Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Tài liệu Bài giảng về Phân tích chi phí và lợi nhuận - Phần 2 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.27 KB, 23 trang )

Bài giảng 2: Đánh giá Lợi nhuận và Chi phí
khi tồn tại Giá Thị trường
Dr. Allen Bellas
Đánh giá Lợi nhuận và Chi phí
Khó có thể miêu tả đầy đủ những cái gì sẽ là chi phí và lợi ích của một dự án. Bạn
phải liên hệ giá-trị (value) nào đó với những chi phí và lợi ích để có thể so sánh
chúng với nhau. Không có các giá-trị (value) tiền tệ, bạn chỉ so sánh quản cam với
quả tào, hay điện tử với con người. Và đó là việc so sánh không đồng thể; không
đúng!!!
Trong một thế giới hoàn hảo, mọi thứ được trao đổi buôn bán trong một thị trường
hiệu quả hoàn hảo với rất nhiều cạnh tranh, không có ngoại ứng, không bị đánh
thuế, không có các chương trình trợ giá của chính phủ hay hạn chế nhập khẩu hoặc
bất kỳ điều gì tương tự. Mức sẵn lòng chi trả biên cho một loại hàng hoá sẽ bằng
với chi phí cơ hội của sản xuất. Một thị trường như vậy sẽ đem lại cho chúng ta
• Không công ty có cổ phiếu thị trường quá quan trọng
• Không có ngoại ứng
• Không thuế
• Không có hàng hoá không trao đổi
• Không những dự án "lớn" làm giá biến đổi
Với một thế giới tuyệt vời như thế giới này, nhưng thực tế thì khác. Chúng ta phải
xử lý đánh giá hàng hoá bán ra bởi các hãng độc quyền đã tạo ra ngoại tác, bị đánh
thuế, không được trao đổi buôn bán và thực hiện điều này trong ngữ cảnh của một
dự án có thể dẫn tới những thay đổi mạnh mẽ về chi phí đầu-vào và chất lượng
hàng hoá cuối cùng cung cấp ra thị trường. Đánh giá những điều này thật là quá
khó.
Nếu có thể liệt kê ra những vấn đề tiềm ẩn, chúng có thể bao gồm
1. Hàng hoá chịu thuế
2. Hàng hoá được cung cấp bởi các hãng nghiên cứu giá mà đối với họ, giá không
ngang bằng với chi phí biên
3. Hàng hoá mà việc sản xuất hay tiêu thụ chúng sinh ra những ngoại tác
4. Hàng hoá chịu thuế Pigouvian với hy vọng giải quyết việc ngoại tác


5. Hàng hoá được bán với một mức giá không phải là mức lợi nhuận tối đa hay để
tống tháo hết trên thị trường
6. Hàng hoá phát miễn phí cho ai đến trước
7. Hàng hoá không có thị trường tiêu thụ
8. Hàng hoá chỉ có thị trường gián tiếp, và chỉ một số người thực sự tham gia vào
những thị trường này
Hai quy tắc cơ bản là:
1. Khi dự án giảm số lượng đầu-vào có sẵn cho những người khác, hãy áp dụng sự
sẵn lòng chi trả của họ (như được thể hiện bởi đường cầu) như là một giá-trị
(value).
2. Khi dự án tăng số lượng đầu-vào mà thị trường phải sản xuất, hãy áp dụng chi
phí biên là giá-trị (value) của đầu-vào cần bổ sung
Đánh Giá Chi Phí và Đầu-vào của Dự Án
Một dự án sẽ tăng nhu cầu về đầu-vào của mình. Dự tính chi phí cho tập hợp
những đầu-vào này sẽ phụ thuộc vào bản chất của thị trường mà trong đó chúng
được giao dịch buôn bán. Chúng ta sẽ bắt đầu với một vài trường hợp đơn giản
hơn và sau đó tiến tới các tình huống thử thách hơn.
Điển hình, chúng ta sẽ giả sử rằng đường cung và cầu gần như là đường thẳng để
dễ tính toán hơn. Điều này có thể không đúng, nhưng nó là phép xấp xỉ tốt và nó
gợi lại câu chuyện cười xa xưa về một nhà kinh tế tìm kiếm chìa khoá của mình.
1. Cung co giãn, thị trường lớn hay dự án nhỏ
Nếu đường cung cho một đầu-vào co giãn một cách hoàn hảo hoặc nếu số lượng
cầu của dự án là rất nhỏ so với thị trường và không có thuế hay những ngoại tác,
và giá bằng với chi phí biên, thì giá của hàng hoá có thể đơn giản được coi như là
chi phí. Chi phí đầu-vào sẽ bằng với số lượng được sử dụng nhân với giá.
VD: Một dự án sẽ dùng tới 100 gallons xăng dầu, bốn cuộn băng keo và 20 giờ lao
động phổ thông sẽ không gây tác động đến bất kỳ thị trường nào trong số những
thị trường này, do vậy giá thị trường hiện tại sẽ định giá chi phí của những đầu-
vào này.
VD: DDT được giao dịch buôn bán trên những thị trường lớn của thế giới với mức

giá ổn định là $40/tấn, tính ổn định đó là do một thực tế là các nhà máy sản xuất
sữa bột nhân tạo cho trẻ em có thể được chuyển đổi qua thành sản xuất DDT (và
ngược lại) chỉ nhanh chóng qua một đêm. Một dự án phun thuốc toàn bộ khu vực
phía tây Washington với hy vọng ngăn chặn sự lây nhiễm bệnh sốt rét sẽ sử dụng
một lượng lớn DDT, nhưng bởi vì cung là co giãn cơ bản hoàn hảo, cho nên giá sẽ
không tăng lên.

2. Cung không co giãn
Nếu đương cung đầu-vào là không co giãn một cách hoàn hảo (ví dụ, giống như
cung về đất đai), thì việc áp dụng nó trong một dự án sẽ làm giảm một cách hiệu
quả số lượng có sẵn cho những sử dụng khác. Điều này sẽ làm dịch chuyển đường
cong cung dịch sang bên trái, làm giá tăng lên. Do vậy, sẽ có 2 mức giá. Một giá
sẽ là mức trước khi mua đầu-vào cho dự án và giá kia sẽ là mức sau khi mua đầu-
vào cho dự án.
Ví dụ, có thể giành được đất đai theo 2 cách: mua hẳn hoặc thu hồi đất bằng quyền
chính phủ lấy tài sản riêng vào việc công sau khi đã đền bù thoả đáng.
Nếu chính phủ mua đầu-vào trong một thị trường, thì bạn nên áp dụng mức trung
bình 2 giá để định giá đất đai sử dụng cho dự án. Điều này giả định rằng các đơn
vị đã mua sẽ được mọi người định giá thấp nhất cho các sử dụng khác. Trong
trường hợp này, nếu đầu-vào được mua với giá hậu dự án ( p
2
hơn là p
1
), các
khoản chi tiêu sẽ phóng đại chi phí thật của đầu-vào.
Khi mua đất, chi phí có thể sẽ là (q - q')p
2
. Số tiền này không liên quan đến phân
tích chi phí - lợi nhuận đúng cách thức.
Chi phí đúng cho đất sử dụng sẽ là



Nếu đầu-vào được lấy dưới dạng quyền chính phủ (lấy tài sản riêng vào việc công
sau khi đã đền bù thoả đáng), thì không bảo đảm rằng các đơn vị có giá-trị (value)
thấp nhất sẽ được sử dụng. Có thể có trường hợp tịch thu đất đai của một người
mà họ rất yêu quý ngôi nhà, vườn tược của mình, hoặc đơn giản giá-trị (value)
đúng của nó quy ra tiền tại điểm mà đường cầu cắt với trục tung.
Nghĩ về vấn đền này theo cách khác, hãy coi mỗi điểm trên đường cong cầu về đất
đai trong khu vực là mức định giá biên của một người về lô đất nhỏ mà họ đang sở
hữu. Một số người định giá lô đất của họ gần bằng với giá thị trường (có những
điểm trên đường cong cầu gần bằng giá thị trường) trong khi những người khác
định giá cao hơn nhiều (có những điểm trên đường cong cầu gần trục tung).
Kết quả là, giá thị trường hiện tại không nhất thiết phải là một chỉ số biểu thị giá-
trị (value) các đơn vị được sử dụng trong trường hợp đất được thu hồi bằng quyền
chính phủ (lấy tài sản riêng vào việc công sau khi đã đền bù thoả đáng). Định giá
đất sử dụng là số trung bình của p và p' (có thể được chính thức chấp nhận như là
"giá-trị (value) thị trường công bằng") sẽ dẫn đến một giá-trị (value) quá thấp.
Trong trường hợp này, khó có thể phỏng đoán giá-trị (value) thích hợp của đất sử
dụng. Một phỏng đoán hợp lý cho mỗi đơn giá có thể là số trung bình của giá-trị
(value) thị trường và giá dự trữ (giá-trị (value) biên cao nhất áp dụng cho đất trong
khu vực). Tổng giá-trị (value) đất đai sử dụng khi đó sẽ là


VD: Uỷ ban Sân vận động Ballard Stadium đang thu dụng đất để xây mới sân vận
động mang tên Whirlydome tại Ballard. Kết quả của việc họ mua đất, giá đất tại
Ballard sẽ tăng lên từ $2.3M lên $2.8M / một mẫu. SVĐ Whirlydome sẽ cần tới 20
mẫu đẩt.
Nếu uỷ ban mua đất từ những người sẵn sàng bán, thì nên định giá đất ở mức là
, bất chấp thực tế là họ sẽ có thể trả tới
$56 triệu để mua đất.

Nếu uỷ ban thu hồi đất thông qua quyền chính phủ, thì giá-trị (value) này sẽ quá
thấp.
3. Đường cung dốc đi lên và dự án lớn
Nếu đường cung dốc đi lên, thì chi phí đầu-vào sẽ xảy ra 2 trường hợp. Cầu tăng
do có dự án sẽ làm tăng số lượng đầu-vào cung cấp cho thị trường, bên cạnh đó lại
làm giảm số lượng nhu cầu của những khách hàng không phải là dự án. Kết quả là,
giá-trị (value) hàng hoá tiêu thụ bởi những người khác bị giảm cũng như chi phí
cung cấp số lượng bổ sung cho dự án bị tăng lên.
Mức giảm trong tiêu dùng tư nhân phải được định giá theo giá-trị (value) biên gốc
ban đầu hoặc đường cong cầu. Mức tăng về chi phí để sản xuất nhiều đầu-vào hơn
phải được định giá theo chi phí biên hoặc đường cong cung.
Đầu-vào phải được định giá là số trung bình của p
1
và p
2
nhân với số lượng dùng
cho dự án.

VD: Một dự án sẽ sử dụng 1500 đơn vị hàng hoá với cầu được tính bằng
Qd=6500-(3P/2) và cung được tính bằng Qs=(P/2)-500. Hãy tính chi phí đầu-vào
này.
Giá ban đầu là 3500 và số lượng ban đầu là 1250.
Đường cầu mới là Qd'=6500+150-4(P/2) = 8000 - (3P/2)
Giá mới là 4250 và số lượng mới là 1625.
Mức tiêu dùng cá nhân, không phải là dự án sẽ giảm từ 1250 đơn vị (trước khi có
dự án) xuống còn 125 đơn vị (trong thời gian thực hiện dự án)
Giá-trị (value) đúng tính cho đầu-vào này là

4. Dự án nhỏ chịu thuế
Nếu có doanh thu đơn thuần từ thuế do chính phủ quy định, vấn đề có nên bao

gồm số tiền thuế trong chi phí đầu-vào tuỳ thuộc vào việc liệu chính phủ có vị trí
trong trong bản phân tích hay không. Nếu chính phủ có, thì số tiền nộp thuế chỉ
đơn thuần là bước chuyển đổi từ cơ quan thực hiện dự án sang chính phủ và đó
không phải là chi phí, vì vậy chi phí đầu-vào chỉ là giá không bao gồm thuế. Trong
một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, đó gọi là chi phí sản xuất biên.

Vì vậy, nếu một thị trường là cạnh tranh đầy đủ, giá mà nhà cung cấp nhận được
(PRBS) có thể bằng xấp xỉ sát với chi phí biên, nếu chính phủ có vị trí trong bản
phân tích, đây là chi phí thực để áp dụng cho đầu-vào.
Mặt khác, nếu chính phủ không có vị trí trong bản phân tích, thì số tiền nộp thuế
chính là chi phí và phải được tính là như vậy. Do đó, giá bao gồm thuế hay giá mà
người tiêu dùng phải trả (PPBC) phải được áp dụng như là chi phí đầu-vào.
5. Dự án nhỏ sử dụng đầu-vào được cung cấp bởi một hãng độc quyền
Nếu hàng hoá sử dụng trong dự án được cung cấp bởi một ngành công nghiệp
không bị cạnh tranh (ví dụ bởi một hãng độc quyền), thì giá trả cho hàng hoá đó có
thể cao hơn chi phí biên (MC). Sự chênh lệch giữa giá và chi phí biên (MC) chính

×