Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

(Luận văn thạc sĩ) quốc tịch của trẻ em theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (899.59 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THU HIỀN

QUỐC TỊCH CỦA TRẺ EM
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI - 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THU HIỀN

QUỐC TỊCH CỦA TRẺ EM
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN LINH GIANG

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan luận văn “Quốc tịch của trẻ em theo pháp luật Việt Nam”
là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trình bày
trong luận văn là trung thực, được trích dẫn từ các nguồn cơng khai, hợp pháp,
khơng sao chép từ bất kỳ cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Thu Hiền


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUỐC TỊCH CỦA TRẺ EM
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM ............................................................................... 9
1.1 Khái niệm quốc tịch và nguyên tắc xác định quốc tịch của trẻ em theo
pháp luật Việt Nam ................................................................................................ 9
1.2. Quản lý nhà nước về quốc tịch của trẻ em theo pháp luật Việt Nam .......... 17
1.3. Kinh nghiệm một số nước trong việc quản lý quốc tịch của trẻ em ............ 25
Chương 2: THỰC TRẠNG QUỐC TỊCH CỦA TRẺ EM Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ................................................................................................................... 32
2.1. Thực tiễn việc bảo đảm quyền có quốc tịch, giải quyết ĐKKS cho trẻ
em ở Việt Nam hiện nay ...................................................................................... 32
2.2. Những khó khăn, thách thức trong quản lý, xác định quốc tịch của trẻ
em ở Việt Nam ..................................................................................................... 38
2.3. Những bất cập, hạn chế trong quy định pháp luật liên quan đến việc
quản lý, xác định quốc tịch của trẻ em ở Việt Nam hiện nay ............................. 46
2.4. Những bất cập, hạn chế trong thực hiện pháp luật về quốc tịch của trẻ
em ở Việt Nam hiện nay ...................................................................................... 57
2.5. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trong quản lý nhà nước về
quốc tịch của trẻ em ở Việt Nam ......................................................................... 61
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM

TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUỐC TỊCH NÓI CHUNG
VÀ QUỐC TỊCH CỦA TRẺ EM NÓI RIÊNG ...................................................... 64
3.1. Quan điểm về tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về quốc tịch nói
chung và đối với quốc tịch của trẻ em nói riêng ................................................. 64
3.2. Một số giải pháp tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về quốc tịch
của trẻ em.............................................................................................................. 67
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 79


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CHXHCN :

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

ĐKKS

:

Đăng ký khai sinh

ĐKKT

:

Đăng ký khai tử

ĐKKH


:

Đăng ký kết hôn

LQTVN

:

Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008

UBND

:

Ủy ban nhân dân

UNHCR

:

Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Kết quả đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn (bao gồm cả đăng ký
mới, đăng ký lại và ĐKKS có yếu tố nước ngoài) từ năm 2016-2018 ........... 35
Biểu đồ 2.2. Đăng ký khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi, trẻ chưa xác định được
cha, mẹ (số liệu thống kê là của 58/63 tỉnh)............................................... 36



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc quan tâm, chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ em luôn là quốc
sách hàng đầu của mọi quốc gia. Quyền của trẻ em theo nghĩa chung, được
hiểu là quyền được sống, được lớn lên một cách lành mạnh, an toàn. Nghị
quyết số 217A ngày 10/02/1945 của Đại hội đồng Liên hợp quốc về quyền con
người đã ghi nhận trẻ em có quyền được chăm sóc, giúp đỡ đặc biệt, tất cả trẻ
em trong hay ngoài giá thú đều được hưởng sự bảo trợ xã hội như nhau. Trong
nhiều năm qua, vấn đề bảo đảm quyền của trẻ em luôn được Đảng và Nhà nước
ta đặc biệt quan tâm, coi đây là nội dung cơ bản của chiến lược phát triển con
người dài hạn [28]. Các nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ln
được khẳng định trong các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước và
bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau.
Quốc tịch được coi là vấn đề thiêng liêng với mỗi con người, là căn cứ
pháp lý xác định công dân của một Nhà nước, thể hiện mối quan hệ gắn bó
giữa Nhà nước với cá nhân và là cơ sở phát sinh quyền và nghĩa vụ qua lại
giữa hai bên. Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 đã khẳng định:
“Ai cũng có quyền có quốc tịch. Khơng ai có thể bị tước quốc tịch hay tước
quyền thay đổi quốc tịch một cách độc đoán”. Đây là tiền đề xác định các
quyền, lợi ích khác của con người nói chung và của trẻ em nói riêng.
Để có cơ sở bảo đảm các quyền trẻ em thì yêu cầu căn bản đầu tiên là phải
bảo đảm cho trẻ em có quốc tịch, mà tại Việt Nam thì việc đó thể hiện qua việc trẻ
được đăng ký khai sinh. Hiến pháp Việt Nam các năm 1980, 1992 và 2013 đều
quy định “Cơng dân Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”. Điều 13 Luật trẻ
em cũng khẳng định trẻ em có quyền được khai sinh và có quốc tịch.
Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã quy định khá rõ về nguyên tắc,
căn cứ xác định quốc tịch Việt Nam cho trẻ em trong những trường hợp cụ

1



thể. Luật đã đưa ra nhiều tình huống để xác định quốc tịch Việt Nam cho trẻ
em, nhằm hạn chế tối đa tình trạng trẻ em khơng quốc tịch cư trú tại Việt Nam
(từ Điều 15 đến Điều 18; Điều 35 đến Điều 37). Sau hơn 10 năm thực hiện
Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành, nhận thức của các cơ quan nhà nước,
tổ chức xã hội và nhân dân về quyền có quốc tịch của trẻ em Việt Nam đã
được nâng lên rõ rệt. Điều đó thể hiện ở những biện pháp tích cực mà các Bộ,
ngành và chính quyền địa phương đã triển khai nhằm thúc đẩy việc thực thi
các quyền của trẻ em tại Việt Nam, bảo đảm cho trẻ em thụ hưởng một cách
tốt nhất quyền sống, quyền được học tập, vui chơi, bảo hiểm y tế và chăm sóc
sức khỏe …
Đặc biệt, việc thực hiện Luật quốc tịch Việt Nam và các văn bản hướng
dẫn thi hành thời gian qua đã giúp cho một số lượng khơng nhỏ trẻ em có cha
hoặc mẹ là công dân Việt Nam, người kia là công dân nước ngồi, được xác
định có quốc tịch Việt Nam (theo sự lựa chọn của cha mẹ) thông qua thủ tục
hành chính đơn giản khi đăng ký khai sinh. Đối với trẻ em khi sinh ra có cha
mẹ là người khơng quốc tịch, trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em được tìm thấy trên
lãnh thổ Việt Nam thì đều được xác định có quốc tịch Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, có thể thấy rằng, vấn đề
xác định quốc tịch Việt Nam cho trẻ em theo Luật quốc tịch năm 2008 và các
văn bản hướng dẫn thi hành vẫn bộc lộ một số hạn chế, gây ra nhiều cách hiểu
khác nhau về các vấn đề như thời điểm trẻ em có quốc tịch Việt Nam, biện
pháp xác định quốc tịch cho trẻ em, tiêu chí thường trú ở Việt Nam của cha
mẹ trẻ là người khơng quốc tịch... dẫn đến thực tế có nhiều trường hợp trẻ em
bị tước mất quyền có quốc tịch Việt Nam, thậm chí là quốc tịch Việt Nam
theo huyết thống của cha mẹ.
Do đó, để đảm bảo quyền có quốc tịch của trẻ em, cùng với đó là quyền
được khai sinh được thực thi tích cực và hiệu quả hơn; thống nhất được cách
quản lý nhà nước đối với vấn đề này; thể hiện được tinh thần nhân đạo của


2


Đảng, cũng như đảm bảo thực hiện các cam kết quốc tế của Nhà nước ta thì
việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về
vấn đề này có ý nghĩa thiết thực nhằm làm rõ những ưu điểm, hạn chế và đề
ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quốc tịch nói
chung và quốc tịch trẻ em nói riêng, cũng như hồn thiện thể chế về quốc tịch
của Việt Nam là việc làm cần thiết.
Như vậy, việc lựa chọn và nghiên cứu Đề tài “Quốc tịch của trẻ em theo
pháp luật Việt Nam” làm Luận văn thạc sĩ luật học sẽ góp phần đáp ứng được
phần nào những đòi hỏi nêu trên cả về phương diện lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quản lý nhà nước đối với vấn đề quốc tịch của trẻ em đã và đang được
các nhà quản lý quan tâm dưới nhiều góc độ và mức độ khác nhau, tuy nhiên,
các kết quả nghiên cứu về vấn đề này chủ yếu được thể hiện ở các luận văn,
báo cáo, tham luận và bài báo khoa học. Trong đó, có thể nêu ra một số cơng
trình sau đây:
- Sách hướng dẫn nghiệp vụ Tìm hiểu về giải quyết vấn đề người di cư tự
do, kết hôn không giá thú trong vùng biên giới Việt Nam – Lào, Bộ Tư pháp
(Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực) (2018), NXB Lao động xã hội [40].
- Bài viết “Bảo đảm quyền có quốc tịch của trẻ em Việt Nam trong Luật
quốc tịch Việt Nam” , tác giả Tiến sĩ Nguyễn Công Khanh và Thạc sĩ Vũ Thu
Hằng, Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, Bộ Tư pháp đăng trên Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật số chuyên đề 4/2019, [29, tr. 9-13] Bài viết đã nêu nên các
vấn đề lý luận và thực quốc tịch của trẻ em đang tồn tại ở Việt Nam và vấn đề
bảo đảm quyền có quốc tịch của trẻ em trong pháp luật quốc gia.
- Bài viết “Bảo đảm quyền có quốc tịch đối với người di cư tự do và kết
hôn không giá thú theo thỏa thuận của Chính phủ Việt Nam và Chính phủ
Lào”, tác giả Nguyễn Quốc Anh, Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, Bộ Tư

pháp đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề 4/2019,[2, tr.9-13].

3


Bài viết đã nêu về thực trạng người di cư tự do và kết hôn không giá thú trong
vùng biên giới Việt Nam – Lào, vấn đề bảo đảm quyền có quốc tịch đối với
người di cư tự do và kết hơn khơng giá thú, trong đó có trẻ em là con của
người di cư tự do và kết hôn không giá thú.
- Đề tài “Nghiên cứu khả năng Việt Nam gia nhập Công ước 1954 về
quy chế người không quốc tịch” theo Quyết định số 1879/QĐ-BĐH ngày
28/6/2012 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp do Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực,
Bộ Tư pháp thực hiện [6]. Cơng trình đã thực hiện nghiên cứu, phân tích về lý
luận và thực tiễn tình hình quản lý người khơng quốc tịch của quốc tế và Việt
Nam, đặc điểm tình hình người di cư tự do của Việt Nam, rà soát các văn bản
quy phạm pháp luật của quốc tế và của Việt Nam liên quan đến người không
quốc tịch, đặc biệt là đối tượng trẻ em để từ đó phân tích, đề xuất phương
hướng gia nhập các công ước quốc tế liên quan đến người không quốc tịch và
trẻ em.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Quốc tịch – nhìn từ góc độ so sánh”, tác giả
Hoàng Ly Anh (2001), đã nghiên cứu về quốc tịch dưới góc độ về lý luận và
thực tiễn như một chế định trong công pháp và tư pháp quốc tế.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Thực hiện pháp luật về quốc tịch ở Việt
Nam”, tác giả Trần Thị Tú (2010) [43], đã nghiên cứu về quản lý nhà nước đối
với lĩnh vực quốc tịch nói chung, trong đó có quốc tịch của trẻ em.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Quản lý nhà nước đối với người không quốc
tịch ở Việt Nam”, tác giả Trần Cẩm An (2018) [1], đã nghiên cứu về quản lý nhà
nước đối với đối tượng là người không quốc tịch nói chung, bao gồm cả trẻ em.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học “Vấn đề về người không quốc tịch trong pháp
luật quốc tế, pháp luật nước ngoài”, tác giả Nguyễn Thị Vinh (2015) [45] đã

nghiên cứu về thực trạng người khơng quốc tịch và một số giải pháp có liên
quan đến hồn thiện pháp luật về quốc tịch, có đề cập đến chế tình trạng
khơng quốc tịch của trẻ em.

4


- Tham luận “Một số khó khăn vướng mắc khi xác định quốc tịch của trẻ
em theo quy định của Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008”, tác giả Lương Thị
Lanh, Phó Cục trưởng Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, Bộ Tư pháp tại
Hội thảo “Rà soát việc thực hiện Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 liên
quan đến xác định quốc tịch trẻ em” năm 2017 [30].
- Tham luận “Công tác giải quyết các yêu cầu về quốc tịch của trẻ em tại
các Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài” của Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại
giao tại Hội thảo “Rà soát việc thực hiện Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008
liên quan đến xác định quốc tịch trẻ em” năm 2017 [17].
- Tham luận “Đánh giá việc quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư
trú của trẻ em là con của công dân Việt Nam với người nước ngoài; việc cấp
thẻ thường trú cho trẻ em mang quốc tịch nước ngoài sinh sống trên lãnh thổ
Việt Nam”, của Cục Quản lý xuất nhập cảnh, Bộ Cơng an tại Hội thảo “Rà
sốt việc thực hiện Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 liên quan đến xác định
quốc tịch trẻ em” năm 2017 [18].
- Tham luận “Đánh giá thực trạng giải quyết vấn đề yêu cầu về quốc tịch
của trẻ em là con của công dân Việt Nam với cơng dân nước ngồi, đặc biệt là
nhóm trẻ em con lai từ nước ngoài về nước sinh sống” của Sở Tư pháp thành
phố Hồ Chí Minh, tại Hội thảo “Rà soát việc thực hiện Luật quốc tịch Việt
Nam năm 2008 liên quan đến xác định quốc tịch trẻ em” năm 2017 [42].
- Tham luận “Thực trạng giải quyết các yêu cầu về quốc tịch của trẻ em là
con của cơng dân Việt Nam với nước ngồi tại thành phố Cần Thơ” của Sở Tư
pháp thành phố Cần Thơ, tại Hội thảo “Rà soát việc thực hiện Luật quốc tịch

Việt Nam năm 2008 liên quan đến xác định quốc tịch trẻ em” năm 2017 [41].
Nhìn chung, các cơng trình khoa học và tài liệu trên đây đã nghiên cứu và
nêu lên các vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với lĩnh vực quốc tịch nói
chung, thực trạng người di cư tự do và người không quốc tịch hiện nay tại Việt
Nam, một số khó khăn đối với vấn đề quản lý và xác định quốc tịch của trẻ em.

5


Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu tồn diện, đầy đủ về quốc tịch của
trẻ em, kể cả những tham luận được nêu tại Hội thảo “Rà soát việc thực hiện
Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 liên quan đến xác định quốc tịch trẻ em”
năm 2017 thì đa phần đều nêu về quốc tịch nói chung, quốc tịch trẻ em chỉ
được lồng ghép vào các vấn đề chung đó.
Kế thừa một số kết quả nghiên cứu của các cơng trình, tài liệu nêu trên,
Đề tài “Qc tịch của trẻ em theo pháp luật Việt Nam” tập trung nghiên cứu
một cách tương đối có hệ thống, tồn diện về vấn đề quốc tịch của trẻ em ở
Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ cơ sở lý luận về quốc tịch của trẻ em và thực tiễn quản
lý nhà nước đối với quốc tịch của trẻ em. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải
pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước đối với quốc tịch của trẻ em.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quốc tịch của trẻ em và quy định của
Luật quốc tịch Việt Nam đối với quản lý nhà nước về quốc tịch của trẻ em.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quốc tịch của trẻ em ở Việt Nam hiện
nay cũng như tại cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài, đặc biệt là
trẻ em con lai, trẻ em là con của người không quốc tịch cư trú trên lãnh thổ
Việt Nam.

- Đề xuất các quan điểm, giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về vấn
đề này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là tập trung nghiên cứu nội dung
của pháp luật Việt Nam, đặc biệt là Luật quốc tịch Việt Nam và các văn bản

6


hướng dẫn thi hành cũng như là thực tiễn quản lý nhà nước đối với vấn đề xác
định quốc tịch của trẻ em.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những vấn đề cơ bản nhất về quản lý
nhà nước đối với quốc tịch của trẻ em. Luận văn đề cập đến quản lý nhà nước
đối với quốc tịch trẻ em ở góc độ thực tiễn trên phạm vi toàn quốc và tại cộng
đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài trên cơ sở nhiệm vụ, trách nhiệm
của các cơ quan trung ương và địa phương từ khi Luật quốc tịch Việt Nam
năm 2008 có hiệu lực (01/7/2009) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối, chủ trương của
Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước kết hợp với cách tiếp cận đa
ngành, liên ngành về quyền có quốc tịch cũng như tham khảo pháp luật một
số nước nội dung quản lý quốc tịch của trẻ em.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, Luận văn sử dụng kết hợp các
phương pháp sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu, phân tích tài liệu: các tài liệu được nghiên

cứu gồm có Hiến pháp, các Luật, Sắc lệnh về quốc tịch Việt Nam, Luật hộ
tịch, các văn bản quy phạm pháp luật khác, đề tài khoa học, sách báo, tạp chí,
các bài viết trên internet và các công văn, báo cáo của Bộ Tư pháp có nội
dung liên quan đến quốc tịch của trẻ em để tìm kiếm, phân tích, đánh giá và
đưa ra các giải pháp nhằm việc đảm bảo quyền có quốc tịch của trẻ em cũng
như tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước đối với quốc tịch của trẻ em.
- Phương pháp tổng hợp, thống kê: để thống kê các số liệu trong thực
tiễn quản lý nhà nước về quốc tịch, trong đó có quốc tịch trẻ em làm cơ sở

7


đưa ra những nhận xét và kiến nghị hoàn thiện các quy định về thể chế liên
quan đến quốc tịch trẻ em.
- Một số phương pháp khác: phương pháp trao đổi thông tin thông qua
các tham luận, các ý kiến góp ý của các bộ, ngành, địa phương tại các hội
thảo v.v..
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn
quản lý nhà nước đối với quốc tịch của trẻ em.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu phục vụ công tác nghiên cứu
khoa học và đào tạo về công tác quốc tịch, hộ tịch.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Các kiến nghị về giải pháp của Luận văn có giá trị tham khảo đối với cơ
quan, tổ chức hữu quan trong việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
công tác quốc tịch, đặc biệt là quốc tịch của trẻ em cũng như đề xuất thể chế
liên quan đến lĩnh vực quốc tịch.
7. Kết cấu của luận văn
- Mục lục

- Mở đầu
- Nội dung của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quốc tịch của trẻ em theo pháp luật
Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng quốc tịch của trẻ em ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Quan điểm và một số đề xuất giải pháp nhằm tăng cường
quản lý nhà nước về quốc tịch nói chung và quốc tịch của trẻ em nói riêng.
- Kết luận
- Danh mục tài liệu tham khảo

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUỐC TỊCH CỦA TRẺ EM
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1 Khái niệm quốc tịch và nguyên tắc xác định quốc tịch của trẻ em
theo pháp luật Việt Nam
1.1.1 Khái niệm về quốc tịch, nguyên tắc quốc tịch của Việt Nam
- Khái niệm về quốc tịch: Quốc tịch là một khái niệm ra đời vào thời kỳ
quá độ từ chế độ phong kiến lên chủ nghĩa tư bản. Trong các xã hội khác
nhau, thời kỳ lịch sử khác nhau, cơng dân sẽ có địa vị pháp lý khác nhau. Địa
vị pháp lý đó được củng cố và hoàn thiện hơn qua từng giai đoạn phát triển
của xã hội. Thời điểm lịch sử thay đổi dẫn đến khái niệm về quốc tịch, pháp
luật về quốc tịch thay đổi. Từ phương diện pháp lý hiện đại, quốc tịch là mối
quan hệ pháp lý hai chiều, được xác lập giữa cá nhân với một quốc gia nhất
định, có nội dung là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người đó và quốc gia
mà họ là cơng dân [17, tr.107].
Một trong những yếu tố quan trọng cấu thành quốc gia là dân cư sống
trên lãnh thổ của quốc gia đó. Trong khoa học pháp lý, mối quan hệ qua lại

giữa nhà nước với dân cư của tổ chức nhà nước đó gọi là quốc tịch. Như vậy,
quốc tịch là mối quan hệ pháp lý giữa một cá nhân với một chính quyền nhà
nước nhất định, có tính chất lâu dài, bền vững, ổn định, không bị giới hạn.
Từ điển quốc gia của nhiều nước cũng đã khẳng định:“Quốc tịch là sự
quy thuộc của một người vào một quốc gia nào đó” (từ điển Oxford của Anh)
[26]; “Quốc tịch là sự quy thuộc về mặt pháp lý và chính trị của một cá nhân
vào một Nhà nước thể hiện mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước và cá nhân.
Nhà nước quy định các quyền cho cá nhân là cơng dân của mình, bảo vệ và
bảo hộ cơng dân đó ở nước ngồi. Về phần mình, cơng dân phải tuân theo
pháp luật của Nhà nước và hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước” (từ điển
Bách khoa Luật của Liên Xơ cũ) [26]; “Quốc tịch là một đặc tính phát sinh từ

9


sự kiện quy thuộc của một người vào một quốc gia nào đó” (từ điển Luật Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ ) [26].
Quốc tịch là căn cứ duy nhất xác định công dân của một Nhà nước và
thông thường, trẻ em từ khi sinh ra đều mang quốc tịch nhất định, xác định địa
vị pháp lý và mối liên hệ với nhà nước đó, từ đó làm phát sinh quyền và nghĩa
vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân. Về pháp lý, quốc tịch là một chế định
bao gồm các quy định điều chỉnh hình thức và nội dung mối quan hệ được thiết
lập giữa Nhà nước và cá nhân; là tiền đề bắt buộc để một cá nhân có thể được
hưởng các quyền và nghĩa vụ công dân đối với một nhà nước. Quốc tịch mang
tính ổn định lâu dài, chỉ có thể thay đổi trong những trường hợp đặc biệt với
những điều kiện hết sức khắt khe (xin nhập, xin thôi, xin trở lại quốc tịch, bị
tước quốc tịch,...). Quốc tịch có đặc thù là vừa mang tính quốc tế nhưng lại là
đối tượng điều chỉnh của luật pháp quốc gia. Điều kiện tiên quyết, thiết yếu để
tham gia đầy đủ vào các hoạt động của xã hội và để thụ hưởng đầy đủ các
quyền của con người là phải có quốc tịch của một quốc gia.

- Quyền có quốc tịch và nguyên tắc một quốc tịch: Quyền có quốc tịch là
quyền dân sự cơ bản, là cơ sở, nền tảng cho việc thực hiện các quyền và nghĩa
vụ của công dân, được pháp luật quốc tế và quốc gia thừa nhận. Xuất phát từ
quan ngại trước các vấn đề về thực hiện nghĩa vụ dân sự, lựa chọn pháp luật
áp dụng để giải quyết các quan hệ dân sự, hơn nhân, gia đình... liên quan đến
người có hai hay nhiều quốc tịch mà các quốc gia áp dụng ngun tắc một
quốc tịch cho cơng dân của mình. Hiện nay, có nhiều nước cho phép cơng dân
mang hai hoặc nhiều quốc tịch, tuy nhiên, nguyên tắc một quốc tịch (bao gồm
nguyên tắc một quốc tịch triệt để và nguyên tắc một quốc tịch mềm dẻo) vẫn
là nguyên tắc phổ biến trên thế giới.
Theo thông tin mà UNHCR cung cấp cho Bộ Tư pháp, năm 2018, trên
thế giới có 79 quốc gia áp dụng nguyên tắc một quốc tịch trong hệ thống pháp
luật của quốc gia mình (gồm 51 quốc gia theo nguyên tắc một quốc tịch triệt
để và 28 quốc gia theo nguyên tắc một quốc tịch mềm dẻo – chấp nhận trường

10


hợp công dân mang hai quốc tịch trong một số trường hợp ngoại lệ). Nguyên
tắc một quốc tịch cũng đã được nghiên cứu và đưa vào các văn kiện pháp lý
quốc tế nhằm hạn chế trường hợp có hai hay nhiều quốc tịch (như Công ước
La Hay năm 1930, Công ước châu Âu năm 1997 về quốc tịch, Công ước năm
1963 về giảm thiểu tình trạng nhiều quốc tịch và nghĩa vụ quân sự trong
trường hợp nhiều quốc tịch...).
- Nguyên tắc một quốc tịch của Việt Nam: Nguyên tắc một quốc tịch
luôn được ghi nhận như nguyên tắc chủ đạo, xuyên suốt toàn bộ hệ thống
pháp luật về quốc tịch của Việt Nam từ trước đến nay. Quốc hội Việt Nam đã
ban hành 03 văn bản Luật quốc tịch Việt Nam vào các năm 1988, 1998, 2008
(được sửa đổi, bổ sung một số điều vào năm 2014). Trong đó, Luật quốc tịch
Việt Nam năm 1988, 1998 quy định theo nguyên tắc một quốc tịch triệt để “Nhà nước CHXHCN Việt Nam chỉ cơng nhận cơng dân Việt Nam có một

quốc tịch là quốc tịch Việt Nam” (Điều 3). Đến năm 2008, Nhà nước ta với
xu hướng hội nhập, thực hiện chủ trương của Đảng đối với cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài theo Nghị quyết 36-NQ/TƯ ngày 26/3/2004 của Bộ
Chính trị (Đảng và Nhà nước ta ln coi cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam, Nhà
nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để đồng bào duy trì quan hệ gắn bó với
q hương, đất nước, giải quyết thỏa đáng yêu cầu của người Việt Nam ở
nước ngoài liên quan đến vấn đề quốc tịch), LQTVN vẫn được xây dựng
theo nguyên tắc một quốc tịch nhưng đã mềm dẻo hơn. Cụ thể, Điều 4
LQTVN quy định “Nhà nước CHXHCN Việt Nam công nhận công dân Việt
Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có
quy định khác”.
1.1.2 Nguyên tắc xác định quốc tịch đối với trẻ em
Quyền có quốc tịch của trẻ em luôn được các nước trên thế giới cũng như
Việt Nam đặc biệt quan tâm và đã nỗ lực triển khai nhiều hoạt động nhằm bảo
đảm quyền có quốc tịch của trẻ em như: bảo đảm khơng có trẻ em nào sinh ra bị

11


rơi vào tình trạng khơng quốc tịch; xóa bỏ thực trạng phân biệt đối xử và từ chối
thực hiện quyền có quốc tịch của trẻ em; đẩy mạnh cơng tác đăng ký khai sinh
cho trẻ em nhằm ngăn ngừa tình trạng không quốc tịch của trẻ em; xây dựng
pháp luật về quốc tịch khơng có sự phân biệt về giới, khơng phân biệt đối xử,
bảo đảm quyền có quốc tịch của trẻ em; tích cực nghiên cứu, tham gia các công
ước quốc tế về quyền trẻ em.
Khoản 3 Điều 24 Công ước quốc tế về các quyền dân sự - chính trị quy
định “mọi trẻ em đều có quyền có quốc tịch”; Điều 7 Công ước quốc tế về quyền
trẻ em quy định: “1. Trẻ em phải được đăng ký ngay lập tức sau khi sinh ra và có
quyền có họ tên, có quốc tịch ngay từ khi chào đời và trong chừng mực có thể,

quyền được biết cha mẹ mình và được cha mẹ mình chăm sóc. 2. Các quốc gia
thành viên phải bảo đảm việc thực hiện những quyền đó phù hợp với pháp luật
quốc gia, với những nghĩa vụ theo các văn kiện quốc tế có liên quan đến lĩnh vực
này, đặc biệt trong trường hợp mà nếu khơng làm như thế thì đứa trẻ sẽ khơng có
quốc tịch”. [29]
Pháp luật mỗi nước có những nguyên tắc khác nhau để xác định quốc tịch
đối với trẻ em. Một số nước thực hiện theo nguyên tắc quyền huyết thống, có
nghĩa là căn cứ và huyết thống để xác định quốc tịch cho trẻ em, kể cả trẻ em
sinh ra ở nước ngoài. Nguyên tắc này cho phép xác định quốc tịch của trẻ em
theo quốc tịch của người cha hoặc người mẹ, thậm chí có quốc gia cịn cho phép
xác định quốc tịch của trẻ em theo quốc tịch của ông/bà. Một số nước thực hiện
theo nguyên tắc quyền nới sinh, có nghĩa là trẻ em sẽ mang quốc tịch của quốc
gia nơi sinh ra, không phụ thuộc vào quốc tịch của cha/mẹ. Như vậy, trẻ em sinh
ra trên lãnh thổ của quốc gia áp dụng quyền nơi sinh sẽ mang quốc tịch của quốc
gia đó. Bên cạnh đó, một số quốc gia cịn thực hiện kết hợp nguyên tắc quyền
huyết thống với nguyên tắc quyền nơi sinh để xác định quốc tịch cho trẻ em
trong trường hợp trẻ có cha, mẹ mang hai quốc tịch khác nhau hoặc có cha, mẹ
là người khơng quốc tịch. Ví dụ, một số quốc gia quy định trẻ em sinh ra trên
lãnh thổ quốc gia mà người cha hoặc người mẹ có quốc tịch thì trẻ em đó có

12


quốc tịch của quốc gia nơi sinh ra. Những nguyên tắc này có thể thay đổi để phù
hợp với mục tiêu, chính sách, yêu cầu quản lý dân cư, xã hội của mỗi quốc gia
trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau.
Việt Nam là quốc gia áp dụng nguyên tắc quyền huyết thống trong
xác định quốc tịch. Do đó, LQTVN quy định rõ trẻ em sinh ra trong hoặc
ngoài lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha, mẹ đều là cơng dân Việt
Nam thì có quốc tịch Việt Nam (Điều 15).

Tại Điều 16, 17 LQTVN quy định “1. Trẻ em sinh ra trong hoặc ngoài
lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha hoặc mẹ là cơng dân Việt Nam cịn
người kia là người khơng quốc tịch hoặc có mẹ là cơng dân Việt Nam cịn cha
khơng rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam. 2. Trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ
là cơng dân Việt Nam cịn người kia là cơng dân nước ngồi thì có quốc tịch
Việt Nam, nếu có sự thỏa thuận bằng văn bản của cha mẹ vào thời điểm đăng
ký khai sinh cho con. Trường hợp trẻ em được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam
mà cha mẹ không thỏa thuận được việc lựa chọn quốc tịch cho con thì trẻ em
đó có quốc tịch Việt Nam”. “1. Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi
sinh ra có cha mẹ đều là người khơng quốc tịch, nhưng có nơi thường trú tại
Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam. 2. Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam
mà khi sinh ra có mẹ là người khơng quốc tịch, nhưng có nơi thường trú tại
Việt Nam, cịn cha khơng rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam”.[36]
Như vậy, đối với trẻ em có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam, người
kia là công dân nước ngoài, quốc tịch của trẻ sẽ được xác định theo sự lựa
chọn của cha mẹ thông qua thủ tục hành chính đơn giản khi đăng ký khai
sinh. Đối với trẻ em khi sinh ra có cha mẹ là người không quốc tịch, trẻ sơ
sinh bị bỏ rơi, trẻ em được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam thì đều được xác
định có quốc tịch Việt Nam.
Bên cạnh đó, LQTVN còn quy định về sự mặc nhiên thay đổi quốc
tịch của trẻ em vị thành niên (sống cùng cha mẹ) khi cha mẹ chúng được
nhập, trở lại hoặc thôi quốc tịch Việt Nam (Điều 35), nhằm tránh cho trẻ em

13


khơng bị rơi vào tình trạng khó khăn, bị động khi cha mẹ thay đổi quốc
tịch. Còn đối với trẻ em là con của người bị tước quốc tịch Việt Nam hoặc bị
hủy bỏ Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam (Điều 36), thì quốc tịch của
trẻ em khơng bị thay đổi. Đồng thời, LQTVN cũng quy định về việc mặc

nhiên có quốc tịch Việt Nam của trẻ em nước ngồi khi được cơng dân Việt
Nam nhận làm con nuôi, nhằm tránh cho trẻ em khỏi những thủ tục phức tạp
nếu phải xin nhập quốc tịch và trẻ em Việt Nam được người nước ngồi nhận
làm con ni thì vẫn giữ quốc tịch Việt Nam (Điều 37).[36]
Như vậy, có thể thấy, các quy định về quốc tịch của trẻ em theo
LQTVN ln ưu tiên đảm bảo quyền có quốc tịch của trẻ em. Các quy định
này là tiền đề để quy định về việc đảm bảo các quyền khác trong trong
nhiều văn bản luật của Việt Nam, như Luật hộ tịch, Luật trẻ em, Bộ luật
dân sự cũng đã ghi nhận quyền được khai sinh, xác định quốc tịch của trẻ
em và được bảo đảm thực thi bằng nhiều biện pháp tích cực và hiệu quả.
1.1.3. Đặc điểm về quốc tịch của trẻ em
Quốc tịch là vấn đề thiêng liêng đối với mỗi con người, là mối quan hệ
chính trị - pháp lý gắn kết một cá nhân với một Nhà nước có chủ quyền, là cơ sở
pháp lý để xác định một cá nhân là công dân của một nước kể cả đối với trẻ em
ngay từ khi sinh ra. Tại Việt Nam, quốc tịch của trẻ em có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, quyền có quốc tịch của trẻ em luôn gắn với quyền khai sinh
Nếu người thành niên có thể chứng minh, xác định quốc tịch bằng nhiều
hình thức khác nhau thì quốc tịch của trẻ em chỉ có thể được khẳng định sau
khi được ĐKKS.
ĐKKS là sự ghi nhận về mặt pháp lý sự ra đời, tồn tại của một cá nhân,
phát sinh các quyền nhân thân của cá nhân, đồng thời là cơ sở để Nhà nước
quản lý thông tin, dữ liệu cá nhân. Giấy khai sinh là cơ sở pháp lý xác định
các mối quan hệ của người được đăng ký khai sinh (xác định quyền, nghĩa vụ
giữa công dân với Nhà nước, quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ và con …); là giấy
tờ pháp lý quan trọng, đầu tiên giúp phân biệt cá nhân này với cá nhân khác;

14


đồng thời là giấy tờ quan trọng để giải quyết các chế độ liên quan đến quyền

về y tế, giáo dục... Đối với trẻ em, Giấy khai sinh là giấy tờ chứng minh quốc
tịch quan trọng nhất và với phần lớn trẻ em có quốc tịch Việt Nam thì đây là
giấy tờ chứng minh quốc tịch duy nhất.
Vì vậy, để bảo đảm quyền có quốc tịch của trẻ thì phải đảm bảo thực thi
quyền khai sinh của trẻ.
Tại Việt Nam, quyền được khai sinh, quyền có quốc tịch của trẻ luôn
được Nhà nước quan tâm, bảo đảm thực hiện. Với nỗ lực đảm bảo các quyền
này, Việt Nam đã tham gia Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em mà
Việt Nam và thực hiện nội luật hóa trong các văn bản pháp luật quan trọng
của Việt Nam như: Bộ luật Dân sự (năm 2015), Luật Trẻ em (năm 2015),
Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014, Luật phổ cập giáo dục, Luật lao động,
Luật tố tụng hình sự... Điều 13 Luật trẻ em khẳng định: “trẻ em có quyền
được khai sinh, quyền có họ, tên, có quốc tịch; được xác định cha, mẹ, dân
tộc, giới tính theo quy định của pháp luật” [39]; Điều 30 Bộ luật dân sự xác
định:“Cá nhân từ khi sinh ra có quyền được khai sinh”[38]. Tại Hội nghị cấp
Bộ trưởng khu vực Châu Á – Thái Bình Dương về đăng ký và thống kê hộ
tịch (Civil Registration and Vital Statistics – CRVS) được tổ chức vào tháng
11 năm 2014 tại Băng-cốc, Thái Lan, Việt Nam đã tham gia ký kết và thông
qua hai văn kiện Tuyên bố về đăng ký và thống kê hộ tịch của khu vực châu
Á – Thái Bình Dương và Khung hành động khu vực. Việc bảo đảm quyền
ĐKKS và xác định quốc tịch của trẻ em cũng nằm trong chuỗi các hoạt động
được triển khai khung hành động tuyên bố này. Việc này cũng hàm ý bảo đảm
mỗi trẻ em sẽ được đăng ký khai sinh và xác định có quốc tịch.
Thứ hai, quốc tịch của trẻ em thường phụ thuộc vào quốc tịch của cha mẹ
Nếu người thành niên có thể chủ động thực hiện việc xin thơi/nhập/trở
lại quốc tịch của chính mình thì quốc tịch của trẻ em theo pháp luật Việt Nam
thường phụ thuộc vào quốc tịch của cha mẹ.

15



Theo quy định của LQTVN thì trẻ em chỉ có thể có quốc tịch Việt Nam
khi thuộc một trong các trường hợp: (1) có cả cha và mẹ là cơng dân Việt
Nam; (2) có cha hoặc mẹ là cơng dân Việt Nam và được cha mẹ lựa chọn
quốc tịch Việt Nam cho con; (3) có cha hoặc mẹ là cơng dân Việt Nam cịn
người kia là người khơng quốc tịch; (4) có mẹ là cơng dân Việt Nam và cha
khơng rõ là ai; (5) và trẻ được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam có cả cha và mẹ
là người không quốc tịch nhưng thường trú tại Việt Nam hoặc mẹ là người
không quốc tịch thường trú tại Việt Nam cịn cha khơng rõ là ai; (6) trẻ bị bỏ
rơi, trẻ được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam mà không rõ cha mẹ là ai; (7) trẻ
được công dân Việt Nam nhận làm con ni.
Như vậy, có thể thấy hầu hết các trường hợp quốc tịch Việt Nam của trẻ
được xác định theo quốc tịch của cha mẹ. Đối với trẻ có cả cha và mẹ là cơng
dân nước ngồi hoặc cha mẹ đều là người khơng quốc tịch nhưng khơng
thường trú tại Việt Nam thì trẻ sẽ khơng thể có quốc tịch Việt Nam. Nếu
muốn cho trẻ nhập quốc tịch Việt Nam thì ít nhất cha hoặc mẹ của trẻ phải
được nhập quốc tịch Việt Nam – đây là thủ tục khá phức tạp và phải đảm bảo
nhiều điều kiện khắt khe.
Thứ ba, trẻ em có thể mặc nhiên có đa quốc tịch hoặc mặc nhiên trở
thành người không quốc tịch do xung đột pháp luật
Do việc áp dụng nguyên tắc xác định quốc tịch của các quốc gia là khác
nhau nên trẻ em đơi khi có thể có hai quốc tịch hoặc rơi vào tình trạng khơng
quốc tịch mà khơng phụ thuộc vào ý chí chủ quan hay mong muốn của cha
mẹ trẻ. Nguyên tắc chủ đạo trong việc thực hiện xác định quốc tịch theo
LQTVN là ngun tắc quyền huyết thống, vì vậy, trẻ em có thể được xác
định/mặc nhiên có quốc tịch Việt Nam theo quốc tịch của cha/mẹ không phụ
thuộc vào việc được sinh ra ở Việt Nam hay ở nước ngoài. Những trẻ em này
nếu được sinh ra tại quốc gia áp dụng ngun tắc quyền nơi sinh thì sẽ có thể
có hai quốc tịch do mặc nhiên có quốc tịch của quốc gia nơi sinh ra. Bên cạnh
đó, những trẻ em sinh ra tại Việt Nam có cả cha và mẹ là người nước ngoài


16


mà quốc gia mà cha, mẹ trẻ mang quốc tịch áp dụng nguyên tắc xác định quốc
tịch theo quyền nơi sinh; hoặc có cả cha và mẹ là người khơng quốc tịch
khơng thường trú tại Việt Nam; hoặc có mẹ là người không quốc tịch không
thường trú tại Việt Nam và cha khơng rõ là ai thì sẽ mặc nhiên rơi vào tình
trạng khơng quốc tịch.
1.2. Quản lý nhà nước về quốc tịch của trẻ em theo pháp luật Việt Nam
Hoạt động quản lý nhà nước đối với quốc tịch của trẻ em là công cụ cơ
bản nhằm điều chỉnh các quan hệ giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối
với công dân là các thế hệ làm chủ tương lai của đất nước. Hoạt động quản lý
nhà nước đối với quốc tịch của trẻ em được thực hiện bởi các cơ quan nhà
nước có liên quan từ Trung ương đến địa phương, theo các mục tiêu, chủ
trương, chính sách của Đảng đối với công dân, dưới sự chỉ đạo của Nhà nước
và tuân thủ theo quy định của pháp luật của Việt Nam và các điều ước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên.
Quản lý nhà nước về quốc tịch của trẻ em là việc nhà nước thông qua các cơ
quan quản lý của mình áp dụng các chính sách, pháp luật nhằm điều chỉnh, thực
hiện việc xác định, thay đổi quốc tịch của trẻ em và qua đó xác định trách nhiệm,
sự bảo hộ của nhà nước đối với trẻ em mang quốc tịch của quốc gia mình.
Việc đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền có quốc tịch của trẻ em thông qua
công tác quản lý nhà nước về quốc tịch của trẻ em cũng thể hiện tinh thần
nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta. Hoạt động này đặc biệt có ý nghĩa quan
trọng trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, trong sự phát triển vững mạnh của đất nước và phù hợp với xu hướng,
tinh thần của luật pháp quốc tế.
1.2.1. Chủ thể quản lý nhà nước về quốc tịch trẻ em
Nhà nước quản lý các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội... thơng qua các

cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức của nhà nước.
Chủ thể của quản lý nhà nước là các tổ chức hoặc cá nhân trực tiếp tham gia
vào hoạt động quản lý nhà nước, là các cơ quan, công chức trong bộ máy nhà

17


nước được nhà nước ủy quyền thực hiện quyền quản lý nhà nước trong một
lĩnh vực nào đó.
Việc quản lý nhà nước về con người, về công dân, đặc biệt là về quốc
tịch của trẻ em hướng tới đảm bảo quyền có quốc tịch của trẻ em thể hiện
chính sách, mục tiêu đảm bảo quyền con người của Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chủ thể của quản lý nhà nước về quốc tịch của trẻ em bao gồm Chủ tịch
nước, hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa
phương, các Cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngồi. Có thể
thấy, hệ thống các cơ quan quản lý quốc tịch của trẻ em là rất rộng. Nếu như
đối với người thành niên thì việc quản lý quốc tịch chỉ dừng lại ở Chủ tịch
nước, Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và các bộ, ngành trung ương
khác, các Cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài và các UBND
cấp tỉnh, thì các cơ quan được giao thẩm quyền quản lý quốc tịch của trẻ em
bao gồm cả hơn 700 UBND cấp huyện và hơn 11.000 UBND cấp xã – là các
cơ quan hành chính nhà nước được giao thẩm quyền quản lý và thực hiện
đăng ký khai sinh, xác định quốc tịch cho trẻ em.
Các cơ quan quản lý nhà nước đối với trẻ em có trách nhiệm thực hiện
đầy đủ các hoạt động quản lý phù hợp với phạm vi và thẩm quyền của mình
nhằm bảo đảm thực hiện hiệu quả quyền có quốc tịch và quyền được ĐKKS
của trẻ em. Theo quy định của LQTVN, tại Chương V quy định về trách
nhiệm của cơ quan nhà nước về quốc tịch đã quy định về thẩm quyền, trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương trong lĩnh

vực quốc tịch. Cụ thể là: Điều 38 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ
tịch nước về quốc tịch, Điều 39 quy định về trách nhiệm của Chính phủ về
quốc tịch và Điều 40 quy định về trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ,
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài về quốc
tịch. Tuy nhiên, theo Luật hộ tịch, một công việc hết sức quan trọng, mang
tính chất quyết định đối với việc xác định quốc tịch của trẻ em là ĐKKS lại

18


được giao cho UBND cấp huyện và UBND cấp xã. Đại đa số công dân Việt
Nam được khẳng định quốc tịch Việt Nam thông qua việc thực hiện trách
nhiệm quản lý nhà nước của các cơ quan này – cụ thể là việc xác định quốc
tịch Việt Nam khi đăng ký khai sinh.
Như vậy, các cơ quan thực hiện việc quản lý nhà nước đối với trẻ em là
Chủ tịch nước, Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Cơng an, Bộ Ngoại giao, một số
bộ, ngành trung ương và hệ thống UBND các cấp. Trách nhiệm và thẩm
quyền của các cơ quan nêu trên đã được thể hiện tương đối đầy đủ trong các
quy định pháp luật, gồm cả trách nhiệm, thẩm quyền theo lĩnh vực của mình
và cơ chế phối hợp với giữa các bộ, ngành có liên quan với nhau. Theo các
quy định này, các cơ quan sẽ chủ động thực hiện trách nhiệm của mình và có
sự trao đổi, thông tin cũng như đề nghị các cơ quan hữu quan cùng thực hiện
nhiệm vụ quản lý.
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước về quốc tịch trẻ em
Mục tiêu cao nhất của việc quản lý nhà nước đối với quốc tịch của trẻ
em tại Việt Nam chính là việc cơ quan có thẩm quyền thực hiện có trách
nhiệm các chức năng, nhiệm vụ của mình để thực thi các biện pháp nhằm đảm
bảo quyền có quốc tịch của trẻ em; đảm bảo cho trẻ em có thể hưởng đầy đủ
các quyền lợi cơ bản về y tế, giáo dục, giúp trẻ đảm bảo quyền được sống và
lớn lên một cách lành mạnh; đồng thời đảm bảo để trẻ em có thể được hưởng

các quyền, lợi ích khác của mình theo quy định của pháp luật Việt Nam và
các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia; góp phần ổn định an
sinh xã hội, an ninh trật tự, giữ vững ổn định chính trị và sự phát triển lâu dài
của kinh tế - chính trị quốc gia.
Cũng như công tác quản lý nhà nước trong các lĩnh vực khác, quản lý
nhà nước về quốc tịch nói chung và quản lý nhà nước về quốc tịch của trẻ
em nói riêng bao gồm các hoạt động như: ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật; xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp
luật; kiểm tra, thanh tra xử lý vi phạm trong công tác quản lý nhà nước; giải

19


×