Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Khu ủy Trị Thiên với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 ở Thành phố Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 106 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ QUYÊN

KHU ỦY TRỊ - THIÊN VỚI CUỘC
TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN
NĂM 1968 TẠI THÀNH PHỐ HUẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội, 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ QUYÊN

KHU ỦY TRỊ - THIÊN VỚI CUỘC
TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN
NĂM 1968 TẠI THÀNH PHỐ HUẾ

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Ngọc Long

Hà Nội, 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tơi, có sự hỗ
trợ từ người hướng dẫn khoa học là PGS.TS Trần Ngọc Long. Các nội dung
nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất cứ cơng trình nghiên cứuv nào trước đây. Những số liệu
trong bài nghiên cứu phục vụ cho phân tích, nhận xét, đánh giá được chính
tác giả thu nhập từ các nguồn tài liệu khác nhau có ghi trong phần tài liệu
tham khảo.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tơi xin hồn tồn chịu trách
nhiệm trước Hội đồng, cũng như kết quả luận văn của mình.
Hà Nội, ngày 23 tháng 03 năm 2015
Ngƣời cam đoan

Nguyễn Thị Quyên


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tơi cịn nhận
được sự giúp đỡ của rất nhiều người. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới
các thầy, cô giáo trong khoa Lịch sử - Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn đã nhiệt tình giảng dậy, trang bị những kiến thức rất bổ ích cho tơi.
Các cán bộ, nhân viên Thư viện Quốc gia, Thư viện Quân đội, Thư viện Đại
học Quốc Gia Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi khai thác tư liệu. Đặc biệt tôi
muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS Trần Ngọc Long đã tận tình giúp đỡ
và hướng dẫn tơi trong q trình hồn thành luận văn. Tơi cảm ơn gia đình,
bạn bè cùng cơ quan làm việc đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình
học tập
Hà Nội, ngày 23 tháng 03 năm 2015
Tác giả


Nguyễn Thị Quyên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 5
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................... 6
6. Đóng góp của Luận văn ................................................................................ 7
7. Bố cục của Luận văn ..................................................................................... 7
CHƢƠNG 1: TÌNH HÌNH THÀNH PHỐ HUẾ TRƢỚC KHI NỔ RA
CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TRƢỚC TẾT MẬU THÂN
NĂM 1968 ........................................................................................................ 8
1.1. Khái quát về đặc điểm tình hình kinh tế, xã hội và truyền thống cách mạng ....... 8
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên và tình hình kinh tế xã hội ........................................ 8
1.1.2. Truyền thống cách mạng ....................................................................... 11
1.2. Tình hình chiến trường Trị Thiên trước khi nổ ra cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy ............................................................................................................. 14
1.2.1. Hoạt động và hình thái bố trí chiến lược của địch ............................... 14
1.2.2. Hoạt động tác chiến và quá trình chuẩn bị của ta................................ 16
1.3. Chủ trương của Trung ương Đảng ........................................................... 18
Tiểu kết chương I.............................................................................................. 30
CHƢƠNG II: CHỦ TRƢƠNG CỦA KHU ỦY TRỊ THIÊN, TỈNH ỦY
THỪA THIÊN HUẾ VÀ Q TRÌNH CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN
TỔNG TIẾN CƠNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN 1968 TẠI
THÀNH PHỐ HUẾ ...................................................................................... 31
2.1. Chủ trương của Khu ủy Trị Thiên và Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế .............. 31
2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện chủ trương của Đảng tại Thành phố Huế .... 41

2.2.1. Quá trình chuẩn bị về mọi mặt.............................................................. 41


2.2.2. Diễn biến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân tại Thành
phố Huế ........................................................................................................... 50
Tiểu kết chương II ............................................................................................ 60
CHƢƠNG III: NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM .................... 63
3.1. Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy tại Thành phố Huế .................................................................................... 63
3.1.1. Kết quả, ý nghĩa .................................................................................... 63
3.1.2. Nguyên nhân thắng lợi .......................................................................... 69
3.2. Hạn chế..................................................................................................... 71
3.3. Một số kinh nghiệm ................................................................................. 74
KẾT LUẬN .................................................................................................... 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 86
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 91


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 cùng một lúc quân
và dân miền Nam đánh mạnh vào các cơ quan đầu não địch tại hơn 40 thành
phố, thị xã trên khắp miền Nam. Thắng lợi rất oanh liệt của đòn Tổng tiến
công Mậu Thân 1968 đã làm chấn động nước Mỹ và thế giới đương thời, làm
đảo lộn thế bố trí chiến lược của địch trên chiến trường, nó đã giáng một địn
quyết định vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang
chiến tranh, chấp nhận ngừng ném bom đánh phá miền Bắc và ngồi vào bàn
đàm phán với ta tại Hội nghị Pari. Sự kiện lịch sử này, ngay từ nước dồn dập
đưa tin, bình luận. Từ sau khi cuộc chiến kết thúc cho đến nay, cuộc Tổng tiến
công Mậu Thân 1968 đã thu hút sự tìm hiểu, nghiên cứu của giới chính trị,

qn sự, học giả ở cả trong nước và ngoài nước, đặc biệt là ở Mỹ.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chiến trường Trị Thiên
luôn là nơi đọ sức hết sức quyết liệt và phức tạp giữa ta và địch, là chiến
trường trọng điểm có ý nghĩa chiến lược đối với cả hai phía. Trong cuộc Tổng
tiến cơng và nổi dậy Mậu Thân 1968, quân và dân Thành phố Huế đã kiên
cường chiến đấu, làm lên chiến thắng lịch sử, chiếm giữ được Thành phố Huế
25 ngày đêm. Huế trở thành địa bàn mà quân giải phóng chiếm giữ được lâu
nhất so với các thành phố thị xã ở miền Nam. Chính phía Mỹ cũng phải khẳng
định: “Cố đơ Huế là một thành phố duy nhất mà người Cộng sản đã chiếm giữ
tương đối lâu dài, đủ để bắt đầu thay đổi hệ thống chính trị đối với người Việt
Nam, giống như Tô-ki-ô trái tim của Nhật Bản” [61; 38]. Hay trong cuốn
“Nước Mỹ ở Việt Nam” hai sử gia người Mỹ G.Kahin và J.Lewis cũng đã
viết: “Chúng ta đã tổn thất rất nhiều ở Huế. Cuộc chiến đấu ở Huế là mạnh
nhất”[61; 18]
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1968 ở miền Nam nói chung, ở
Huế nói riêng đến nay vẫn là đề tài không ngừng gây ra nhiều ý kiến tranh

1


luận. PGS.TS Hồ Khang, người có nhiều năm nghiên cứu tìm hiểu về sự kiện
này đã nhận xét: như một khối thủy tinh nhiều chiều cạnh “Tết Mậu Thân”
thâu nạp nhiều nguồn ánh sáng để tự phản quang thành nhiều diện, nhiều
hình. Người đứng ở góc độ này tưởng mình đã thấy được tồn thể. Người
đứng ở góc độ kia lại như chưa thấy chưa biết nhận diện ra sao. Có người
tự nhận mới biết tới sự kiện này ở một chiều một khía cạnh nhất định.
Nhưng có một điều dường như dễ thấy là ngay từ khi “Tết Mậu Thân” bùng
nổ cho đến nay giới quân sự và nhiều nhà lãnh đạo nước Mỹ vẫn không
thừa nhận là quân đội Mỹ đã bị thất bại về quân sự trên chiến trường miền
Nam Việt Nam ngày đó…

Chính vì thế việc tìm hiểu tường tận “sự kiện Tết Mậu Thân”, đánh giá
những thắng lợi mà ta giành được, cũng như nhìn nhận khách quan hơn về vai
trò chỉ đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong cuộc tiến công chiến lược này
là một việc cần thiết vừa có giá trị khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn

. Vì

những lý do trên nên tôi chọn vấn đề: “Khu ủy Trị Thiên với cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 ở Thành phố Huế” làm đề tài cho luận
văn thạc sỹ lịch sử của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công năm 1968 đã tạo ra bước ngoặt
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ngay từ khi cuộc kháng chiến
chống Mỹ còn đang tiếp diễn, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã có những đánh giá đầu tiên, khẳng định thắng lợi rất to lớn của
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Tháng 12 năm 1976,
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đã tổng kết thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, phân tích sâu sắc nguyên nhân và những bài học kinh
nghiệm trong đó có đề cập đến thắng lợi Xuân Mậu Thân 1968. Trong những
năm gần đây đã có thêm nhiều cơng trình tổng kết chiến tranh và lịch sử quân
sự của các cơ quan nghiên cứu Trung ương cũng như các địa phương phản

2


ánh và khảo cứu về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, trong số
đó có thể kể đến một số cơng trình tiêu biểu như: “Về cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy Tết Mậu Thân 1968”, Nxb Quân đội nhân dân, 2008 của Viện Lịch sử
quân sự. Luận án Tiến sỹ Lịch sử “Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu
Thân 1968 tại miền Nam Việt Nam”, năm 1995 của PGS.TS Hồ Khang, cuốn

“Cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968”, Nxb Quân đội nhân
dân năm 2008 của Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế….
Ngoài ra đã có rất nhiều Hội thảo khoa học bàn về vấn đề này, trong
đó có thể kể đến các Hội thảo năm 1988, 1998 và mới đây nhất là năm 2008,
kỷ niệm 40 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968. Đã có
rất nhiều bài tham luận được in trong các kỷ yếu các kỳ Hội thảo của các
tướng lĩnh trực tiếp tham gia hoặc chỉ đạo cuộc Tổng tiến công nổi dậy này
như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại tướng Văn Tiến Dũng, Đại tướng
Hoàng Văn Thái, Thượng tướng Trần Văn Quang, Đại tá Nguyễn Văn Giáo…
các nhà nghiên cứu như PGS.TS Hồ Khang, PGS.TS Vũ Quang Hiển… Các
bài viết đã làm rõ được tình hình chính trị qn sự ở miền Nam lúc bấy giờ,
cũng như chủ trương của Đảng trong cuộc Tổng tiến công năm 1968 và đã
đúc rút ra được nhiều kinh nghiệm có giá trị.
Ngồi các Hội thảo cịn có rất nhiều cơng trình viết về Tổng tiến cơng
Tết Mậu Thân năm 1968.
Đầu tiên phải nói tới PGS.TS Hồ Khang với Luận án Tiến sỹ năm
1995, “Cuộc tổng tiến công và nổi dậy xn Mậu Thân 1968”cơng trình khoa
học đầu tiên, với 150 trang đã thể hiện rõ được chủ trương của Đảng trong
việc chỉ đạo Tổng tiến công năm 1968 trên các mặt trận, đúc rút ra các kinh
nghiệm lịch sử. Trong cơng trình này, cuộc Tổng tiến cơng và nổi dậy ở
Thành phố Huế được trình bày một cách khái lược và ngắn gọn. Cơng trình
này sau đó được phát triển và mở rộng bổ sung thêm một số tư liệu và đã
được NXB Quân Đội Nhân Dân tái bản năm 1998, 2005, 2008.

3


Ngồi ra cịn có nhiều bài viết được đăng trên các tạp chí: Lịch sử quân
sự, Lịch sử Đảng, Nghiên cứu lịch sử. Đặc biệt là nhân kỷ niệm các năm
chiến thắng như 1988, 1998, 2008, Thư viện Quân đội cũng đã tập hợp một số

bài viết về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968, trong đó có
một số bài viết riêng về Huế in thành chuyên khảo.
Gần đây nhân dịp kỷ niệm 40 năm thắng lợi Tổng tiến công và nổi dậy
tết Mậu Thân năm 1968 Nxb Quân đội nhân dân phát hành cuốn “Về cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968”, năm 2008 với hơn 650 trang.
Cuốn sách đã tái hiện lại những ngày tháng hào hùng của cuộc tổng Tấn công
và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 ở miền Nam trong đó có trọng điểm Thành
phố Huế.
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam cũng xuất bản cuốn “Hướng tiến công
và nổi dậy Tết Mậu Thân ở Trị Thiên – Huế”. Đây là cuốn sách đầu tiên viết
riêng về Huế trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân năm 1968.
Vì được viết đã lâu lên một số nhận xét đánh giá chưa mang tính khách quan.
Cuốn “Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước” Tập 5 tuy cũng đã có đề cập
được q trình xây dựng kế hoạch cũng như diễn biến cuộc Tổng tiến công và
cung cấp các số liệu về cuộc chiến đấu tại Huế. Tuy nhiên chưa có những
nhận xét đánh giá hạn chế trong cuộc Tiến công tại Thành phố Huế năm 1968
Nhân dịp kỷ niệm 30 năm chiến thắng Tết Mậu Thân 1968, Tỉnh ủy Thừa
Thiên Huế có xuất bản cuốn “Thừa Thiên Huế tiến công, nổi dậy, anh dũng, kiên
cường Xuân 1968”, cuốn sách viết khá chi tiết về quá trình thực hiện tổng tiến
cơng và có các bài học kinh nghiệm. Nhân dịp kỷ niệm 40 năm có cuốn sách
“Thừa Thiên Huế tấn công, nổi dậy anh dũng, kiên cường”. Cuốn sách tóm tắt
các bài hội thảo trong dịp kỷ niệm, có nói về q trình chuẩn bị, cũng như diễn
biến ở trong thành phố cũng như các huyện vùng ven.
Ngoài ra cịn có các cuốn Lịch sử Đảng bộ thành phố, các huyện, xã
của tỉnh Thừa Thiên Huế cũng có đề cập đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Xuân 1968, trong đó có phân tích vai trị lãnh đạo của Khu ủy Trị Thiên.

4



Mặc dù vậy cho đến nay chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu
một cách có hệ thống về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Khu ủy Trị Thiên đối với
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 ở Thành phố Huế, cũng như
nhận xét những ưu điểm và hạn chế trong công tác chỉ đạo của Đảng bộ
Thành phố Huế.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu
Sự lãnh đạo của Khu ủy Trị Thiên trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Mậu Thân 1968 tại Thành phố Huế và quá trình chỉ đạo của Đảng bộ địa phương
Tìm hiểu quá trình thực hiện Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968
tại Thành phố Huế và qua đó rút ra các bài học kinh nghiệm.
Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian: Phạm vi nghiên cứu giới hạn ở địa bàn Thành phố
Huế trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Ngoài ra luận văn còn mở rộng
phạm vi nghiên cứu khi đề cập đến các hướng tấn cơng ngoại thành, góp phần
làm nên thắng lợi của cuộc Tổng tiến công Mậu Thân 1968.
+ Về thời gian: Phạm vi nghiên cứu giới hạn mốc thời gian năm 1968;
thời điểm mở đầu (đợt Tết) cho đến hết Đợt 3 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Mậu Thân 1968. Tuy nhiên để làm rõ hơn bối cảnh lịch sử diễn ra cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy thời gian đề cập của luận văn có thể lùi về trước năm
1968, thời điểm ta xây dựng kế hoạch và chuẩn bị về mọi mặt cho cuộc Tổng
tiến công.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Phục dựng quá trình Khu ủy Trị Thiên lãnh đạo cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy Mậu Thân 1968 ở Thành phố Huế. Qua đó làm rõ vai trị cấp ủy Đảng
địa phương trong quá trình chỉ đạo quân và dân Thành phố Huế tiến hành địn
tiến cơng chiến lược này

5



Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung vào những nhiệm vụ sau
Khái quát bối cảnh lịch sử diễn ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết
Mậu Thân 1968 ở Thành phố Huế.
Phân tích làm rõ chủ trương chiến lược của Đảng về cuộc Tổng tiến
cơng Mậu Thân năm 1968 và vai trị lãnh đạo, chỉ đạo của Khu ủy Trị Thiên
Đánh giá ưu điểm, hạn chế trong lãnh đạo, chỉ đạo của Khu ủy Trị
Thiên trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 tại Thành phố
Huế. Qua đó tổng kết đúc rút ra những bài học kinh nghiệm
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Nguồn tƣ liệu
Để hoàn thành nội dung đề tài luận văn, tác giả đã sử dụng nhiều nguồn
tư liệu khác nhau.
- Đầu tiên phải kể đến là các văn kiện, nghị quyết của Đảng – Nhà nước
Việt Nam về kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt là các văn kiện chỉ đạo trực
tiếp về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968.
- Sách, báo, tạp chí trong và ngồi nước về kháng chiến chống Mỹ nói
chung và về cuộc Tổng tiến cơng Mậu Thân 1968. Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Thừa Thiên Huế, lực lượng vũ trang nhân dân. Có thể nói đây là nguồn tư
liệu quan trọng giúp tác giả trong việc hoàn thành luận văn.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, tác giả sử dụng hai phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử
và phương pháp logic nhằm tìm ra các đặc điểm, các vấn đề có tính chất căn
bản của sự kiện lịch sử.
Ngồi ra cịn dùng các phương pháp bổ trợ như phương pháp phân tích,
phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, bản đồ nhằm làm rõ hơn nội
dung của đề tài.


6


6. Đóng góp của Luận văn
Góp phần làm rõ sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ trương của Đảng
về mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 của Khu ủy Trị Thiên và
Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế.
Làm rõ những ưu điểm và hạn chế trong lãnh đạo, chỉ đạo cuộc Tổng
Tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 ở Thành phố Huế.
Bổ sung tư liệu về sự lãnh đạo chỉ đạo cuộc kháng chiến cách mạng nói
chung, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 nói riêng.
7. Bố cục của Luận văn
Ngồi phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo. Phần nội dung
chính của luận văn có cấu trúc gồm 3 chương
CHƢƠNG 1: Tình hình Thành phố Huế trước khi nổ ra cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968.
CHƢƠNG 2: Chủ trương của Khu ủy Trị Thiên, Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế và
quá trình chỉ đạo thực hiện Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968 tại
Thành phố Huế.
CHƢƠNG 3: Nhận xét và một số kinh nghiệm.

7


CHƢƠNG 1: TÌNH HÌNH THÀNH PHỐ HUẾ TRƢỚC KHI NỔ RA
CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TRƢỚC TẾT MẬU THÂN
NĂM 1968
1.1. Khái quát về đặc điểm tình hình kinh tế, xã hội và truyền thống cách mạng
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên và tình hình kinh tế xã hội

Trị Thiên có phía Đơng giáp biển, Tây dựa vào Trường Sơn giáp vùng
giải phóng Trung Hạ Lào, có đường vận tải chiến lược 559 từ Bắc vào Nam,
Nam giáp Quảng Nam – Đà Nẵng, nơi có căn cứ quân sự liên hợp lớn của Mỹ
và cơ quan quân sự đầu não của Qn khu 1 Việt Nam Cộng Hịa. Trị Thiên
có thể tiếp nhận nhanh nhất nguồn chi viện từ hậu phương lớn miền Bắc, một
đặc điểm thuận lợi hết sức quan trọng của chiến trường. Huế là thành phố lớn
thứ 3 ở miền Nam, là hậu cứ, là trung tâm đầu não qn sự, chính trị đối với
tồn bộ chiến trường Trị Thiên trong thế chiến lược phòng ngự của địch ở
Phân khu I – Vùng I chiến thuật.
Từ biên giới Việt – Lào đến bờ biển chỉ khoảng 100 km, và từ sông
Bến Hải đến đèo Hải Vân chỉ chừng 160 km, vì vậy Trị Thiên là một giải đất
hẹp, vùng rừng núi, đồng bằng và thành phố Huế cũng như các thị xã, thị trấn
khác nối liền với các huyện nông thôn và vùng giáp ranh. Từ các vùng căn cứ
tiến vào Thành phố Huế với cự ly không xa. Lực lượng vũ trang từ căn cứ
tiến vào thành phố chỉ cần 5 giờ hành quân.
Vùng rừng núi chiếm 2/3 diện tích tồn khu Trị Thiên. Phần lớn là căn
cứ địa, hậu phương trực tiếp và cũng là bàn đạp tiến công địch ở nông thôn
đồng bằng và thành phố. Vùng giáp ranh chạy dọc hai tỉnh, nằm giữa vùng
đồng bằng thành phố và vùng rừng núi, song song và sát với Quốc lộ 1, là
vùng có nhiều đồi trọc xen kẽ làng mạc tương đối trống trải. Đây là một thuận
lợi để triển khai lực lượng tiến xuống đồng bằng và vào thành phố, thị xã.
Tuyến giáp ranh chạy dọc từ Bắc Nam giữa đồng bằng và rừng núi,
gần trục giao thông Quốc lộ số 1, là vùng đồi trọc, xen kẽ đồi sim và mua,

8


địa hình mấp mơ trung bình, tiện cho cơ giới, pháo binh địch hoạt động
ngăn chặn.
Vùng đồng bằng làng mạc mỏng, chia là 3 tuyến chữ nhật chạy từ Bắc

vào Nam: tuyến ven biển thưa thớt và phải qua 3 đến 4 km bãi cát trắng,
tuyến ven ruộng giáp cắt từ Thụy Khê đến cầu Hai; tuyến dọc các sông và 2
bên triền sông chạy dọc giữa ruộng đồng bằng, tuyến ven 2 bên đường Quốc
lộ 1. Đồng bằng có nhiều sơng ngịi, mương lạch chia cắt ngang dọc, khó cho
hoạt động lực lượng lớn. Vùng đồng bằng các làng mạc ven biển và dọc tuyến
ven ruộng giáp cắt bị địch đánh phá đi lại nhiều lần, nhưng lại là những nơi có
phong trào du kích chiến tranh mạnh và đều khắp.
Ngoài Quốc lộ 1 là đường bộ duy nhất nối liền Trị Thiên với các tỉnh
phía Bắc và phía Nam cịn có nhiều đường cắt ngang từ đồng bằng lên giáp
ranh rừng núi: Đường số 9 nối liền Đông Hà với Trung Lào, Đường số 12,
Đường số 14 từ Huế, Phú Bài lên Tây Thừa Thiên và nhiều đường có thể cơ
động bằng cơ giới từ các căn cứ của địch trên vùng giáp ranh nối xuống quốc
lộ 1. Riêng đường số 14 là con đường được xây dựng để nối liền miền Tây
Thừa Thiên với miền Tây Quảng Nam đổ xuống đèo Hải Vân đi Đà Nẵng.
Nhiều sông ngịi từ Trường Sơn đổ xuống đồng bằng, trong đó đáng
chú ý là sông Cửa Việt địch dùng làm đường vận chuyển từ biển vào Đông
Hà, phục vụ cho tuyến Đường số 9, và sông Hương từ biển qua cảng Cửa
Thuận vào Huế.
Phá Tam Giang và đầm Cầu Hai với diện tích hàng chục ngàn héc ta
mặt nước, chạy suốt gần hết tỉnh Thừa Thiên cùng với hệ thống sông ngòi
chia cắt vùng đồng bằng, hạn chế nhiều đến việc cơ động lực lượng chiến đấu.
Có thể nói đối với địch, vùng giáp ranh và một phần đồng bằng tiện cho
việc chúng cơ động nhanh bằng cơ giới, tiện cho hoạt động của máy bay và
pháo binh, nhưng do mạng lưới giao thơng ít, địa hình dài và hẹp nên rất dễ bị
chia cắt, dễ bị bao vây và chặt ra từng khúc, tiếp tế vận chuyển khó khăn. Đối

9


với ta, vùng rừng núi là địa bàn thuận lợi nhất, vùng đồng bằng có dân và

chiến tranh du kích phát triển mạnh, nên ta có thể áp đảo địch từ trên rừng
xuống, và dưới đồng bằng lên, đồng thời vùng giải phóng ta rộng lớn sát liền
với các đơ thị, thành phố là địa bàn thuận lợi cho việc đánh chiếm thành phố.
Nhưng khó khăn của ta là đồng bằng mỏng, hẹp nên sử dụng binh lực có bị
hạn chế, đường Quốc lộ 1 chia cắt đồng bằng và rừng núi , nếu khi địch tập
trung đông chiếm tuyến giao thơng đó thì việc đi lại giữa hai vùng gặp nhiều
khó khăn.
Thành phố Huế chia làm 2 khu vực Bắc – Nam, chia cắt bởi con sông
Hương rộng từ 250 – 400 m chạy từ núi đến Thuận An và nối liền giữa 2 khu
vực là 2 cầu lớn: cầu Tràng Tiền cho ô tô chạy cầu Bạch Hổ cho xe lửa chạy.
Khu vực Bắc Huế là một thành cổ lâu đời của các triều nhà Nguyễn,
kiến trúc theo kiểu thành cao, hào sâu kiên cố. Xung quanh là tường thành
đắp bằng đất, xây gạch mỗi bề trên 2m, cao 6 – 8m rộng từ 10 -20m, có 8
cổng lớn ra vào xây theo kiểu tị vị trên có chịi gác. Thành phố chia làm 4
khu vực chính: khu I là nội thành, khu 2 gồm đường Trần Hưng Đạo, Phan
Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, khu 3 gồm đường Thống Nhất và phố Lê Văn
Duyệt, khu 4 ở vùng Gia Hội. Trong thành có con sơng Nhị Hà chạy giữa khu
nội thành từ Đông sang Tây, qua 2 cống, có đoạn lội được có đoạn chỉ cịn
bùn nhão. Trong thành khu vực Đại Nội, Mang Cá có tường bao bọc xung
quanh cao từ 5 – 6 m.
Khu vực phía Nam Huế là thành phố kiến thiết theo kiểu châu Âu,
đường sá rộng, nhà cửa to, phần lớn là nhà gạch do cơ quan ngụy quyền và
bọn Mỹ đóng. Hệ thống đường sá về phía Tây – Nam nhiều, tiện cho cơ giới
hoạt động. Khu Nam gọi là khu tam giác.
Nhìn chung địa hình chung quanh thành phố Huế, phía Tây là rừng núi,
cách thành phố chỉ có 3 -5 giờ hành qn. Phía Bắc và phía Nam có vùng giải
phóng, là cơ sở tốt để làm bàn đạp tiếp cận thành phố Huế bằng nhiều hướng.

10



Trong thành phố có thành cao, hào sâu, sơng ngịi nhiều, nhà cửa kiên cố,
đường sá dày đặc có lợi cho phịng ngự nhưng trong thành phố chiến đấu có
hạn chế một phần trong chiến đấu pháo binh cơ giới đối với phía Mỹ.
Dân số Trị Thiên thời gian đó có khoảng 800.000 người (Quảng Trị có
300.000 và Thừa Thiên 500.000), vùng nông thôn đồng bằng gần 55.000, các
đô thị khoảng 20.000, riêng Thành phố Huế có gần 150.000 người, vùng rừng
núi chỉ có 50.000, phần lớn là đồng bào dân tộc ít người.
1.1.2. Truyền thống cách mạng
Thừa Thiên Huế là vùng đất có bề dày lịch sử, văn hóa lâu đời và
truyền thống yêu nước đấu tranh cách mạng vẻ vang. Trong lịch sử, Thừa
Thiên Huế từng là “Phên dậu thứ tư về phương Nam” của nước Đại Việt, nơi
“Đô hội lớn của phương”. Thừa Thiên Huế từng là thủ phủ của xứ Đàng
Trong, là kinh đô của cả nước…Nơi đây ln giữ vị trí chiến lược quan trọng
trong các phong trào yêu nước của dân tộc. Một vùng đất đóng vai trị cầu nối
giữa hai miền Bắc-Nam. Từ cuộc đấu tranh chống giặc Minh đầu thế kỷ thứ
XV, đến hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược
đã để lại biết bao sự kiện, địa danh, con người với những chiến thắng vĩ đại và
hào hùng trong lịch sử dân tộc. Trong những thập niên đầu của thế kỷ XX
Thừa Thiên Huế là một trong những trung tâm sôi động của các cuộc vận
động yêu nước và cách mạng…là cái nôi hoạt động của nhiều chiến sĩ, đảng
viên cộng sản, là nơi ghi dấu sự ra đời của một trong những tổ chức tiền thân
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ những năm 1927 nhân dân đã có
Đảng Việt nam thanh niên Cách mạng đồng chí hội – tiền thân của Đảng
Cộng sản, và đã thành lập được nhiều chi bộ. Tháng 4-1930, Tổ chức Đông
dương Cộng sản Đảng và Đông dương Cộng sản liên đoàn hợp nhất thành
tỉnh Đảng bộ Đảng Cộng sản Đông dương Thừa Thiên Huế. Lịch sử đấu tranh
cách mạng giải phóng dân tộc và giải phóng quê hương của nhân dân Thừa
Thiên Huế bước sang thời kỳ mới mà đỉnh cao là cuộc vận động giải phóng


11


dân tộc (1940 – 1945) và phát động cuộc khởi nghĩa giành chính quyền cách
mạng thắng lợi. Với khí thế “Cách mạng Tháng Tám” nhân dân Thừa Thiên
Huế đã vùng dậy lật đổ ngai vàng của chế độ phong kiến và ách thống trị
hàng nghìn năm của thực dân đế quốc, mở ra kỷ nguyên phát triển mới trong
lịch sử dân tộc. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, những địa
danh: Dương Hịa, Hịa Mỹ, Hói Mít, Thanh Hương – Mỹ Xuyên, Thanh Lam
Bồ... ghi dấu bao chiến công oanh liệt, là vùng đất từng chứng kiến sự khốc
liệt của chiến tranh, chịu đựng nhiều hy sinh mất mát: nhiều di tích, địa điểm
di tích: nhà ở, đình, đền... đã trở thành các trụ sở liên lạc, hội họp.Trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, truyền thống đấy tiếp tục được phát huy.
Đến năm 1965 phong trào chiến tranh du kích đã phát triển đều và có những
vùng khá mạnh. Quần chúng cách mạng bất khuất, kiên cường được tôi luyện
dày dạn trong chiến tranh.
Nhân dân vùng đồng bằng giải phóng trải qua 22 năm đấu tranh vơ
cùng gian khổ, quyết liệt. Đặc biệt là 3 năm đánh Mỹ gần đây, đã bị địch tàn
sát, đốt phá, giết chóc, triệt hạ làng mạc, nhưng nhân dân vẫn không khuất
phục, mà ngày càng tôi luyện, dầy dạn và chiến đấu ngày càng mạnh. Bom
đạn, chém, giết của quân thù không làm cho nhân dân nao núng, địch đốt phá,
triệt hạ làng mạc, có nơi ruộng thành hố bom, mỗi lối đi, mỗi xóm, mỗi nhà,
mỗi cửa ngõ đều có bom, đạn Mỹ ngụy, đều có máu của nhân dân đổ xuống.
Nhưng nhân dân khơng chút sờn lịng, 32 vạn đồng bào vùng giải phóng từ
em nhỏ đến cụ già, tất cả đều là những chiến sĩ tham gia vào cuộc chiến
chống lại đế quốc Mỹ. Nhiều hoạt động đã diễn ra: ni dưỡng qn đội, cán
bộ, du kích, thu mua lương thực cho kháng chiến, cất dấu vũ khí, chạy chữa
thương binh.
Là một trong ba thành phố lớn ở miền Nam, Huế có một vị trí chính trị,
qn sự hết sức quan trọng. Vốn là một cố đô của triều Nguyễn cũ, trong

kháng chiến chống Mỹ, Huế thuộc quyền kiểm soát của Mỹ và Việt Nam

12


Cộng Hòa, là trung tâm chỉ đạo chiến lược của địch trên khu vực tiếp giáp đối
đầu với miền Bắc. Ở đây có trên 45 cơ quan hành chính ngụy quyền, đồng
thời là nơi địch bố trí một bộ máy chiến tranh khá mạnh (có khoảng từ 2,5 đến
3 vạn quân) với nhiều vũ khí trang thiết bị tương đối hiện đại của Mỹ. Thành
phần xã hội của thành phố Huế đa dạng và phức tạp. Số dân đi đạo Thiên
chúa và Phật giáo chiếm một tỷ lệ khá lớn. Số dân thuộc thành phần cơng
chức và gia đình sĩ ngụy có khoảng 3 vạn, số học sinh, sinh viên có khoảng
2,5 vạn, nhân dân lao động có khoảng 6 đến 7 vạn, phần đơng là gia đình tiểu
thương, thợ thủ công, dịch vụ. Nhân dân vùng nông thôn và thành phố có
quan hệ chặt chẽ với nhau, nên mỗi biến chuyển về chính trị và qn sự ở
nơng thơn đều mau chóng ảnh hưởng trực tiếp vào thành phố.
Giữa những năm 60, phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân Trị
Thiên, đặc biệt là ở Huế ngày càng phát triển mạnh. Liên tục có những cuộc
đấu tranh chống Mỹ và tay sai như cuộc xuống đường chống Diệm - Nhu năm
1963, chống Khánh – Hương năm 1964, phong trào xuống đường đấu tranh
của học sinh – sinh viên địi hịa bình, dân sinh, dân chủ thì hầu như tháng nào
cũng xảy ra. Những cuộc đấu tranh này của quần chúng nhân dân đã nhiều
phen làm cho Mỹ ngụy hoảng sợ và tìm cách đối phó vất vả.
Ở nội thành Huế, lực lượng chính trị và phong trào cách mạng của quần
chúng, dưới sự chỉ đạo của 8 chi bộ Đảng ta đã xây dựng được khoảng 100 cơ
sở bí mật và nửa cơng khai. Số quần chúng hướng về cách mạng và sẵn sang
tham gia các cuộc đấu tranh, chiến đấu và phục vụ chiến đấu , ta có thể huy
động từ 4.000 đến 5.000 người trong một ngày đêm. Ngồi ra một số khá
đơng nhân dân lao động, viên chức, tiểu thương tuy không nằm trong các tổ
chức cách mạng, nhưng có lịng u nước và cảm tình với cách mạng, ta có

thể tranh thủ lơi kéo họ khi cách mạng nổ ra.
Trước khi nổ ra cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, ba huyện giáp với
thành phố Huế là Hương Trà, Phú Vang, Hương Thủy có nhiều thôn xã đã

13


được ta giải phóng và làm chủ, tạo thành vùng đệm quan trọng để chủ lực ta
đứng chân và làm bàn đạp tiến vào thành phố .
1.2.

Tình hình chiến trƣờng Trị Thiên trƣớc khi nổ ra cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy.

1.2.1. Hoạt động và hình thái bố trí chiến lƣợc của địch
Thành phố Huế có vị trí chính trị, quân sự khá quan trọng. Ở đây có
đến 46 cơ quan hành chính ngụy quyền, là nơi tập trung bọn cầm đầu các
đảng phái phản động như Quốc dân đảng, Đại Việt, Cần Lao Nhân Vĩ, nên
địch đã thiết lập ở đây một hệ thống phịng ngự vững chắc, có hệ thống căn cứ
và đồn bốt dày đặc, có lực lượng vũ trang địa phương, lực lượng kìm kẹp gồm
cơ quan hành chính, bọn chỉ điểm, đảng phái phản động nhằm:
Hướng ra phía Bắc chặn địn tiến cơng của chủ lực ta
Chốt chặn ta từ rừng núi giáp ranh tiến công xuống, đồng thời bảo vệ
giao thông và căn cứ lớn của chúng
Kết hợp lực lượng chủ lực cơ động cả Mỹ và Việt Nam Cộng Hịa
nhằm kìm kẹp và càn quét “bình định” chống phong trào quần chúng và chiến
tranh du kích.
Tại mặt trận Huế, địch có khoảng 25.000 đến 30.000 quân kể cả bọn
cầm súng công khai và bọn cầm súng bí mật, nịng cốt là lực lượng thuộc sư
đoàn 1 bộ binh. Cả Mỹ và ngụy cộng là 13 tiểu đoàn bộ binh (8 tiểu đoàn

ngụy, 5 tiểu đoàn Mỹ), 4 chi đoàn thiết giáp, 4 tiểu đồn pháo, 2 tiểu đồn
cảnh sát, 2 tiểu đồn cơng binh cùng các đơn vị thông tin, vận tải, quân y, sửa
chữa quân cụ, 23 đại đội bảo an, 100 trung đội dân vệ, 18 tiểu đồn bình định.
Khơng qn chỉ có các đơn vị máy bay lên thẳng, trinh sát với 100 chiếc. Với
lực lượng trên địch bố trí:
Ở phía Bắc thành phố: đồn Mang Cá có lực lượng Sư đồn 1 bộ binh,
(khoảng 700 qn) trong đây có cơ quan tham mưu, cơ quan hậu cần, đại đội
chiến tranh tâm lý, đại đội quân y. Sân bay Tây Lộc có 1 đại đội vận tải với

14


khoảng 40 máy bay lên thẳng, 100 xe các loại, một bộ phận nhân viên kỹ
thuật và lính bảo vệ, lực lượng chúng có khoảng từ 250 tên đến 300 tên. Khu
Đại Nội có 1 đại đội thám báo ngụy, khoảng 120 tên. Địch cịn bố trí qn ở
kho qn cụ: xưởng sửa chữa phương tiện, khu Tàng thơ…Ngoài lực lượng
trên, cịn có 8 trung đội cảnh sát đóng rải rác trên các khu phố, có trang bị
phương tiện đàn áp quần chúng nhân dân [60; 35-37]
Tính chất bố phịng các vị trí quanh thành đều dựa vào thành quách, vị
trí của Pháp, có dây thép gai 2, 3 lớp có mìn xung quanh, trên các góc thành,
tường có ụ sung bằng bao cát hoặc lô cốt, các cổng ra vào trên dưới có ụ súng,
ngày đêm đều có người tuần tra, canh gác. Nhưng do dựa vào kiến trúc cũ nên
về mặt phịng ngự có rất nhiều sơ hở, binh hỏa lực bố trí khơng chặt chẽ.
Ở phía Nam thành phố, khu vực Hữu Ngạn. Khu Phan Sào Nam có sở
chỉ huy tiểu khu Thừa Thiên. Khu Khách sạn Thuận Hóa, Hương Giang là nơi
ở tình báo và cố vấn Mỹ. Khu sân vận động có đài ra đa và bọn cố vấn Mỹ.
Các khu Tòa Khâm sứ cũ, tòa Tỉnh trưởng Thừa Thiên, nhà lao Thừa Phủ,
khu cơ quan đại diện Trung phần, khu biệt kích trưởng dân tộc, các kho,
xưởng đều có lực lượng bảo an canh giữ. Tất cả các cầu và các đường vào
thành phố đều có cảnh sát canh giữ và đóng rải rác. Các ty, sở ngụy quyền

như đài phát thanh, ngân hàng, bưu điện, cơng chánh… cũng ở khu vực phía
Nam. Phía Nam tính chất bố phịng các vị trí ngồi thành kiên cố, có đầy đủ
hệ thống chướng ngại vật, trong thành và nhà dựa vào kiểu kiến truc cũ, có
xây thêm các ô đề kháng và tường thành bao bọc xung quanh.
Ngồi thành phố có 6 tiểu đồn cơ động (2 tiểu đoàn Mỹ, 4 tiểu đoàn
ngụy) kết hợp với quân chiếm đóng, quân địa phương thành hệ thống căn cứ
phịng thủ ứng cứu ở phía nam Huế. Các tiểu đoàn bộ binh ngụy, các đại đội
bảo an và hỏa lực pháo thường đóng ở vùng ven, các cửa ngõ ra vào thành
phố như Đồng Di, tam Đơng, Xn Hịa, quận lỵ Nam Hịa… Qn Mỹ cịn
đóng rải dọc theo quốc lộ 1, từ Huế về Phú Bài, để giữ đường giao thông

15


huyết mạch ở cửa Thuận An để bảo vệ kho xăng, dầu và cửa ngõ từ biển theo
sông Hương vào Huế.
Có thể thấy trước khi cuộc tiến cơng nổ ra, địch vẫn cịn đơng, cả bọn
cầm súng cơng khai, cả bọn cầm súng bí mật, đóng thành nhiều tầng, nhiều
lớp. Nhưng lực lượng chiến đấu của địch ít, chiếm tỷ lệ 1/3, cịn là ơ hợp, cơ
quan, phục vụ, ty sở, sức chiến đấu kém. Vành ngồi địch bố trí mạnh, nặng
về phịng ngự bên ngồi, có thiết giáp, qn cơ động, pháo binh, cộng sự
vững chắc, nhưng lại bố trí phân tán trên địa bàn rộng lớn 3 huyện, khi bị tấn
cơng đồng loạt sẽ bị rối loạn, khó hiệp đồng, khó chi viện lẫn nhau, dễ bị ta
tiêu diệt từng bộ phận. Bên trong ỷ lại bên ngoài, ỷ lại quân cơ động và chiếm
đóng, tuyến dân vệ, ác ôn, mật thám, gián điệp, cảnh sát, ỷ lại thành cao, hào
sâu, song ngịi nhiều, do đó sơ hở, cộng sự sơ sài và sức chiến đấu kém.
Trước những thắng lợi lớn của quân và dân ta tinh thần quân ngụy sa
sút, quân Mỹ bạc nhược, cả 2 lực lượng Mỹ, Việt Nam Cộng Hòa đều sợ chủ
lực của ta. Quân Mỹ thua trận ở Đường 9 trở nên bạc nhược càng làm cho quân
đội Việt Nam Cộng Hòa mất tin tưởng, suy yếu nghiêm trọng, đầy rẫy mâu

thuẫn (mâu thuẫn với Thiệu – Kỳ, mâu thuẫn giữa các phe phái, mâu thuẫn Mỹ
- Việt Nam Cộng Hòa) tinh thần chiến đấu rất kém. Đó là điểm yếu tuyệt đối
của địch, ta đánh mạnh chúng dễ tan vỡ, tạo khả năng cho ta làm cơng tác binh
vận. Có thể thấy ta có nhiều ưu thế trong cuộc tiến cơng lần này.
1.2.2. Hoạt động tác chiến và quá trình chuẩn bị của ta.
Từ năm 1966, Trị Thiên khơng cịn là Phân khu Bắc thuộc Quân khu 5
mà được Bộ Chính trị quyết định thành lập Quân khu Trị Thiên trực thuộc Bộ
Quốc phịng. Từ một khu đệm, khơng đánh lớn đã chuyển thành một mặt trận
tiến công địch, cùng với Mặt trận Đường số 9 – Bắc Quảng Trị hợp thành một
hướng chiến lược quan trọng, một chiến trường tiêu diệt, thu hút địch, nhất là
quân Mỹ, có khả năng phối hợp tác chiến với các chiến trường khác để đưa
cuộc chiến tranh cách mạng tiến lên một bước mới. Ngay sau khi thành lập,

16


Khu ủy Trị Thiên chủ trương đẩy mạnh tiến công địch, xây dựng và củng cố
bàn đạp vững chắc trên vùng rừng núi, đưa chiến tranh xuống đồng bằng,
chiếm lĩnh giáp ranh, xây dựng cơ sở vùng ven để chuẩn bị đánh thẳng vào đô
thị, phát động đảng bộ, quân và dân trong Qn khu có một khí thế tiến cơng
tồn diện qn địch.
Thực hiện chủ trương trên, từ giữa năm 1966 bộ đội ta đã thọc được
xuống đồng bằng, đánh những trận diệt gọn địch ở Lương Mai, Nam Giảng,
Phong Lai và đến tháng 11 năm 1966 đã diệt gọn được 1 tiểu đoàn địch trong
căn cứ An Lỗ. Trong thành phố ta cũng đánh vào căn cứ vận tải Lê Lai của
địch ở An Cựu.
Phát huy thắng lợi từ tháng 1 đến tháng 5 năm 1967, Quân khu Trị Thiên
chủ trương mở tiếp đợt hoạt động mùa Xuân đánh thẳng vào các căn cứ La
Vang, thị xã Quảng Trị, Từ Hạ, Phú Bài, rồi thọc vào thành phố đánh khách
sạn Hương Giang, các căn cứ Long Thọ, Nam Giao, Trường bắn tập… Những

trận đánh đó đã gây ảnh hưởng lớn trong nhân dân ở đô thị, xây dựng được
lòng tin cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân địa phương. Đặc biệt là bộ đội rút ra
được nhiều kinh nghiệm thực tiễn về các cách đánh sâu vào lịng địch. Lực
lượng ít nhưng đạt hiệu quả cao và được nhân dân đùm bọc, che chở.
Vùng rừng núi rộng lớn phía Tây nơi đứng chân của Khu ủy ta làm chủ
hoàn toàn. Địa bàn này là chỗ đứng chân của các lực lượng, là bàn đạp xuất
phát tấn công về đồng bằng, đô thị. Đồng bằng nông thôn của bốn huyện:
Phong Điền, Quảng Điền của Thừa Thiên, Triệu Phong, Hải Lăng của Quảng
Trị được giải phóng mở rộng, trở thành nơi cung cấp nhân lực, vật lực cho
cách mạng. Tại các vùng ven đô thị như huyện Hương Trà, Hương Thủy, Phú
Vang của Thừa Thiên – Huế đã tổ chức được nhiều cơ sở bí mật; đây cũng là
bàn đạp rất thuận lợi để tiếp cận vào thành phố. Đặc biệt trong nội thành phố
Huế ta đã xây dựng được nhiều cơ sở, khắp các quận, các phường có lực
lượng vũ trang tối mật, vũ khí đạn dược được đưa vào chỗ cất giấu an toàn.

17


Có thể nói bước vào năm 1967 vùng giải phóng được mở rộng, chiến tranh du
kích phát triển khá mạnh, lực lượng vũ trang địa phương trưởng thành, nhất là
trên những địa bàn quan trọng. Những bàn đạp sát vùng ven thành phố được
thiết lập; lực lượng chủ lực, các đội biệt động đứng chân ở đây đánh vào
thành phố thuận lợi, thường xuyên hơn.
Sau thắng lợi mùa Xuân 1967, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu quyết
định sang Xuân 1968 chuyển cuộc chiến tranh vào thành phố nhằm “tiến cơng
địch liên tục cả qn sự, chính trị, binh vận… tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận
quan trọng quân Mỹ, ngụy và chiếm lĩnh vùng nông thôn, làm rối loạn thành
phố và hệ thống phòng ngự địch, phối hợp với các chiến trường tiến lên tổng
cơng kích, tổng khởi nghĩa giành toàn thắng”.
Để thuận tiện cho việc chuẩn bị chiến trường và tổ chức chỉ huy khi

đánh vào thành phố Huế, Khu ủy chủ trương cắt 3 huyện tiếp giáp là Hương
Trà, Hương Thủy, Phú Vang sát nhập vào Mặt trận Huế do Khu ủy và Bộ Tư
lệnh Quân khu trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy. Đồng chí Tư Minh, Phó bí thư Khu
ủy được cử trực tiếp làm Bí thư Thành ủy Huế, chăm lo mọi mặt chuẩn bị
chiến trường, chuẩn bị lực lượng, xây dựng kế hoạch, đồng thời trực tiếp chỉ
đạo tiếp tục đẩy mạnh tiến cơng địch.
Với tinh thần tích cực tiến cơng theo phương châm chỉ đạo trên của Khu
ủy, có sự phối hợp chiến trường toàn Miền, nhất là hướng Đường số 9, nên vào
những tháng cuối năm 1967, thế bố trí lực lượng qn sự và chính trị ở Trị
Thiên nói chung và trên mặt trận Huế nói riêng đã có sự chuyển biến rất có lợi
cho ta. Nhưng vì lực lượng chủ lực và trang bị của ta còn quá yếu so với đối
phương nên để đảm bảo cho cuộc tiến công vào Thành giành được thắng lợi
Khu ủy chỉ đạo cần phải có sự bổ sung tăng cường lực lượng đồng thời đề nghị
Bộ bổ sung lực lượng và vũ khí một cách đáng kể và khẩn trương.
1.3. Chủ trƣơng của Trung ƣơng Đảng
Chiến lược Chiến tranh cục bộ, đỉnh cao nhất trong toàn bộ nỗ lực chiến
tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, đến đầu năm 1967 đã bước sang năm thứ 3.

18


Trong khoảng thời gian đó, cho dù phía Mỹ và đồng minh của Mỹ dồn sức hịng
khuất phục ý chí kháng chiến của nhân dân Việt Nam, qua đó hồn tất các mục
tiêu chiến lược của cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam theo đúng như kế hoạch
đề ra ban đầu, nhưng địch không sao làm được. Quân Mỹ, qn Sài Gịn và qn
các nước phụ thuộc Mỹ khơng thể làm nhiệm vụ “tìm diệt” và “bình định” có hiệu
quả. Lực lượng của chúng bị căng ra các chiến trường và bị thế trận chiến tranh
nhân dân của ta vây hãm. Thế chiến lược của địch bị đảo lộn và vỡ từng mảng,
làm cho tinh thần, ý chí của binh lính Mỹ và Sài Gịn sa sút nghiêm trọng. Nội bộ
chính quyền và qn đội Sài Gịn bị chia rẽ sâu sắc.

Về phía ta qua hai năm, quân và dân miền Nam vẫn giữ vững và phát huy
mạnh mẽ chiến lược tiến công làm thất bại một bước quan trọng nỗ lực chiến
tranh của địch, giữ vững quyền chủ động chiến trường. Trên miền Bắc, trong khói
lửa bom đạn, quân và dân ta vừa đánh trả quyết liệt và hiệu quả máy bay, tàu
chiến Mỹ, vừa giữ vững sản xuất, tăng sức chi viện mạnh mẽ và liên tục cho cách
mạng miền Nam. Trước những thất bại của địch và thắng lợi của ta trên cả hai
miền Nam, Bắc đầu năm 1967, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương chuẩn
bị đánh một đòn quyết định tạo chuyển biến nhảy vọt cho cuộc đấu tranh cách
mạng ở miền Nam, buộc Mỹ phải thua về quân sự, tạo điều kiện tiến tới mở ra cục
diện “vừa đánh vừa đàm, vừa đàm vừa đánh” xem đó là sách lược hỗ trợ cho đấu
tranh quân sự và đấu tranh chính trị của quân và dân ta. Tư tưởng chỉ đạo của Bộ
Chính trị và Quân ủy Trung ương vẫn trên cơ sở phát huy mạnh mẽ phong trào
nổi dậy của quần chúng kết hợp với đẩy mạnh chiến tranh du kích rộng khắp trên
cả ba vùng chiến lược, đồng thời với đẩy mạnh tác chiến tập trung của bộ đội chủ
lực, thực hiện đánh vừa và đánh lớn.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (họp từ ngày 23 đến ngày 26 tháng 1
năm 1967) Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh trình bày “Đề cương báo
cáo về cơng tác đấu tranh ngoại giao” trong đó chỉ rõ: “Để đánh bại kẻ thù hết sức
ngoan cố và xảo quyệt là đế quốc Mỹ xâm lược, ta phải giữ vững quyết tâm cao

19


×