Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

NGHIÊN CỨU MỨC ĐỘ HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.98 KB, 46 trang )

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP CƠ SỞ NĂM 2020

NGHIÊN CỨU MỨC ĐỘ HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG
VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA NGƯỜI BỆNH
TÂM THẦN PHÂN LIỆT
TẠI QUẬN HẢI CHÂU THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Mã số: CS2020

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Thị Thu Triều

Đà Nẵng, 09/2020


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

ĐẶT VẤN ĐỀ...............................................................................................................1
Chương 1. TỔNG QUAN............................................................................................3
1.1. TỔNG QUAN VỀ BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT............................................3
1.2. MỨC ĐỘ HOÀ NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI BỆNH TÂM THẦN PHÂN
LIỆT.............................................................................................................................. 9
1.3. MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN MỨC ĐỘ HOÀ NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA
NGƯỜI BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT..................................................................12
1.4. CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN......................................................................13
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG, MỤC TIÊU, PHƯƠNG PHÁP VÀ PHẠM VI NGHIÊN
CỨU............................................................................................................................ 16
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU...............................................................................16
2.3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU..................................................................................16


2.4. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.................................................................................16
2.5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.........................................................................16
2.6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU....................................................................................19
2.7. ĐẠO ĐỨC NGHIÊN CỨU..................................................................................20
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN..........................................21
3.1. THÔNG TIN CHUNG CỦA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU................................21
3.2. MỨC ĐỘ HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG.................................................................25
3.3. MỐI LIÊN QUAN GIỮA MỨC ĐỘ HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI
BỆNH VÀ CÁC YẾU TỐ...........................................................................................26
KẾT LUẬN................................................................................................................. 30
KIẾN NGHỊ...............................................................................................................31
TÀI LIỆU THAM KHẢO


BẢNG CHÚ THÍCH CHỮ VIẾT TẮT
CIS-APP34 (Community Integration
Scale for Adults with Psychiatric
Problems version 34 items)
ICD-10 (International classification
of Disease -10)
TTPL
WHO (Wold Health organization)
WFMH (World Federation for
Mental Health)

Thang đo mức độ hoà nhập cộng đồng của
người bệnh tâm thần phân liệt (34 câu hỏi)
Bảng phân loại bệnh tật quốc tế
Tâm thần phân liệt
Tổ chức y tế thế giới

Hiệp hội sức khoẻ tâm thần quốc tế


DANH MỤC CÁC BẢNG
TT
1
2
3
4
5
6
7

Tên bảng
Bảng 1. Mức độ hoà nhập cộng đồng …………………………………..
Bảng 2. Mối liên quan giữa tuổi và mức độ hoà nhập cộng đồng của
người bệnh TPL……………………………………………………….
Bảng 3. Mối liên quan giữa giới tính và mức độ hồ nhập cộng đồng
của người bệnh TPL...…………………………………………………
Bảng 4. Mối liên quan giữa thời gian mắc bệnh và mức độ hoà nhập
cộng đồng của người bệnh TTPL…………………………………
Bảng 5. Mối liên quan giữa số lần tái khám trong năm và mức độ hoà
nhập cộng đồng của người bệnh TTPL ...……………………………
Bảng 6. Mối liên quan giữa số lần tái phát trong năm và mức độ hoà
nhập cộng đồng của người bệnh TTPL...……………………………
Bảng 7. Mối liên quan giữa thể bệnh tâm thần phân liệt và mức độ hoà
nhập cộng đồng của người bệnh TTPL...……………………………

Trang
25

26
26
27
27
28
28


DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH, SƠ ĐỒ VÀ ĐỒ THỊ
TT
1
2
3
4
5
6
7
8

Tên hình, sơ đồ và đồ thị
Hình 1. Đặc điểm về độ tuổi…………………………………………
Hình 2. Đặc điểm về giới tính………………………………………..
Hình 3. Trình độ học vấn………………………………….................
Hình 4. Người chăm sóc chính………………………………………
Hình 5. Thời gian mắc bệnh và điều trị……………………………...
Hình 6. Số lần tái khám trong năm…………………………………..
Hình 7. Số lần tái phát trong năm……………………………………
Hình 8. Thể bệnh tâm thần phân liệt…………………………………

Trang

21
21
22
22
23
23
24
24


ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh tâm thần phân liệt (TTPL) là một trong những bệnh loạn thần nặng và phổ
biến, căn nguyên chưa rõ, bệnh có khuynh hướng tiến triển mạn tính và hay tái phát
[2]. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, tỉ lệ người mắc bệnh TTPL trên thế giới là khoảng
0,6-1,5% dân số, bệnh thường phát sinh ở lứa tuổi trẻ từ 18- 40 tuổi [10]. Bệnh TTPL
thường không gây chết người đột ngột nhưng làm giảm sút khả năng lao động, học tập,
làm đảo lộn sinh hoạt, tổn thất về kinh tế, gây căng thẳng cho các thành viên trong gia
đình. Bệnh TTPL Nếu khơng được quản lý, điều trị kịp thời rất dễ dẫn đến trạng thái
tâm thần sa sút, người bệnh trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội [11].
Tại Việt Nam, tỷ lệ bệnh tâm thần phân liệt là 0,47% [5]. Bệnh khởi phát ở lứa
tuổi trẻ từ 16-30 tuổi, nam giới sớm hơn nữ giới và tỉ lệ mắc bệnh giữa nam và nữ là
tương đương nhau, có thể nói đây là lực lượng lao động của xã hội và là trụ cột kinh tế
của gia đình [5].
Hịa nhập cộng đồng đã được xác định là một thành phần thiết yếu của sự phục
hồi, biểu thị kết quả quan trọng của quá trình điều trị sức khỏe tâm thần và là thách
thức đối với những người bị TTPL [19]. Hòa nhập cộng đồng được định nghĩa là mức
độ của mỗi cá nhân có thể sống, tham gia và hồ hợp trong xã hội của họ [28]. Ngoài
ra, theo một số tác giả, hoà nhập cộng đồng cũng được xác định bởi mức độ cá nhân
mắc bệnh tâm thần có cơ hội sử dụng các nguồn lực hiện có trong cộng đồng của họ
[24]. Theo tác giả Aubry & Myner, hoà nhập cộng đồng là một khái niệm đa chiều, bao

gồm các khía cạnh: thể chất, tâm lý và xã hội [14]. Hoà nhập về thể chất đề cập đến
mức độ cá nhân mắc các vấn đề tâm thần dành thời gian tham gia các hoạt động cộng
đồng và sử dụng các nguồn lực của cộng đồng theo cách của riêng họ [22],[28]. Hồ
nhập tâm lý bao gồm cách các cá nhân nhìn nhận bản thân như một thành viên trong
cộng đồng của họ, thể hiện mối liên hệ tình cảm với hàng xóm, tin vào khả năng của
bản thân để thỏa mãn nhu cầu, cũng như gây ảnh hưởng đến cộng đồng xung quanh
[22],[28]. Hoà nhập xã hội liên quan đến mức độ tương tác xã hội của cá nhân với
hàng xóm [14]. Vấn đề hoà nhập cộng đồng của người bệnh TTPL bị tác động bởi một

6
6
6


số yêu tố như: giới tính, tuổi, mức độ bệnh, khả năng đi lại, số lượng người chăm sóc,
tiền sử nghiện rượu [16].
Hòa nhập cộng đồng sẽ giúp cho người bệnh phát huy khả năng hoạt động tâm
thần, hướng suy nghĩ của người bệnh vào công việc; hạn chế bớt việc suy nghĩ tiêu
cực, giúp họ quên đi bệnh tật, qn các cảm giác khó chịu do tình trạng ảo giác và
hoang tưởng gây ra. Công việc và lao động nghề nghiệp cũng giúp người bệnh thốt
khỏi hồn cảnh ăn không ngồi rồi, đi lang thang, phá phách; giúp họ tự tin vào bản
thân, xóa bỏ mặc cảm, ăn ngon và ngủ n hơn. Đồng thời chính cơng việc và lao
động nghề nghiệp cũng sẽ làm cho mọi người ở chung quanh giảm bớt những suy nghĩ
sai lầm về người bệnh [7].
Tại Việt Nam, đã có cơng trình nghiên cứu về mức độ tái hòa nhập cộng đồng
của người bệnh TTPL tại Bến Tre [12], tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào công bố tại
Đà Nẵng và các thành phố khác. Để góp phần tìm hiểu tồn diện và sâu sắc hơn về vấn
đề này, chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu: "Nghiên cứu mức độ hòa nhập cộng
đồng và các yếu tố liên quan của người bệnh tâm thần phân liệt tại quận Hải Châu
thành phố Đà Nẵng”.


7
7
7


8
8
8


Chương 1

TỔNG QUAN
1.1. TỔNG QUAN VỀ BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT
1.1.1. Định nghĩa tâm thần phân liệt
Theo tổ chức y tế thế giới, Tâm thần phân liệt được định nghĩa là một bệnh
loạn thần nặng tiến triển từ từ, có khuynh hướng mạn tính, căn nguyên hiện
nay chưa rõ ràng, làm cho người bệnh dần dần tách ra khỏi cuộc sống xung
quanh, thu dần vào thế giới bên trong làm cho tình cảm trở nên khơ lạnh dần,
khả năng làm việc, học tập ngày một sút kém, có những hành vi kỳ dị , khó hiểu
[10].
1.1.2. Dịch tễ:
Bệnh tâm thần phân liệt là bệnh khá phổ biến ở hầu hết các nước trên
thế giới, tỷ lệ từ 0,5 - 1,5% dân số. Bệnh thường phát sinh ở lứa tuổi từ 18 - 40 tuổi.
Rối loạn tâm thần là một trong những bệnh không lây nhiễm phổ biến trên thế giới,
ước tính gây ra khoảng 14% gánh nặng bệnh tật tồn cầu. Tại Việt Nam, có gần 15%
dân số – tương đương khoảng 13,5 triệu người Việt Nam đang mắc các rối loạn tâm
thần phổ biến và khoảng 3 triệu người mắc các rối loạn tâm thần nặng trong đó tỷ lệ
bệnh tâm thần phân liệt là 0,47% [3]. Bệnh khởi phát ở lứa tuổi trẻ từ 16-30 tuổi, nam

giới sớm hơn nữ giới và tỉ lệ mắc bệnh giữa nam và nữ là tương đương nhau, có thể
nói đây là lực lượng lao động của xã hội và là trụ cột kinh tế của gia đình [3]. Báo cáo
mới nhấ của tổ chức y tế thế giới có 18,5% người bệnh tâm thần phân liệt bị đối xử thô
bạo [31] và chỉ có 45,59% số người bệnh và 40,43% số người chăm sóc người bệnh
nhận thức đúng rằng bệnh tâm thần phân liệt cần được điều trị củng cố [4]. Năm 2017
Bộ Y tế đã hồn thiện chương trình hướng dẫn chăm sóc sức khỏe tâm thần tại cộng
đồng đặc biệt là việc quản lý người bệnh tâm thần tại các cơ sở chăm sóc sức khỏe ban
đầu tuyến xã/phường, tuy nhiên chương trình này vận hành vẫn chỉ giới hạn ở việc
phát thuốc cho người bệnh bị tâm thần phân liệt và trầm cảm, và chỉ thực hiện ở
khoảng 70% tổng số xã trên toàn quốc [1].
1.1.3. Bệnh nguyên, bệnh sinh
9
9
9


Đến nay vấn đề bệnh nguyên, bệnh sinh của bệnh tâm thần phân liệt vẫn chưa rõ
ràng. Tuy nhiên tác giả đã đi đến thống nhất bệnh tâm thần phân liệt do nhiều nguyên
nhân gây ra, do sự tác động qua lại của các nhân tố thuộc tính cơ thể với các nhân tố
thuộc tính ngoại lai [6]:
- Yếu tố di truyền
Nhiều cơng trình nghiên cứu cho thấy nếu cha và mẹ một trong hai người bị mắc
bệnh tâm thần phân liệt thì tỷ lệ con mắc bệnh là 7 - 18%. Nếu cả cha và mẹ cùng bị
bệnh tâm thần phân liệt thì tỷ lệ con bị mắc bệnh là 40 - 68% [10].
- Nhân tố ngoại lai
Bệnh tâm thần phân liệt có thể phát sinh sau khi bị nhiễm trùng, sau đẻ, hoặc sau
sang chấn tâm thần, tuy nhiên nhân tố ngoại lai chưa được chứng minh đầy đủ.
- Yếu tố sinh hoá trong bệnh tâm thần phân liệt
Có những cơng trình nghiên cứu về sinh hóa cho thấy ở người bệnh tâm thần
phân liệt một số triệu chứng liên quan tới rối loạn sản xuất, chuyển hoá, phân huỷ các

chất trung gian hoá học thần kinh, các amin sinh học, các an pha globumin chậm [10].
1.1.4. Chẩn đoán
- Chẩn đoán sớm
Căn cứ vào các triệu chứng báo trước: Trạng thái suy nhược tư duy mơ hồ không
liên quan, cảm xúc thiếu hòa hợp, cảm xúc hai chiều, ngại tiếp xúc với thể giới xung
quanh... Tuy nhiên chẩn đốn trong giai đoạn này gặp rất nhiều khó khăn, phải quan
sát nhiều lần, phải phân biệt với nhiều trạng thái rối loạn tâm thần khác [10].
- Chẩn đoán xác định: gồm các tiêu chuẩn lâm sàng sau [10]:
a/ Tư duy vang thành tiếng, tư duy bị áp đặt hay bị đánh cắp và tư duy bị
phát thanh.
b/ Các hoang tưởng bị kiểm tra, bị chi phối hay bị động có liên quan rõ rệt
với vận động cơ thể hay các chi hoặc có liên quan đến những ý nghĩ, hành vi hay cảm
giác đặc biệt, tri giác hoang tưởng.

10
10
10


c/ Các ảo thanh bình luận thường xuyên về hành vi của bệnh nhân hay thảo
luận với nhau về bệnh nhân hoặc các ảo thanh khác xuất phát từ một bộ phận nào đó
của thân thể.
d/ Các loại hoang tưởng dai dẳng khác khơng thích hợp về văn hố và hồn
tồn khơng thể có được như tính đồng nhất về tơn giáo hay chính trị hoặc những khả
năng và quyền lực siêu nhiên.
e/ Ảo giác dai dẳng bất cứ loại nào, có khi kèm theo hoang tưởng thống
qua hay chưa hồn chỉnh, khơng có nội dung cảm xúc rõ ràng hoặc kèm theo ý tưởng
quá dai dẳng hoặc xuất hiện hàng ngày trong nhiều tuần hay nhiều tháng
f/ Tư duy gián đoạn hay thêm từ khi nói đưa đến tư duy khơng liên quan
hay lời nói khơng thích hợp hay ngôn ngữ bịa đặt.

g/ Tác phong căng trương lực như kích động, giữ ngun dáng hay uốn sáp,
phủ định, khơng nói hay sững sờ.
h/ Các triệu chứng âm tính như vô cảm rõ rệt, ngôn ngữ nghèo nàn, cảm
xúc cùn mịn hay khơng thích hợp đưa đến cách ly xã hội hay giảm sút hiệu suất lao
động xã hội, phải rõ ràng là các triệu chứng trên không do trầm cảm hay thuốc an thần
kinh gây ra.
i/ Biến đổi thường xun và có ý nghĩa về chất lượng tồn diện của tập tính
cá nhân biểu hiện như là mất thích thú, thiếu mục đích, lười nhác, thái độ mê mải suy
nghĩ về bản thân và cách ly xã hội.
*Để chẩn đốn tâm thần phân liệt bệnh nhân phải có:
- Một triệu chứng rất rõ hoặc hai triệu chứng nếu không rõ thuộc vào nhóm từ a
đến d hoặc ít nhất là hai triệu chứng thuộc trong các nhóm từ e đến i [10].
- Các triệu chứng trên phải tồn tại trong thời gian ít nhất là 1 tháng [10].
- Khơng có các triệu chứng trầm cảm hay hưng cảm mở rộng xuất hiện trước các
triệu chứng phân liệt cũng như khơng có các bệnh tổn thương não, động kinh, bệnh
nhân đang trong trạng thái nhiễm độc ma tuý [10].
1.1.5. Tiến triển của bệnh Tâm thần phân liệt
a/ Giai đoạn báo trước
11
11
11


Thời kỳ đầu người bệnh thường có những biểu hiện mơ hồ như suy nhược thần
kinh, giai đoạn tiếp theo người bệnh thấy cảm giác bị động tăng dần đuối sức trước
cuộc sống, không theo kịp những biến đổi hàng ngày với xung quanh [10].
b/ Giai đoạn toàn phát
Các triệu chứng khởi đầu tăng lên đồng thời xuất hiện các triệu chứng loạn thần
rầm rộ, phong phú, bao gồm các triệu chứng dương tính như ảo giác, hoang tưởng và
các triệu chứng âm tính như thiếu hồ hợp. Tuỳ theo các hội chứng và triệu chứng

chiếm ưu thế trong bệnh cảnh lâm sàng người ta chia tâm thần phân liệt thành các thể
bệnh khác nhau [10].
1.1.6. Các thể bệnh chính
Tâm thần phân liệt được chia là các thể khác nhau căn cứ vào triệu chứng nổi bật
trong thời gian đánh giá bệnh [6]:
- Thể paranoid
Thể bệnh này có đặc điểm là các hoang tưởng hoặc các ảo thanh rõ ràng trong
phạm vi liên quan tới chức năng nhận thức và cảm xúc. Đây là thể bệnh hay gặp nhất,
chiếm hơn 50% số bệnh nhân tâm thần phân liệt.
Thể paranoid có khởi phát muộn hơn các thể khác của tâm thần phân liệt. Nhiều
nghiên cứu cho rằng tiên lượng của thể paranoid có thể tốt hơn các thể khác của tâm
thần phân liệt, đặc biệt là chức năng xã hội và khả năng có một cuộc sống độc lập.
- Thể thanh xn
Thể thanh xn có các triệu chứng ngơn ngữ thanh xuân, hành vi thanh xuân, vô
cảm xúc hoặc cảm xúc khơng phù hợp. Thể bệnh này có khởi phát rất sớm (15-25
tuổi), bệnh tiến triển liên tục, người bệnh nhanh chóng sa sút trí tuệ và lao động, do
vậy tiên lượng của tâm thần phân liệt thể thanh xuân rất xấu.
- Thể căng trương lực
Thể bệnh này có các triệu chứng căng trương lực như bất động vận động, kích
động, phủ định, vận động cường độ lớn kỳ dị, nhại lời, nhại vận động. Ngày nay thể
bệnh này hiếm gặp hơn thế kỷ trước đặc biệt ở các nước phát triển. Người ta cho rằng

12
12
12


do được phát hiện và điều trị sớm nên tâm thần phân liệt khó phát triển thành thể căng
trương lực. Thể bệnh này đáp ứng rất tốt với điều trị bằng sốc điện.
- Thể không biệt định

Thể không biệt định có các triệu chứng thuộc tiêu chuẩn của tâm thần phân liệt,
nhưng không thoả mãn các tiêu chuẩn của thể paranoid, thanh xuân.
- Thể di chứng
Tất cả các thể bệnh của tâm thần phân liệt đều có thể chuyển sang thể di chứng
sau nhiều năm bị bệnh. Thể di chứng của tâm thần phân liệt có ít nhất 1 giai đoạn của
tâm thần phân liệt trong tiền sử, nhưng hiện tại lâm sàng khơng cịn các triệu chứng
loạn thần rõ ràng. Trái lại, biểu hiện của triệu chứng âm tính như vô cảm xúc, ngôn
ngữ nghèo nàn, hoặc mất ý chí lại nổi bật trong triệu chứng lâm sàng.
1.1.7. Tiên lượng
- Tiên lượng tốt
+ Nhân cách trước khi có bệnh bình thường.
+ Quan hệ xã hội trước khi có bệnh bình thường.
+ Yếu tố thuận lợi cho bệnh phát sinh rõ ràng.
+ Khởi đầu cấp tính.
+ Khởi đầu ở tuổi trung niên.
+ Có lú lẫn tâm thần hay rối loạn khí sắc rõ rệt.
+ Tiền sử gia đình khơng có bệnh tâm thần phân liệt.
- Tiên lượng xấu
+ Nhân cách trước khi có bệnh khơng bình thường
+ Quan hệ xã hội trước khi có bệnh khơng thỏa đáng
+ Khơng có yếu tố thuận lợi cho bệnh phát sinh
+ Khởi đầu âm thầm từ từ
+ Khởi đầu càng trẻ càng xấu
+ Cảm xúc phẳng lặng hay khơng hịa hợp
+ Tiền sử gia đình có bệnh tâm thần phân liệt
1.1.8. Điều trị
13
13
13



- Nguyên tắc điều trị
+ Vì nguyên nhân của bệnh chưa rõ ràng nên điều trị bệnh tâm thần phân
liệt là điều trị triệu chứng và phục hồi chức năng tâm lý xã hội.
+ Kết hợp nhiệu biện pháp điều trị khác tuỳ từng giai đoạn phát triển của
bệnh.
+ Điều trị sớm, lâu dài, liên tục và theo dõi người bệnh gần như suốt đời
[1].
- Điều trị tại cộng đồng
Khi bệnh ổn định và thuyên giảm, chuyển người bệnh tâm thần phân liệt về quản
lý theo dõi và điều trị tại cộng đồng [1].
Sử dụng thuốc chống loạn thần trong giai đoạn bệnh ổn định
Khi một người bệnh đạt tới sự ổn định về bệnh, điều quan trọng với thầy thuốc
là xây dựng một kế hoạch điều trị lâu dài, nhằm giảm tối thiểu các nguy cơ gây tái
phát bệnh, theo dõi và hạn chế tối đa các tác dụng không mong muốn, giảm các di
chứng. Theo báo cáo của WHO (2014) chỉ có 45,59% số người bệnh và 40,43% số
người chăm sóc người bệnh nhận thức đúng rằng bệnh tâm thần phân liệt cần được
điều trị củng cố thời gian dài [31].
Điều trị bằng các liệu pháp tâm lý
- Điều trị tâm lý cũng được áp dụng cho người bệnh, người bệnh được tập thích
ứng xã hội qua giao tiếp với các đồng bệnh, hướng dẫn ăn cơm tập thể, tắm rữa thay
quần áo, và các hoạt động khác [1],[8],[3].
- Tư vấn cho gia đình của người bệnh tâm lý chăm sóc người bệnh, đây là một
liệu pháp tâm lý gia đình quan trong giúp người bệnh tái thích ứng, hòa nhập cộng
đồng. sống chung với tâm thần phân liệt. tránh các tác nhân kích thích, người bệnh
tâm thần phân liệt thường xuất hiện cơn kích động khi quá căng thẳng. Theo tác giả Lê
Hồng Nhân, người chăm sóc bệnh tâm thần phân liệt đã có cái nhìn “thống” hơn đối
với người bênh tâm thân phân liệt khi chăm sóc tại nhà, chỉ có 14% người chăm sóc có
thái độ tiêu cực đối với người bênh tâm thần phân liệt, 17% có thái độ tích cực và 69%
người chăm sóc có thái độ trung lập [4].

14
14
14


Phục hồi chức năng và tái thích ứng xã hội:
- Liệu pháp lao động là liệu pháp quan trọng nhất trong các liệu pháp phục hồi
chức năng nhằm mục đích chữa bệnh, khôi phục hoạt động tâm thần và khả năng thực
hiện nghề nghiệp. Hướng dẫn, giúp người bệnh tham gia lao động học nghề, tham gia
vào các sinh hoạt xã hội, vui chơi giải trí để phục hồi các khả năng này của người
bệnh. Tổ chức lao động tập thể là chủ yếu, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp với
nhiều hình thức khác nhau phù hợp với nhiều đối tượng người bệnh và khả năng nghể
nghiệp của họ [1].
- Các liệu pháp vui chơi, giải trí: Có thể xây dựng các chế độ sinh hoạt của người
bệnh bao gồm các hoạt động thể dục thể thao, văn nghệ, đọc sách báo, các trò chơi…
[1]
- Tổ chức những người bệnh tâm thần tại xã, phường vào một câu lạc bộ hoặc
nhóm có người phụ trách, có nội quy và lịch sinh hoạt tuần, tháng [1].
- Đối với người bệnh tâm thần công việc bắt đầu trở lại ưu tiên những công việc
đơn giản, nhẹ nhàng, không đòi hỏi chi tiết, phức tạp [1].
- Tại cộng đồng, có thể tổ chức một nhóm lao động phục hồi chức năng như
trồng trọt, chăn nuôi hoặc gia công, sản xuất các sản phẩm thủ công, đồ dùng vật dụng
công đoạn thô cho các nhà máy, xưởng sản xuất tư nhân... Có thể gửi người bệnh vào
các hợp tác xã, nhà máy, xưởng bảo trợ... Khi tiến hành liệu pháp lao động cần lưu ý
một số nguyên tắc sau: Lao động phải có người hướng dẫn kèm cặp nhằm hỗ trợ và
đảm bảo sự an toàn cho người bệnh; Bắt đầu từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp,
luôn ưu tiên những công việc mà trước đây người bệnh đã làm, có năng khiếu và ham
thích; Lao động với hình thức tập thể là chủ yếu; Có sự đánh giá, động viên khen
thưởng; Dù ít hay nhiều nhưng phải có trả cơng thích hợp cho từng người bệnh [1].
- Phải có cơ sở vật chất, kinh phí cho cơ sở đáp ứng cho việc tổ chức các hoạt

động, huy động xã hội hóa với các cơ quan, đơn vị, tổ chức từ thiện, các nhà hảo tâm,
gia đình người bệnh [1].
Theo giáo sư George N. Christodoulou, Chủ tịch Liên đoàn Sức khỏe Tâm thần
Thế giới (World Federation for Mental Health = WFMH), hiện nay có khoảng 26 triệu
15
15
15


bệnh nhân tâm thần phân liệt, nhưng chỉ có 50% tiếp cận được với các phương pháp
chữa trị thích hợp, xã hội còn kỳ thị người bệnh tâm thần phân liệt. Mặc dù các quốc
gia đã có chế độ bảo hiểm y tế thanh tốn thuốc điều trị, chính sách hỗ trợ cuộc sống
người bệnh tâm thần phân liệt trong đó có Việt Nam nhưng do bệnh tâm thần phân liệt
diễn tiến mãn tính, người bệnh có nguy cơ mất việc làm gấp 6 -7 lần, có 18,5 % người
bệnh bị cư xử bạo lực. Cùng với đó tỷ lệ mắc một số bệnh kèm như bệnh tim mạch,
đái tháo đường bệnh đường hô hấp, bệnh lây nhiễm khác cũng cao hơn và tử vong sớm
hơn từ 10 đến 20 năm so người bình thường [1],[3].
1.2. MỨC ĐỘ HỒ NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI BỆNH TÂM THẦN PHÂN
LIỆT
1.2.1. Định nghĩa hoà nhập cộng đồng
Định nghĩa về hoà nhập cộng đồng của những người bệnh tâm thần có liên quan
chặt chẽ đến nơi họ sinh sống, vì hồ nhập cộng đồng ban đầu được coi như là nơi
người bệnh sống, có thể là ngoài bệnh viện tâm thần hoặc những nơi điều trị khác [22].
Theo thời gian, định nghĩa về hoà nhập cộng đồng dần phát triền, bao gồm các
khía cạnh khác của cuộc sống cá nhân. Khi mới hình thành, hoà nhập cộng đồng được
định nghĩa hẹp là quyền sở hữu nhà ở bên ngoài các cơ sở điều trị, như bệnh viện tâm
thần hoặc các cơ sở điều trị khác [22]. Khái niệm về hoà nhập cộng đồng được xây
dựng xung quanh khái niệm công dân chung và nhiều người cho rằng những người bị
ảnh hưởng bởi các vấn đề tâm thần có quyền và cơ hội tương tự như những người bình
thường khác trong xã hội, tham gia vào đời sống xã hội như phần còn lại của cộng

đồng [27]. Nói chung, hồ nhập cộng đồng có thể được định nghĩa là mức độ mà mỗi
cá nhân sống, tham gia và giao tiếp trong cộng đồng của họ [28].
Hòa nhập cộng đồng của những người mắc bệnh tâm thần cũng được định
nghĩa là quá trình các cá nhân thiết lập và duy trì các mối quan hệ giữa các cá nhân với
nhau, bằng cách trao đổi với các thành viên khác trong cộng đồng thông qua môi
trường phi lâm sàng [26]. Như vậy, hoà nhập ngụ ý rằng người đó tách ra khỏi vai trị
của một người bệnh tâm thần sống trong một môi trường được bảo vệ, có lập trường
độc lập với bệnh tật của họ, đảm nhận việc tự quản lý và thực hiện vai trò của một
16
16
16


người trưởng thành bình thường [21]. Theo một số tác giả, hoà nhập cộng đồng được
xác định bởi mức độ cá nhân mắc bệnh tâm thần có cơ hội tận dụng các nguồn lực hiện
có trong cộng đồng của họ [24],[31]. Do đó, để hồ nhập hiệu quả, các cá nhân trong
xã hội nên tạo điều kiện để người bệnh tâm thần có cơ hội sử dụng các nguồn lực đó
một cách dễ dàng hơn [15],[23],[27],[31].
Aubry & Myner là những tác giả đầu tiên coi hoà nhập cộng đồng là một khái
niệm đa chiều, bao gồm ba khía cạnh: thể chất, xã hội và tâm lý [13]. Gần đây nhiều
tác giả bắt đầu nhìn nhận rộng hơn, tồn diện hơn về hoà nhập cộng đồng như là một
cấu trúc đa chiều [13],[28]. Tác giả Wong và Solomon (2002) cũng đã phân tích một
số nghiên cứu nhằm nhận định và vận hành khái niệm hòa nhập cộng đồng của những
người bị ảnh hưởng bởi các vấn đề tâm thần và tạo ra một mơ hình hịa nhập cộng
đồng tương tự như tác giả Aubry (1996) và sử dụng định nghĩa của một số tác giả
khác để mơ tả các khía cạnh thể chất, tâm lý và xã hội [13],[18],[28],[31]. Hoà nhập
thể chất thường được định nghĩa là mức độ mà một cá nhân tham gia vào các hoạt
động và sử dụng các nguồn lực bên ngồi nhà của họ [22]. Hịa nhập xã hội đề cập đến
mức độ tương tác xã hội của cá nhân với hàng xóm [13]. Cuối cùng, hồ nhập tâm lý
mơ tả mức độ mà một cá nhân cảm thấy rằng họ thuộc về cộng đồng và trải nghiệm sự

gắn bó tình cảm với hàng xóm [25]. Trong định nghĩa toàn diện này, hoà nhập được
khái niệm hóa bao gồm cả khía cạnh hữu hình và vơ hình, tất cả mọi thứ từ đi mua sắm
đến cảm nhận một phần của cộng đồng. Mặc dù, các tác giả trước đây đã nghiên cứu
một số khía cạnh về hồ nhập cộng đồng của những người có vấn đề về tâm thần,
nhưng Wong (2002) là những tác giả duy nhất đề xuất cấu trúc đa chiều, kết hợp các
khía cạnh được khái niệm hố trước đó trong một ma trận khái niệm về các yếu tố môi
trường ảnh hưởng đến hồ nhập, do đó trở thành một mơ hình tham chiếu trong lĩnh
vực sức khoẻ tâm thần [19],[28].
Theo Gulcur và cộng sự (2007), khái niệm hoà nhập cộng đồng của những
người mắc bệnh TTPL được phân tích và tác giả hoàn toàn ủng hộ định nghĩa của
Wong và Solomon (2002), nhưng ông cũng đề xuất sự tồn tại của yếu tố thứ tư là sự

17
17
17


độc lập, điều này được xem là khả năng cá nhân có thể thực hiện các hoạt động một
cách tự chủ [18],[28].
Như vậy, hòa nhập cộng đồng được định nghĩa là mức độ của mỗi cá nhân có
thể sống, tham gia và hoà hợp trong xã hội của họ [30]. Mức độ hòa nhập cộng đồng
được xác định là cách người bệnh tâm thần phân liệt đạt được các mục đích tối ưu về
chức năng sinh hoạt, giao tiếp, tâm lý xã hội, lao động để có thể hịa nhập với cộng
đồng và môi trường ở xung quanh [20].
1.2.2. Vai trị của hồ nhập cộng đồng đối với người bệnh Tâm thần phân liệt
Những người bị tâm thần phân liệt thường xuyên bị kỳ thị và phân biệt đối xử
[14] và có thể dễ gặp phải những khuyết tật lâu dài cần được chăm sóc và quan tâm
thường xuyên [29]. Sống trong một môi trường không mong muốn bởi sự xa lánh của
những người xung quanh và các dịch vụ phục hồi chức năng không đầy đủ, những
người bị tâm thần phân liệt nói chung có nguy cơ bị suy giảm nghiêm trọng về sức

khỏe tinh thần [30] và cản trở sự phục hồi khả năng lao động. Vì vậy, hồ nhập cộng
đồng đóng vai trị là một yếu tố quyết định, ảnh hưởng lớn đến khả năng sống theo
đúng nghĩa và phục hồi của người bệnh TTPL [30].
Người ta cho rằng những người mắc bệnh TTPL có thể đảm nhận một số vai trò
và thiết lập lối sống như những thành viên khác của cộng đồng trong môi trường sống
bình thường nhất, khi được cung cấp các dịch vụ và hỗ trợ phù hợp với tình trạng sức
khỏe tâm thần và nhu cầu hoà nhập của họ [22].
Nghiên cứu của Ai Shioda và cộng sự (2017) thực hiện tại Nhật Bản cho thấy
hòa nhập cộng đồng là một quyền thiết yếu của người bệnh TTPL vì nó thúc đẩy quá
trình cải thiện sức khỏe thể chất và tinh thần, người bệnh nhận thấy được tơn trọng,
u thương và có trách nhiệm với cuộc sống [14]. Các cộng đồng nơi người bệnh
TTPL cảm thấy được hòa nhập đã giúp đỡ và hướng dẫn người bệnh thực hiện được
những công việc thơng thường, biết tự chăm sóc cho bản thân mình, có thể làm được
những việc đơn giản như tắm giặt, vệ sinh cá nhân; gấp chăn màn, quần áo; quét nhà,
thu xếp, dọn dẹp gọn gàng nơi ăn chốn ở của họ... Bên cạnh đó, họ cũng nhận được cơ
hội tham gia các hoạt động nghề nghiệp, giúp họ có việc làm tạo thu nhập nhất định,
18
18
18


dẫn đến cảm nhận họ là một phần trong cộng đồng đó [16]; Ngồi ra, các hoạt động
trong cộng đồng cũng cung cấp các hỗ trợ thông qua các mối quan hệ, người bệnh có
thể liên hệ thường xuyên với những người khác, sống và làm việc trong cùng một cộng
đồng [17],[25].
Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng người bệnh TTPL nếu nhận được nhiều
hỗ trợ từ xã hội thì mức độ hội nhập cộng đồng của những người bệnh này sẽ cao hơn
[25]. Shioda cũng đã kết luận rằng nếu người bệnh TTPL được tham gia vào các hoạt
động xã hội cũng như được làm các công việc theo khả năng của họ, người bệnh sẽ
thấy tự tin hơn, giảm cảm giác phụ thuộc, sử dụng các nguồn lực trong xã hội một

cách chủ động hơn và từ đó, nâng cao khả năng hồ nhập vào cộng đồng mà họ đang
sống [14].
1.3. MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN MỨC ĐỘ HOÀ NHẬP CỘNG ĐỒNG
CỦA NGƯỜI BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT
Trong những nghiên cứu gần đây nhằm phát hiện các yếu tố ảnh hưởng đến khả
năng hoà nhập cộng đồng của người bệnh tâm thần phân liệt, một số tác giả chỉ ra rằng
tuổi, giới tính, số lượng người chăm sóc, thời gian mắc bệnh và điều trị, thể bệnh tâm
thần phân liệt, số lần tái phát trong năm, số lần tái khám trong năm có liên quan đến
mức độ hoà nhập cộng đồng của người bệnh [14],[16],[18],[22].
1.3.1. Tuổi
Kết quả nghiên cứu của tác giả Chadi và cộng sự (2009) thực hiện trên 198 người
bệnh TTPL tại Mỹ ghi nhận rằng tuổi có ảnh hưởng đến đến mức độ hoà nhập cộng
đồng của người bệnh TTPL, cụ thể, người bệnh càng lớn tuổi thì khả năng hồ nhập
với những người xung quanh càng kém [16]. Kết quả nghiên cứu này cũng trùng khớp
với các nghiên cứu trước đây về tác động của tuổi đến mức hoà nhập cộng đồng của
người bệnh như nghiên cứu của Gucur và cộng sự (2003), Salzer và cộng sự (2005) và
Segal và cộng sự (1980) [18],[21],[22].
1.3.2. Giới tính
Nhiều nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng người bệnh TTPL là nữ có khả năng
kiểm soát tốt cuộc sống hơn người bệnh nam; điều này có nghĩa giới tính có liên quan
19
19
19


đến mức độ hoà nhập cộng đồng của người bệnh TTPL [16],[22]. Thống nhất với các
tác giả trên về sự ảnh hưởng của giới tính tới mức độ hồ nhập của người bệnh TTPL;
tuy nhiên, Gulcur và cộng sự lại cho rằng người bệnh nam có khả năng hồ nhập cộng
đồng tốt hơn người bệnh nữ; điều này được lý giải bởi nam giới thường có xu hướng
tham gia các hoạt động xã hội nhiều hơn nữ giới [18].

1.3.3. Thời gian mắc bệnh và điều trị
Ai Shioda và cộng sự (2017) cũng ghi nhận rằng thời gian mắc bệnh có ảnh
hướng lớn đến khả năng hoà nhập của người bệnh TTPL, cụ thể: người bệnh mắc bệnh
và điều trị dưới 1 năm có khả năng hồ nhập tốt hơn những những người mắc trên 1
năm [14]. Nghiên cứu của tác giả Trần Ngọc Nhân và cộng sự (2016) tại tỉnh Bến Tre
cũng cho kết quả tương tự, điều này có thể được lý giải bởi những người bệnh mắc
trong thời gian ngắn, những thương tổn về thể chất và tinh thần chưa nặng nề nên khả
năng hoà nhập sẽ tốt hơn [12].
1.3.4. Thể bệnh tâm thần phân liệt
Thể bệnh có ảnh hưởng đến mức hoà nhập cộng đồng [12],[16]; tác giả Trần
Ngọc Nhân (2016) cho rằng người bệnh TTPL ở thể bệnh hoang tưởng hoà nhập cộng
đồng tốt hơn các thể bệnh khác [12]; trong khi đó, tác giả Chadi Abdallah (2007) tìm
thấy những người bệnh TTPL ở thể trầm cảm có khả năng hồ nhập tốt hơn [16].
1.3.5. Số lần tái phát trong năm, số lần tái khám
Kết quả nghiên cứu của Trần Ngọc Nhân và cộng sự (2016) cho thấy thời gian
mắc bệnh và điều trị, số lần tái phát trong năm, số lần tái khám trong năm ảnh hưởng
rất lớn đến mức hoà nhập cộng đồng. Cụ thể, tác giả ghi nhận rằng những người bệnh
tái khám ít nhất 6 tháng 1 lần, tái phát dưới 5 lần/năm có khả năng hịa nhập cộng
đồng tốt hơn những người bệnh khác [12].
1.4. CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
1.4.1. Nghiên cứu trong nước
Tại Việt Nam, số lượng các đề tài nghiên cứu về khả năng hoà nhập cộng đồng
của người bệnh TTPL còn rất hạn chế.

20
20
20


Tác giả Nguyễn Văn Tình và cộng sự (2017) đã thực hiện đánh giá mức độ hoà

nhập cộng đồng và công tác quản lý, điều trị ngoại trú bệnh nhân TTPL thể paranoid
trên 223 người bệnh TTPL tại tỉnh Hưng Yên. Kết quả cho thấy 52,3% người bệnh
TTPL thể paranoid cởi mở trong giao tiếp, người bệnh nữ có khả năng tái hoà nhập
cộng đồng thể hiện qua trang phục (gòn gàng, sạch sẽ) cao hơn người bệnh nam, …
Tuy nhiên, nội dung đánh giá về hoà nhập cộng đồng của người bệnh cịn chưa được
chú trọng; ngồi ra, tác giả cũng chỉ đánh giá trên người bệnh TTPL thể paranoid mà
chưa quan tâm đến các thể bệnh còn lại [9].
Nghiên cứu của Trần Ngọc Nhân và cộng sự (2016) trên 156 người bệnh tâm
thần phân liệt đang được quản lý điều trị tại tỉnh Bến Tre cho thấy sau điều trị
có 63,5% hịa nhập, khơng hịa nhập 19,2% và 17,3% sa sút hơn, trong đó 48,1% có
rối loạn nhận thức. Tác giả cũng tìm ra một số yếu tố như: thời gian phát bệnh dưới 01
năm được điều trị, tái khám ít nhất 6 tháng 1 lần, sự tuân thủ điều trị thuốc, thể bệnh
hoang tưởng, tái phát dưới 5 lần, tham gia giải trí, vệ sinh nơi ở sạch sẽ, ngăn nắp cho
thấy có mối liên quan với sự hòa nhập cộng đồng của người bệnh sau điều trị sau điều
trị [12].
Như vậy, có thể thấy vấn đề hoà nhập cộng đồng của người bệnh TTPL đang
được quan tâm nghiên cứu và từ đó bộc lộ được thực trạng hồ nhập cộng đồng của
người bệnh TTPL cịn nhiều vấn đề cần đầu tư nghiên cứu sâu hơn. Tại thành phố Đà
Nẵng tính đến nay chúng tơi chưa thấy có bất kì nghiên cứu nào cơng bố đánh giá mức
độ hoà nhập cộng đồng của người bệnh TTPL.
1.4.2. Nghiên cứu ngoài nước
Một số tài liệu cho thấy mức độ hoà nhập cộng đồng của người bệnh TTPL
chưa cao, các tác giả cũng tìm ra một số yếu tố có liên quan mật thiết đến khả năng
hoà nhập cộng đồng sau điều trị của người bệnh [14],[16].
Tác giả Chadi và cộng sự (2009) thực hiện nghiên cứu về mức độ hồ nhập
cộng đồng của 198 người bệnh TTPL có độ tuổi >55 và phát bệnh sau 45 tuổi so với
những người bình thường trong cùng độ tuổi, kết quả cho thấy: So với nhóm cộng
đồng nói chung, nhóm tâm thần phân liệt có tổng điểm hồ nhập cộng đồng thấp hơn
21
21

21


đáng kể; đặc biệt, mức độ hoà nhập thể chất của những người bệnh này cao hơn mức
hoà nhập về mặt tâm lý và xã hội. Ngồi ra, trong nhóm tâm thần phân liệt, có năm
biến liên quan đáng kể đến sự hòa nhập cộng đồng: là nữ, thu nhập cá nhân cao hơn, ít
các triệu chứng trầm cảm, các triệu chứng dương tính thấp hơn và tự kiểm sốt tốt
cuộc sống [16].
Nghiên cứu của tác giả Ai Shioda và cộng sự (2017) tại Nhật Bản, với số lượng
người bệnh TTPL tham gia là 263 trong đó tập trung vào những người bệnh tuổi từ 1864 được chuẩn đoán mắc bệnh TTPL theo thang đo ICD-10, đang điều trị ngoại trú sau
tối thiểu 0,5 năm sống tại bệnh viện. Tác giả nhận thấy tổng điểm hoà nhập cộng đồng
của những người bệnh này khá cao; hầu hết những người bệnh TTPL có là nam, sống
với gia đình, có việc làm, có đủ ngân sách và khơng bị cơ lập về mặt xã hội sẽ có mức
hồ nhập cộng đồng cao hơn so với những đối tượng còn lại [14].
Mặc dù người lớn tuổi là nhóm tăng trưởng nhanh nhất trong số lượng những
người bệnh mắc tâm thần phân liệt, nhưng chỉ có một nghiên cứu đã kiểm tra mức độ
hồ nhập cộng đồng ở nhóm tuổi này [17]. Nghiên cứu của Aubry và Myner (1996) tập
trung vào những người lớn tuổi ở Hà Lan mắc bệnh tâm thần tại các cộng đồng, tác giả
phát hiện ra rằng trái ngược với mẫu những người bình thường sống trong cộng đồng,
những người bệnh TTPL sống tại nhà cho thấy mức độ hoà nhập xã hội thấp nhưng
mức độ hoà nhập về tâm lý và thể chất tương tự nhóm người bình thường cùng tuổi
trong cộng đồng. Ngoài ra, tác giả cũng ghi nhận rằng số lượng thành viên trong gia
đình sống cùng người bệnh, sự hỗ trợ từ gia đình và sự đa dạng của các chương trình
hoạt động cộng đồng có ảnh hưởng rất lớn đến mức độ hoà nhập cộng đồng của những
người bệnh trên [13].

22
22
22



Chương 2

ĐỐI TƯỢNG, MỤC TIÊU, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP
VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Những người bệnh đang điều trị ngoại trú bệnh TTPL tại các trạm y tế của quận
Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
2.1.2. Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 12/2019 đến tháng 10/2020. Trong đó thời
gian thu thập số liệu từ 4/2020 đến tháng 07/2020
2.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.2.1. Khảo sát mức độ hòa nhập cộng đồng của người bệnh tâm thần phân liệt
tại quận Hải châu, thành phố Đà Nẵng.
2.2.2. Xác định mối liên quan giữa mức độ hòa nhập cộng đồng và các yếu tố
liên quan của người bệnh tâm thần phân liệt tại quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
23
23
23


2.3.1. Mức độ hòa nhập cộng đồng của người bệnh tâm thần phân liệt
2.3.2. Mối liên quan giữa mức độ hòa nhập cộng đồng và các yếu tố liên quan
của người bệnh tâm thần phân liệt
2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.4.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang
2.4.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu

- Phương pháp chọn mẫu: quận Hải Châu thành phố Đà Nẵng có tất cả 13 trạm y
tế, nhà nghiên cứu tiến hành chọn ngẫu nhiên 9 trạm y tế để lấy mẫu nghiên cứu. Tại
các trạm y tế, nhà nghiên cứu tiến hành chọn mẫu toàn bộ bằng cách lấy danh sách tất
cả các người bệnh đã được chẩn đoán tâm thần phân liệt đang được quản lý ngoại trú
và đồng ý tham gia cuộc phỏng vấn khi họ được người nhà đưa đến nhận thuốc vào
các ngày quy định của từng trạm từ tháng 4-7/2020.
Tiêu chọn loại trừ là những người bệnh tâm thần phân liệt cấp tính và khơng
đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Cỡ mẫu thu được: 205 người bệnh TTPL
2.4.3. Công cụ và phương pháp thu thập số liệu
- Phần 1: Các câu hỏi để đánh giá đặc tính chung của đối tượng nghiên cứu bao
gồm: tuổi, giới, số lượng người chăm sóc, thời gian mắc bệnh và điều trị, số lần tái
khám trong năm, số lần tái phát trong năm và thể bệnh của người bệnh.
- Phần 2: Bộ câu hỏi CIS-APP34 (Community Integration Scale for Adults with
Psychiatric Problems version 34 items) đánh giá mức độ hoà nhập cộng đồng của
người bệnh mắc các bệnh tâm thần của tác giả Cabral & Barreto Carvalho (2013) [19],
bao gồm 34 câu với 3 nội dung: Hoà nhập về mặt thể chất (9 câu), hoà nhập về mặt
tâm lý (14 câu) và hoà nhập về mặt xã hội (11 câu). Mỗi câu có 4 phương án trả lời từ
0 "Khơng có ý kiến" đến 4 "Hoàn toàn đồng ý. tổng số điểm từ 0 - 136 điểm, điểm
càng cao, cho thấy người bệnh có mức độ hịa nhập cộng đồng càng cao. Theo quy
định của bộ câu hỏi nếu tổng điểm ≤74 điểm được gọi là hòa nhập cộng đồng thấp,
tổng điểm > 74 điểm có hịa nhập cộng đồng. Bộ câu hỏi được tác giả gửi bản gốc và
24
24
24


cho phép dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt, bản tiếng Việt sau đó đã được gửi lại cho
tác giả. Độ tin cậy của bộ câu hỏi đã được sử dụng nghiên cứu tại Trung Quốc và Ấn
Độ trên cùng đối tượng nghiên cứu với mức Cronbach’s alpha lần lượt là 0.91 và 0.92

[19]. Nhà nghiên cứu đã tiến hành thử nghiệm 30 mẫu để kiểm tra độ tin cậy của bộ
câu hỏi trước khi tiến hành thực hiện đề tài, kết quả độ tin cậy đạt 0,87 [19].
2.4.4. Quá trình thu thập số liệu
Quá trình thu thập số liệu được tiến hành từ tháng 04 - 07/2019 qua các bước sau:
Bước 1: Chọn ngẫu nhiên 9 trạm y tế trong tổng số 13 trạm y tế của quận Hải
Châu, Nhà nghiên cứu làm việc với các trạm trưởng để lấy toàn bộ danh sách người
bệnh TTPL đang quản lý tại các trạm và liên hệ với tất cả các người nhà hoặc người
bệnh qua điện thoại giải thích mục đích, nội dung, phương pháp nghiên cứu và mời họ
tham gia vào nghiên cứu. Nếu họ đồng ý tham gia nghiên cứu, nhà nghiên cứu tiến
hành lập danh sách người bệnh và thời gian họ được người nhà đưa đến nhận thuốc tại
các trạm để tiến hành thu tập số liệu
Bước 2: Tại các ngày người bệnh TTPL được người nhà đưa đến trạm y tế để
nhận thuốc nhà nghiên cứu một lần nữa giải thích mục đích, nội dung, phương pháp
nghiên cứu và tiến hành chọn tất cả mẫu nghiên cứu và người bệnh đang ở giai đoạn
cấp tính bệnh cấp tính khơng chọn vào nhóm nghiên cứu. Sau đó, nhà nghiên cứu sẽ
tiến hành phỏng vấn theo bộ câu hỏi đã thiết kế sẵn trong thời gian từ 30-45 phút.
2.4.5. Các biến số nghiên cứu:
Bao gồm 2 nhóm chính:
- Nhóm thơng tin chung của đối tượng nghiên cứu: tuổi, giới, người chăm sóc
chính, thời gian mắc bệnh và điều trị, số lần tái khám trong năm, số lần tái phát trong
năm và thể bệnh của người bệnh.
- Nhóm thơng tin đánh giá mức độ hồ nhập cộng đồng của người bệnh TTPL
gồm 3 nội dung:
+ Nội dung 1: Hoà nhập thể chất: là mức độ mà người bệnh tham gia vào
các hoạt động và sử dụng các nguồn lực sẵn có
+ Nội dụng 2: Hồ nhập tâm lý là người bệnh cảm thấy rằng họ thuộc về
25
25
25



×