Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

(Luận văn thạc sĩ) vai trò lịch sử của nguyễn thị bích châu trong sự nghiệp của nhà trần qua các tài liệu lịch sử văn hóa​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Yến

VAI TRỊ LỊCH SỬ CỦA NGUYỄN THỊ BÍCH CHÂU
TRONG SỰ NGHIỆP CỦA NHÀ TRẦN
QUA CÁC TÀI LIỆU LỊCH SỬ - VĂN HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Yến

VAI TRỊ LỊCH SỬ CỦA NGUYỄN THỊ BÍCH CHÂU
TRONG SỰ NGHIỆP CỦA NHÀ TRẦN
QUA CÁC TÀI LIỆU LỊCH SỬ - VĂN HÓA

Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số

: 8229013

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


TS. TRẦN THỊ THANH THANH

Thành phố Hồ Chí Minh - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ “Vai trị lịch sử của Nguyễn Thị Bích
Châu trong sự nghiệp nhà Trần qua các tài liệu lịch sử - văn hóa” là cơng
trình nghiên cứu của riêng tơi và được sự hướng dẫn khoa học của TS. Trần
Thị Thanh Thanh. Kết quả của đề tài là trung thực. Tất cả những tham khảo
và kế thừa đều được trích dẫn và tham chiếu đầy đủ.
Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.
Tác giả luận văn

Lê Thị Yến


Trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn thạc sĩ tôi luôn nhận
được sự quan tâm, hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của các thầy cơ giáo trong
khoa Lịch sử cùng với sự động viên giúp đỡ của bạn bè đồng nghiệp.
Lời đầu tiên tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Thị
Thanh Thanh người đã trực tiếp giúp đỡ, hướng dẫn tơi hồn thành luận văn.
Xin chân thành bày tỏ lịng biết ơn đến tồn thể q thầy cơ trong khoa Lịch
sử và Phòng Sau đại học Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi điều kiện
thuận lợi nhất cho tơi trong suốt q trình học tập nghiên cứu và cho đến khi
thực hiện đề tài luận văn.
Nhân dịp này tơi xin tỏ lịng biết ơn đến Thư viện Tổng hợp Thành phố
Hồ Chí Minh, Thư viện Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh và Thư
viện Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

Xin cảm ơn Ban Giám đốc Trung tâm giáo dục thường xuyên Thanh
Niên Xung Phong, Ban Giám hiệu Trường THCS Lê Quý Đôn đã không
ngừng hỗ trợ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian nghiên
cứu và thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, các anh chị và các bạn đồng nghiệp
đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực
hiện đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2018
Tác giả

Lê Thị Yến


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
Chương 1. NHÂN VẬT LỊCH SỬ NGUYỄN THỊ BÍCH CHÂU
VÀ BẢN KÊ MINH THẬP SÁCH QUA NGUỒN
TƯ LIỆU LỊCH SỬ - VĂN HÓA .............................................. 6
1.1. Khái niệm .................................................................................................. 6
1.1.1. Nhân vật lịch sử................................................................................. 6
1.1.2. Tư liệu lịch sử - văn hóa.................................................................... 6
1.2. Nhân vật lịch sử Nguyễn Thị Bích Châu qua tư liệu lịch sử
- văn hóa .................................................................................................... 8
1.2.1. Q hương, gia đình ........................................................................ 8
1.2.2. Vị trí của Nguyễn Thị Bích Châu trong triều Trần - Thời
vua Trần Duệ Tông ......................................................................... 9

1.3. Kê minh thập sách và những bài học lịch sử ............................................ 17
1.3.1. Bối cảnh ra đời ................................................................................ 17
1.3.2. Nội dung .......................................................................................... 20
1.3.3. Bài học lịch sử từ bản Kê minh thập sách ....................................... 25
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 42
Chương 2. NGUYỄN THỊ BÍCH CHÂU TRONG SỰ NGHIỆP
GIỮ NƯỚC THỜI TRẦN VÀ TRONG TỤC THỜ
ĐẠO MẪU.................................................................................. 44
2.1. Vai trị của Nguyễn Thị Bích Châu trong sự nghiệp dựng nước qua
đối chiếu với các nhân vật phụ nữ triều Trần .......................................... 44
2.1.1. Triều Trần trong lịch sử Việt Nam - Dựng nước và giữ nước ...... 44


2.1.2. Đánh giá vai trị của Nguyễn Thị Bích Châu qua đối chiếu
với các nhân phụ nữ triều Trần ..................................................... 58
2.2. Nguyễn Thị Bích Châu và Đạo Mẫu ở Việt Nam nói chung và ở
Kỳ Anh (Hà Tĩnh) nói riêng .................................................................... 66
2.2.1. Đạo Mẫu ở Việt Nam ...................................................................... 66
2.2.2. Đạo Mẫu ở Kỳ Anh (Hà Tĩnh) ........................................................ 71
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 81
KẾT LUẬN ................................................................................................... 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 85
PHỤ LỤC


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, vai trò cũng như quyền lợi của người phụ nữ

ngày càng được đề cao. Trong bối cảnh đó các nhà nghiên cứu lịch sử càng
quan tâm nghiên cứu về những người phụ nữ nổi tiếng trong lịch sử để thấy
những đóng góp lớn lao của họ cho lịch sử dân tộc. Có rất nhiều nhân vật nổi
tiếng thời trung đại được giới sử học quan tâm như Dương Vân Nga, Trần Thị
Dung, Huyền Trân, Ỷ Lan, An Tư,… Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là liệu còn
nhân vật nào trong lịch sử có đóng góp to lớn cho triều đại và dân tộc mà
chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm?
Là một người nghiên cứu lịch sử, tôi rất quan tâm đến vai trò của phụ nữ
trong lịch sử. Vì vậy, tơi quyết định chọn đề tài “Vai trị lịch sử của Nguyễn
Thị Bích Châu trong sự nghiệp nhà Trần qua các tài liệu lịch sử - văn hoá”
để làm đề tài nghiên cứu luận văn của mình. Sỡ dĩ tơi chọn đề tài này là vì
những lý do sau đây:
Thứ nhất, việc nghiên cứu lịch sử dân tộc rất quan trọng đặc biệt là lịch
sử giữ nước, bên cạnh việc giữ nước, chống ngoại xâm thì việc xây dựng, bảo
vệ chính quyền, vương triều cũng rất quan trọng. Đây được xem là một nội
dung lịch sử có ý nghĩa khoa học và thực tiễn đối với ngày nay.
Thứ hai, Nguyễn Thị Bích Châu là một nhân vật lịch sử có nhiều đóng
góp quan trọng trong thời kỳ cuối triều Trần nhưng đến nay chưa có một cơng
trình nào chính thức nghiên cứu sâu về bà, mặc dù nhân vật này đã tồn tại
trong dân gian, trong truyền thống địa phương từ mấy trăm năm nay và được
tôn thờ thành Thánh Mẫu, có đền thờ được cơng nhận là di tích lịch sử cấp
quốc gia. Qua cơng trình nghiên cứu này, tơi muốn góp thêm nhận thức mới
về vai trị của Nguyễn Thị Bích Châu đối với dân tộc Việt Nam nói chung và
triều Trần nói riêng.


2

Thứ ba, là một người con ở mảnh đất Kỳ Anh (Hà Tĩnh), nơi được xem
là nơi yên nghỉ và có di tích thờ nhân vật Nguyễn Thị Bích Châu, tơi muốn

góp một phần nhỏ trong việc phục dựng cuộc đời cũng như đánh giá đúng
công lao của bà để giúp nhân dân nơi đây hiểu thêm về vị “thánh Mẫu” mình
tơn thờ.
Thứ tư, việc thờ Mẫu ở huyện Kỳ Anh vẫn chưa được quan tâm nghiên
cứu, mặc dù nghi lễ thờ Mẫu đã tồn tại ở đây rất lâu đời. Qua việc nghiên cứu
nghi lễ thờ Mẫu ở Kỳ Anh, tơi muốn đóng góp thêm nhận thức về nghi lễ thờ
Mẫu còn tồn tại ngày nay ở Kỳ Anh (Hà Tĩnh) nói riêng và cả nước nói
chung.
Thứ năm, việc nghiên cứu cịn giúp tơi tích lũy được một số kinh nghiệm
quý báu, nâng cao nhận thức của bản thân để sau khi ra trường có thể dạy tốt
hơn ở trường phổ thông và độc lập nghiên cứu các đề tài khoa học giáo dục
khác.
Kết quả nghiên cứu của luận văn này để lại cho tôi những kinh nghiệm
đầu tiên về nghiên cứu vai trị của người phụ nữ nói chung và nhân vật lịch sử
nói riêng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Một số tác giả trong nước đã nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến
đề tài này. Có thể điểm qua một số cơng trình sau:
Cuốn “Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu và Đền thiêng hải
khẩu” (Nguyễn Khắc Mai và Trần Băng Thanh, 2015) là một tài liệu lịch sử
văn hóa chủ yếu, là cơ sở để khai thác thông tin lịch sử cho đề tài. Sách này
đã trình bày nội dung phần phiên âm và dịch nghĩa bản Kê minh thập sách
bằng Hán văn, thu thập các tài liệu văn học liên quan đến nhân vật, chứng
minh nhân vật Nguyễn Thị Bích Châu là có thật, và là tác giả của bản Kê
minh thập sách. Đồng thời tập hợp ý kiến của nhiều tác giả đánh giá về giá trị
của bản Kê minh thập sách và ngơi đền thờ Nguyễn Thị Bích Châu.


3


Cuốn “Hải khẩu linh từ thần tích và lễ hội” của Ban quản lý di tích lịch
sử đền thờ Nguyễn Thị Bích Châu (2013) đã đề cập đến cuộc đời và sự
nghiệp, bản Kê minh thập sách, kiến trúc khu di tích Hải khẩu linh từ, lễ cổ
truyền và văn tế, sắc phong nhân vật Nguyễn Thị Bích Châu.
Cuốn “Đền thiêng ở cửa biển” (Phan Văn, 2012) cũng đã trích bài “Đền
thiêng ở cửa biển” của tác giả Đoàn Thị Điểm và cung cấp một số thông tin
về ngôi đền thờ Nguyễn Thị Bích Châu. Trong cuốn sách này tác giả Ngân
Thanh gọi tên nhân vật là “Chế thắng phu nhân”.
Cuốn “Giai thoại lịch sử Việt Nam (tập II)” (2012) do Kiều Văn tuyển
soạn đánh giá nhân vật Nguyễn Thị Bích Châu, đặc biệt tác giả cuốn sách gọi
bà là một bậc “Nữ lưu hào kiệt”.
Cuốn “Nghệ An ký” của tác giả Bùi Dương Lịch đã viết lại cuộc sống
trong cung, những trăn trở và những cuộc nói chuyện, những lời khuyên của
Nguyễn Thị Bích Châu đối với vua Trần Duệ Tông.
Cuốn “Những phi - hậu nổi tiếng của các triều đại Việt Nam” (2014) do
Nhóm trí thức Việt biên soạn cũng có một phần nói về Quý phi Nguyễn Thị
Bích Châu, đề cập đến cuộc đời, sự hy sinh vì nước của Nguyễn Thị Bích
Châu, việc vua Lê Thánh Tông sắc phong và làm thơ điếu bà và bản Kê minh
thập sách.
“Truyền kỳ tân phả” của Đoàn Thị Điểm là một tác phẩm thuộc thể loại
truyện truyền kỳ - một dạng tài liệu lịch sử văn hóa. Một trong những đặc
điểm của thể loại truyền kỳ là thường bắt nguồn từ truyền thuyết, một phần
của ký ức dân gian được thể hiện qua truyền thuyết, nhất là về các nhân vật
lịch sử, sự kiện lịch sử, thể hiện thái độ và sự đánh giá của nhân dân, là lịch
sử chưa thành văn được thiêng hóa và huyền thoại hóa. Nếu cố gắng bóc tách
những huyền tích viền quanh truyền thuyết, có thể bất ngờ phát hiện được
khơng ít cái lõi của sự thật được ẩn giấu ở bên trong. Bởi vậy, thơng qua các
câu chuyện truyền kỳ, có thể phát hiện đời sống nhiều thời đại mà các bộ



4

thông sử, với các nguyên tắc ghi chép quan phương của sử quan triều đình, đã
hầu như quên lãng.
Các tài liệu trên đã cung cấp một lượng thông tin lịch sử quý báu để thực
hiện đề tài. Tuy nhiên đề tài tơi nghiên cứu là Vai trị và đóng góp của Nguyễn
Thị Bích Châu trong cơng cuộc dựng nước thời Trần qua các tài liệu lịch sử văn hóa” thì các cơng trình trên khơng có hoặc ở mức độ khác.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vai trị và đóng góp của nhân vật
Nguyễn Thị Bích Châu trong công cuộc dựng nước thời Trần và liên hệ ngày
nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu giai đoạn dựng nước từ khi nhà Trần
thành lập (1225) đến khi nhà Trần suy vong (1400). Công cuộc giữ nước với
cuộc kháng chiến chống ngoại xâm dưới thời Trần được dùng làm cơ sở lịch
sử cho các vấn đề nghiên cứu, từ đó nêu được sự đánh giá về vai trị và đóng
góp của Nguyễn Thị Bích Châu.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
‒ Các tài liệu lịch sử văn hóa.
‒ Tài liệu thu thập thực tế tại địa phương có khu di tích thờ nhân vật
Nguyễn Thị Bích Châu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Lập trường lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
trong nghiên cứu lịch sử cùng với tổng hợp các tài liệu đã thu thập được là cơ
sở, phương pháp chủ yếu để thực hiện đề tài. Phương pháp nghiên cứu chủ
yếu của chuyên ngành lịch sử là lịch sử và logic được phối hợp với các
phương pháp như tổng hợp, so sánh,...



5

5. Đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần:
‒ Phục dựng cuộc đời và sự nghiệp của nhân vật lịch sử Nguyễn Thị Bích
Châu.
‒ Đánh giá khách quan vai trị và đóng góp của nhân vật Nguyễn Thị
Bích Châu đối với nhà Trần nói riêng và đất nước nói chung.
‒ Tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của phụ nữ Việt Nam trong lịch
sử dựng nước và giữ nước.
‒ Ngoài ý nghĩa khoa học và thực tiễn, đề tài cịn có ý nghĩa về văn hóa
và giáo dục. Đề tài bổ sung nguồn tư liệu và những nhận định khoa học
cũng như những bài học liên hệ tới ngày nay, nâng cao giá trị giáo dục
truyền thống và hiểu biết về tục thờ đạo Mẫu ở Việt Nam.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được
cấu trúc gồm hai chương sau:
Chương 1. Nhân vật lịch sử Nguyễn Thị Bích Châu và bản Kê minh
thập sách qua nguồn tư liệu lịch sử - văn hóa.
Chương 2. Nguyễn Thị Bích Châu trong sự nghiệp giữ nước thời Trần
và trong tục thờ đạo Mẫu.


6

Chương 1. NHÂN VẬT LỊCH SỬ NGUYỄN THỊ BÍCH CHÂU VÀ BẢN
KÊ MINH THẬP SÁCH QUA NGUỒN TƯ LIỆU LỊCH SỬ - VĂN HÓA
1.1. Khái niệm
1.1.1. Nhân vật lịch sử

Dân tộc ta có lịch sử lâu đời, chứa đựng nhiều sự kiện ý nghĩa. Và cũng
có nhiều nhân vật lịch sử có tầm ảnh hưởng lớn đến những bước thăng trầm
trong lịch sử dân tộc. Khi nghiên cứu lịch sử khơng chỉ nghiên cứu các sự
kiện mà cịn cần tìm hiểu những nhân vật lịch sử.
Nhân vật lịch sử là những con người có ảnh hưởng đến một giai đoạn
trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, trong đó có những người đóng
góp, xây dựng đất nước nhưng cũng có những người phá hoại, gây rối. Có
những người được người đời sau ghi công, quý mến nhưng cũng có người bị
người đời sau lên án, nêu tên như một hình tượng xấu xa.
Theo tác giả luận văn, nhân vật lịch sử là những người có đóng góp cho
những gì đã xảy ra trong quá khứ và đạt được những thành tựu có ý nghĩa
trong lịch sử. Một người được coi là nhân vật lịch sử phải là người có đóng
góp tích cực trong lịch sử dân tộc, có những thành tựu đem lại lợi ích cho
nhân dân và được lịch sử ghi nhận. Có thể được thể hiện bằng những câu
chuyện truyền thuyết, lời kể dân gian, qua ca dao, hị vè. Nhưng khơng phải
nhân vật có ảnh hưởng xấu, gây tổn hại đến dân tộc và nhân dân. Trong bài
này, nhân vật Nguyễn Thị Bích Châu là một con người như vậy.
Nhân vật lịch sử thường được nghiên cứu về gốc tích, bối cảnh xã hội và
những việc làm của nhân vật.
1.1.2. Tư liệu lịch sử - văn hóa
Theo Phan Ngọc Liên trong cuốn “Phương pháp luận sử học”, “tư liệu
lịch sử là những di tích của quá khứ, xuất hiện như sản phẩm của quan hệ xã
hội nhất định, mang trong mình nó những dấu vết của quan hệ ấy, phản ánh


7

trực tiếp và trừu tượng hóa một mặt hoạt động nào đấy của con người” (Phan
Ngọc Liên, 2009).
Như vậy, tư liệu lịch sử có tầm quan trọng đặc biệt với khoa học Lịch sử

nói chung và đối với các cơng trình nghiên cứu lịch sử nói riêng. Khơng có tư
liệu lịch sử thì khơng có khoa học Lịch sử. Bất cứ một vấn đề nào đó mà khoa
học Lịch sử đặt ra, có được giải quyết hay khơng phụ thuộc hồn tồn vào
một điều kiện tiên quyết là có tư liệu lịch sử của vấn đề ấy hay không. Tư liệu
lịch sử không thể thiếu được với khoa học Lịch sử song nó hồn tồn “bị
động”. Nó được xem như “thứ nguyên liệu” để chế ra các sản phẩm khác
trong nghiên cứu sử học.
Tư liệu lịch sử là những sản phẩm của hoạt động của con người; nó xuất
hiện như một hiện tượng xã hội, nhằm phục vụ cho một mục đích, nhu cầu
nào đó của xã hội đương thời và tồn tại như những di tích, dấu vết của hoàn
cảnh lịch sử cụ thể đã qua. Trong tư liệu lịch sử có loại hình lịch sử văn hóa.
Tư liệu lịch sử văn hóa là loại tư liệu bao gồm các loại hình văn bản hoặc
thơng tin có sự liên hệ giữa văn hóa và lịch sử (chuyện kể dân gian, thơ ca, hị
vè, thần phả, thần tích, kí ức nhân dân, những sự tích được truyền khẩu qua
các đời, được ghi chép, sưu tập,...) và thường mang tính chất địa phương, có
nội dung phổ biến về các nhân vật lịch sử, các sự kiện lịch sử.
Trong nguồn tư liệu lịch sử văn hóa, nguồn sử liệu truyền miệng dân
gian là nguồn sử liệu có nhiều nhược điểm, nhất là sự thiếu chính xác cả về
khơng gian, thời gian và những sự kiện được phản ánh trong đó. Tuy nhiên,
nó lại chứa đựng những hạt nhân hợp lý mà người nghiên cứu có thể tìm thấy
được nhiều sự kiện lịch sử có giá trị nếu biết “gạn đục, khơi trong”. Đồng thời
có thể tìm thấy những cốt lõi lịch sử chứa đựng trong những câu chuyện
truyền miệng dân gian. Đây chính là hạt nhân hợp lý của sử liệu truyền
miệng.


8

Thần phả và Thần tích là những tư liệu ghi lại sự tích, lịch sử, hành trạng
các nhân vật lịch sử địa phương, vùng miền với những giai thoại, chuyện kể,

lời đồn có liên quan đến họ qua những hình ảnh, hành vi đã được mọi người
truyền tụng mang tính cách siêu nhiên, thần bí, tơ điểm cho sự siêu phàm của
nhân vật được nhắc tới. Thần phả được coi là truyền thuyết dân gian về các
thần và Thành hoàng được thờ ở đình (nơi hội họp ở nơng thơn), miếu, từ (nơi
thờ cúng tổ tiên của dòng họ). Trong đó khơng chỉ viết về thần của một làng
mà cịn viết nhiều về thần và các vị anh hùng có công với đất nước của cả một
huyện.
Khi nghiên cứu về nhân vật lịch sử Nguyễn Thị Bích Châu, người viết
chủ yếu sử dụng nguồn tài liệu lịch sử - văn hóa, những câu chuyện thần
thoại, ký ức dân gian, thần phả, thần tích tại đền thờ.
1.2. Nhân vật lịch sử Nguyễn Thị Bích Châu qua tư liệu lịch sử - văn hóa
1.2.1. Q hương, gia đình
Theo nhiều tài liệu lịch sử văn hóa như “Truyền kỳ Tân phả”, “Anh thư
nước Việt”, “Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu và đền thiêng hải
khẩu”, “Hải khẩu linh từ thần tích và lễ hội”,... về q hương và gia đình
Nguyễn Thị Bích Châu có những chi tiết như sau:
Nguyễn Thị Bích Châu là cung phi của vua Trần Duệ Tông, không rõ
năm sinh, mất ngày 11 tháng 2 năm Đinh Tỵ (1377), quê ở xã Bảo Lộc, huyện
Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Bà là con gái của đại thần Nguyễn tướng công, một
ông quan rất mực thanh liêm thời Trần. Nguyễn tướng công là người khá
thành danh trong sự nghiệp tuy nhiên đường con cái lại hiếm muộn. Năm 40
tuổi phu nhân của ơng sinh được con gái đầu lịng, hai vợ chồng vui mừng
xem như ngọc và đặt tên là Bích Châu. Bích Châu sinh ra trong một gia đình
có học nên được dạy dỗ săn sóc chu đáo. Bà giỏi về văn chương, âm nhạc và
cung kiếm vì thế sớm trở thành người con gái vừa có hiểu biết văn chương
vừa có tài về võ. “Bích Châu từ nhỏ đã bộc lộ tài năng thiên bẩm về thơ ca thi


9


họa. Đến tuổi cập kê, bà đã là bậc quốc sắc thiên hương, cộng thêm tài trí
thơng minh sắc sảo khó ai sánh bằng. Tiếng lành đồn xa, Bích Châu trở thành
một trong những giai nhân nổi tiếng nhất thời bấy giờ”. (Nhóm trí thức Việt,
2014b). Khơng những giỏi giang mà Bích Châu cịn là một thiếu nữ xinh đẹp.
Năm 1373 bà được vua Trần Duệ Tông tuyển làm cung phi. Sách “Từ điển
nhân vật lịch sử Việt Nam có đoạn viết Nguyễn Thị Bích Châu “Ái phi của
Trần Duệ Tơng có tiếng thơ văn, tài sắc, đức hạnh vẹn tồn” (Nguyễn Q
Thắng và Nguyễn Bá Thế, 1997).
1.2.2. Vị trí của Nguyễn Thị Bích Châu trong triều Trần - Thời vua
Trần Duệ Tơng
Sau một thời kì phát triển hưng thịnh, nhà Trần bước vào thời kì suy yếu.
Đến thời vua Trần Duệ Tơng trị vì, tình hình Trong bối cảnh đó, Nguyễn Thị
Bích Châu đã có nhiều đóng góp quan trọng với mong muốn phục hưng triều
đại này. Nhận định “Bậc Mẫu nghi đời Trần, vợ vua Trần Duệ Tông”
(Phương Lan, 1968) đã cho thấy vị thế của Nguyễn Thị Bích Châu trong triều
đại nhà Trần. Nhờ sự tài trí nên bà rất được vua sủng ái. Tuy vậy, Bích Châu
không hề cậy thế được vua quan tâm mà kiêu ngạo, bà ln từ tốn và đối xử
hịa nhã với mọi cung phi.
Việc làm đáng ghi nhận của Nguyễn Thị Bích Châu là ngăn cản vua
Trần Duệ Tơng tiến đánh Chăm Pa. Khi biết được vua Duệ Tông quyết định
thân chinh đi đánh Chăm Pa, mặc cho mọi lời khuyên ngăn của các đại thần.
Bích Châu biết được ý định của vua bèn làm bài biểu văn nhờ người dâng lên
vua:
Thiếp trộm nghĩ rợ Hiểm Doãn1 ngang tàng quá lắm, từ trước quen thân;
rợ Hung Nô2 kiệt hiệt gớm ghê, đến nay càng tệ. Vì cướp bóc là thói

Một bộ tộc ở phía Bắc Trung Hoa xưa, ở rải rác các vùng Cam Túc, Thiểm Tây, Sơn Tây
ngày nay.
1



10

thường của man di mà dùng binh không phải bản tâm của vương giả.
Chiêm Thành nhỏ bé kia, ở chếch nơi hải đảo. Năm xưa kéo quân vào
Nhị thủy bởi thấy nước ta bất hòa; khi ấy tiếng trống động ngồi biên,
chỉ vì lịng dân chưa định. Cho nên chúng dám tung đàn ruồi nhặng để
múa cỏ mà không biết chỉ là bọ ngựa giương càng chắn xe. Nhưng thánh
nhân rộng lượng bao dung; khơng thèm cùng với chó dê so sánh. Vả đạo
trị bình phải trước gốc sau ngọn, xin nghỉ binh cho dân chúng yên nhàn.
Lý sáng tỏ thì mềm có thể trị được rắn; chọn lời lấy đức thì có thể phục
được người xa. Ngu bệ múa can vũ, bẫy tuần tức khắc Miêu đến chầu3;
Hạ cung gảy sắt cầm, chẵn tháng tự nhiên Hồ quy phục4. Đó thật là
thượng sách, nguyện xin bệ hạ xét đốn cho minh (Nguyễn Khắc Mai và
Trần Thị Băng Thanh, 2015).

Tờ biểu cho thấy, Bích Châu rất khơn khéo trong việc can ngăn vua
không nên dùng binh đao lúc này mà nên nghỉ binh để dân chúng được yên
nhàn. Sở dĩ bà mong muốn như vậy là do dưới thời vua Trần Duệ Tông, nước
ta đang rơi vào khủng hoảng, nhiều kẻ quyền thần lộng hành nên lịng dân
khơng cịn hướng về vua. Trong hồn cảnh đó, vua lại đem binh đao để đọ sức
với Chiêm Thành thì quả thực khơng ổn. Đây khơng đơn giản chỉ là lời
khun răn bình thường của một người vợ đối với chồng vì sợ chồng gặp
chuyện chẳng hay khi ra chiến trận mà là tầm nhìn của một người phụ nữ am
hiểu tình hình, biết cách giải quyết thế sự hợp lý.
Tuy nhiên, do vua Trần Duệ Tông luôn giữ ý định chủ chiến trong đầu
nên tờ biểu dâng lên vua không trả lời và hạ lệnh duyệt binh. Trong cuốn “Từ
Một bộ tộc ở phía Bắc Trung Hoa thời Tần Hán làm chủ vùng Nội – Ngoại Mông bây
giờ.
3

Theo sách cổ, vua Thuấn (nhà Ngu) trị thiên hạ bằng văn đức, Hữu Miêu không theo, vua
Thuấn múa nhạc 70 ngày dưới thềm, người Miêu tâm phục liền đến chầu. Hữu Miêu hay
Tam Miêu ở vùng Tứ Xuyên, Vân Nam, Tây Tạng, Quý Châu, Quảng Tây ngày nay.
4
Vua Vũ nhà Hạ cũng dùng văn đức mà cảm hóa người xa, người Hồ do đó quy phục. Hồ
là một nước thời cổ, ở vào khoảng Thiểm Tây ngày nay.
2


11

điển nhân vật lịch sử Việt Nam” có đoạn viết: “Duệ Tơng thân chinh Chiêm
Thành, bà có dâng biểu can ngăn, vua vẫn không nghe” (Nguyễn Q Thắng và
Nguyễn Bá Thế, 1997). Bích Châu thấy vua khơng nghe lời can ngăn nên rất
lo lắng cho tính mạng của chồng và sự an nguy của đất nước, than rằng:
“Nghĩa là vua tôi, ơn là chồng vợ, đã không giỏi dâng lời trung để giữ nền
bình trị, lại khơng biết khéo lời can để ngăn lòng hiếu chiến, thật là sống thừa
trong cõi trời đất vậy” (Nguyễn Khắc Mai và Trần Thị Băng Thanh, 2015).
Lời than này của Bích Châu cho thấy bà xác định được rằng nếu vua ra
chiến trận thì khó có thể giữ được nền bình trị. Trần Duệ Tông hiếu chiến nên
quyết dùng binh đao. Sự thất bại của cuộc chiến khiến người ta có chút tiếc
nuối rằng giá như lúc Bích Châu dâng tờ biểu có thể can ngăn nhà vua thì có
lẽ sẽ khơng có cái chết của vua và Bích Châu. Nhà Trần cũng khơng suy tàn
nhanh đến thế.
Từ khi vua chuẩn bị ra chiến trận Bích Châu khơng để ý đến việc trang
điểm, ăn ngủ cũng khơng n, lịng dạ bồn chồn lo lắng, biết là trong cuộc
chiến này lành ít dữ nhiều nhưng không yên tâm khi để vua ra trận bà quyết
tâm xin vua cho đi theo hộ giá.
Thêm một tình tiết thể hiện sự tài năng, đức độ của nhân vật Nguyễn Thị
Bích Châu đó là sự hi sinh của bà trong chuyến đi đánh quân Chiêm Thành

cùng vua Trần Duệ Tơng.
Việc vua Trần Duệ Tơng và Bích Châu thân chinh đi đánh Chiêm Thành
có hai giả thuyết:
Theo thuyết thứ nhất, Nguyễn Thị Bích Châu cùng vua Duệ Tơng đi
đánh qn Chiêm Thành. Khi tới cửa biển Kỳ Hoa (nay thuộc huyện kỳ Anh,
tỉnh Hà Tĩnh), các phụ lão cho biết ở phía trước có miếu rất linh, các tàu
thuyền đi lại lên đó lễ bái thì sẽ được thuận buồm xi gió, nếu khơng sẽ khó
khăn trên biển. Bích Châu được dạy dỗ chu đáo từ nhỏ nên đoán được hiện
tượng tự nhiên. Bà dự đốn rằng có chuyện chẳng lành xảy ra. Bà xem một


12

quẻ Kinh Dịch, trúng vào quẻ Phục biến sang quẻ Di, trong lịng tự đốn nếu
hành qn sẽ đại bại. Sáng hơm sau định đến đến tâu bày quẻ bói với vua,
mong được thay đổi chủ trương. Tiếc rằng vì quân cơ bận rộn, nhịp hành quân
khẩn trương, bà không tìm được chút thì giờ để dâng lời với vua. Tiếp đó, khi
thấy trận gió lốc cuốn thổi vào thuyền ngự, các lá cờ phần phật ngả rạt sang
phương Nam. Bà cảm nhận đây là ngọn gió gian tà, e xảy ra việc dâm tặc hại
người. Bà nguyện xin vua cấp tốc chuẩn bị lục quân để đối phó.
Bà chưa nói dứt lời thì quả nhiên gió bão nổi lên, sóng biền gào thét.
Đêm ấy, vua lại mơ Đơ đốc vùng Nam Hải đến đòi được ban cho một phi tần.
Nếu vua ban thì sẽ đền ơn, nhưng nếu vua giữ làm của riêng thì sẽ xảy ra
chuyện chẳng lành. Vua tỉnh dậy cho gọi phi tần, kể lại chuyện trong mộng.
Các cung phi đều tái mặt thất sắc, chỉ nhìn nhau im lặng. Ngay lúc đó, bà
Bích Châu chứa chan nước mắt, nghẹn ngào nói khơng nên lời, quỳ trước mặt
vua xin được hi sinh thân mình vì sự an nguy của đoàn quân. Bà sợ rằng nếu
nấn ná khơng quyết sẽ xảy ra tai biến to, có khi hải thuyền đến mắc nạn. Thấy
vua lưỡng lự, không muốn để bà hi sinh, bà tiếp tục khuyên vua nên lấy tướng
sĩ làm trọng, ân ái là nhẹ, việc cần làm là bảo đảm sự an toàn cho nghĩa quân.

Tâm nguyện của bà là sau khi chết, mong vua “sửa văn nghỉ võ”, “giản kiệm
và yêu người”, “học việc nhân nghĩa của đế vương”, dựng nước lâu dài. Được
như thế thì bà mới được an ủi. Nói xong, bà nhảy xuống biển, trong gió gào
sóng cuộn. Vua và các phi tần kinh hồng luống cuống, ai cũng thương khóc.
Bỗng chốc gió tan, mưa tạnh, biển hết nổi sóng. Vua sai thủy qn mị tìm
khơng thấy, đành làm một đạo văn chiêu hồn, đặt lễ tế như sau:
Than ôi hồn chừ, yểu điệu phong ty
Chính lịng vua chừ, nước Sở Phàn ky
Giữ đạo vợ chừ, bến Ngu Tương phi
Nhớ vua không quên chừ, vĩnh biệt hương vi
Vì vua oan thác chừ, hồn tan thủy mi


13

Biển khơi mênh mơng chừ, kiếp thác bao thì?
Mặt ngọc xa cách chừ, tái hợp khó kỳ
Nhớ lại đức tốt chừ, lòng ta tái tê.
Xem lại giấy mực chừ, giọt lệ lâm ly,
Số mệnh đã định chừ, trời kia không vì
Vì đâu đến nỗi chừ, lỗi Trẫm khó tỳ
Than ơi thương thay! Hồn bỏ Trẫm đi
Nếu ở trên đời chừ, như chim “tị dực phi”;
Nếu ở dưới đất chừ, Như cây “liên lý chi”
Hồn hưu quạnh chừ, không chốn y quy,
Hồn có thiêng chừ, cùng trẫm truy tùy.
Hồn phảng phất chừ, giữ nơi biên thùy,
Thương thay hồn chừ, hưởng chén quỳnh chi

(Nguyễn Khắc Mai và Trần Thị Băng Thanh, 2015).

Hai ngày sau khi bà lao mình xuống biển, xác của bà nổi lên, vẫn uy
nghi trong bộ triều phục và trôi dạt vào bờ. Dân làng Kỳ Hoa vớt lên an táng
bà gần bờ biển. Dựa trên manh mối của truyện ngắn Đền thiêng cửa bể thấy
rằng cái chết của Bích Châu là hậu quả của tập tục hiến tế vẫn còn tồn tại ở
Việt Nam trong giai đoạn sơ kỳ Trung đại và Nguyễn Thị Bích Châu là một
nhân vật có thật, có đóng góp to lớn cho triều Trần.
Sau cái chết của bà, vua Duệ Tông lập tức hạ lệnh xuất quân, vua cho
quân tiến sâu vào động Y Mang, bất ngờ trúng kế của giặc Bà Ma - một tướng
của Chế Bồng Nga, toàn quân tan rã, vua tử trận ở Đồ Bàn.
Qua thuyết trên, người viết nhận thấy có nhiều yếu tố ly kì, hãi hùng
trong tục hiến tế. Điều này tạo cho người đọc cảm giác khó tin. Tuy nhiên đây
là nguồn thơng tin đáng lưu tâm khi nghiên cứu về cái chết của Nguyễn Thị
Bích Châu.
Theo thuyết thứ hai, trong trận đánh với quân Chiêm Thành ở Thành Đồ
Bàn (tỉnh Bình Định ngày nay), quân Chiêm Thành tấn công làm cho quan


14

quân của nhà Trần bị tổn thất. Trong trận chiến này các viên tướng trụ cột của
triều đình đều tử trận. Trong bối cảnh đó, Bích Châu thân chinh đứng ra chỉ
huy đạo quân bảo vệ nhà vua, bà “tả xung hữu đột” nơi trận mạc, bị trúng mũi
tên độc. Vì vết thương quá nặng, bà đã từ trần vào năm 1377. Ba ngày sau,
vua Trần Duệ Tông cũng băng hà. Lúc đầu cả linh cửu của nhà vua và cung
phi được đưa bằng đường thủy, tuy nhiên đến đầu địa phận Châu Hoan (tỉnh
Hà Tĩnh ngày nay) lại gặp gió bão lớn khơng đi được. Quan qn đem linh
cữu nhà vua rước về đường bộ và an táng tại Nam Định. Cịn bà Bích Châu
tiếp tục đưa bằng đường thủy, đến cửa khẩu thì bị sóng to gió lớn khơng đi
được. Triều đình xuống chiếu cho an táng Bà tại Cửa Khẩu và lập đền thờ tại
đây.

Người viết thiên về giả thuyết thứ hai vì Nguyễn Thị Bích Châu là cung
phi được vua Trần Duệ Tông yêu chiều và rất thông minh. Chắc hẳn vua Trần
Duệ Tông không để bà nhảy xuống biển hiến mình để cầu an cho quân đội
nhà Trần khi hành quân đánh Chămpa. Hơn nữa, người thơng tuệ như bà Bích
Châu sẽ khơng vội vàng quyết định bỏ lại vua để nhảy xuống biển. Vậy nên,
có lẽ Nguyễn Thị Bích Châu mới quyết định thân chinh ra trận. Chỉ tiếc rằng,
bà đã hi sinh nơi trận mạc. Tuy nhiên, vấn đề này cần được nghiên cứu thêm.
Như vậy, cả hai thuyết trên đã nói lên một sự thật lịch sử là Nguyễn Thị
Bích Châu đã vì vua, vì nước mà anh dũng hi sinh trong chuyến đi đánh
Chiêm Thành cùng với vua Trần Duệ Tông. Thi thể bà được an táng tại vùng
biển huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay.
Tài năng và đức độ của Nguyễn Thị Bích Châu đã được vua Lê Thánh
Tơng ghi nhận. Một thế kỷ sau, năm 1470, vua Lê Thánh Tông cũng cất quân
đi đánh Chiêm Thành qua cửa biển Kỳ Hoa. Sau khi thắng trận trở về, Lê
Thánh Tông đã sai lập đền (miếu) thờ ở cửa biển và có sắc phong thần cho
Bích Châu. Sắc phong có hai chữ "Chế thắng" nên đền này được gọi là "Đền


15

bà Chế thắng" (Hiện nay gọi là đền thờ Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích
Châu). Vua Lê Thánh Tơng đã làm một bài thơ đề lên tường bên tả miếu rằng:
Phiên âm:
Hải Khẩu linh từ cảm đề
Bản thị Hy Lăng cung lý nhân,
Lâm nguy vị quốc độc vong thân.
Yêu phong nhất trận đào hoa lãng,
Xuân mộng tam canh Đỗ Nhược tân.
Hàn thủy vô đoan mai Sở phụ
Hương hồn hà sứ điếu Tương Quân.

Hu ta bách vạn hùng bi lữ,
Bất cập thư sinh nhất hịch văn.
Dịch nghĩa:
Đền thiên Hải Khẩu, cảm đề
Vốn là cung nhân trong cung Hy Lăng,
Trước tình thế nguy cấp, vì nước riêng quên thân mình.
Một trận gió yêu quái làm nổi sóng hoa đào.
Giấc mộng xuân, canh ba mơ màng nơi bến Đỗ Nhược.
Vô cớ, nước lạnh chôn vùi người đàn bà nước Sở,
Biết nơi nào để viếng hương hồn Tương Phi.
Than ôi, trăm vạn đội quân hùm gấu,
Mà chẳng bằng một đạo hịch văn của chàng thư sinh.
Dịch thơ:
Một vị hiền phi của điện Trần,
Hi sinh vì nước quản chi thân.
Đào hoa chìm nổi cơn giơng tố,
Đỗ Nhược mơ màng giấc mộng xn.
Dịng nước vơ tình chơn Sở phụ,
Hương hồn nào chỗ viếng Tương Qn?
Than ôi trăm vạn quân hùng mạnh,


16

Lại kém thư sinh một hịch văn.

Ngô Lập Chi dịch (Nguyễn Khắc Mai và Trần Thị Băng Thanh, 2015).
Việc vua Lê Thánh Tông làm thơ khắc lên tường và sắc phong Nguyễn
Thị Bích Châu là chế thắng phu nhân đã góp phần khẳng định cơng lao của
nhân vật đối với lịch sử dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà Lê Thánh Tông

đã ca ngợi bà, truy tôn bà với mỹ tự: “Chế Thắng phu nhân” (Vị Phu nhân của
mọi chiến thắng). Ắt hẳn vị vua này đã từng nghe về bà và cơng lao của bà
trước đó nên khi đến đây mới cho lập đền và sắc phong.
Nguyễn Thị Bích Châu đã đề ra rất nhiều kế sách, mưu lược cho vua
nhưng vì lịng hiếu chiến, khơng suy xét kỹ càng nên vua Trần Duệ Tông đã
không bận tâm đến những kế sách do Quý phi Bích Châu dâng lên.
Qua tài liệu lịch sử văn hóa cho thấy một điểm nổi bật trong những việc
Nguyễn Thị Bích Châu làm bên cạnh vua Trần Duệ Tơng đó là viết bản Kê
minh thập sách.Bản Kê minh thập sách không những được vua Trần đánh giá
cao mà tới ngày nay giới nghiên cứu đề cao giá trị của nó. Điều đáng nói ở
đây là Kê minh thập sách khơng phải là nỗi lịng, kế sách của vị đại công thần
mà của một cung phi. Hơn nữa, Nguyễn Thị Bích Châu dâng bản Kê minh
thập sách trong thời đại phong kiến - thời đại mà tiếng nói của người phụ nữ
bị hạn chế. Bà đã dám làm việc mà không phải người phụ nữ nào cũng dám
làm, đó là dâng kế sách lên khuyên răn vua điều chỉnh lại cách trị nước. Sự
can đảm đó của Bích Châu đã cho thấy bà là một người u nước, thương dân
khơng bình thản hưởng mọi vinh hoa mà ln xót xa trước vận mệnh đất
nước. Điều này không chỉ thể hiện tài năng mà cả giá trị đạo đức của bà.
Tất cả những việc làm của bà đều muốn vua có tinh thần trách nhiệm với
dân, với nước. Nhìn thấy thực trạng đất nước cuối triều Trần bà luôn mong
muốn khôi phục đất nước để dân có cuộc sống ấm no. Nguyễn Thị Bích Châu
đã đặt quyền lợi của dân tộc lên trên sự hưởng thụ của cá nhân. Nếu vì quyền
lợi của bản thân, bà đã khơng đóng góp nhiều ý kiến với vua như thế. Hơn


17

nữa một người thông minh như bà sẽ biết được những rắc rối, trắc trở và nguy
hiểm mà bà sẽ gặp phải khi làm những điều trên nhưng bà vẫn chấp nhận.
Điều này thể hiện sự đức độ của một người phụ nữ ln trăn trở cho vận

mệnh dân tộc.
Tóm lại, dù nghiên cứu về bà như một nhân cách lịch sử hay là một vị
thần linh hiển, ta đều bắt gặp sự thánh hóa, thiêng hóa cái Mẫu hình nhân
cách cao quý: Đẹp - Tài - Đức hạnh - Trí dũng của một người phụ nữ nước
Nam. Ngày nay đã có nhiều người biết đến Chế Thắng phu nhân và Kê minh
thập sách của bà, hiểu được sự hi sinh cao đẹp của bà cho đất nước. Có được
điều đó, trước hết cơng lao thuộc về nhân dân, đặc biệt là nhân dân Hà Tĩnh,
nhân dân Kỳ Anh, những người đã hương khói gìn giữ từ đời này qua đời
khác hình ảnh của Chế thắng phu nhân.
1.3. Kê minh thập sách và những bài học lịch sử
1.3.1. Bối cảnh ra đời
Sau những chiến cơng kỳ tích ba lần đánh tan qn xâm lược Ngun Mơng, những khó khăn do chiến tranh đã dần dần được khắc phục sau nửa thế
kỷ, nhà Trần đã đưa Đại Việt vào thời kỳ thịnh trị với “hào khí Đơng A”. Tuy
vậy, vào giữa thế kỷ XIV, triều đình và xã hội Đại Việt lại lâm vào khủng
hoảng sâu sắc.
Từ thời Trần Dụ Tông trị vì trở đi, chính quyền nhà Trần suy yếu, bọn
nịnh thần chuyên quyền, nền hành chính rối ren, tầng lớp quý tộc nhà Trần bị
phân hóa và sa đọa. Vua quan nhà Trần lại đi vào “vết xe đổ” của triều đại
trước, họ chỉ biết ăn chơi hưởng lạc, bỏ mặc sự suy yếu của đất nước và đói
khổ của nhân dân. Kinh tế xã hội sa sút nghiêm trọng khiến nông dân, gia nô
nổi dậy chống lại các điền chủ trang thái ấp, các nước thần phục Đại Việt
trước đây liên tiếp quấy phá bờ cõi biên cương.
Nhà Trần suy thối từ đời vua Trần Dụ Tơng (1341-1369) đến thời kì
vua Trần Duệ Tơng trị vì (1372-1377), sự suy thoái trở nên trầm trọng.


18

“Trong nửa sau thế kỉ XIV đã có 9 lần đê vỡ, lụt lớn. Có những năm vừa hạn
vừa lụt như năm 1348, 1355,...” (Trương Hữu Quýnh, Phạm Đại Doãn và

Nguyễn Cảnh Minh, 2009).
Trước tình hình đó, nhiều cuộc khởi nghĩa nơng dân nổ ra, điển hình là
cuộc nổi dậy của Ngô Bệ.
Năm 1343, đại hạn, mất mùa, dân nghèo nổi dậy khắp nơi. Năm 1344,
dưới lá cờ nghĩa của Ngô Bệ, nông dân đã nổi dậy ở vùng núi Yên Phụ
(Hải Dương) đánh phá nhà của bọn địa chủ, quan lại. [...] Năm 13571358, nghĩa quân Ngô Bệ lại bùng lên ở Yên Phụ, yết bảng “chẩn cứu
dân nghèo”, chống lại quân triều đình (Trương Hữu Quýnh et al., 2009).

“Trần Duệ Tơng ở ngơi vua cũng muốn quyết đốn, nhưng sức tài hèn
kém” (Nguyễn Bích Ngọc, Lưu Hùng Chương, Nguyễn Văn Thu, 2010).
Trong thời kì khủng hoảng, vua Trần Duệ Tông cũng không đủ sáng suốt để
vực dậy tiềm lực của đất nước ngược lại chỉ tập trung cho cuộc chinh chiến
đánh Chăm Pa. Cũng giống như các vị vua trước đó, Duệ Tơng khơng biết
trọng dụng nhân tài, không lắng nghe những kế sách phát triển đất nước. Thời
kỳ này hội tụ trí tuệ của những trí thức mang tư tưởng Nho giáo tiến bộ như
Thượng thư Lê Quát, Tư đồ Trần Nguyên Đán, Ngự sử trung tán Lê Tích,
Ngự sử đại phu Trương Đỗ, Hồ Quý Ly... Đó là những người muốn cải cách
xã hội để nhằm vực dậy một triều đại đang suy yếu và nhằm ngăn chặn một
cuộc chiến tranh với Chiêm Thành có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Năm 1376, quân Chiêm Thành quấy rối biên giới phía Nam. Vua Trần
Duệ Tơng sai quan Hành khiển Đỗ Tử Bình đem quân vào giữ Châu Hóa.
Vua Chiêm bấy giờ là Chế Bồng Nga đem 10 mâm vàng dâng triều đình nhà
Trần tạ lỗi nhưng Đỗ Tử Bình biển thủ đồ lễ, ơng ta trao quyền cho phó tướng
rồi một mình đem đội chiến thuyền về kinh. Sau khi cất giấu của cải ông vào
cung tâu sai với triều đình là Chế Bồng Nga ngạo mạn hỗn xược, phải trừng
trị, cho nên vua Trần tức giận nên quyết đánh Chăm Pa.


19


Tháng 6 năm 1376, vua Duệ Tông xuống chiếu xuất quân. Triều Trần lúc
này đang thoái trào, gian thần lộng hành, nhân dân đói khổ, trăm họ lầm than.
Vì vậy, gây chiến tranh lúc này là không nên. Các quan ngự sử như trung tán
Lê Tích, đại tướng quân Đỗ Lễ đã can ngăn nhưng không được. Ngự sử đại
phu Trương Đỗ đã ba lần dâng “Bãi chiến sớ”, phân tích tình hình đất nước.
Ơng cho rằng vua mới lên ngôi nên cần chấn chỉnh đất nước để Chiêm Thành
thần phục, không nên thân chinh đi đánh lúc này. Tiếc rằng lời can ngăn của
ông đã không được nhà vua lưu tâm.
Thời phong kiến, vua nắm quyền tối cao cho nên nói trái ý vua là điều
mà viên quan nào cũng hết sức tránh, nếu không muốn mất chức quyền, bổng
lộc và chuốc họa vào thân. Trương Đỗ ba lần dâng “Bãi chiến sớ” trái ngược
hẳn với quyết định của vua, thật là một người chính trực và dũng cảm.
Dưới thời vua Trần Duệ Tơng ngồi Q phi Bích Châu cịn có một số
trung thần thấy được những sai lầm của vua và nhu cầu giải quyết tình trạng
khủng hoảng của đất nước. Tiếc rằng vua Duệ Tông quyết tâm ra trận, quyết
tâm làm theo ý mình. Trong trận chiến với Chăm Pa năm 1377, Duệ Tông tử
trận.
Trong đời vua Trần Duệ Tơng, triều đình và nhân dân khơng cịn đồn
kết một lịng, sự ốn hận, căm phẫn của nhân dân ngày càng tăng lên. Trước
đó, trong thời bình các vua Trần quan tâm đến đê điều nên đời sống nhân dân
ln ổn định. Khi có giặc tới nhân dân đồng lòng cùng vua đánh giặc… Tuy
nhiên, lúc này Trần Duệ Tơng khơng cịn anh minh, tướng tài khơng được
trọng dụng, những cải cách xã hội không được tin theo thực hiện, cuộc đấu
tranh giữa xu hướng bảo thủ và những nho sĩ muốn cải cách đất nước không
thể giải quyết đã ngày càng kéo đất nước lún sâu vào suy thối. Trong nội bộ
hồng tộc khơng cịn đồng lịng khơi phục triều chính mà tìm cách thanh
trừng lẫn nhau, đặt quyền lợi cá nhân lên trên quyền lợi dân tộc. Kinh tế nơng
nghiệp đóng vai trị chủ đạo giờ lại sa sút nghiêm trọng đã dẫn đến việc nông



×