Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Sức khỏe tinh thần của người cao tuổi tại một số quận, huyện thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------

NGUYỄN THỊ LOAN

SỨC KHỎE TINH THẦN CỦA NGƢỜI CAO TUỔI
TẠI MỘT SỐ QUẬN HUYỆN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

HÀ NỘI – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------

NGUYỄN THỊ LOAN

SỨC KHỎE TINH THẦN CỦA NGƢỜI CAO TUỔI
TẠI MỘT SỐ QUẬN HUYỆN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Hoàng Mộc Lan

HÀ NỘI - 2014




Lời cam đoan

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai cơng bố
trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả

Nguyễn Thị Loan


Lời cảm ơn
Trước tiên, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS. TS.
Hoàng Mộc Lan – người đã tận tâm dìu dắt chỉ bảo tơi trong suốt q trình thực
hiện đề tài này. Đồng thời tôi cũng xin gửi cảm ơn tới PGS. TS. Lê Thị Bích Ngọc,
người tuy khơng trực tiếp hướng dẫn luận văn cho tơi nhưng đã khuyến khích tơi rất
nhiều để tơi có thể hồn thành đề tài này sớm hơn so với dự kiến của tơi.
Từ đáy lịng mình tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới gia đình thân u
của tơi, những người đã tạo điều kiện, thời gian cho tơi có thể hồn thành tốt luận
văn. Tôi cũng xin cảm ơn cả những người bạn học đã giúp đỡ, chăm sóc, khích lệ
tơi trong suốt q trình nghiên cứu.
Cuối cùng, tơi cũng xin cảm ơn các ông, các bà cao tuổi – những người
đã đồng ý cho tơi thực hiện phỏng vấn để hồn thành luận văn, cảm ơn họ đã trải
lịng với tơi, đã cho tôi những trải nghiệm sâu sắc và thật đặc biệt.
Học viên

Nguyễn Thị Loan



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ............................. 4
1.1. Tổng quan nghiên cứu về người cao tuổi và sức khỏe tinh thần của người cao
tuổi................................................................................................................................4
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi ................................................. 4
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu ở trong nước.................................................. 7
1.2. Khái niệm về người cao tuổi ..............................................................................13
1.2.1. người cao tuổi ......................................................................................... 13
1.2.2. Đặc điểm tâm sinh lý của người cao tuổi ............................................... 15
1.3. Biểu hiện sức khỏe tinh thần của người cao tuổi...............................................18
Tiểu kết chương ....................................................................................................... 24
Chƣơng 2 TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................ 25
2.1. Nghiên cứu lí luận ..............................................................................................25
2.1.1. M c đích nghiên cứu............................................................................... 25
2.1.2. Nội dung nghiên cứu ............................................................................... 25
2.2. Vài nét về địa bàn nghiên cứu ............................................................................25
2.2.1. Giới thiệu chung về thành phố Hà Nội ................................................... 25
2.2.2. Đặc điểm mẫu nghiên cứu ...................................................................... 26
2.3. Nghiên cứu thực tiễn .........................................................................................28
2.3.1. Phương pháp trắc nghiệm (Test) ............................................................ 28
2.3.2. Phương pháp phỏng vấn sâu .................................................................. 34
2.3.3. Phương pháp nghiên cứu tài liệu ........................................................... 35
2.3.4. Phương pháp chuyên gia ........................................................................ 35
2.3.5. Phương pháp xử lý thông tin nghiên cứu bằng thống kê toán học ......... 35
Tiểu kết chƣơng ...................................................................................................... 35
Chƣơng 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG SỨC KHỎE TINH
THẦN CỦA NGƢỜI CAO TUỔI......................................................................... 36
3.1. Sự đau khổ tâm lý (cảm xúc tiêu cực) ...............................................................36



3.1.1. Dấu hiệu lo âu ........................................................................................ 36
3.1.2. Dấu hiệu trầm cảm ................................................................................. 39
3.1.3. Dấu hiệu mất kiểm soát hành vi/Cảm xúc .............................................. 42
3.2. Hạnh phúc nói chung (cảm xúc tích cực) ..........................................................45
3.2.1. Cảm xúc tích cực..................................................................................... 45
3.2.2. Các mối liên hệ xúc cảm ......................................................................... 48
3.2.3. Mãn nguyện với cuộc sống ..................................................................... 50
3.3. So sánh giá trị trung bình, bàn luận ...................................................................55
3.3.1. So sánh giá trị trung bình giữa các biểu hiện sức khỏe tinh thần tiêu cực
với tuổi .............................................................................................................. 55
3.3.2. So sánh giá trị trung bình giữa các biểu hiện sức khỏe tinh thần tiêu cực
với giới tính ....................................................................................................... 57
3.3.3. So sánh giá trị trung bình giữa các biểu hiện sức khỏe tinh thần tiêu cực
với nghề nghiệp ................................................................................................. 58
3.3.4. So sánh giá trị trung bình giữa các chỉ số sức khỏe tinh thần với nhóm
chung sống ........................................................................................................ 59
Tiểu kết chƣơng ...................................................................................................... 61
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ............................................................................... 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 67
PHỤ LỤC ................................................................................................................ 71


Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt.
DSM-IV

Diagnostic

and


Statistical

Manual

of

Mental

Disorders - IV
Bản các tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh tâm thần của
Hội tâm thần Hoa Kỳ
ĐTB

Điểm trung bình

ICD-10

International Statistical Classification of Diseases
and Related Health Problems - 10
Phân loại bệnh tật quốc tế và những vấn đề liên quan
đến sức khỏe phiên bản thứ 10

KMO

Kaiser-Meyer-Olkin
Chỉ số được dùng để xem xét sự thích hợp của phân
tích nhân tố

MDI


Thang thống kê suy thối sức khỏe tinh thần

MHI

Mental Health Inventory
Thang đo sức khỏe tinh thần

MSQLI

Multiple Sclerosis Quality of Life Inventory
Thang đo chất lượng cuộc sống

NCT

Người cao tuổi

RAND

RAND - Một tổ chức phi lợi nhuận có tr sở tại
Santa Monica, California.

SL

Số lượng

WHO

World Health Organization
Tổ chức y tế thế giới



Danh mục các bảng
Bảng 3.1

Dấu hiệu lo âu ở người cao tuổi

Bảng 3.2

Dấu hiệu trầm cảm ở người cao tuổi

Bảng 3.3

Dấu hiệu mất kiểm soát hành vi/cảm xúc ở người cao tuổi

Bảng 3.4

Cảm xúc tích cực ở người cao tuổi

Bảng 3.5

Các mối liên hệ xúc cảm ở người cao tuổi

Bảng 3.6

Mãn nguyện với cuộc sống ở người cao tuổi
Danh mục các hình vẽ, đồ thị

Biểu đồ 3.1

Tổng quát về thang lo âu của người cao tuổi


Biểu đồ 3.2

Tổng quát về các mức độ trầm cảm ở người cao tuổi

Biểu đồ 3.3

Tổng quát về mức độ mất kiểm soát hành vi, cảm xúc, suy nghĩ của
người cao tuổi

Biểu đồ 3.4

Tổng quát về các mức độ cảm xúc tích cực ở người cao tuổi

Biểu đồ 3.5

Tổng quát về thang chia các mối liên hệ xúc cảm của người cao tuổi

Biều đồ 3.6
Biều đồ 3.7

Biều đồ 3.6: Mối quan hệ giữa các biểu hiện sức khỏe tinh thần tiêu
cực với tuổi
Mối quan hệ giữa các biểu hiện sức khỏe tinh thần tiêu cực với giới tính

Biều đồ 3.8

Mối quan hệ giữa các biểu hiện sức khỏe tinh thần tiêu cực với nghề nghiệp

Biều đồ 3.9


Mối quan hệ giữa các biểu hiện sức khỏe tinh thần tiêu cực với
nhóm chung sống


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo thống kê của Liên hiệp quốc thì năm 2000 cả thế giới có 600 triệu
người cao tuổi (NCT). Ở các nước phát triển, cứ 6 người dân thì có 1 người trên 65
tuổi. Tính tốn thống kê cho thấy số ng NCT ở các nước đang phát triển sẽ tăng gấp
đơi trong vịng 25 năm tới, đạt 850 triệu người vào năm 2025, chiếm 12% tổng dân
số các nước và đến năm 2050 NCT sẽ tăng lên 2 tỷ người.
Trong mối quan hệ giữa dân số và con người thì vấn đề già hóa dân số là
một vấn đề đáng kể của một đất nước. Tuổi thọ của con người ngày càng cao chứng
tỏ điều kiện sống của họ an toàn hơn, thu nhập khá hơn, dinh dưỡng đầy đủ hơn và
hệ thống y tế chăm sóc con người được cải thiện hơn, tỷ suất sinh và tử đều giảm.
Tuy nhiên, vấn đề già hóa dân số nhanh lại tác động đến nhiều khía cạnh của đời
sống, sinh hoạt con người, ảnh hưởng đến vấn đề an sinh xã hội, trong đó quan
trọng nhất là việc chăm sóc sức khỏe cho NCT; ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế,
tiết kiệm và đầu tư của đất nước.
NCT là một kho tàng kiến thức, kinh nghiệm sống. NCT Việt Nam góp phần
quan trọng trong việc khuyên dạy con cháu, dòng họ, giúp nhiều người áp dụng các
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ
nhân dân, nâng cao chất lượng cuộc sống, đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến
tài, phát triển các hình thức hoạt động giáo dục, y tế ... cho đất nước.
Bên cạnh ưu điểm này, NCT bị suy yếu các chức năng cơ thể. Khả năng
nghe nhìn kém, gân cốt suy nhược khiến việc ngồi, đi đứng khó khăn; phản ứng
chậm làm cho thân thể mất thăng bằng, dễ bị té ngã; mất trí nhớ tạm thời trong ngắn
hạn, giảm tốc độ trong học tập và thường mắc một số bệnh về hô hấp, tim mạch,
tiểu đường, tai biến mạch máu não, Parkinson, phong thấp, cao huyết áp (trung bình

có từ 3-4 bệnh). NCT có cơng sinh thành, ni dưỡng, giáo dục con cháu về nhân
cách và giữ vai trò quan trọng trong gia đình và xã hội. Việc chăm sóc đời sống vật
chất, tinh thần và tiếp tục phát huy vai trò của NCT là trách nhiệm của gia đình,
Nhà nước và tồn xã hội, là thể hiện bản chất tốt đẹp, đạo lý, truyền thống của dân
tộc ta. Chăm sóc sức khoẻ cho NCT là một việc làm cần thiết và thường xuyên.
1


Rất nhiều nước trên thế giới đưa NCT trở thành đối tượng quan tâm đặc biệt
và NCT được chăm sóc chu đáo và được hưởng nhiều phúc lợi xã hội. Đặc biệt có
rất nhiều nghiên cứu về những vấn đề của NCT, trong đó có những nghiên cứu về
sức khỏe tinh thần của NCT. Từ đó có những đề xuất làm cải thiện sức khỏe tinh
thần cho người NCT, để họ có cuộc sống tốt đẹp nhất.
Ở Việt Nam những nghiên cứu về vấn đề tâm lý của NCT, đặc biệt là vấn đề
sức khỏe tinh thần của NCT còn rất ít và thiếu hệ thống. Xuất phát từ lý do trên
chúng tôi lựa chọn vấn đề: “ Sức khỏe tinh thần của NCT tại một số quận, huyện
thành phố Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng sức khỏe tinh thần của NCT nhằm chỉ ra đặc trưng
sức khỏe tinh thần của NCT. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần vào
việc chăm sóc nâng cao sức khỏe tinh thần cho NCT, giúp NCT có một cuộc sống
tốt đẹp hơn.
3. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: sức khỏe tinh thần của NCT.
- Khách thể nghiên cứu: 173 Người cao tuổi từ từ 60 - 80 tuổi, bao gồm: 91
nữ, 82 nam, từ 60- 65 tuổi là 73 người , từ 66- 74 tuổi là 55 người, trên 75 tuổi là 49
người.
4. Giả thuyết khoa học
Tình trạng sức khỏe tinh thần chung của người cao tuổi tại một số quận
huyện thành phố Hà Nội ở mức độ khá tốt, tinh thần tích cực nhiều hơn tinh thần

tiêu cực. Một số yếu tố như điều kiện kinh tế, quan hệ xã hội, sức khỏe thể chất... có
tác động đáng kể đến sức khỏe tinh thần của NCT.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về sức khỏe tinh thần của người cao tuổi
- Khảo sát thực trạng sức khỏe tinh thần của người cao tuổi
- Dựa trên kết quả khảo sát, đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần vào
việc chăm sóc nâng cao sức khỏe tinh thần cho NCT .
2


6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn về khách thể: Đề tài nghiên cứu 173 NCT từ 60 – trên 75 tuổi có
trí nhớ và khả năng giao tiếp bình thường.
- Giới hạn về địa bàn: Một số quận, huyện trực thuộc thành phố Hà Nội
(Huyện Đan Phượng, Huyện Hoài Đức, quận Hai Bà Trưng, quận Từ Liêm)
- Giới hạn về thời gian: từ tháng 6/2012 đến tháng 06/2014
- Giới hạn về nội dung: sử dụng trắc nghiệm sức khỏe tinh thần MHI-38
nghiên cứu đặc trưng sức khỏe tinh thần của người cao tuổi
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp trắc nghiệm sức khỏe tinh thần MHI-38
- Phương pháp phỏng vấn sâu
- Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp xử lý thông tin bằng thống kê toán học

3


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan nghiên cứu về ngƣời cao tuổi và sức khỏe tinh thần của ngƣời cao tuổi
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngoài
Năm 1999 được Liên hiệp quốc chọn là năm quốc tế NCT. Trước đó đã có
một số nghiên cứu về người cao tuổi của các nhà xã hội học tại các nước phát triển
như: Mỹ, Thụy Điển ... Đây là những nước có tuổi thọ trung bình tăng cao và bản
thân người cao tuổi đã xuất hiện những vấn đề đang được xã hội quan tâm.
Những kiến thức khoa học về tâm lý NCT bắt nguồn từ thời Hy lạp cổ đại
giới thiệu với người cao tuổi lối sống, chế độ ăn uống, ngủ, nghỉ hợp lý như là
những biện pháp phòng ngừa chống lại sự lão hoá sớm.Trong thời kỳ phát triển của
tâm lý học (cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX) sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
tự nhiên tạo điều kiện cho các thực nghiệm khoa học và một số lý luận về tâm lý
NCT được xây dựng. Các nghiên cứu của các nhà khoa học nhằm xác định nguyên
nhân ban đầu của sự lão hố nhằm tìm kiếm cách thức chủ yếu nhất để khắc phục
sự lão hoá, xây dựng các lý luận mới về sự lão hoá và cùng với đó là nghiên cứu
các khía cạnh tâm lý, xã hội và các chức năng của cơ thể đang lão hoá. Cùng với
những biến đổi nhân khẩu và xã hội cơ bản trong xã hội hiện đại sau chiến tranh thế
giới thứ hai đã xuất hiện lĩnh vực nghiên cứu mới được gọi là lão khoa xã hội và ra
đời bộ môn tâm lý học NCT ở một loạt các nước Tây Âu và Mỹ. Lĩnh vực này
không chỉ chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống các ngành khoa học xã hội, mà
cịn gắn liền với khía cạnh y- sinh học của sự lão hố. Các cơng trình nghiên cứu
hiện đại về tâm lý NCT có thể liệt kê sau đây:
- Thuyết nghiên cứu sự thay đổi tâm lý khi nghỉ hưu
Nhà tâm lý học người Mỹ Ann Bowling (1998) đã thống kê ba thuyết chính
về sự lão hóa và nghiên cứu tâm lý của người về hưu. Đó là:
+ Thuyết khủng hoảng, đứt đoạn cho rằng lao động là điều kiện cơ bản của
sự hoà nhập xã hội và nghỉ hưu là mất sự hồ nhập đó. Đối với nhiều người, lao
động không những là nguồn sinh sống mà còn là một yếu tố mà dựa trên đó họ xây
4



dựng tình cảm về các giá trị tinh thần, về các giá trị tự khẳng định chính bản thân
mình.Đối với mỗi người, vai trò làm người lao động là cơ bản nhất sau đó mới đến
các vai trị xã hội khác như cha mẹ, hàng xóm, thành viên giải trí.Việc về hưu dẫn
đến tâm trạng dễ biến thành khủng hoảng với những biểu hiện như chán chường, lo
âu, bi quan, trầm cảm…tạo điều kiện cho một số rối loạn bệnh lý. Tỷ lệ tử vong
tăng rõ rệt vào lứa tuổi 65 lại càng làm cho nhiều người cho thuyết này là đúng.
+ Thuyết liên tục: cho rằng việc ngừng làm việc không nhất thiết dẫn đến sự
khủng hoảng tâm lý. Lao động khơng phải ln dễ chịu và có tác dụng tốt với sức
khoẻ và trạng thái hài lòng với cuộc sống.Các tác giả của thuyết này đã chứng minh
là hoạt động giải trí cũng có thể đem lại cảm giác dễ chịu như mô tả đối với lao
động, nhất là khi hoạt động giải trí đó được tạo nên nhờ cơng của lao động chính
đáng mang lại. Hoạt động giải trí có đủ giá trị tinh thần để làm cầu nối giữa hoạt
động và đời sống lúc nghỉ hưu làm nâng cao chất lượng cuộc sống. Việc nghỉ hưu
áp dụng cho tồn xã hội nên mỗi người đều có dịp làm quen với việc về hưu.Tình
trạng làm mất đi nhiều biểu hiện có tính đột ngột kể cả về tâm lý lẫn thời gian thực
hiện. Nghỉ hưu không nhất thiết dẫn đến sự khủng hoảng tâm lý và có ảnh hưởng
xấu đáng kể so với lúc đi làm.
+ Thuyết kiểm sốt và thích nghi tiếp cận tâm lý - xã hội về tuổi già cho rằng
đối với NCT, việc kiểm soát sự lão hoá được coi là một trong những yếu tố thích
nghi quan trọng. Người cao tuổi thường bị tác động bởi việc mất đi khả năng kiểm
soát, có thể đi kèm với những mất mát thực tế liên quan đến đời sống tinh thần và
thể chất. Việc kiểm sốt mơi trường sống của mình thay đổi tuỳ theo đặc điểm, tuổi
tác của từng người và môi trường riêng của người đó. Một NCT biết kiểm sốt sẽ
hiểu được rằng, hiển nhiên ở tuổi già, việc các cơ quan dần bị lão hố là khơng thể
tránh được. Những chức năng tâm vận động sẽ vì thế mà suy giảm đi. Song cùng
với tuổi tác, những người thông thường sẽ ý thức được sự già đi này. Đồng thời, về
khía cạnh xã hội, việc người cao tuổi phải đối diện với sự nghỉ hưu cũng có một tác
động mạnh; trong gia đình thì con cái dần tách ra sống riêng, khiến cho họ thấy cô
đơn và vô dụng hơn bao giờ hết. Đó là khi mà biểu tượng của người cao tuổi về bản
5



thân trở nên rất tiêu cực. Trong trường hợp này, ngồi việc để cho người cao tuổi tự
kiểm sốt sự lão hố và cuộc sống của mình, những tác động từ xã hội, các phương
tiện thông tin đại chúng và cộng đồng là rất quan trọng trong việc mang đến cho
người cao tuổi cái nhìn tích cực về bản thân.Tuy nhiên, sự mất kiểm sốt cũng có
thể xảy ra theo hướng đánh giá quá cao khả năng tự chủ của mình và tỏ ra muốn
điều khiển mơi trường xung quanh, cả về mặt xã hội lẫn vật chất; theo cách này thì
những hậu quả đáng tiếc vẫn có thể xảy ra với người cao tuổi. Có thể nói rằng, mặt
trái của việc thích nghi thái q, đó là khi NCT có ảo tưởng về những khả năng q
mức của mình trong khi trên thực tế, ở lĩnh vực đó, họ chỉ cịn là một cựu chun
gia. Việc “thành cơng” trải qua tuổi già, theo nghĩa đảm bảo rằng mình sống tốt và
có ích, dựa phần lớn vào khả năng mà kiểm sốt được xã hội quanh mình và ý thức mà
họ có về xã hội đó
- Nghiên cứu về đời sống tình cảm của NCT
Trong cuốn sách “Tâm lý học NCT”, nhà tâm lý học người Nga
D.IA.Raigorodski ( 2004) đã cho rằng tình bạn ở tuổi già được gia tăng. Cảm giác
bị bỏ rơi có thể được bù trừ, bổ khuyết bằng sự tham gia quan hệ với bạn bè . Như
vậy, tình bạn ở tuổi già trở thành quan hệ tình cảm có ý nghĩa lớn đối với họ.
Năm 2000, nhà tâm lý học người Đức Martin Pinquart trong tạp chí “Tâm lý
và tuổi già”, đã làm thực nghiệm nghiên cứu “Tác động của trạng thái, mạng lưới
và năng lực kinh tế - xã hội đối với sự phồn thịnh khách quan trong cuộc sống của
người cao tuổi”. Một phân tích giả định và đưa ra kết luận như sau: NCT cảm thấy
được thỏa mãn và hạnh phúc hơn khi sống trong mối quan hệ bạn bè vì họ có cùng
nhóm tuổi và thường chia sẻ những đặc điểm , các kinh nghiệm và phong cách
sống. Hơn nữa, họ luôn là nguồn vui của nhau, thường xuyên giao lưu và cùng nhau
nghĩ về quá khứ tốt đẹp.
- Hôn nhân và vai trị của NCT trong gia đình
Cơng trình nghiên cứu của Martin Pinquart cho thấy NCT khơng thích sống
chung với con cái khi con cái đã trưởng thành. Họ xác định sống trong những hộ

gia đình tách biệt là một cách để duy trì sự độc lập, ủng hộ những tương tác tự
6


nguyện và tránh xung đột giữa các thế hệ trong gia đình. Trong nghiên cứu của các
nhà tâm lý học Mỹ có đề cập đến vấn đề ở tuổi già, phần lớn hơn nhân có nguồn
gốc là sự luyến tiếc, sự duy trì và sự gần gũi về tinh thần. Các cặp vợ chồng già
thường giúp đỡ lẫn nhau và họ hiểu rằng họ rất cần nhau. Chính vì vậy, ở tuổi này,
người cao tuổi ít ly hơn .
Năm 1998, trong tạp chí “Tâm lý và tuổi già”, ba tác giả Neal Krause,
Kersey Liang, Shengzu Gu đã nghiên cứu vấn đề “Sự căng thẳng tài chính, sự hỗ
trợ nhận được và các triệu chứng trầm cảm ở Trung Quốc”. Họ nhấn mạnh vai trò
quan trọng của NCT trong đời sống ở Trung Quốc đã có từ hàng nghìn năm nay.
NCT hầu như quyết định tất cả các vấn đề trong cuộc sống gia đình, họ được tơn
kính bởi những thành viên ít tuổi hơn trong gia đình, bởi vì gia đình được hình
thành theo con đường độc quyền, gia trưởng và người cao tuổi được coi là “trụ cột”
của gia đình.
Năm 1984, hai nhà tâm lý học người Nga M.IA.Xơnhin và A.A. Dưxkin
trong tác phẩm “Người cao tuổi trong gia đình và xã hội” đã đề cao vai trị của NCT
trong gia đình trong việc chăm sóc và giúp đỡ con cháu và những hoạt động xã hội
của họ. Đó là những hình ảnh của những người về hưu hàng ngày làm mọi cơng
việc nội trợ trong nhà, chăm sóc cháu để giúp đỡ con cái, sử dụng thời gian rảnh rỗi
để đi dạo, xem ti vi, tham gia các hoạt động xã hội.
Nghiên cứu của hai nhà tâm lý học người Mỹ Stephen Worehel và Wayne
Shebilsue cho thấy niềm hạnh phúc lứa đôi là điều rất quan trọng đối với các cặp vợ
chồng già. Những cặp vợ chồng già tìm thấy niềm hạnh phúc trong tình bạn gắn bó
giữa hai người, sự thể hiện cảm xúc thật đối với nhau và sự đảm bảo về kinh tế
cùng với những vấn đề khác. Trừ khi có các vấn đề về sức khỏe, cịn bình thường
thì các cặp vợ chồng già vẫn có thể có quan hệ tình dục tới tuổi 80 hoặc hơn.
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu ở trong nước

Ở các nước Phương Đông như Việt Nam, truyền thống ”kính lão đắc thọ”,
”Uống nước nhớ nguồn” thì người cao tuổi là vấn đề khá nhạy cảm. Vì vậy, ngay
trong tháng 1/1999 – tháng mở đầu của năm quốc tế NCT, đã có một hội thảo quốc
7


gia về NCT. Hội thảo này đã gây sự chú ý của chính phủ và đơng đảo các nhà khoa
học. Trong những năm vừa qua, người cao tuổi đã và đang được nhiều nhà nghiên
cứu đi sâu tìm hiểu ở những khía cạnh khác nhau của đời sống tinh thần và vật chất của
người cao tuổi.
Vào năm 1977, chương trình nghiên cứu Y học tuổi già đã thực hiện một
cuộc khảo sát lớn đầu tiên về sức khỏe của NCT (trên mẫu gồm 13.399 người từ 60
tuổi trở lên) ở các tỉnh phía Bắc. Cuộc khảo sát cung cấp một bức tranh về sức khỏe
và bệnh tật của người cao tuổi ở miền Bắc. Kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn
trợ cấp hưu không đủ chi dùng, rất nhiều người nghỉ hưu mang tâm trạng bị bỏ rơi,
không được Nhà nước quan tâm đúng mức.
Năm 1993 các nhà y khoa và xã hội học đã tiến hành nghiên cứu định lượng
trên 196 khách thể là người nghỉ hưu tại Hà Nội. Theo kết quả nghiên cứu, người
cao tuổi ở Hà Nội có liên hệ khá thân thiết với những người thân, do đó họ nhận
được sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần đáng kể. Nghiên cứu cũng cho thấy, người
nghỉ hưu có nhu cầu được người thân chăm sóc khi ốm đau là rất cao. Điều này cho
thấy vai trị quan trọng của gia đình trong cuộc sống của người nghỉ hưu.
Trong khn khổ chương trình nghiên cứu cấp quốc gia về nhà ở, vào năm
1983, một nhóm nhà xã hội học đã tiến hành một khảo sát thực nghiệm về đời sống
người nghỉ hưu ở nội thành Hà Nội. Mẫu nghiên cứu là 500 người nghỉ hưu ở bốn
phường nội thành Hà Nội (Kim Liên, Bùi Thị Xuân, Thượng Đình và Hàng Bạc).
Mục tiêu của nghiên cứu là tìm hiểu việc tổ chức cuộc sống gia đình của người nghỉ
hưu vào các hoạt động của gia đình và xã hội tại nơi ở; sự biến đổi về địa vị và vai
trò của người nghỉ hưu trong gia đình và trong xã hội và những chính sách cần thiết
để vừa phát huy vốn kinh nghiệm và những năng lực phong phú của những người

nghỉ hưu tiếp tục phục vụ xã hội, vừa đảm bảo cho họ một cuộc sống đầy đủ ý
nghĩa lúc tuổi già. Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số người nghỉ hưu không thấy có
sự suy giảm uy tín đáng kể trong gia đình sau khi họ về hưu. Người nghỉ hưu vẫn
tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Nghiên cứu cũng cho thấy sự khác biệt xã
hội đáng kể giữa những người nghỉ hưu là công nhân, viên chức hay trí thức. Người
8


cơng nhân nghỉ hưu ít tập thể dục, thể thao, ít đọc sách báo, nghe đài, xem tivi hơn
so với viên chức, trí thức nghỉ hưu.Về mối quan hệ trong gia đình, một bộ phận lớn
người nghỉ hưu có tâm trạng khơng hài lịng với con cái sống chung trong gia đình,
lý do chủ yếu là do con cái ít quan tâm chăm sóc cha mẹ, thiếu tâm tình cởi mở với
cha mẹ, con cái cư xử không đúng gây xúc phạm đến cha mẹ. Đây chỉ là những lý do về
mặt tâm lý tác động của những yếu tố khác cịn chưa được phân tích thỏa đáng.
Một khảo sát của Viện xã hội học (năm 1990) về đời sống của người nghỉ
hưu ở quận Hai Bà Trưng (Hà Nội) cho thấy phần lớn các cụ nghỉ hưu đều băn
khoăn làm sao để dễ hịa nhập với mơi trường mới, Làm gì để có thêm thu nhập...
Nghiên cứu cũng cho thấy, các cụ thường tìm những người có cũng sở thích, cảnh
ngộ gần giống nhau để giao tiếp.
Nghiên cứu của Lê Hà (1990) “Vài nét về đời sống tâm lý của người cao
tuổi” qua khảo sát đời sống của các cụ về hưu ở quận Hai Bà Trưng – Hà Nội cho
thấy khoảng 80% các cụ về hưu băn khoăn nhiều về vấn đề làm sao để dễ hòa nhập
với mơi trường mới? Làm gì đề có thu nhập? Nền kinh tế thị trường gây nhiều khó
khăn đối với các cụ già, nhất là các cụ già cô đơn. Người nghỉ hưu có nguyện vọng
được làm việc, được tiếp tục cống hiến cho xã hội phù hợp với hoàn cảnh và khả
năng của mình.
Năm 1991, Viện Xã hội học thực hiện một nghiên cứu về người cao tuổi ở
An Điền (Hải Hưng). Mục đích của nghiên cứu quan tâm đến các đặc trưng dân số
học và xã hội học của nhóm người cao tuổi (cấu trúc lớp tuổi và giới tính, trạng thái
sức khỏe và bệnh tật, địa vị kinh tế và nghề nghiệp, định hướng giá trị và tâm

trạng), vai trị của người cao tuổi trong gia đình, cộng đồng và xã hội, hệ thống an
sinh xã hội và tác động của hệ thống đó vào hồn cảnh sống của người cao tuổi.
Nghiên cứu cho thấy về tinh thần 40% các cụ cho rằng cuộc sống tinh thần sau khi
nghỉ hưu kém đi. Một số người nhất là những người có lương hưu cao, có chức vụ
khi tại chức, cảm thấy cuộc sống hưu trí cơ đơn, buồn tẻ. Nghiên cứu cho thấy, vai
trò và vị thế của người cao tuổi trong cộng đồng và gia đình giảm đáng kể so với
trước đây.
9


Trong hai năm 1991 đến 1992 Viện Xã hội học đã triển khai đề tài “NCT và
an sinh xã hội” nghiên cứu khá công phu về đời sống của người cao tuổi ở nông
thôn và thành thị nước ta từ góc độ xã hội học (lao động, thu nhập, hồn cảnh kinh
tế, tình hình nhà ở và tiện nghi, vấn đề sức khỏe và chăm sóc sức khỏe, việc tham
gia công tác xã hội sau khi nghỉ hưu, hệ thống an sinh xã hội và tác động của hệ
thống đó vào hoàn cảnh sống của người cao tuổi... ). Bài viết của Phùng Tố Hạnh
“Giao tiếp xã hội và gia đình ở NCT”được rút ra từ kết quả của đề tài trên cho thấy
giao tiếp của người nghỉ hưu chủ yếu tập trung vào các mối quan hệ gia đình và bè
bạn – những nhóm phi chính thức hơn là những nhóm chính thức (các tổ chức xã
hội). Việc tham gia vào các tổ chức xã hội của người gia có xu hướng giảm, các
hình thức hoạt động nghèo nàn. Nghiên cứu cũng cho thấy, ở nơi nào có sự hỗ trợ
của chính quyền địa phương thì ở đó số người cao tuổi tham gia các tổ chức xã hội
sẽ tăng.
Năm 1996, các nhà xã hội học thuộc Viện Xã hội học đã tiến hành cuộc khảo
sát “NCT ở đồng bằng Sơng Hồng” (trong đó có 16,63% người nghỉ hưu). Kết quả
nghiên cứu cho thấy, đời sống của người cao tuổi đã khá lên so với nửa đầu những
năm 90. Tuy nhiên do mức lương hưu và trợ cấp thấp không đủ sống nên nhiều
người nghỉ hưu phải đi làm thêm (55,7). Gần 1/3 số người nghỉ hưu được hỏi
(28,2%) cho biết họ có tâm trạng “buồn”. Nghiên cứu cũng cho thấy, đối với người
nghỉ hưu nhu cầu chăm sóc sức khỏe và động viên tinh thần được đặt lên hàng đầu

(80,3%) các cụ hưu trí, mất sức có nhu cầu này.Phần lớn người nghỉ hưu đều mong
muốn đóng góp sức mình để giảm bớt khó khăn cho gia đình và xã hội.
Nghiên cứu của Dương Chí Thiện (1999) về “Sự tham gia hoạt động xã hội
của NCT ở đồng bằng sông Hồng” rút ra từ kết quả cuộc nghiên cứu trên đã đề cập
đến sự tham gia vào các hoạt động xã hội của NCT và qua đó đánh giá những yếu
tố tác động đến sự tham gia hoạt động xã hội của NCT ở vùng đồng bằng sông
Hồng. Kết quả cho thấy tỷ lệ NCT tham gia vào các hoạt động xã hội ở các tổ chức
phi chính thức cao hơn rất nhiều so với các tổ chức chính thức. Các yếu tố như khu
vực cư trú; giới tính; độ tuổi; trình độ học vấn; nghề nghiệp; hồn cảnh và điều kiện
10


sống, tình trạng sức khỏe...đều có ảnh hưởng đến giao tiếp của NCT. Cụ thể, NCT
ở khu vực đô thị thường có tỷ lệ tham gia các hoạt động xã hội cao hơn các cụ ở
nông thôn trong hầu hết các tổ chức chính thức như Đảng, Chính quyền, Hội thọ,
Hội Cựu chiến binh... Ngược lại, trong những hình thức tổ chức phi chính thức như
đám cưới, hỏi, đám tang, đám giỗ, lễ chùa, lễ mừng thọ và các hình thức giao tiếp
các hội tại cộng đồng như thăm hỏi hàng xóm, bạn bè... thì các cụ nơng thơn lại có
tỷ lệ tham gia cao hơn các cụ ở đơ thị. Các cụ ông thường tham gia vào các hoạt
động xã hội nhiều hơn các cụ bà. Nghiên cứu cũng cho thấy, các cụ có đời sống và
thu nhập cao thường có tỷ lệ tham gia các hoạt động xã hội cao hơn các cụ có đời
sống và thu nhập thấp hơn. Các cụ có trình độ học vấn cao hơn có tỷ lệ tham gia các
hoạt động xã hội cao hơn các cụ có trình độ học vấn thấp, các cụ có tình trạng sức
khỏe kém.
Nghiên cứu của Nguyễn Hải Hữu (1999) cho thấy đa số người nghỉ hưu
cảm thấy cuộc sống tinh thần thoải mái hơn khi làm việc, chỉ có 20% cảm thấy có
cuộc sống nghèo nàn hơn so với trước. Nghiên cứu cũng cho thấy, hoạt động xã hội
của NCT hiện nay co lại trong phạm vi gia đình, thân tộc nhiều hơn. Các hoạt động
xã hội rộng lớn, mang tính cộng đồng, làng, xã cịn rất nghèo nàn.
Nghiên cứu của Nguyễn Phương Lan (2000) về “Tiếp cận văn hóa NCT”,

trong đó có đề cập đến cuộc sống và hoạt động văn hóa tinh thần hàng ngày của
người cao tuổi, trong đó có đề cập đến đời sống tâm lý, tình cảm cũng như nhu cầu
của người nghỉ hưu ở đô thị hiện nay. Theo tác giả, NCT ở đô thị muốn cống hiến
nhiều cho xã hội và vẫn muốn khẳng định mình, song khơng gian đô thị mở với
nhịp sống công nghiệp và các mối quan hệ đúng thực sự bất lợi cho tuổi già vốn có
nhịp điệu sinh học chậm và tâm lý trọng quan hệ tình cảm. Quan hệ láng giềng ở đơ
thị bị thiếu hụt do đó giao tiếp của NCT cũng như người nghỉ hưu bị bó hẹp trong
phạm vi gia đình.
Nghiên cứu của Nguyễn Xuân Cường và Lê Trung Sơn (2003) về “Thực trạng
NCT và các giải pháp nâng cao chất lượng chăm sóc NCT ở Hà Tây” cho thấy NCT
ở Hà Tây thỏa mãn tinh thần chủ yếu là vui chơi cùng con cháu (81,4%). NCT ở
11


nông thôn sinh hoạt cùng con cháu thường xuyên hơn NCT ở thành thị (83,5% so với
77,4%). NCT ở thành thị tiếp cận với thông tin, tham quan, du lịch, thể dục thể thao
và sinh hoạt đoàn thể một cách thường xuyên hơn nông thôn. Tỷ lệ các cụ ở thành thị
tham gia các hoạt động Đảng, chính quyền cao hơn ở nông thôn. Các cụ ông tham gia
nhiều hơn các cụ bà. Đa số các cụ (80,7%) đều hài lịng với sự chăm sóc của gia
đình, con cháu. [26, tr 30-36].
Nghiên cứu của PGS. TS Hoàng Mộc Lan (2006): “Động cơ tiếp t c hoạt
động lao động của người nghỉ hưu ở Hà Nội” được tiến hành trên 600 người về
hưu ở Hà Nội cho thấy hơn 50% người nghỉ hưu vẫn muốn tiếp tục duy trì lao động
nghề nghiệp do lương hưu thấp, thói quen làm việc và mong muốn giao tiếp với
mọi người trong cơ quan, cơ sở mà họ đã sống, gắn bó nhiều năm. Trong đề tài
nghiên cứu “Những đặc điểm tâm lý cơ bản của người về hưu ở Hà Nội” của Hoàng
Mộc Lan đã đề cập đến sự thay đổi lớn của người về hưu: sức khoẻ suy giảm, quan
hệ xã hội thu hẹp, thu nhập giảm, nhờ cậy con cái, người khác chăm sóc, bạn hữu
thân cận qua đời,… Trạng thái này ảnh hưởng đến tinh thần người về hưu. Kết quả
nghiên cứu của tác giả đã chỉ ra được đặc điểm sự chuẩn bị tâm lý nghỉ hưu, nhu

cầu chăm sóc sức khoẻ, động cơ tiếp tục lao động và tham gia vào các hoạt động,
quan hệ giao tiếp trong gia đình, với bạn bè của người về hưu, đề xuất các hoạt
động trợ giúp tâm lý- xã hội cho người về hưu để góp phần nâng cao chất lượng đời
sống của họ
Nghiên cứu của Đặng Vũ Cảnh Linh (2009):“NCT và các mơ hình chăm sóc
NCT ở Việt Nam” được tiến hành tại ba thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố
Hồ Chí Minh với mục đích tìm hiểu thực trạng và hiệu quả hoạt động của các loại
hình dịch vụ chăm sóc NCT ở Việt Nam đã đề cập đến các mối quan hệ xã hội cũng
như quan hệ gia đình của NCT Việt Nam hiện nay. Kết quả nghiên cứu cho thấy về
quan hệ xã hội, NCT nghỉ hưu hiện nay thường xuyên tiếp cận với các phương tiện
thông tin đại chúng (trên 80% NCT thường xuyên đọc sách báo, xem tivi, nghe
đài). Đây là một hình thức duy trì sự giao tiếp với xã hội của đa số NCT hiện nay.
Có rất ít NCT tham gia các hình thức tham quan, du lịch, đi chơi với bạn bè…Có
12


một tỷ lệ khá cao NCT tham gia các câu lạc bộ hưu trí, NCT (60,6%) và trực tiếp
tham gia các công tác xã hội tại địa phương (51,3%). Các cụ ơng có tỷ lệ tham gia
các hoạt động xã hội cao hơn nhiều lần so với các cụ bà. Trong khi đó, các cụ bà lại
thường đi sinh hoạt lễ chùa và nhà thờ nhiều hơn so với cụ ông. Về quan hệ gia
đình, tỷ lệ ý kiến của NCT cho rằng quan hệ gia đình hịa thuận giảm đi theo độ
tăng của tuổi. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, một trong những nhu cầu nổi lên
ở NCT hiện nay là nhu cầu chăm sóc sức khỏe và nhu cầu được giao tiếp với người
khác. Điều này phản ánh mong muốn được người khác chia sẻ, quan tâm, chăm sóc
ở NCT hiện nay.
Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em đã tiến hành triển khai đề tài “Nghiên
cứu một số đặc trưng của NCT Việt Nam và đánh giá mơ hình chăm sóc NCT đang
áp d ng”. Thời gian triển khai đề tài trong hai năm, 2005-2006. Kết quả nghiên cứu
cho thấy Công tác tổ chức các hoạt động chăm sóc sức khoẻ cho NCT tại cộng
đồng cịn ít, tại nhiều địa bàn khảo sát tình trạng NCT hoạt động đơn lẻ, tự phát là

phổ biến. Việc tổ chức các câu lạc bộ NCT, câu lạc bộ dưỡng sinh… sẽ đem lại cho
NCT sức khoẻ tốt hơn song hình thức này cịn hạn chế và bị chi phối nhiều bởi kinh
phí hoạt động hạn hẹp và đối tượng tổ chức.
Như vậy, có thể nói rằng, các nghiên cứu nhằm đi sâu tìm hiểu các khía cạnh
tâm lý, tâm tư, nguyện vọng của NCT cịn ít được các nhà tâm lý học quan tâm. Ta
có thể thấy các cơng trình nghiên cứu của một số tác giả nói trên cũng có những
đóng góp là đã đưa ra được những kiểu hình chất lượng sống của NCT, đề cao
những phúc lợi xã hội để giúp cho NCT sống khỏe, sống vui, sống có ích cho gia
đình và xã hội nhưng chưa đề cập một cách cụ thể về sức khỏe tinh thần của NCT,
và chưa chỉ ra được trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tinh thần của NCT thì cộng
đồng cần phải làm gì để hỗ trợ NCT.
1.2. Khái niệm về ngƣời cao tuổi
1.2.1. Người cao tuổi
Từ thời Hypocrat, thủy tổ của y học, người ta đã chia đời sống con người ra
làm bảy thời kỳ tuổi tác là: Thơ ấu, thiếu niên, thanh niên, trưởng thành, trung niên,
13


nhiều tuổi, tuổi già.
Dưới góc độ tâm lý học, E.Erikson cho rằng: tuổi già là tuổi của sự toàn vẹn
của cái tôi hoặc sự tuyệt vọng, cảm giác về sự vô nghĩa, thất vọng.
Tổ chức y tế thế giới định nghĩa người cao tuổi là những người từ 60 tuổi trở
lên và sắp xếp các độ tuổi như sau:
+ Từ 60 – 74 tuổi: Người cao tuổi
+ Từ 75 – 90 tuổi: Người già
+ Từ trên 90 tuổi trở lên: Người sống lâu
Theo Luật người cao tuổi ban hành ngày 04/12/2009 tại Việt Nam, có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/07/2010 (thay cho Pháp lệnh người cao tuổi số 23/2000/PLUBTVQH10) thì Người cao tuổi là những người có độ tuổi từ 60 trở lên.
Ở độ tuổi này, đặc trưng cơ bản là sự thay đổi cả về thể chất và tâm lý. Thể
chất xuất hiện sự suy giảm của các cơ quan chức năng thực thể, sức đề kháng, sự

lão hóa.... Lão hóa (tiếng Anh: Senescence, xuất phát từ senex nghĩa là “người cao
tuổi”, “tuổi già”) là trạng thái hay quá trình tạo nên sự già nua. Khái niệm người cao
tuổi và sự lão hóa, xét trong giới hạn qui luật tâm – sinh học về sự phát sinh diễn
biến của đời người, có thể coi đây là giai đoạn hóa già (thối hóa) của cơ thể con
người, đặc biệt về hiện tượng sinh lý, tâm lý và xã hội. Về sinh học, có hiện tượng
tự phá hũy các gen (chết theo chương trình), hiện tượng mất gen kết thúc, hiện
tượng tổn thương các gốc tự do, tổn thương trong ty lạp thể, ... Về tâm lý, nhận
thức, thái độ, suy nghĩ, tình cảm, hành vi có sự thay đổi rõ rệt.Nhận thức đã đi vào
tầm sâu do sự tích lũy các kinh nghiệm trong quá trình sống. Thái độ, suy nghĩ, tình
cảm, hành vi phụ thuộc nhiều vào các yếu tố ảnh hưởng của cuộc sống như sự nghỉ
hưu, sức khỏe giảm sút, bệnh tật…
Đảng và Nhà nước có chủ trương thống nhất trong việc phụng dưỡng, chăm
sóc người cao tuổi. Đây là một kho trí tuệ, tài năng, kinh nghiệm đáng q, có vai
trị quan trọng trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ở bất kì thời kì nào.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi lựa chọn khái niệm người
cao tuổi theo Luật người cao tuổi, ở đây người cao tuổi được hiểu như “người cao
14


tuổi" là những người có độ tuổi từ 60 tuổi trở lên, có sự thay đổi theo chiều hướng
suy giảm về mặt thể chất và tâm lý do chịu nhiều ảnh hưởng của các điều kiện, yếu
tố bên ngoài như sự nghỉ hưu, điều kiện kinh tế, lối sống, văn hóa lịch sử
1.2.2. Đặc điểm tâm sinh lý của người cao tuổi
1.2.2.1. Đặc điểm sinh lý người cao tuổi và q trình lão hố
Đặc điểm sinh lý của NCT gắn liền với q trình lão hố. Q trình lão hóa
là quá trình tạo nên tuổi già, hay quá trình trưởng thành và già nua về mặt sinh học.
Tuổi già thường kèm theo những biểu hiện giảm khả năng chống chọi với stress,
mất dần cân bằng nội môi, tăng nguy cơ mắc bệnh tật. Một số nghiên cứu cho rằng
yếu tố di truyền và môi trường là nhân tố tác động đến q trình lão hóa của con
người. Các gen chịu trách nhiệm 35% sự thay đổi khác nhau của tuổi thọ, các yếu tố

môi trường chiếm tới 65%.
1.2.2.2. Đặc điểm sinh lý người cao tuổi - Những thay đổi của cơ thể trong
q trình lão hố
Khi tuổi cao, sức chống đỡ và sự chịu đựng của cơ thể con người trước các
yếu tố và tác nhân bên ngoài cũng như bên trong kém đi rất nhiều. Điều đó cho
thấy, đặc điểm sinh lý hay những thay đổi của cơ thể trong q trình lão hố ở NCT
- Những thay đổi của cơ thể trong q trình lão hố, trước hết đó là sự thay
đổi diện mạo bề ngồi, như da nhăn, tóc bạc, lưng khịm, đi đứng chậm chạp, mọi
phản ứng đều chậm, …
- Ăn uống mất ngon vì tế bào vị giác trên lưỡi ngày một ít đi, miệng khơ vì
tuyến nước bọt giảm bài tiết, thiếu hụt về dinh dưỡng.
- Mất cơ và giảm đậm độ của xương.
- Tế bào thần kinh bị huỷ diệt dần mà không được thay thế, lượng máu nuôi
dưỡng cho não giảm, suy nghỉ chậm chạp, rối loạn, nhầm lẫn.
- Thuỷ tinh thể của mắt cứng đục, võng mạc kém nhạy cảm với ánh sáng, thị
giác giảm khi nhìn sự vật ở gần hay trong bóng tối.
- Tai nghe nghễng ngãng, khó bắt được các âm thanh có tần số cao, kể cả
tiếng nói bình thường.
15


- Khứu giác kém, mũi khó phân biệt và tiếp nhận được mùi của thực phẩm, hoá chất.
- Nhịp tim chậm, lưu lượng máu qua tim giảm, cơ tim xơ cứng, dễ bị suy
tim, dễ bị ngất xỉu. Người cao tuổi dễ bị các bệnh lý tim mạch.
- Hơi thở ngắn, nhanh, dễ bị khó thở do lượng dưỡng khí trong máu giảm, dễ
mệt khi làm việc chân tay.
- Gan teo, thể tích gan nhỏ, lượng máu qua gan giảm, giảm hoạt động các
men oxy hóa, chức năng thanh lọc độc chất kém hữu hiệu. Do đó, thuốc chuyển hóa
qua gan chậm, tăng thời gian bán hủy các thuốc.
- Hệ thống miễn dịch yếu, sự sản xuất kháng thể bị trì trệ, cơ thể dễ bị nhiễm

khuẩn, bệnh tật dễ trầm trọng hơn..
- Đời sống tình dục suy giảm.
Ngồi các bệnh lý mạn tính từ các giai đoạn trước đó để lại, người cao tuổi
còn mắc thêm các bệnh khác, như cao huyết áp, nhồi máu cơ tim, đái tháo đường,
tai biến mạch máu não, parkinson, Alzheimer, các bệnh về xương khớp, bệnh phổi,
phế quản, hoặc ung thư… Hậu quả của bệnh tật đã làm thay đổi mạnh mẽ, sâu sắc
tâm lý và nhân cách của NCT.
Như vậy, các giả thuyết về q trình lão hố đã minh chứng cho đặc điểm
sinh lý và những thay đổi của cơ thể NCT, được coi như một qui luật tất yếu về sự
phát triển của người, vòng đời người, vòng đời cá thể
1.2.2.3. Đặc điểm tâm lý của NCT - Những biểu hiện của biến đổi tâm lý
trong q trình lão hố
Nghiên cứu đặc điểm tâm lý của NCT, các tác giả cho thấy tuổi già có những
biểu hiện tâm lý liên quan đến q trình lão hóa.
- Sự chậm chạp về tâm lý vận động: một động tác nhưng mất nhiều thời
gian, sự lẫn lộn về thời gian, rối loạn trí nhớ: khó khăn trong việc tái hiện, có thể
nhớ được khi có sự gợi ý, có khi lú lẫn, do liên quan đến sự suy giảm ý thức và tập
trung chú ý.
- Về tư duy: suy nghĩ chậm chạp, liên tưởng chậm, ý tưởng tự ti, tự cho mình
là thấp kém, nặng hơn có thể có hoang tưởng bị tội, bị hại, nghi bệnh,…
16


- Về tri giác: giảm tốc độ xử lý thông tin, có sự suy giảm về tri giác giác
quan (thao tác cấp cao) nên nhận thông tin chậm, đôi khi bị nhiễu.
- Khó tập trung chú ý hoặc chú ý giảm, cảm xúc dao động liên quan đến sự
lão hóa hệ viền, cấu tạo lưới. Những biến đổi tâm lý nặng có thể có lo âu, trầm cảm.
Những biểu hiện của lo âu rất đa dạng, phức tạp: cảm giác sợ hãi, lo lắng thái quá
về sức khoẻ của mình, lo lắng về tương lai, khó tập trung tư tưởng, dễ cáu, khó tính,
căng thẳng vận động, bồn chồn, đứng ngồi không yên, đau đầu, khô miệng, đánh

trống ngực. Những biểu hiện của trầm cảm ở người cao tuổi thường thấy là cảm
giác buồn phiền, chán nản, bi quan, mất hứng thú với những ham thích trước đây,
mất niềm tin vào tương lai, giảm nghị lực, giảm tập trung, rối loạn giấc ngủ, ăn
khơng ngon miệng, và họ có thể trở nên suy kiệt.
Như vậy, trong q trình lão hóa, cùng với những thay đổi chức năng sinh lý
các hệ thống cơ quan trong cơ thể, các nghiên cứu cũng nhận thấy có những biến
đổi về tâm lý ở NCT. Bởi vậy, có thể nói ngồi các bệnh cơ thể mà người cao tuổi
dễ bị mắc, thì các rối loạn tâm lý cũng là “bạn đồng hành” của họ. Các rối loạn tâm
lý ở NCT rất phong phú và đa dạng. Những biểu hiện thường thấy là từ cảm giác
khó chịu, lo lắng, đến các rối loạn thần kinh chức năng, như mệt mỏi, uể oải, đau
nhức, rối loạn giấc ngủ, lo âu, ám ảnh, nặng hơn có thể có các rối loạn loạn thần
như hoang tưởng, ảo giác, rối loạn trí nhớ, rối loạn ý thức, rối loạn các năng lực
phán đốn suy luận,… như đã trình bày ở trên. Có thể nói, đây là giai đoạn có
nhiều biến đổi tâm lý đặc biệt ở NCT; và các rối loạn tâm lý đó có liên quan trước
hết đến các stress của việc thích nghi với hồn cảnh sống mới, khi phải chuyển từ
giai đoạn làm việc tích cực đến giai đoạn nghỉ hưu. Bởi vì, sau khi nghỉ hưu những
NCT phải trải qua hàng loạt các biến đổi tâm lý quan trọng do thay đổi nếp sinh
hoạt, cũng như sự thu hẹp các mối quan hệ xã hội. Lúc này, ở họ xuất hiện tình
trạng khó thích nghi với giai đoạn nghỉ hưu, và dễ mắc “hội chứng về hưu”, với tâm
trạng buồn chán, mặc cảm, thiếu tự tin, dễ nổi giận, cáu gắt. Do đó, họ trở nên sống
cô độc và cách ly xã hội.

17


×