thai thì lại phải chia lìa do người chồng
(vừa đủ 18 tuổi) phải đi nghĩa vụ quân sự. Như vây, nếu
Luật Hơn nhân và gia đình hạ độ tuổi kết hơn của nam giới
xuống 18 tuổi thì sẽ gây cản trở việc thi hành Luật nghĩa vụ
quân sự, và gián tiếp khiến Luật nghĩa vụ quân sự trở nên
vơ nhân đạo đối với các gia đình mà người chồng chưa đủ
20 tuổi.
Điều kiện về sự tự nguyện kết hôn của nam và nữ

Ở thời kỳ phong kiến, nam nữ chỉ được kết hơn khi có cha mẹ
hoặc người đứng đầu dịng họ đứng ra tổ chức hơn lễ chứ chưa
ghi nhận sự tự nguyện kết hôn của nam, nữ. Và sự tự nguyện kết
hôn đã dần rõ nét hơn qua thời kỳ Pháp thuộc (kết hôn phải được
hai bên nam nữ đồng lòng tuy nhiên vẫn phải chịu sự cho phép,
tổ chức của cha mẹ). Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa đã đánh dấu bước ngoặt to lớn trong lịch sư lập
pháp Việt Nam khi: cho phép người con đã trưởng thành lấy vợ,
lấy chồng khơng cần có sự đồng ý của cha mẹ hay các bậc
trưởng tơn trong gia đình (điều 2 Sắc lệnh số 97/SL ngày
22/5/1950)
6


Dưới chủ nghĩa xã hơi, khi đã xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất, xác lập chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa thì mới có điều
kiện đảm bảo hôn nhân tự do thực sự, nghĩa là hơn nhân dựa
trên cơ sở tình u chân chính giữa nam và nữ. Hiến pháp Việt
Nam năm 2013, Điều 36 có quy định “Nam, nữ có quyền kết

hơn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một
vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tơn trọng lẫn nhau”.
Nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ trong hôn nhân này đã
được Luật hơn nhân và gia đình 2014 cụ thể hóa để trở thành
điều kiện kết hơn dựa trên sự tự nguyện, cụ thể Tự nguyện kết
hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 được hiểu là việc
hai bên nam, nữ tự mình quyết định việc kết hơn và thể hiện ý
chí là mong muốn trở thành vợ, chồng của nhau. Mỗi bên
nam, nữ không bị tác động bởi bên kia hay của bất kỳ người nào
khác khiến họ phải kết hôn trái với nguyện vọng của họ. Sự thể
hiện ý chí phải thống nhất với ý chí. Hai bên nam, nữ mong
muốn trở thành vợ, chồng xuất phát từ tình u thương giữa họ
và nhằm mục đích là cùng xây dựng gia đình sự tự nguyện của
bên nam, nữ trong việc kết hôn phải thể hiện rõ là họ mong
muốn được gắn bó với nhau, cùng nhau chung sống suốt đời
nhằm thỏa mãn nhu cầu tình cảm giữa hai người. Sự tự nguyện
của các bên trong việc kết hôn là yếu tố quan trọng đảm bảo
cho hôn nhân có thể tồn tại lâu dài bền vững.
Điều 39 BLDS quy định: “Nam nữ có đủ điều kiện kết hôn theo
quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình có quyền tự do
kết hơn, khơng bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào, không ai
được cản trở hôn nhân tự nguyện”.
Sự tự nguyện của các bên phải xuất phát từ tình u chân
chính giữa họ, đồng thời sự tự nguyện nam nữ trong việc kết hôn
là nhằm xây dựng gia đình và cùng nhau chung sống lâu dài, vì
vậy trong trường hợp các bên có sự tự nguyện, nhưng khơng vì
mục đích hơn nhân mà nhằm mục đích vi phạm pháp luật, đạo
đức xã hội thì sẽ không được Nhà nước công nhận và sẽ bị xư
hủy. Việc kết hôn do hai bên nam nữ tự quyết định, không chịu
tác động của bên kia hoặc bất kỳ người nào. Việc kết hôn do bị

cưỡng ép, lừa dối thì khơng được pháp luật cơng nhận.
Sự tự nguyện của các bên phải được biểu hiện thông qua thủ
tục đăng ký kết hôn, để đảm bảo việc kết hôn hoàn toàn tự
7


nguyện, hai bên nam nữ phải cùng có mặt tại cơ quan có thẩm
quyền về đăng ký kết hơn, nộp tờ khai đăng ký kết hôn, ngày mà
cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành đăng ký kết hơn và
trao giấy chứng nhận kết hơn thì cả hai bên nam và nữ vẫn phải
có mặt.
Việc kết hơn cũng có thể bị cản trở, cản trở hôn nhân là hành
vi của người thứ ba, thông thường hành vi cản trở được thực hiện
bởi gia đình, những người mà bản thân bên nam nữ kết hơn có
sự lệ thuộc, với hành vi cản trở hôn nhân phải lên án đồng thời
và kịp thời ngăn chặn nếu cấu thành tội cưỡng ép kết hôn hoặc
cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ thì cần tiến hành xư lý, việc
xư lý góp phần tích cực bảo đảm tự do hơn nhân của cơng dân.
Bên cạnh đó pháp luật cũng địi hỏi việc kết hơn phải do chính
người
kết
hơn
quyết định trên cơ sở mong muốn kết hơn của họ. Chính vì thế

pháp
luật
cũng khơng cho phép cư người đại diện trong kết hơn. Vì lý do
trên

những

người bị mất năng lực hành vi dân sự thì khơng được kết hơn, do
khơng
xác
định
được sự tự nguyện của họ nên.
Chính vì vậy mà pháp luật địi hỏi việc kết hơn phải xuất phát
từ
sự
tự
nguyện của hai bên kết hôn. Đây là một trong những yếu tố
quan
trọng
nhằm
đảm bảo hạnh phúc, sự tồn tại lâu dài của gia đình và để bảo vệ
quyền

lợi
ích
chính đáng của các bên khi kết hôn.
3.

Cấm kết hôn giữa những người đang có vợ hoặc có
chồng

Khoản 2, Điều 8 Luật Hơn nhân và gia đình 2014 quy định
cấm người đang có vợ hoặc có chồng kết hơn với người khác.
Xuất phát từ bản chất hôn nhân xã hội chủ nghĩa là hơn nhân
một vợ một chồng, tình u nam nữ được lấy làm cơ sở để xác lập
hôn nhân, chỉ có hơn nhân một vợ một chồng mới đảm bảo được sự
hạnh phúc, bền vững trong gia đình, Luật Hơn nhân và gia

đình cấm người đang có vợ hoặc có chồng kết hơn với người khác.
Tuy nhiên ở nước ta vẫn tồn tại trường hợp một chồng có hai
vợ, một vợ hai chồng. Đó là trường hợp cán bộ, bộ đội đã có vợ
8


hoặc chồng ở miền nam, tập kết ra bắc năm 1954 và lại lấy vợ,
chồng khác. Năm 1975, khi đất nước đã thống nhất thì họ trở về
đồn tụ với gia đình và tồn tại hai quan hệ hơn nhân. Việc kết hôn
trên tuy đã vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng nhưng do hồn
cảnh đất nước có chiến tranh nên được pháp luật cơng nhận và bảo
vệ.
Ngồi ra, việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng
mà không đăng ký kết hôn cũng không được pháp luật công
nhận là vợ, chồng (tại Điều 8, Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014). Người đang có vợ hoặc có chồng mà chung sống
hoặc kết hôn với người khác hoặc chưa có chồng mà kết hơn
hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ là
vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng –
nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình được ghi
nhận trong Hiến pháp và Luật Hơn nhân và gia đình). Vì thế, vấn
đề này cịn được quy định chặt chẽ hơn tại Luật Hôn nhân và gia
đình 2014: cấm người đang có vợ hoặc chồng mà kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa
có chồng mà kết hơn hoặc chung sống như vợ chồng với người
đang có chồng, có vợ.
4.

Các trường hợp cấm kết hôn


Từ thời kỳ phong kiến thì đã có những quy định về trường hợp
cấm kết hơn như: Cấm kết hơn khi có tang, cấm kết hơn giữa
những người thân thích với nhau, trị lấy vợ góa của thầy,… Đây
là sự tiến bộ của pháp luật phong kiến khi quy định những
trường hợp cấm kết hôn để bảo đảm phong tục, đạo đức Nho
giáo. Càng về sau này, các trường hợp cấm kết hơn càng hồn
thiện hơn, bác bỏ những trường hợp cấm kết hôn cũ như: cấm
kết hơn khi đang chịu tang, đàn bà góa không được tái giá…
đồng thời quy định thu hẹp các trường hợp cấm kết hơn như:
cấm người đang có vợ, có chồng kết hơn với người khác (Điều 5
Luật hơn nhân và gia đình năm 1959), giữa những người có cùng
dịng máu về trực hệ, tảo hơn, cưỡng ép kết hơn…hay hồn thiện
hơn cả là Luật hơn nhân và gia đình năm 2014 quy định các
trường hợp cấm kết hơn rất chặt chẽ:
4.1.

Cấm kết hôn giả tạo

Điểm a khoản 2 điều 5 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014
quy định cấm kết hơn giả tao. Kết hơn để có quốc tịch nước
ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt mục đích
khác mà khơng nhằm mục đích xây dựng gia đình. Có thể
9


thấy, kết hôn giả tạo là việc kết hôn nhằm mục đích khác mà
khơng hề hướng tới mục đích xây dựng gia đình. Bởi lẽ, hơn nhân
là việc xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật
này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hơn. Vì vậy, đây là
trường hợp pháp luật cấm kết hôn.

4.2.

Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn,
cản trở kết hôn

Điểm b khoản 2 điều 5 Luật Hơn nhân và gia đình năm
2014 quy định cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn,
cản trở kết hôn. Một trong những nguyên tắc cơ bản trong
Luật Hơn nhân và gia đình là hơn nhân tự nguyện, tiến bộ: tự
nguyện hoàn toàn trong việc là hai bên tự mình quyết định việc
kết hơn và thể hiện ý chí mong muốn của mình. Sự tự nguyện
của các bên trong việc kết hôn là yếu tố quan trọng đảm bảo cho
hơn nhân có thể tồn tại lâu dài và bền vững. Ngoài ra, để đảm
bảo nguyên tắc tự nguyện tiến bộ, Nhà nước cấm việc cưỡng ép,
lừa dối kết hôn. Bởi lẽ, trong thực tiễn hiện tượng thiếu sự tự
nguyện vẫn xảy ra. Hiện tượng này gây ảnh hưởng xấu đến cuộc
sống và quyền lợi của những người kết hơn, gây hậu quả xấu cho
gia đình và xã hội. Vì vậy, Nhà nước nghiêm cấm các trường hợp
vi phạm.
4.3.

Cấm kết hơn giữa những người đang có vợ hoặc có
chồng

Điểm c Khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy
định cấm người đang có vợ hoặc có chồng kết hơn với người khác
hoặc chưa có vợ, có chồng mà kết hơn với người đang có vợ, có
chồng
Xuất phát từ bản chất hôn nhân xã hội chủ nghĩa là hơn nhân
một vợ một chồng, tình u nam nữ được lấy làm cơ sở để xác lập

hôn nhân, chỉ có hơn nhân một vợ một chồng mới đảm bảo được sự
hạnh phúc, bền vững trong gia đình, Luật Hơn nhân và gia
đình cấm người đang có vợ hoặc có chồng kết hôn với người khác.
Tuy nhiên ở nước ta vẫn tồn tại trường hợp một chồng có hai
vợ, một vợ hai chồng. Đó là trường hợp cán bộ, bộ đội đã có vợ
hoặc chồng ở miền nam, tập kết ra bắc năm 1954 và lại lấy vợ,
chồng khác. Năm 1975, khi đất nước đã thống nhất thì họ trở về
đồn tụ với gia đình và tồn tại hai quan hệ hôn nhân. Việc kết hôn
trên tuy đã vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng nhưng do hoàn
cảnh đất nước có chiến tranh nên được pháp luật cơng nhận và bảo
vệ.
10


Ngoài ra, việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng
mà không đăng ký kết hôn cũng không được pháp luật công
nhận là vợ, chồng (tại Điều 8, Luật Hơn nhân và gia đình
năm 2014). Người đang có vợ hoặc có chồng mà chung sống
hoặc kết hơn với người khác hoặc chưa có chồng mà kết hơn
hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ là
vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng –
nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình được ghi
nhận trong Hiến pháp và Luật Hơn nhân và gia đình). Vì thế, vấn
đề này cịn được quy định chặt chẽ hơn tại Luật Hơn nhân và gia
đình 2014: cấm người đang có vợ hoặc chồng mà kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa
có chồng mà kết hơn hoặc chung sống như vợ chồng với người
đang có chồng, có vợ.
4.4.


Cấm kết hơn giữa người cùng dịng máu trực hệ, có
quan hệ trong phạm vi ba đời, kết hôn giữa cha,
mẹ nuôi với con nuôi, những người từng là cha, mẹ
nuôi với con nuôi; bố chồng với con dâu, mẹ vợ với
con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với
con riêng của chồng

Điểm d khoản 2, Điều 5, Luật Hơn nhân và gia đình 2014 quy
định cấm kết hơn giữa những người cùng dịng máu về trực hệ,
giữa những người trong phạm ba đời.
Quy định này phù hợp với các nghiên cứu khoa học và truyền
thống đạo đức con người. Theo nghiên cứu y học, con cái của
những cặp hơn nhân cận huyết có nguy cơ mắc các bệnh tật di
truyền. Khi trưởng thành, những đứa trẻ được sinh ra từ những
ông bố bà mẹ có quan hệ anh em họ cũng dễ có nguy cơ sẩy thai
hoặc vô sinh. Đây đang là nguyên nhân làm suy giảm dân số của
các dân tộc thiểu số ở nước ta, và chính vì nhận thức hậu quả của
việc kết hơn giữa những người cận huyết. Ngồi ra, Luật Hơn
nhân và gia đình năm 2014 bổ sung thêm quy định: cấm chung
sống như vợ chồng giữa những người cùng dịng máu về trực hệ;
giữa những người có họ trong phạm vi ba đời. Luật quy định như
vậy để hạn chế sự suy thối giống nịi, tạo gánh nặng cho xã hội,
làm lành mạnh các mối quan hệ trong gia đình và phù hợp với
truyền thống đạo đức.
Trong trường hợp kết hôn giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi,
những người từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi; bố chồng với con
dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với
con riêng của chồng
11



Quy định này nhằm làm ổn định các mối quan hệ trong gia
đình, đồng thời ngăn chặn được hiện tượng lợi dụng mối quan hệ
phụ thuộc mà có thể xảy ra hành vi cưỡng ép kết hôn giữa cha mẹ
nuôi với con ni. Do đó, Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014
tiếp tục kế thừa quy định này và có điểm tiến bộ hơn: Cấm kết hơn
và chung sống như vợ chồng giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa
người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu,
mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con
riêng của chồng. Điểm mới này góp phần phát huy truyền thống tốt
đẹp của gia định Việt Nam và xây dựng chế độ hơn nhân và gia
đình lành mạnh, tiến bộ.
4.5.

Kết hơn giữa những người cùng giới tính

Nếu hai người cùng giới tính kết hơn với nhau thì trái với quy
luật tự nhiên và quy luật xã hội, đồng thời dẫn tới việc đi ngược
lại một chức năng cơ bản của gia đình là duy trì nịi giống. Vì vậy,
Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 đã cấm những người cùng
giới tính kết hơn với nhau.
Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, do áp lực của cuộc sống, mục
tiêu được con người kỳ vọng nhất trước ngưỡng cưa hôn nhân là
gia đình trở thành một “mái ấm”, là nơi an toàn, yên ổn, là nơi
con người được thỏa mãn nhất những nhu cầu tâm lý tình
cảm. Mỗi con người, dù với những bản dạng tình dục khác nhau,
đều có quyền kiếm tìm hạnh phúc. Trên cơ sở tơn trọng quyền con
người, Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 đã bỏ quy định cấm
người cùng giới kết hôn, thay vào đó, Nhà nước sẽ khơng cơng
nhận việc kết hơn này.

III.

NHỮNG VƯỚNG MẮC TỪ THỰC TIỄN VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ HOÀN THIỆN ĐIỀU KIỆN KẾT HÔN
1. Những vướng mắc về điều kiện kết hôn
1.1.
Điều kiện về độ tuổi kết hôn

Một số nước và vùng lãnh thổ quy định về tuổi kết hôn thấp
hơn so với Việt Nam; nếu áp dụng pháp luật nước ngồi đối với
quan hệ Hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi tại Việt Nam
thì có được áp dụng hay khơng? Ngồi ra, thực tiễn thi hành quy
định về tuổi kết hơn cịn rất nhiều bất cập giữa quy định của
pháp luật và tập quán về tuổi kết hôn. Ở một số địa phương,
cộng đồng, người dân vẫn kết hôn theo độ tuổi trong tập quán
dẫn tới tình trạng tảo hơn vẫn cịn tồn tại ở các nhóm cộng đồng
này đặc biệt tỷ lệ kết hơn trước tuổi luật định ở vùng cao, nơi
12


đồng bào dân tộc ít người sinh sống cịn khá cao. Nhưng trên
thực tế khá nhiều nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng
chưa tới độ tuổi này và Pháp luật về hộ tịch vẫn thừa nhận
quyền làm mẹ của người chưa đủ 18 tuổi, vẫn được đăng ký khai
sinh cho con ngoài giá thú.
1.2.

Điều kiện về sự tự nguyện kết hơn

Trong Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 cũng như các văn

bản hướng dẫn cũng hướng dẫn về những trường hợp bị coi là
một bên lừa dối nhưng là dưới dạng liệt kê hành vi như: lừa dối là
nếu kết hôn sẽ xin việc cho, nếu kết hơn thì bảo lãnh ra nước
ngồi,... chứ khơng có những tiêu chí như thế nào là " lừa dối",
khơng khái quát được hết các trường hợp lừa dối khiến cho việc
xác định hành vi lừa dối trong hơn nhân có nhiều vướng
mắc.Trên thực tế sự tự nguyện chỉ có thể được xác định thơng
qua hành vi thể hiện ý chí của người kết hơn trước cơ quan nhà
nước có thẩm quyền công nhận việc kết hôn. Bản thân yếu tố
chủ quan bên trong như tình cảm, mong muốn, nguyện vọng của
người kết hơn như thế nào thì lại khó có thể biết. Bên cạnh đó
vấn đề thẩm định sự tự nguyện kết hơn có yếu tố nước ngồi cịn
nhiều hạn chế, nhất là trong cách tiến hành phỏng vấn. Một số
cơ quan nhà nước vẫn tiến hành phỏng vấn một cách hời hợt cho
qua, chưa làm đúng với tinh thần và tầm quan trọng của thủ tục
phỏng vấn, cán bộ biết tiếng nước ngồi cũng khơng nhiều nên
nhiều khi cán bộ phỏng vấn khơng hiểu được các đương sự nói
gì.
Điều kiện về năng lực hành vi dân sự
Về quy định cấm người mất năng lực hành vi dân sự. Người
mất năng lực dân sự được hiểu là người bị mắc căn bệnh làm
mất khả năng nhận thức, điều khiển hành vi và có quyết định
của Tịa án tun bố người đó bị mất năng lực hành vi dân sự.
Trên thực tế có rất ít người là ơng, bà, cha, mẹ, anh, chị,em....
yêu cầu tòa án tuyên bố người thân của mình bị mất năng lực
hành vi dân sự nên vẫn có nhiều trường hợp người mất năng lực
hành vi dân sự được đăng kí kết hơn. Nhiều cơ quan đăng kí kết
hơn cịn lúng túng trong việc xác minh người này có thuộc diện
cấm kết hơn khơng. Thực tiễn giải quyết vụ việc hơn nhân và gia
đình liên quan vấn đề này đã phát sinh vấn đề: Có nhiều trường

hợp vì một số lý do mà kết hơn với người thực tế không thể nhận
thức, không làm chủ được hành vi của mình nhưng chưa bị Tồ
1.3.

13


án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, khi nhận ra hoặc
không thể chung sống với người này được nữa, người vợ/ chồng
có nhu cầu muốn ly hơn được hướng dẫn yêu cầu cơ quan có
thẩm quyền yêu cầu Tịa án hủy việc kết hơn trái pháp luật theo
quy định. Tòa án thụ lý yêu cầu giải quyết hủy hơn nhân trái
pháp luật của cơ quan có thẩm quyền (cụ thể là Hội liên hiệp
phụ nữ,…) thì gặp phải ý kiến phản đối của phía gia đình người
vợ/chồng và Ủy ban nhân dân nơi cấp giấy chứng nhận đăng ký
kết hôn. Ủy ban nhân dân nơi cấp giấy chứng nhận đăng ký kết
hôn cho rằng: Họ đã tiến hành làm thủ tục đăng ký kết hôn theo
đúng quy định của pháp luật (vì người vợ/chồng chưa bị Tồ án
tuyên bố là mất năng lực hành vi dân sự. Do đó người vợ/chồng
tuy khơng thể nhận thức, khơng làm chủ hành vi nhưng chưa có
quyết định của Tịa án tun người đó mất năng lực hành vi dân
sự thì vẫn coi là người bình thường). Một số trường hợp kết hôn
và đã gây hậu quả xấu cho xã hội.
1.4.
Các trường hợp cấm kết hôn
Thứ nhất: Quy định về cấm kết hơn giữa những người cùng
dịng máu về trực hệ, giữa những người có họ trong phạm vi ba
đời khơng có tính khả thi khi áp dụng tại các vùng dân tộc thiểu
số.
Thứ hai: Kết hôn trái pháp luật được hiểu: “ Kết hôn trái pháp

luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện
kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này”. Như vậy trong
Điều 8 có dẫn chiếu đến các điểm a,b,c,d khoản 2 Điều 5 của
Luật quy định các hành vi bị cấm. Trong đó tại điểm c quy định
cấm “ Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống
như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng
mà kết hơn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có
chồng, có vợ”. Những trường hợp người đang có vợ, có chồng mà
chung sống như vợ chồng với người khác trên thực tế xãy ra khá
nhiều, ảnh hưởng không nhỏ đến danh dự, nhân phẩm của người
phụ nữ nói riêng, phá vỡ hạnh phúc gia đình vốn đang tốt đẹp,
nhưng rất khó giải quyết. Muốn xác định chung sống như vợ
chồng với nhau phải đáp ứng nhiều khía cạnh pháp lý, do vậy
đường lối giải quyết của địa phương đa phần là vận động, giải
thích pháp luật để các bên chấm dứt quan hệ sai trái.
Thứ ba:Về việc xác định thế nào là người đang có vợ, có
chồng. Trên thực tế việc xác định tình trạng hơn nhân của các
bên khơng phải lúc nào cũng đơn giản. Tuy nhiên rất khó xác
14


định họ chung sống với nhau từ thời điểm nào, thế nào là chung
sống với như vợ chồng, đặc biệt đối với những cặp không sống
chung thường xuyên tại một địa phương. Vì vậy dẫn đến tình
trạng người đang có vợ hoặc có chồng vẫn được cơ quan có
thẩm quyền chấp nhận u cầu đăng kí kết hơn.
Thứ tư:Quan hệ chung sống với nhau như vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn, đặc biệt đối với trường hợp chung sống như vợ
chồng trước ngày 03/01/1987. Theo quy định tại Nghị quyết số

35/2000/NQ-QH10 ngày 09/06/2000 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội về việc thi hành Luật Hơn nhân và gia đình thì những trường
hợp này xem như đã có đăng ký kết hôn, trong mọi giao dịch của
họ được xem là vợ chồng hợp pháp. Nhưng trên thực tế đối với
trường hợp này khi tham gia giao dịch ở một số lĩnh vực khác
như cư trú, đất đai chẳng hạn thì cơ quan tiếp nhận yêu cầu xuất
trình giấy chứng nhận kết hôn để chứng minh quan hệ vợ chồng
hợp pháp. Từ đó, đã lộ ra những hạn chế nhất định.
2. Một số kiến nghị hồn thiện điều kiện kết hơn
Thứ nhất, Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền: Cần có
những biện pháp giáo dục, tuyên truyền hợp lý để nâng cao tinh
thần tuân thủ pháp luật của người dân. Bên cạnh đó cũng cần có
những biện pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả của việc thẩm
định sự tự nguyện kết hơn và nâng cao trình độ của các cán bộ
trong các cơ quan nhà nước như tình trạng người thuộc trường
hợp cấm kết hôn vẫn kết hôn.
Thứ hai, Cần sưa đổi điểm c khoản 1 điều 8 luật Hơn nhân và
gia đình theo hướng giống như điểm b điều 7 Luật Hơn nhân và
gia đình năm 1986 chỉ quy định người mất năng lực hành vi dân
sự là người khơng có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi,
khi có u cầu đăng kí kết hơn sẽ được cơ quan giám định tư
pháp xác định xem có đủ điều kiện sức khỏe khơng. Để hạn chế
tình trạng nhiều người thực tế đã rơi vào tình trạng mất năng lực
hành vi dân sự nhưng chưa bị Toà án tuyên bố mất năng lực
hành vi dân sự vẫn được cho đăng ký kết hôn, dẫn đến những
hậu quả xấu cho xã hội, Luật Hơn nhân và gia đình cần quy định
chi tiết hơn về trường hợp này theo hướng: trong trường hợp có
dấu hiệu bị mất năng lực hành vi dân sự… thì chính quyền địa
phương phải có trách nhiệm kiểm tra, xem xét trước khi cho
đăng ký kết hơn.

Thứ ba, Cần có quy định thủ tục rõ ràng xác minh quan hệ
nhân thân của các bên kết hôn. Cơng tác đăng kí và quản lý hộ

15


tịch cần quy định rõ thủ tục xác minh quan hệ nhân thân của
người kết hôn, kết quả phải được thể hiện bằng văn bản.
Thứ tư, Phát huy một cách tối ưu đối với những quy định trong
pháp luật chuyên ngành. Bởi vì pháp luật chuyên nganh đã được
các chuyên gia có kiến thức pháp luật về chun mơn rất cao và
được đúc kết từ kinh nghiệm thực tiễn. Tránh trường hợp luật
chuyên ngành đã quy định khá cụ thể, nhưng khi áp dụng lại bị
ràng buộc bởi văn bản pháp luật khác có liên quan. Từ đó tạo ra
khe hở, dẫn đến sự tùy tiện cho người thực hiện. Cần có quy định
của pháp luật thể hiện trong văn bản một cách cụ thể, dễ hiểu,
dễ thực hiện, tránh việc quá nhiều văn bản cùng quy định cho
một nội dung hoặc nhiều Điều, Khoản của văn bản quy định cho
một vấn đề, làm cho người thực hiện xác định dẫn chiếu pháp
luật sai.
Thứ năm, Xây dựng hệ thống danh mục các tập quán tốt đẹp
trong hôn nhân và gia đình để áp dụng thống nhất trên phạm vi
cả nước.

KẾT LUẬN
Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình hạnh phúc xã hội mới
vững bền. Bởi thế, việc quy định về điều kiện kết hôn chặt chẽ
như Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có thể nhận thấy rõ sự
phát triển của Nhà nước, đặc biệt là luật pháp Việt Nam giúp cho
mỗi cá nhân trong xã hội thực hiện thật tốt những quy định của

pháp luật, có điều kiện để phát triển, xây dựng gia đình dựa trên
sự tự nguyện, gia đình ấm no, hạnh phúc.
Trên đây là những đánh giá của em về điều kiện kết hơn
theo quy định của Luật hơn nhân và gia đình năm 2014, mong
rằng qua những phân tích này có thể giúp mọi người hiểu rõ, vận
dụng vào thực tế và tránh được những vi phạm về điều kiện kết
hôn.

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.

9.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hơn nhân và gia
đình, Nxb. Cơng an nhân dân;
Bộ Quốc triều hình luật;
Quốc hội, Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959;
Quốc hội, Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986;
Quốc hội, Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000;
Quốc hội, Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014;

Bộ luật dân sự 2005, Nxb. Cơng an nhân dân;
Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/06/2000 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và
gia đình;
Bình luận khoa học Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam tập 1: Gia đình - NXB Trẻ - TP Hồ Chí Minh, trang
239.Nguyễn Ngọc Điện;

10. />11. />
17



×