Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (742.97 KB, 25 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài: Trong nhiều năm qua Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến giáo dục nói chung và vấn đề đổi mới phương pháp dạy học trong trường học nói riêng. Vấn đề này đã được đề cập nhiều lần trong các văn kiện Đại hội Đảng, trong Luật Giáo dục. Đặc biệt văn bản số 242-TB/TW ngày 15/04/2009 thông báo kết luận của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, phương hướng phát triển giáo dục đào tạo đến năm 2020 chỉ rõ “ Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học, khắc phục cơ bản lối truyền thụ một chiều. Phát huy phương pháp dạy học tích cực, sáng tạo, hợp tác; giảm thời gian giảng lý thuyết, tăng thời gian tự học, tự tìm hiểu cho học sinh, GV; gắn bó chặt chẽ giữa học lý thuyết và thực hành, đào tạo gắn với nghiên cứu khoa học, sản xuất và đời sống”. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là tích cực hóa họat động học tập của học sinh. Đó là quá trình làm cho người học trở thành chủ thể tích cực trong hoạt động học tập của chính họ. Phương pháp dạy học tích cực có mầm móng từ xa xưa. Ngày nay, do những yêu cầu đổi mới giáo dục, đáp ứng sự phát triển kinh tề - xã hội của đất nước trong giai đọan công nghiệp hóa, hiện đại hóa, PPDH tích cực cần được quan tâm thực hiện và trở thành phổ biến trong nhà trường của chúng ta. Để phát huy tính tích cực của học sinh cần tạo điều kiện để học sinh được suy nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn, được phát biểu quan niện của mình, được đưa ra những nhận xét về vấn đề đang bàn luận,… được tham gia vào quá trình học tập để chiếm lĩnh tri thức. Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới từ cuối 2006, theo đó giáo dục nước ta trước mắt cũng như lâu dài phải có chiến lược phù hợp để tận dụng được mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực nhằm đạt được các mục tiêu góp phần cùng cả nước vững vàng hội nhập với thế giới, phát triển giáo dục tiến kịp với các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới..
<span class='text_page_counter'>(2)</span> Trong thời đại ngày nay, do sự bùng nổ của tri thức khoa học và công nghệ, sự gia tăng tốc độ, khối lượng tri thức, học sinh ngày càng tiếp cận với nhiều nguồn tri thức khác nhau, kiến thức đa dạng hơn, phong phú hơn và được cập nhật liên tục. Nếu ta không nắm được xu thế đó thì sẽ bị tụt hậu. Từ trước đến nay, đa số học sinh cho rằng Hóa học là môn học rất khó và khô khan. Nhiều học sinh đã phải rất vất vả để ghi nhớ kiến thức nhưng kết quả mang lại chưa cao. Thực tế cho thấy một số HS học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, các em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số HS này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Nguyên nhân đó chính là do các em chưa tìm ra phương pháp học tập phù hợp, chưa có phương pháp ghi nhớ kiến thức một hiệu quả. Từ đó dễ gây tâm lý chán nản, buông xuôi dẫn đến lổ hỏng kiến thức ngày càng rộng hơn và đến một lúc nào đó không thể lắp được. Hiện nay, các giáo viên đang áp dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực để từng bước chuyển dần cách dạy học từ chỗ trang bị kiến thức cho học sinh sang dạy cho học sinh cách tiếp cận và tìm tòi kiến thức. Từ đó, vận dụng kiến thức vào thực tế và biến đổi thành kỹ năng cho riêng bản thân mình. Việc áp dụng phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy kết hợp với các phương pháp học nhóm, công nghệ thông tin,… vào trong giảng dạy hiện đang là công cụ phù hợp và đạt hiệu quả mà ở một số trường đang dần thực hiện trong việc nâng cao chất lượng dạy và học trong giáo dục hiện nay. Với những vấn đề đặt ra ở trên đã khẳng định hơn nữa vai trò của giáo dục. Dạy học không chỉ đơn thuần là cung cấp kiến thức mà còn phải giúp học sinh nhận thức được con đường chiếm lĩnh tri thức, giúp học sinh biết cách lựa chọn, hệ thống hóa và ghi nhớ kiến thức hiệu quả; đồng thời biết biết liên kết nhiều nguồn kiến thức lại với nhau và vận dụng một cách hiệu quả vào trong học.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> tập cũng như thực tiễn. Vì thế tôi thực hiện đề tài: “ Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học Hóa học THCS” nhằm giúp học sinh học tập một cách tích cực hơn, phát huy tính sáng tạo, tư duy của bộ não góp phần vào việc lưu giữ kiến thức trên bộ não và sử dụng nó một cách có hiệu quả, thông minh và sáng tạo. II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu: 1. Mục đích nghiên cứu: Đề tài: “ Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học” được thực hiện nhằm mục đích giúp học ghi nhớ, hệ thống hóa các kiến thức Hóa học một cách hiệu quả. Từ đó làm cho học sinh thay đổi cách nhìn về bộ môn Hóa học: không còn khô cứng và khó nữa. 2. Phương pháp nghiên cứu: a/ Phương pháp nghiên cứu lý luận: - GV nghiên cứu tài liệu có liên quan đến việc giúp học sinh biết cách dùng bản đồ tư duy để hệ thống hóa, ghi nhớ một cách đầy đủ kiến thức đã học. b/ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục: - GV tham khảo ý kiến của các đồng nghiệp về phương pháp hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài toán tính theo phương trình hoá học. - Qua kinh nghiệm giảng dạy môn Hóa học của bản thân nhiều năm liền và hiệu quả đạt được qua các năm. c/ Phương pháp thu thập thông tin: GV thu thập thông tin phản hồi từ phía học sinh cũng như thông qua kết quả học tập môn Hóa học từng tháng để điều chỉnh phương pháp sử dụng cho phù hợp. d/ Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Giúp học sinh biết căn cứ vào nội dung bài học vẽ được bản đồ tư duy hệ thông hóa kiến thức trong một bài, một chương hoặc từng phần kiến thức mà giáo viên yêu cầu theo cách hiểu và khả năng sáng tạo riêng của mình..
<span class='text_page_counter'>(4)</span> III. Giới hạn của đề tài: Đề tài “ Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học Hóa học THCS” được thực hiện trong phạm vi trường THCS Bình Hàng Tây và áp dụng cho học sinh lớp 8, 9 đối với bộ môn Hóa học. IV. Kế hoạch thực hiện: - GV hướng dẫn học sinh cách vẽ bản đồ tư duy để hệ thống hóa kiến thức. HS tự vẽ theo cách riêng của mình nhưng phải đảm bảo đầy đủ nội dung kiến thức. Hướng dẫn HS biết sử dụng bản đồ tư duy để ghi nhớ kiến thức một cách hiệu quả. - GV yêu cầu học sinh vẽ bản đồ tư duy theo từng nội dung kiến thức của bài, chương hoặc từng phần kiến thức trong các tiết học bài mới, tiết luyện tập hoặc có thể hướng dẫn học sinh thực hiện ở nhà để giúp nâng cao hiệu quả của việc học kiến thức ở nhà. - GV kiểm tra và đánh giá sản phẩm của học sinh thông qua việc kiểm tra bài cũ và sau khi dạy bài mới. - Có thể chia thành nhóm học sinh để kiểm tra và đối chiếu bản đồ của nhau, tìm ra chổ hay của bạn để học tập đồng thời khắc phục những hạn chế của bản thân mình. - GV uốn nắn, sữa chữa những sai sót của học sinh. B. PHẦN NỘI DUNG ĐỀ TÀI I. Cơ sở lý luận: 1. Khái quát về bản đồ tư duy: Bản đồ tư duy (BĐTD) còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống hóa một chủ đề … chữ viết. Nghĩa của cụm từ BĐTD không hiểu theo nghĩa bản đồ thông thường như bản đồ địa lý mà BĐTD được hiểu là một hình thức ghi chép theo mạch tư duy của mỗi người bằng cách kết hợp việc sử dụng.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết. Đặc biệt ở đây là một sơ đồ mở, việc thiết kế BĐTD theo mạch tư duy của mỗi người, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết khắc khe như bản đồ địa lý, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một nội dung nhưng mỗi người có thể thể hiện nó dưới dạng BĐTD theo một cách riêng, do đó việc lập BĐTD phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người. BĐTD là một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. Cơ chế hoạt động của BĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh). BĐTD là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ với nhau vì vậy có thể vận dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương,... Ưu điểm của BĐTD là: Dễ nhìn, dễ viết; kích thích hứng thú học tập và khả năng sáng tạo của HS; phát huy tối đa tiềm năng ghi nhớ của bộ não; rèn luyện cách xác định chủ đề và phát triển ý chính, ý phụ một cách logic. Cách ghi BĐTD: Nghĩ trước khi viết. Viết ngắn gọn Viết có tổ chức Viết lại theo ý của mình, nên chừa khoảng trống để có thể bổ sung ý (nếu sau này cần).
<span class='text_page_counter'>(6)</span> . 2. Vai trò của bản đồ tư duy: − BĐTD giúp HS học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học HS sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. − BĐTD - giúp HS học tập một cách tích cực: Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình, vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp HS học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não giúp học sinh học tập một cách tích cực, là biện pháp hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học một cách hiệu quả. Việc HS tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của HS, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của HS, các em tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong…), các em tự “sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng HS và BĐTD do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình. 3. Những điều cần tránh khi thiết kế bản đồ tư duy:.
<span class='text_page_counter'>(7)</span> − Ghi lại nguyên cả đọan văn dài dòng: Khi thiết kế BĐTD cẩn chọn lọc những ý cơ bản, kiến thức cần thiết, ví dụ minh họa để có nhiều thông tin cho bài học. Thiết kế BĐTD của một bài học phải thể hiện được kiến thức trọng tâm, cơ bản cần chốt lại của bài học đó. − Ghi chép quá nhiều ý không cần thiết hoặc quá sơ sài không có thông tin. − Dành quá nhiều thời gian để vẽ, viết, tô màu… Chỉ nên vẽ những hình ảnh có liên quan đến chủ đề kiến thức. Tránh khuynh hướng vẽ quá cầu kì những hình ảnh không cần thiết. II. Cơ sở thực tiễn: Hiện nay, chúng ta thường ghi chép thông tin bằng các ký tự, đường thẳng, con số. Với cách ghi chép này, chúng ta mới chỉ sử dụng một nửa của bộ não - não trái, mà chưa sử dụng kỹ năng bên não phải, nơi giúp chúng ta xử lý các thông tin về nhịp điệu, màu sắc, không gian ... và cách ghi chép thông thường khó nhìn được tổng thể của cả vấn đề. Qua nghiên cứu cho thấy, nhiều học sinh chưa biết cách học, cách ghi kiến thức vào bộ não mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm, không nắm được “sự kiện nổi bật” trong tài liệu đó, hoặc không biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên quan với nhau. Do đó cần có một phương pháp giúp học sinh khắc phục những hạn chế trên, và học tập hiệu quả. Đó là hướng dẫn HS học tập bằng BĐTD, hướng dẫn HS ghi chép và ghi nhớ thông tin hiệu quả..
<span class='text_page_counter'>(8)</span> III. Thực trạng và những mâu thuẫn: Hóa học là một bô môn rất gần gũi với cuộc sống, học hóa học chính là học những gì xung quanh ta. Do đó người GV phải làm cho học sinh thông hiểu được vấn đề này. Để làm được điều này không phải là nói suông mà chúng ta phải đưa kiến thức Hóa học vào cuộc sống, từ kiến thức Hóa học đã học các em có thể liên hệ để giải thích các hiện tượng đang diễn ra xung quanh, thấy được vai trò của Hóa học đối với đời sống và sản xuất. Đây là một công việc không hề đơn giản chút nào nhất là đối với những học sinh mới được làm quen với môn Hóa học. Nó đòi hỏi học sinh phải chịu khó, biết liên hệ nhiều kiến thức… Đây là công việc mà không phải bất lỳ học sinh nào cũng làm được. Do đó giáo viên phải hướng dẫn học sinh phương pháp học tập để ghi nhớ kiến thức một cách đầy đủ và hệ thống, biết cách liên hệ, gắn kết các kiến thức đã học. Hiện nay, một bộ phân không nhỏ HS không biết ghi chép kiến thức. Các em chỉ trong chờ GV đọc hoặc viết lên bảng rồi từ đó mới viết vào tập. Các em không biết ghi nhận kiến thức theo cách hiểu của mình mà chỉ ghi chép một cách thụ động. Điều này thì lại mâu thuẫn với việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Kết quả là chất lượng học tập chưa cao, học sinh không tích cực trong học tập cũng như không tích cực trong ghi nhớ kiến thức..
<span class='text_page_counter'>(9)</span> Phần đông HS có hòan cảnh kinh tế khó khăn. Cha mẹ phải lo làm kinh tế nên ít quan tâm đến việc học tập ở nhà của con. Vì thế có nhiều học sinh chỉ học ở lớp còn về nhà thì không chạm đến tập sách. Các em xem nhẹ việc học bài và làm bài tập ở nhà. Do đó việc ghi nhớ những kiến thức đã học còn hạn chế và đặc biệt là có nhiều trường hợp học sau quên trước. Việc kiểm tra, đánh giá HS của GV còn hạn chế. Thông thường GV chỉ yêu cầu HS tái hiện lại kiến thức đã học, còn phần hiểu thì GV ít quan tâm. Do đó dẫn đến tình trạng học vẹt, lười tư duy. IV. Các biện pháp giải quyết vấn đề: Trong dạy học, BĐTD được sử dụng để kiểm tra bài cũ, trong việc dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau bài học, dùng cho GV ra bài tập về nhà, dùng trong bài thực hành và để tổng hợp kiến thức một chương hoặc nhiều bài học. 1/ Sử dụng BĐTD trong việc kiểm tra kiến thức cũ: Vì thời gian kiểm tra bài cũ không nhiều, chỉ khoảng 5 – 7 phút nên yêu cầu của GV thường không quá khó, không đòi hỏi nhiều sự phân tích, so sánh… để trả lời câu hỏi. GV thường yêu cầu HS tái hiện lại một phần nội dung bài học bằng cách gọi học sinh lên bảng trả lời câu hỏi. GV sẽ chấm điểm tùy vào mức độ thuộc bài của HS. Cách làm này vô tình để nhiều HS rơi vào tình trạng “học vẹt ”, đọc thuộc lòng mà không hiểu bài. Do đó cần phải có sự thay đổi trong việc kiểm tra, đánh giá nhận thức của HS, yêu cầu đặt ra là không chỉ kiểm tra “phần nhớ” mà cần chú trọng đến “phần hiểu”. Cách làm này vừa tránh được việc học vẹt, vừa đánh giá chính xác HS, đồng thời nâng cao chất lượng học tập. Sử dụng BĐTD trong dạy học Hóa học đã thực hiện được điều đó. Các bản đồ thường được GV sử dụng dưới dạng thiếu thông tin, yêu cầu HS điền các thông tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm. Ví dụ: Yêu cầu HS điền tiếp các thông tin vào sơ đồ tư duy sau:.
<span class='text_page_counter'>(10)</span> 2/ Sử dụng BĐTD trong việc giảng bài mới: Sử dụng BĐTD cho cách trình bày mới. GV thay vì gạch đầu dòng các ý cần trình bày lên bảng thì sử dụng BĐTD để thể hiện được một phần hoặc tòan bộ nội dung bài học một cách rất trực quan. Ví dụ: Khi dạy bài “ Tính chất hóa học của Oxit”, GV có thể trình bày theo dạng sơ đồ sau:. 3/ Sử dụng BĐTD trong việc củng cố kiến thức bài học: Phù hợp với mục đích củng cố kiến thức cho HS sau bài học thì dạng bài tập thích hợp là điền thông tin còn thiếu vào BĐTD. Các thông tin còn.
<span class='text_page_counter'>(11)</span> thiếu này sẽ bao trùm nội dung tòan bài để một lần nữa nhằm khắc sâu kiến thức và lưu ý đến trọng tâm của bài học. Ví dụ: Sau khi học xong bài: “ Oxi” , GV cho vẽ BĐTD để củng cố kiến thức. 4/ Sử dụng BĐTD trong bài thực hành: Trong giờ thực hành, HS cần phải làm một số thí nghiệm theo nhóm, do đó các em cần phải nắm vững các bước tiến hành để có thể thực hiện thành công các thí nghiệm. Các bước tiến hành phải đơn giản, ngắn gọn cho HS dễ hiểu và có thể thực hiện theo được. Trước giờ thực hành, GV yêu cầu HS nghiên cứu nội dung thực hành, sau đó vào lớp các nhóm HS vẽ ra BĐTD thể hiện các bước tiến hành cho từng.
<span class='text_page_counter'>(12)</span> thí nghiệm và báo cáo trước lớp. Cả lớp chỉnh sửa, bổ sung cho hòan chỉnh sau đó các nhóm mới tiến hành thí nghiệm. Ví dụ : BĐTD thí nghiệm 3 – Nhận biết 3 dd HCl, H 2SO4, Na2SO4 trong bài thực hành “ Tính chất hóa học của oxit và axit”. 5/ Sử dụng BĐTD để ra bài tập về nhà: Vì làm bài tập về nhà sẽ có nhiều thời gian và điều kiện để tìm kiếm tài liệu nên bài tập về nhà mà GV giao cho HS ( hoặc nhóm HS) trước hết phải gắn bó với nội dung bài học và trong điều kiện cho phép ( trình độ HS, thời gian, kinh tế…). Yêu cầu đối với bài về nhà cũng không cần khó hơn, phức tạp hơn và cần sự đầu tư lớn hơn ( cả kênh chữ, kênh hình, màu sắc, lượng thông tin…), qua đó còn thể hiện cả tính sáng tạo và sự tích cực tìm kiếm tài liệu học tập của HS. Ví dụ : Sau khi học các Hiđrocacbon: Metan, Etilen, Axetilen, Benzen, GV yêu cầu HS về nhà vẽ bản đồ tư duy thể hiện các nội dung vừa học..
<span class='text_page_counter'>(13)</span> 6/ Sử dụng BĐTD để tổng hợp kiến thức một chương hoặc nhiều bài: Dùng BĐTD có thể thể hiện một lượng thông tin nhỏ đến lớn và rất lớn. Tương tự, GV và HS có thể thể hiện một phần nội dung bài học, một bài học hoặc nhiều bài học, một chương kiến thức. Vấn đề là các nội dung này.
<span class='text_page_counter'>(14)</span> có điểm chung với nhau, có mối quan hệ với nhau thông qua từ khóa. Tùy theo mục đích sử dụng mà có thể thiết kế BĐTD trong giờ học thông thường, trong giờ kiểm tra, giờ thực hành, ôn tập, tổng kết hay hệ thống một chương, một phần kiến thức. Với bài tập này, GV có thể cùng HS làm tại lớp hoặc bài tập giao về nhà cho HS, nhóm HS. Ví dụ: Sau khi học xong chương I, có thề dùng BĐTD hệ thống hóa lại các nội dung trọng tâm trong chương.. Tuy nhiên không phải bất cứ nội dung nào, bài học nào cũng có thể sử dung BĐTD và cũng không phải sử dụng cho mọi giờ học. GV cần có sự linh hoạt trong sử dụng BĐTD đúng lúc, đúng cách, phù hợp với đối tượng HS và quan trọng là đảm bảo việc truyền tải nội dung bài học. Trong dạy học, việc sử.
<span class='text_page_counter'>(15)</span> dụng BĐTD được sử dụng, khai thác khác nhau tùy theo trình độ của các nhóm HS: * Đối với HS trung bình: tập cho HS có thói quen tự ghi chép hay tổng kết một vấn đề, một chủ đề đã học, đã học theo cách hiểu của các em dưới dạng BĐTD. Cho HS tập “ đọc hiểu” và tự vẽ BĐTD sau từng bài học. Ban đầu, GV cho các em làm quen với một số BĐTD có sẵn, sau đó tập cho các em vẽ bằng cách cho tên chủ đề hoặc một hình ảnh, hình vẽ của chủ đề chính vào vị trí trung tâm rối đặt ra các câu hỏi gợi ý để các em tiếp tục vẽ ra các nhánh cấp 1, 2,3 … Hướng dẫn, gợi ý các em tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của mỗi bài học vào một trang giấy. Có thể vẽ chung trên một cuốn vở hoặc để thành các trang giấy rời rồi kẹp thành một tập. Mỗi bài học được được vẽ kiến thức trọng tâm trên một trang giấy giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần, chỉ cần rút tờ BĐTD của bài đó ra là các em nhanh chóng ôn lại kiến thức một cách dễ dàmg. Với cách làm này rèn luyện cho bộ óc các em hướng dẫn tới cách suy nghĩ lôgic, mạch lạc và cũng là cách giúp các em hiểu bài, ghi nhới kiến thức vào não chứ không phải là học thuộc lòng, học vẹt. Ví dụ: Sau khi học xong bài: “ Công thức hóa học”, GV có thể hướng dẫn cho HS vẽ BĐTD theo các gợi ý sau: - GV cho ý chính của tòan bài ở trung tâm: Công thức hoa học. - Đặt lần lượt các câu hỏi để HS vẽ tiếp các nhánh: + Trong bài này chúng ta học các nội dung nào? – HS trả lời và đồng thời vẽ các nhánh. + Đơn chất chia thành mấy loại? Công thức hóa học của chúng viết như thế nào? – HS trả lời, GV hướng dẫn các em vẽ các nhánh tiếp theo. + Công thức hóa học của hợp chất viết như thế nào? – HS trả lời, GV hướng dẫn vẽ nhánh tiếp. + Công thức hóa học có mấy ý nghĩa? – HS trả lời và vẽ nhánh..
<span class='text_page_counter'>(16)</span> * Đối với HS khá giỏi: sử dụng BĐTD để tìm chiến lược giải quyết một vấn đề hay tìm nhiều hướng giải một bài tóan, hệ thống hóa kiến thức,… Việc vẽ BĐTD theo nhóm nên thực hiện trước khi nghiên cứu tài liệu mới, kiến thức mới để cả nhóm tìm chiến lược giải quyết vấn đề hoặc củng có thể thực hiện để hệ thống hóa kiến thức, một chủ đề, một chương. Sau khi mỗi nhóm “vẽ” xong, đại diện của mỗi nhóm hoặc một số thành viên trong nhóm “ thuyết trình” BĐTD cho cả lớp nghe để thảo luận, góp ý bổ sung ( nếu cần thiết). Ngoài việc vẽ BĐTD trong học tập, nên cho các em có thói sử dụng BĐTD tự ghi tóm lược nội dung chính của cuốn sách dưới dạng BĐTD khi các em đọc sách. Hoặc gợi ý cho các em lập kế hoạch học tập, vạch kế hoạch cho bản thân để biến ước mơ thành hiện thực trong tương lai, các kế hoạch này có thể được bổ sung dần dần theo năm tháng bằng cách vẽ thêm nhánh khi mỗi người có sự điều chỉnh kế hoạch. Khuyến khích HS ôn luyện bài, học bài ở nhà, hoặc ở lớp hoạt động nhóm bằng BĐTD. V. Hiệu quả áp dụng:.
<span class='text_page_counter'>(17)</span> Qua hơn 4 tháng thực hiện đề tài “ Sử dụng BĐTD trong dạy học Hóa học” ở trường THCS Bình Hàng Tây, tôi nhận thấy: Việc lập BĐTD có thể do từng cá nhân hoặc một nhóm thực hiện. BĐTD vừa mang đậm dấu ấn cá nhân vừa thể hiện được ý tưởng sáng tạo của tập thể do đó vận dụng BĐTD vào dạy học đã phát huy tính tích cực, sáng tạo của HS góp phần tích cực vào việc đổi mới phương pháp dạy học. Sử dụng thành thạo và hiệu quả BĐTD trong dạy học sẽ mang lại nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ trong phương thức học tập của HS và phương pháp giảng dạy của GV: - Học sinh học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. HS hào hứng trong học tập, dần hình thành cho các em tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách tổng thể, khoa học chứ không phải là học vẹt, học thuộc lòng, HS hiểu bài, nhớ lâu, vận dụng tốt. Khối lượng kiến thức ngày càng tăng lên, vì vậy sử dụng BĐTD rèn luyện cho các em khả năng tư duy logic để có thể vận dụng vào cuộc sống và công việc sau này khi các em học lên, trưởng thành. - GV tiết kiệm được thời gian, tăng sự linh hoạt trong bài giảng, làm cho giờ học trở nên nhẹ nhàng đối với GV và HS, và đặc biệt là giúp HS nắm được kiến thức qua một “ sơ đồ” thể hiện các liên kết chặt chẽ của tri thức. Sử dụng BĐTD vào dạy học, GV và HS cùng làm việc tích cực, sáng tạo, huy động một lúc nhiều kiến thức. * Kết quả khảo sát học sinh: Kết quả này thu nhận được khi tiến hành khảo sát học sinh vào thời điểm tháng 9 ( chưa thực hiện đề tài) và thực hiện liên tục đến cuối tháng 2 của năm học 2011 – 2012 với tổng số HS tham gia khảo sát là 93 em.. Thời gian. TSHS. Tháng 9. 93. 8 - 10 SL % 12 12.9. 5-7 SL % 34 36.6. 3-4 SL % 30 32.3. 0–2 SL % 17 18.2.
<span class='text_page_counter'>(18)</span> Tháng 10 Tháng 11 Tháng 12 Tháng 1 , 2. 93 93 93 93. 14 26 30 35. 15.1 28 32.3 37.6. 44 40 35 49. 47.3 43 37.6 52.7. 22 19 22 7. 23.7 20.4 23.7 7.5. 13 8 6 2. 13.9 8.6 6.4 2.2. Với kết quả trên cho thấy tỷ lệ HS đạt điểm từ 5 – 10 ngày càng tăng lên và tỷ lệ HS từ 0 – 4 điểm giảm xuống rõ rệt. Qua đó cho thấy khả năng ghi nhớ bài của HS có chuyển biến tích cực so với thời điểm chưa thực hiện đề tài. Dạy học bằng bản đồ tư duy giúp cho học sinh thuộc bài ngay tại lớp, nhớ nhanh, nhớ sâu và chính xác nội dung bài học của mình, khắc phục được tình trạng học sau quên trước. Đặc biệt, đối với phương pháp này không chỉ phát triển được trí tuệ của học sinh qua khả năng vẽ và viết ngắn gọn, cô đọng nội dung bài học trên bản đồ tư duy, mà các em học sinh còn hệ thống được kiến thức khi tổng hợp và chọn lọc ý để trình bày. Ngoài ra, còn giúp cho học sinh không nhàm chán mà luôn sôi nổi và hào hứng trong tiết học, từ đó tạo được điều kiện cho học sinh tập trung thảo luận và cùng tìm ra vấn đề cốt lõi trong nội dung của bài học. Với phương pháp này buộc học sinh phải chủ động trong việc học của mình, từ đó mà hiệu quả trong việc học không ngừng được nâng cao.. C. KẾT LUẬN I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác: Qua gần 8 năm giảng dạy bộ môn Hóa ở trường THCS Bình Hàng Tây, tôi đã áp dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau nhằm nâng cao chất lượng dạy học, phát huy tính tích cực của HS nhằm mục đích đưa bộ môn Hóa học vào cuộc sống của các em, làm cho các em không còn tâm lý “ sợ” bộ môn Hóa học. Trong phương pháp dạy học trước đây tôi đã từng áp dụng việc dạy học bằng bản đồ tư duy như vẽ sơ đồ hay biểu bảng nhưng ở mức độ đơn giản và áp dụng.
<span class='text_page_counter'>(19)</span> không thường xuyên. Còn hiện nay khi thực hiện đề tài này thì tôi áp dụng phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy một cách thường xuyên hơn với mức độ cao hơn và kết quả là phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh trong việc tìm tòi, đào sâu hay mở rộng một ý tưởng,… HS ngày càng yêu thích bộ môn Hóa học hơn và rất hào hứng trong các tiết học. Từ đó tạo cho tôi một tâm lý thoải mái, nhiệt tình hơn trong giảng dạy, chịu khó đầu tư soạn nhiều giáo án có chất lượng góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Áp dụng phương pháp này làm cho tiết dạy của tôi trở nên nhẹ nhàng hơn, sinh động hơn, tiết kiệm được thời gian nhưng hiệu quả giảng dạy lại cao hơn. Đây là phương pháp hỗ trợ tích cực cho tiết dạy, ôn tập kiến thức cho học sinh một cách khoa học. Qua đó học sinh ghi nhớ sâu sắc kiến thức, tránh được kiểu học vẹt, học thuộc lòng một cách máy móc. II. Khả năng áp dụng: Đề tài: “ Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học Hóa học THCS” được áp dụng đối với bộ môn Hóa học lớp 8, 9 và phù hợp với các loại bài cơ bản như: Hóa 8 – gồm các loại bài: - Nghiên cứu khái niệm, định luật hóa học cơ bản. - Tính chất hóa học của các chất cụ thể có nhiều ứng dụng như Oxi, Hiđro, Nước. - Bài có nội dung điều chế, ứng dụng. - Bài thực hành hóa học. - Bài luyện tập cuối chương, cuối kỳ, cuối năm. Hóa 9 – gồm các loại bài: - Nghiên cứu tính chất hóa học chung của các loại chất như: oxit, axit, bazơ,…. - Nghiên cứu tính chất hóa học các chất cụ thể như canxi oxit, lưu huỳnh đioxit, axit sunfuric…. - Bài nghiên cứu tính chất hóa học của các chất hữu cơ..
<span class='text_page_counter'>(20)</span> - Bài có nội dung sản xuất hóa học. - Bài thực hành hóa học. - Bài luyện tập cuối chương, cuối kỳ, cuối năm. Đối với những bài nghiên cứu kiến thức mới thì việc sử dụng BĐTD sẽ giúp học sinh tiếp thu bài một cách nhanh chóng, nhẹ nhàng. Đối với bài nghiên cứu tính chất hóa học thì việc sử dụng BĐTD ngoài tác dụng giúp học sinh tiếp thu bài nhanh, còn giúp học sinh ghi nhớ hiệu quả hơn và có thể dễ dàng so sánh với những chất khác. Đối với bài thực hành thì giúp học sinh nắm được trình tự tiến hành các thí nghiệm một cách đơn giản, ngắn gọn làm cho thao tác thí nghiệm chính xác, nhẹ nhàng kết quả là thúc đẩy sự thành công của các thí nghiệm. Từ đó làm cho các em yêu thích bộ môn, có lòng tin với hóa học và với bản thân mình. Đối với bài ôn tập cuối chương, cuối kỳ, cuối năm thì việc sử dụng BĐTD giúp học sinh hệ thống hóa các kiến thức đã học một cách nhanh chóng, đồng thời giúp khắc sâu kiến thức trọng tâm. Đối với bài có nội dung sản xuất hóa học thì việc sử dụng BĐTD giúp cho HS nắm được quy trình sản xuất hóa học và thấy rằng nền sản xuất hóa học không chỉ có vai trò quan trọng trong đời sống, sản xuất mà còn có vai trò to lớn đối với nền kinh tế. Từ đó, các em hăng say học tập để trở thành người công nhân trong lĩnh vực hóa học và được cống hiến sức lao động của mình phục vụ cho đất nước. Việc áp dụng bản đồ tư duy trong dạy học có thể được tiến hành ở bất kỳ thời điểm nào của tiết học: trước, trong và sau khi học bài mới. Tuy thời điểm thực hiện có khác nhau nhưng việc sử dụng BĐTD đều nhằm mục đích là củng cố kiến thức, khắc họa kiến thức một cách sâu sắc,cô đọng nhưng dễ hiểu, dễ tiếp thu và có thể thực hiện với mọi đối tượng học sinh. III. Bài học kinh nghiệm, hướng phát triển: 1/ Bài học kinh nghiệm:.
<span class='text_page_counter'>(21)</span> Sử dụng BĐTD trong dạy học mang lại hiệu quả rất lớn. Nhưng làm thế nào để sử dụng BĐTD một cách hiệu quả ? Sử dụng BĐTD hiệu quả thì trước hết cần phải chú trọng khâu vẽ bản đồ, lựa chọn giấy, bút, biết cách bảo quản và đặc biệt là biết ôn tập lại các BĐTD đã vẽ để phát huy hết tác dụng mà bản thân BĐTD đã mang lại. Trong thời gian thực hiện đề tài tôi đã tự rút ra một số bài học kinh nghiệm sau: a/ Chọn bút vẽ: Bạn nên chọn loại bút nét không quá to cũng không quá nhỏ, màu sắc đậm, dễ nhìn và đặc biệt là không bị nhòe hay phai màu khi để lâu. b/ Chọn giấy vẽ: Loại giấy vẽ tốt nhất là tập học sinh. Loại giấy này có đường kẻ sẵn giúp ta căn được vị trí của các nhánh, ngoài ra còn tiên lợi cho bạn mang theo đến lớp và xem xét lại mọi lúc. c/ Mẹo vẽ: − Không cần vẽ nhánh quá to, nhánh nên gọn và ôm vòng lấy từ khóa. − Những từ khóa dù là tiêu đề chính hay phụ thì bạn hãy cố gắng viết hoa trong mọi trường hợp. Khi viết hoa, các từ khóa sẽ trở nên dễ đọc, không bị chìm đi. − Các nhánh chính nếu là hình thon dài thì bạn nên tô màu nhằm phân biệt các ý. Tùy theo ý nghĩa của từ khóa mà ta chọn màu phù hợp với từng nhánh. Màu sắc các nhánh nên có sự tương phản nhau. d/ Ôn luyện BĐTD: Một kiến thức mới hay BĐTD nếu được ôn luyện đúng mô hình trí nhớ thì ta sẽ nhớ lâu hơn và có thể là mãi mãi. Có 5 mốc thời gian mà chúng ta cần ôn lại BĐTD, đó là: : 10 phút sau khi vẽ, 1 tiếng sau khi vẽ, 1 ngày sau khi vẽ, 1 tuần sau khi vẽ và 1 tháng sau khi vẽ. Ôn lại Sơ Đồ Tư Duy không phải là chỉ nhìn lại các nhánh, mà là vẽ nhanh lại các nhánh. Hãy sử dụng một tờ giấy tương đương với tờ giấy BĐTD.
<span class='text_page_counter'>(22)</span> của bạn, sử dụng bút một màu cũng được. Nhìn qua BĐTD tư duy, không đọc nội dung mà ước chừng thời gian để bạn có thể ghi lại hết các nét và từ khóa. Sau đó bạn hãy đối chiếu với BĐTD cũ. Có thể bạn sẽ thiếu sót một vài từ khóa, một vài nhánh. Nhưng không sao, hãy nhìn kĩ những từ khóa đó và tự chắc chắn rằng trong lần ôn tiếp theo bạn sẽ không quên nữa. 2/ Hướng phát triển: Từ trước đến nay, GV đã từng sử dụng rất nhiều phương pháp nhằm mang lại hiệu quả cao nhất trong dạy học. Tuy nhiên ở từng cấp học, lớp học khác nhau thì GV lại sử dụng những phương pháp khác nhau để phù hợp với đặc điểm tâm lý, lứa tuổi và trình độ của HS. Và đặc biệt là đối với các môn học khác nhau thì việc sử dụng phương pháp dạy học cũng khác nhau phù hợp với đặc trưng của từng môn học. Hiện nay có một phương pháp dạy học tích cực được áp dụng cho tất cả các môn học, và phù hợp với các cấp học từ tiểu học, trung học, đến đại học. Đó là phương pháp sử dụng BĐTD trong dạy học. Do đó, đề tài “ Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học Hóa học THCS” có thể được nhân rộng và áp dụng cho nhiều môn học khác nhau với các lớp học khác nhau. Kết quả là giúp GV truyền thụ kiến thức một cách sinh động, hệ thống và mô hình hóa để HS có thể học, tự học tích cực, có một tư duy tổng thể về bài học, giúp dễ hiểu, dễ nhớ, dễ vận dụng kiến thức. Từ kiến thức được diễn đạt trong nhiều trang sách và cả vận dụng thực tế, BĐTD giúp tinh lọc lại chỉ còn trong một sơ đồ, và ngược lại, từ sơ đồ này, học sinh hình dung, liên tưởng và phát triển kiến thức một cách logic. Sử dụng BĐTD yêu cầu HS phải tự suy nghĩ để thiết lập nội dung bài học theo cách hiểu của mình nên BĐTD thực sự là một công cụ chống “đọc - chép” , “ học vẹt” rất hiệu quả. IV. Đề xuất, kiến nghị: - Đối với GVBM: cần tăng cường hoạt động của HS trong các giờ học, tạo điều kiện tối đa cho các em phát huy tiềm năng trí tuệ và óc sáng tạo của mình..
<span class='text_page_counter'>(23)</span> - Đối với CMHS: cần tạo một không gian học tập thoải mái cho con, dành nhiều thời gian cho con học tập, luôn có sự theo dõi tình hình học tập của con, kịp thời khen thưởng, khích lệ hoặc uốn nắn những sai sót của con. - Đối với HS: cần nổ lực, chuyên cần trong học tập, thường xuyên tự ôn tập những kiến thức đã học một cách tự giác và hiệu quả. - Đối với các cấp lãnh đạo: + Trang bị phân mềm vẽ BĐTD cho các trường. + Tập huấn cách sử dụng phân mềm vẽ BĐTD và phương pháp dạy học có sử dụng BĐTD cho giáo viên. Xác nhận của BGH. Bình Hàng Tây, ngày 20/02/2012 Người viết Nguyễn Thị Tuyết Hạnh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1/ Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ( 2009), Văn bản số 242-TB/TW ngày 15/04/2009 thông báo kết luận của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyêt Trung ương 2 ( khóa VIII), phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020. 2/ Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy, Dạy tốt – học tốt các môn học bằng BĐTD, NXB Giáo dục Việt Nam 2011. 3/ Trần Kiểu, Đổi mới phương pháp dạy hôc ở trường THCS, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. 4/ Jan E.Pollock, Các PPDH hiệu quả, ( tài liệu dịch), NXB giáo dục Việt Nam, 2011..
<span class='text_page_counter'>(24)</span> MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU.....................................................................Trang 1 I. Lý do chọn đề tài.......................................................................Trang 1 II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu.....................................Trang 3 1. Mục đích nghiên cứu................................................................Trang 3 2. Phương pháp nghiên cứu..........................................................Trang 3 III. Giới hạn của đề tài .................................................................Trang 4 IV. Kế hoạch thực hiện ................................................................Trang 4 B. PHẦN NỘI DUNG.................................................................Trang 4 I. Cơ sở lý luận..............................................................................Trang 4 II. Cơ sở thực tiễn.........................................................................Trang 7 III. Thực trạng và mâu thuẫn........................................................Trang 8 IV. Các biện pháp giải quyết vấn đề.............................................Trang 9 V. Hiệu quả áp dụng.....................................................................Trang 17 C. KẾT LUẬN.............................................................................Trang 19.
<span class='text_page_counter'>(25)</span> I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác...........................................Trang 19 II. Khả năng áp dụng....................................................................Trang 19 III. Bài học kinh nghiệm , hướng phát triển.................................Trang 21 IV. Đề xuất, kiến nghị...................................................................Trang 23 TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................Trang 24.
<span class='text_page_counter'>(26)</span>