Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) phương pháp làm các dạng bài nghị luận văn học trong đề thi nhằm nâng cao chất lượng điểm thi môn ngữ văn của học sinh trường THPT lạng giang số 3 trong kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.53 KB, 65 trang )

1

1. ĐẶT VẤN ĐỀ.
1.1. LÝ DO CHỌN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
Năm học 2019 - 2020 đối với ngành giáo dục của nước ta gặp rất nhiều
khó khăn, thách thức. Đại dịch Covid 19 đã khiến cho công tác dạy và học bị
ảnh hưởng nặng nề; quãng thời gian nghỉ dịch dài đã tác động trực tiếp tới công
tác dạy và học của các nhà trường phổ thơng trên tồn quốc. Học sinh phải nghỉ
học dài ngày để phòng chống dịch Covid 19 cho nên có hiện tượng “hổng kiến
thức” ở một bộ phận học sinh sau khi quay trở lại trường học tập sau kỳ nghỉ
chống dịch.
Do bối cảnh của dịch bệnh Covid 19, kế hoạch năm học 2019-2020 đã
phải điều chỉnh, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã cơng bố tinh giản chương trình
Học kỳ 2 và triển khai dạy học qua Internet và trên truyền hình.
Kỳ thi THPT sẽ được tổ chức muộn hơn mọi năm, tổ chức vào ngày 9,10/
8/2020; thời điểm này cả Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học đã có hiệu lực
thi hành (Luật Giáo dục Đại học có hiệu lực từ 01/7/2019 và Luật Giáo dục có
hiệu lực từ 01/7/2020). Do vậy, sẽ không tổ chức kỳ thi THPT quốc gia như mọi
năm mà tổ chức Kỳ thi tốt nghiệp THPT.
Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2020 đang đến gần, làm thế nào để các em
trường THPT Lạng Giang số 3 học tập tốt mơn Ngữ văn đồng thời có thể nâng
cao kết quả và chất lượng ôn thi tốt nghiệp THPT quả là một vấn đề quan trọng,
có tính cấp thiết ảnh hưởng đến chỉ tiêu, chất lượng và thương hiệu của nhà
trường.
Trong kì thi THPT Quốc gia năm 2019, môn Ngữ văn của trường THPT
Lạng Giang số 3 có điểm bình qn thấp đạt 5.42 xếp thứ 30/46 trường THPT
tên toàn tỉnh Bắc Giang so với năm 2018 đã giảm 20 bậc. Qua tìm hiểu nguyên
nhân của vấn đề trên để tìm cách khắc phục, bản thân cá nhân tơi nhận thấy
ngồi phần trách nhiệm của giáo viên trong cơng tác giảng dạy thì ngun nhân
chủ yếu và mấu chốt chính là học sinh khối 12 của trường THPT Lạng Giang số
3 thiếu đi kĩ năng, phương pháp làm bài, trong đó khâu yếu nhất chính là


phương pháp, kĩ năng làm bài nghị luận văn học trong đề thi THPT Quốc gia


2

môn Ngữ văn. Hầu hết học sinh khi gặp phải các dạng bài nghị luận văn học đều
bị lúng túng từ khâu xác định đề bài, xác định kiến thức trọng tâm, phương
pháp, cách làm dẫn đến kết quả điểm thi mơn Ngữ văn thấp. Điều đó đã ảnh
hưởng đến kết quả chung của các em trong kì thi THPT Quốc gia năm 2019.
Xuất phát từ thực trạng trên của học sinh trường THPT Lạng Giang số 3
khi làm bài nghị luận văn học trong đề thi THPT Quốc gia, với cương vị, trách
nhiệm của tổ trưởng chuyên môn và cũng là giáo viên đang giảng dạy trực tiếp
môn Ngữ văn 12, tôi viết sáng kiến kinh nghiệm “Phương pháp làm các dạng
bài Nghị luận văn học trong đề thi nhằm nâng cao chất lượng điểm thi môn
Ngữ văn của học sinh trường THPT Lạng Giang số 3 trong kỳ thi Tốt nghiệp
THPT năm 2020” với mục đích nâng cao chất lượng công tác dạy và học, nhất
là công tác ôn luyện môn Ngữ văn của học sinh khối 12, cải thiện điểm số, nâng
cao thứ hạng điểm thi trung bình mơn Ngữ văn của học sinh trường THPT Lạng
Giang số 3 từ vị trí 30/46 lên thứ hạng cao hơn trong khối các trường THPT trên
toàn tỉnh. Đồng thời, thơng qua sáng kiến kinh nghiệm cịn là điều kiện, cơ hội
được trao đổi, học hỏi từ các đồng nghiệp trong trường, trong tỉnh về phương
pháp, kĩ năng, cách thức làm các dạng bài Nghị luận văn học trong đề thi mơn
Ngữ văn; đây cũng chính là sự thể hiện cụ thể hóa mục tiêu của q trình đổi
mới phương pháp dạy học theo tinh thần của Nghị quyết số 29 NQ/TW “về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế”, đồng thời chuẩn bị mọi điều kiện tốt nhất để triển khai
chương trình Giáo dục phổ thơng mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
1.2. TÍNH MỚI, TÍNH SÁNG TẠO CỦA SÁNG KIẾN.
Sáng kiến kinh nghiệm “Phương pháp làm các dạng bài Nghị luận văn

học trong đề thi nhằm nâng cao chất lượng điểm thi môn Ngữ văn của học
sinh trường THPT Lạng Giang số 3 trong kỳ thi Tốt nghiệp THPT năm
2020” nhằm đưa ra các giải pháp có tính mới, tính sáng tạo, phù hợp với tình
hình giáo viên và học sinh của trường THPT Lạng Giang số 3 nhằm giúp cho


3

học sinh có kĩ năng, phương pháp làm bài nghị luận văn học trong đề thi Tốt
nghiệp THPT năm 2020 cụ thể như sau:
Thứ nhất, có rất nhiều chuyên đề, bài viết hướng dẫn cách làm một bài
văn nghị luận văn học trong đề thi, tuy nhiên đa số viết dưới dạng kiến thức hàn
lâm, hoặc nêu khái quát chung nên học sinh rất khó nắm bắt kiến thức, đặc biệt
với học sinh trung bình, yếu. Vì thế, sáng kiến này sẽ hướng dẫn các em cách
thức tiếp nhận các dạng bài, các kiểu đề Nghị luận văn học trong chương trình
Ngữ văn 12 nói riêng và chương trình Ngữ văn THPT nói chung một cách chi
tiết, cụ thể, dễ hiểu, dễ làm nhằm giúp các em học yếu, trung bình mơn Ngữ văn
cũng có thể có tiếp cận làm đề để đạt điểm từ trung bình đến khá.
Thứ hai, điểm mới của sáng kiến này chính là việc hệ thống hóa kiến
thức, kĩ năng, phương pháp, các dạng bài nghị luận văn học được đặt trong một
chỉnh thể nhằm giúp cho học sinh nắm bắt các bước, các thao tác làm bài văn
nghị luận văn học (xác định đề, phân tích đề, lập dàn ý, xây dựng đoạn văn,...)
để viết thành một bài văn hoàn chỉnh.
Thứ ba, sáng kiến sẽ tiết kiệm thời gian cho học sinh trong việc ôn luyện
bởi quãng thời gian nghỉ phòng chống dịch Covid 19 dài (02 tháng nghỉ dịch Co
vid 19) khiến cho việc ôn tập của học sinh bị gián đoạn, ảnh hưởng đến chất
lượng, kết quả thi của học sinh. Do đó, sáng kiến cịn khắc phục được “lỗ hổng”
kiến thức cho học sinh; đồng thời giúp cho giáo viên trong tổ bộ môn nắm rõ,
nắm chắc kiến thức của Văn nghị luận – nghị luận văn học, phương pháp, kĩ
năng để giúp học sinh làm các dạng bài nghị luận văn học đạt kết quả cao.

Thứ tư, sáng kiến này đối với giáo viên và học sinh trường THPT Lạng
Giang số 3 cịn mang tính thực tiễn, tính ứng dụng trong công tác ôn luyện môn
Ngữ văn dành cho học sinh khối 12, nhất là trong thời điểm dịch Covid 19 ảnh
hưởng lớn đến việc học tập của học sinh và việc giảng dạy của giáo viên, thời
gian nghỉ dịch dài ngày, học sinh phải ở nhà thực hiện lệnh giãn cách xã hội, các
em chỉ có thể học trên mạng Internet thông qua các phần mềm dạy học như
Room, Meeting, Team,... đây là những giải pháp tình thế, hiệu quả chưa cao, vì
thế đã ảnh hưởng đến chất lượng học tập của các mơn nói chung và mơn Ngữ


4

văn nói riêng. Do đó, sáng kiến cịn nhằm đưa ra những giải pháp mang tính căn
cơ, định hướng kiến thức, hình thành kĩ năng, phương pháp ơn tập cho học sinh
vừa hiệu quả lại vừa thiết thực trong hoàn cảnh công tác dạy và học bị ảnh
hưởng nặng nề của dịch Covid 19 năm 2020.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
2.1. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH VỀ VẤN ĐỀ
Vấn đề giảng dạy Ngữ văn có một vai trị đặc biệt quan trọng trong nhà
trường THPT vì văn học là tri thức của đời sống. Tiếp nhận vốn tri thức văn học
là tiếp nhận vốn tri thức có khả năng đem lại cho con người vốn hiểu biết sâu
rộng trong cuộc sống. Từ xưa tới nay mơn Ngữ văn được coi là có những nhiệm
vụ như rèn luyện ngôn ngữ, rèn luyện tư duy hình tượng, giúp học sinh nhận
thức sâu sắc về xã hội... Hơn thế nữa văn chương có khả năng giáo dục nhân
cách và đạo đức của con người. Giúp con người tìm lại được chính mình.
Tuy nhiên vấn đề dạy và học Ngữ văn trong nhà trường THPT hiện nay
vẫn chưa đáp ứng được những vấn đề trên. Đối với công tác dạy và học môn
Ngữ văn của giáo viên và học sinh trường THPT Lạng Giang số 3 những năm
gần đây bên cạnh những mặt thuận lợi còn gặp khơng ít những khó khăn, trở
ngại. Chất lượng tuyển sinh đầu vào thấp, một bộ phận học sinh không có nhiệt

huyết, tình u dành cho mơn Ngữ văn. Thực trạng này đến từ nhiều phía trong
đó nổi bật ở hai khía cạnh giáo viên và học sinh.
2.1.1. Về giáo viên.
Thứ nhất, nhiều giáo viên Ngữ văn bộ môn đều nhận thấy vai trò của việc
rèn luyện kĩ năng, phương pháp, cách thức làm bài văn nghị luận văn học bởi
nó quyết định đến chất lượng của cơng tác ơn luyện cho học sinh, tuy nhiên
nhiều giáo viên trong tổ khi dạy đến mảng này đều gặp phải những khó khăn
nhất định như: việc thống hóa kiến thức, phương pháp, kĩ năng tiếp cận các
dạng đề nghị luận văn học, hướng dẫn cách làm bài nghị luận văn học cho học
sinh,... cịn hạn chế, điều đó dẫn đến kết quả của việc ơn luyện chưa cao.
Thứ hai, trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều, tỷ lệ học sinh
trung bình, yếu cịn nhiều; mặt khác, nhiều giáo viên chưa biết quan tâm đến


5

từng đối tượng học sinh, chưa có sự phân hóa đối tượng để ôn luyện dẫn đến
tâm lý chán nản, “sợ Văn”.
Thứ ba, việc ôn luyện các dạng đề nghị luận văn học của giáo viên cịn hạn
chế; tiêu chí xây dựng đề kiểm tra, đề thi môn Ngữ văn đều căn cứ trên chuẩn
kiến thức và kỹ năng. Nhiều giáo viên chưa thực sự coi trọng công tác ra đề,
luyện đề trên các dạng bài để học sinh có thói quen làm các kiểu đề khác nhau,
điều này dẫn đến chất lượng điểm thi môn Ngữ văn qua nhiều năm cịn mang
tính “thời vụ” chưa có chiều sâu, bền vững.
Thứ tư, qua công tác ôn luyện môn Ngữ văn 12 nhiều năm, tơi nhận
thấy có một thực trạng đó là nhiều giáo viên có tâm lý “đốn đề” , cầu may,
chỉ chăm chăm dạy vào phần dạng đề quen thuộc hay thi mà không dạy kĩ cho
học sinh phương pháp, kĩ năng để tiếp cận các dạng bài khác nhau.
Thứ năm, có nhiều giáo viên tâm huyết, đầu tư nhiều cho việc ôn tập, rèn
luyện kiến thức kỹ năng cho học sinh. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khiến “lực bất

tịng tâm”, chưa nhiều kinh nghiệm ơn thi, hoặc do giáo viên bận rộn với nhiều
công tác khác, hoặc do nản lòng trước thái độ học tập của học sinh, nên chưa
dành nhiều công sức đầu tư soạn giảng, khiến cho nhiều tiết học Văn mất đi
nguồn cảm hứng cho cả thầy lẫn trị. Điều này vơ hình chung đã ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả ôn luyện môn Ngữ văn.
2.1.2. Về học sinh.
Thứ nhất, nguyên nhân lớn nhất ảnh hưởng đến chất lượng điểm thi môn
Ngữ văn của học sinh trường THPT Lạng Giang số 3 chính là một bộ phận
khơng nhỏ học sinh chưa hứng thú với mơn Văn, chưa tìm được lợi ích, ý nghĩa
trong việc học Văn. Do đó, việc nâng cao chất lượng môn Ngữ văn, nhất là nâng
cao chất lượng điểm thi Tốt nghiệp THPT cho học sinh thực sự là thách thức, trở
ngại không nhỏ.
Thứ hai, một bộ phận học sinh có tâm lý ỷ lại, phó mặc, học mang tính chất
đối phó, nhất là với mơn Ngữ văn chỉ cần học thuộc mà không cần đến kĩ năng,
phương pháp, cách thức để làm bài, điều này dẫn đến hiện tượng “làm ẩu, viết
ẩu”, thậm chí viết sai hồn tồn so với yêu cầu của đề bài đặt ra.


6

Thứ ba, rất nhiều học sinh vừa thiếu, vừa yếu về kĩ năng, phương pháp,
cách tiếp cận các dạng đề, dạng bài nghị luận văn học. Do đó, học sinh khi gặp
các dạng bài khó thường bị lúng túng, khơng biết phải bắt đầu từ đâu, cách làm
bài như thế nào, hệ quả là bài làm kém chất lượng, điểm thi thấp, ảnh hưởng đến
kết quả chung của học sinh trong kỳ thi.
Ví dụ như Đề thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2019, ở phần II, mục
Làm văn, câu 2 (5,0 điểm):
Trong những dịng sơng đẹp ở các nước mà tơi thường nghe nói đến, hình
như chỉ có sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến
vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa

bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những nghềnh thác, cuộn xốy như cơn lốc
vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa
những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ qun rừng. Giữa lịng Trường Sơn,
sơng Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cơ gái Di-gan phóng
khống và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm
hồn tự do và trong sáng. Nhưng chính rừng gia nơi đây, với cấu trúc đặc biệt có
thể lí giải được về mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con
gái của mình để khi ra khỏi rừng, sơng Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp
dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hố xứ sở. Nếu
chỉ mải mê nhìn ngắm khn mặt kinh thành của nó, tơi nghĩ rằng người ta sẽ
không hiểu một cách đầy đủ bản chất củ sơng Hương với cuộc hành trình gian
trn mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà
dịng sơng hình như khơng muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa
khố trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng.
(Ai đã đặt tên cho dịng sơng? – Hồng Phủ Ngọc Tường
– Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, tr.198).
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng sơng Hương trong đoạn trích trên.
Từ đó, nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dịng sơng của nhà văn Hồng
Phủ Ngọc Tường.


7

Qua khảo sát nhận thấy rất nhiều học sinh trường THPT Lạng Giang số 3
chỉ phân tích hình tượng dịng sông Hương trong đoạn văn mà không hề nhận
xét cái nhìn độc đáo mang tính phát hiện về dịng sơng của nhà văn để từ đó chỉ
ra phong cách kí đậm chất trí tuệ và trữ tình; lối hành văn hướng nội, mê đắm,
tài hoa của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Do đó, học sinh thường bị mất
điểm ở câu nghị luận văn học này.
Từ thực trạng trong công tác dạy học mơn Ngữ văn nói chung việc dạy

các dạng bài nghị luận văn học trong đề thi Tốt nghiệp THPT nói riêng của
trường THPT Lạng Giang số 3 đã đặt ra yêu cầu cụ thể, đó là việc nâng cao chất
lượng giảng dạy môn Ngữ văn, làm thế nào để học sinh không chán Văn, yêu
Văn và học Văn một cách hiệu quả đang là những câu hỏi cần người giáo viên
phải có câu trả lời thơng qua những giải pháp mang tính căn cốt, thiết thực, phù
hợp nhằm nâng cao, cải thiện chất lượng điểm thi môn Ngữ văn trong kỳ thi Tốt
nghiệp THPT năm 2020 của học sinh trường THPT Lạng Giang số 3.
2.2. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
Xây dựng và tìm ra các giải pháp để giải quyết vấn đề là yếu tố đầu tiên
mang tính then chốt bởi giải pháp hay, thiết thực, sáng rõ sẽ khiến cho việc giải
quyết vấn đề sẽ khả thi, hiệu quả hơn; đồng thời các giải pháp sẽ góp phần khắc
phục những tồn tại, hạn chế đang gặp phải trong công tác dạy học Ngữ văn nói
chung, cơng tác ơn luyện mơn Ngữ văn 12 phục vụ cho kỳ thi Tốt nghiệp THPT
năm 2020 nói riêng tại trường THPT Lạng Giang số 3.
2.2.1. Xác định kiến thức cơ bản về văn nghị luận.
Thứ nhất, giáo viên giúp học sinh trả lời được khái niệm Văn nghị luận là
gì? Vậy để trả lời được văn nghị luận là gì thì trước hết học sinh phải hiểu được
nội hàm của khái niệm về văn nghị luận: văn nghị luận là thể văn dùng để bàn
luận về một vấn đề nào đó nhằm thuyết phục người đọc (người nghe) hiểu, tin,
đồng tình hoặc làm theo những điều người viết (người nói) đề xuất.
Thứ hai, giáo viên giúp học sinh nắm được yêu cầu của một bài văn nghị
luận. Một bài văn nghị luận phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau:


8

Xác định và viết đúng yêu cầu của đề bài, u cầu về hình thức, nội dung,
mục đích nghị luận (nếu có); bố cục mạch lạc, kết cấu sáng rõ.
Biết cách chia luận điểm thành các đoạn văn tương ứng và giữa các luận
điểm phải có sự liên kết cả về nội dung và hình thức. Tránh cách viết từ đầu đến

cuối mà khơng hề có ý, có đoạn; cần có ý tưởng sáng tạo; lập luận phải chặt chẽ,
lơ gíc; cần có sự kết hợp các phương thức biểu đạt trong bài văn; dẫn chứng
minh họa phải chọn lọc, tránh ơm đồm, cồng kềnh, hình thức và quan trọng là
dẫn chứng đó phải làm sáng rõ vấn đề bàn luận.
Khi làm một bài văn nghị luận văn học cần lưu ý bám sát vào tác phẩm,
tránh sự thoát li, bình tán sáo rỗng mà khơng có căn cứ, dẫn chứng từ tác phẩm
văn học.
2.2.2. Các bước để làm một bài văn nghị luận văn học.
Giáo viên giúp học sinh nắm chắc các bước để làm một bài văn nghị luận
văn học, cụ thể như sau:
Bước một, tìm hiểu đề: xác định vấn đề cần nghị luận; xác định kiểu đề
nghị luận văn học; xác định các thao tác lập luận; xác định phạm vi dẫn chứng.
Bước hai, tìm ý và lập dàn ý: tìm ý; lập dàn ý.
Bước ba, viết thành một bài văn hoàn chỉnh.
Bên cạnh ba bước cơ bản trên thì muốn viết được một bài văn nghị luận
văn học hấp dẫn, thuyết phục thì cách dựng đoạn văn và liên kết đoạn văn đóng
vai trị rất quan trọng bởi nó tạo cho bài văn sự kết nối logic, chặt chẽ.
2.2.3. Xác định các dạng bài nghị luận văn học trong đề thi.
Việc xác định các dạng bài nghị luận văn học trong đề thi đóng vai trò
quan trọng trong việc hướng dẫn phương pháp, kĩ năng giúp cho học sinh có thể
làm bài tốt. Bởi mỗi kiểu dạng bài lại có những đặc điểm, yêu cầu khác nhau, vì
thế việc nắm chắc các dạng bài nghị luận văn học trong đề thi chính là “chìa
khóa” giúp cho các em mở được “cánh cửa” của đề thi, chinh phục nó để có thể
đạt được điểm thi cao nhất.
Qua nghiên cứu, tìm hiểu về phần kiến thức nghị luận văn học, tơi nhận
thấy có một số dạng bài nghị luận văn học sau đây thường xuyên xuất hiện trong


9


các đề thi THPT Quốc gia trước đây và đề thi minh họa cho kỳ thi Tốt nghiệp
THPT năm 2020. Cụ thể như sau:
2.2.3.1. Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xi.
Dạng bài cảm thụ, phân tích một tác phẩm, một đoạn trích văn xi là bàn
luận về giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm hoặc đoạn trích văn
xi. Đối tượng nghị luận là một tác phẩm hoặc một đoạn trích văn xi. Để đáp
ứng dạng đề này, học sinh cần có những hiểu biết nhất định về thể loại (truyện
ngắn, tiểu thuyết, tùy bút, bút kí,…). Trong đó mỗi thể loại có cách thức thể hiện
riêng không giống các thể loại khác. Phát hiện, xác định những hình thức ngơn
ngữ khác nhau; những hình tượng nhân vật khác nhau, mỗi nhân vật lại có vai
trị riêng trong việc thể hiện giá trị nội dung, tư tưởng của tác phẩm.
2.2.3.1.1. Cảm thụ, phân tích một tác phẩm, một đoạn trích văn xi
khơng theo định hướng:
Với đề bài yêu cầu cảm thụ, phân tích một tác phẩm hoặc một trích đoạn
văn xi khơng theo định hướng, giáo viên cần đưa ra phương pháp, cách thức,
kĩ năng giải quyết dạng đề bài này, cụ thể như sau:
Bước 1: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề: Đọc kĩ đề, xác định nội dung
nghị luận trong tác phẩm, đoạn trích văn xi; Xác định thao tác lập luận; Phạm
vi dẫn chứng.
Bước 2: Hướng dẫn học sinh tìm ý:
- Tìm ý bằng cách lập câu hỏi: vị trí, vai trò của tác phẩm trong nền văn
học? Nội dung, tư tưởng của tác phẩm là gì? Điểm đặc sắc của tác phẩm?,...
- Tìm ý bằng cách đi sâu vào tình huống, chi tiết, từ ngữ, hệ thống nhân
vật,....của tác phẩm văn học.
Bước 3: Hướng dẫn học sinh lập dàn ý:
* Phần mở bài:
- Đối với đề bài yêu cầu nghị luận về tác phẩm:
+ Giới thiệu về tác giả (những nét chính về cuộc đời và phong cách có ảnh
hưởng đến tác phẩm).



10

+ Khái quát nội dung tư tưởng của tác phẩm được bàn luận (nhấn vào
những khía cạnh trọng tâm mà mình sẽ triển khai ở phần thân bài).
- Đối với đề bài yêu cầu nghị luận về một đoạn trích:
+ Giới thiệu về tác giả và tác phẩm (những kiến thức văn học sử cơ bản
nhất).
+ Nêu vị trí của trích đoạn trong tác phẩm và nội dung cơ bản.
* Phần thân bài: (khai triển ý chung cho cả đề về tác phẩm và đề về đoạn
trích)
- Cách thứ nhất: phân tích theo lối cắt ngang tác phẩm, đi theo bố cục của
tác phẩm, bám sát vào hệ thống ý chính và vẫn phải làm tốt lên được thành
cơng về nội dung và nghệ thuật (thường áp dụng cho một tác phẩm trọn vẹn).
- Cách thứ hai: phân tích theo lối bổ dọc, tức là đi theo hai khía cạnh cơ
bản của tác phẩm (xuyên suốt từ đầu đến cuối): nội dung và hình thức.
Tuy nhiên, trong tác phẩm văn học, khơng thể tách nội dung ra khỏi hình
thức, hay hình thức khỏi nội dung. Nội dung chỉ có thể thể hiện trong hình thức
và hình thức phải là hình thức của một nội dung nào đó. Nhưng trong quá trình
phân tích cần phải làm rõ theo trình tự các ý cơ bản sau:
+ Những nét đặc sắc nổi bật về nội dung tư tưởng.
+ Những nét đặc sắc nổi bật về hình thức nghệ thuật.
+ Tổng hợp đánh giá chung về tác phẩm, đoạn trích (giá trị hiện thực, giá
trị nhân đạo, giá trị nghệ thuật).
* Phần kết bài:
- Nêu đánh giá chung về thành công của tác phẩm hoặc đoạn trích.
- Ý nghĩa của tác phẩm hoặc đoạn trích đối với văn học và đời sống.
2.2.3.1.2. Cảm thụ, phân tích một tác phẩm, một đoạn trích văn xi
theo định hướng:
Đối với dạng đề này thì ít khi có câu hỏi thuần túy đối với toàn bộ tác

phẩm (VD: Anh/chị hãy phân tích bút kí Ai đã đặt tên cho dịng sơng? của
Hồng Phủ Ngọc Tường) mà thường hỏi theo định hướng (VD: Bút kí Ai đã đặt
tên cho dịng sơng? của Hồng Phủ Ngọc Tường thể hiện một lối hành văn


11

hướng nội, mê đắm, tài hoa. Anh/chị hãy phân tích bút kí bút kí Ai đã đặt tên
cho dịng sơng? của Hoàng Phủ Ngọc Tường để làm sáng tỏ ý kiến trên). Cịn
đối với đoạn trích văn xi hỏi theo định hướng như đề bài dưới đây:
Trong những dịng sơng đẹp ở các nước mà tơi thường nghe nói đến, hình
như chỉ có sơng Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến
vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa
bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những nghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc
vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa
những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Giữa lòng Trường Sơn,
sơng Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cơ gái Di-gan phóng
khống và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm
hồn tự do và trong sáng. Nhưng chính rừng gia nơi đây, với cấu trúc đặc biệt có
thể lí giải được về mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con
gái của mình để khi ra khỏi rừng, sơng Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp
dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở. Nếu
chỉ mải mê nhìn ngắm khn mặt kinh thành của nó, tơi nghĩ rằng người ta sẽ
không hiểu một cách đầy đủ bản chất củ sơng Hương với cuộc hành trình gian
trn mà nó đã vượt qua, khơng hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà
dịng sơng hình như khơng muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa
khố trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng.
(Ai đã đặt tên cho dịng sống? – Hồng Phủ Ngọc Tường – Ngữ
văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, tr.198).
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng sơng Hương trong đoạn trích trên.

Từ đó, nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dịng sơng của nhà văn Hoàng
Phủ Ngọc Tường.
Đây là câu hỏi Nghị luận văn học trong đề thi THPT Quốc gia môn Ngữ
văn năm 2019. Yêu cầu với câu hỏi này học sinh khơng chỉ phân tích được nội
dung, nghệ thuật của đoạn trích mà cịn phải làm nổi bật phong cách nghệ thuật
của nhà văn.


12

Vì thế, đối với dạng đề cảm thụ phân tích tác phẩm, đoạn trích văn xi
theo định hướng, giáo viên cần chú ý phương pháp, kĩ năng làm bài cho học sinh
như sau:
Bước 1: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề: Đọc kĩ đề, xác định nội dung
nghị luận trong tác phẩm, đoạn trích văn xi theo định hướng; Xác định thao
tác lập luận; Phạm vi dẫn chứng.
Bước 2: Hướng dẫn học sinh tìm ý:
- Tìm ý bằng cách lập câu hỏi: định hướng được đặt ra trong đề bài là gì?
Định hướng được thể hiện rõ trong tác phẩm thế nào? Thông qua định hướng
khẳng định giá trị của tác phẩm ra sao?,...
- Tìm ý bằng cách bám sát vào định hướng, chia tách ý để làm sáng rõ qua
tác phẩm hay đoạn trích,...
Bước 3: Hướng dẫn học sinh lập dàn ý:
* Phần mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm; nếu là đoạn trích thì nêu vị
trí đoạn trích trong tác phẩm.
- Nêu luận đề của đề bài (phần định hướng).
* Phần thân bài:
- Nếu phần định hướng nêu rõ thành các vấn đề thì học sinh căn cứ vào
nội dung định hướng để chia tách thành các luận điểm trong phần thân bài (mỗi

một vấn đề được hỏi sẽ là một luận điểm).
- Nếu phần định hướng khơng rõ ràng thì cần căn cứ vào kiến thức văn
học và năng lực văn học để chia tách thành các luận điểm cho phù hợp.
Nhưng dù phần định hướng như thế nào thì bài viết vẫn phải đảm bảo hệ
thống các ý cơ bản sau:
- Trình bày về phương diện đề yêu cầu (dù là phương diện nào thì vẫn
phải đảm bảo được những giá trị cơ bản: nội dung, hình thức của văn học; tùy
vấn đề bàn bạc mà giá trị nào là chính).
- Nhận định, đánh giá về vấn đề được bàn bạc.
* Phần kết bài:


13

- Khẳng định vấn đề được bàn là một thành công (hay hạn chế) của tác
phẩm.
- Ý nghĩa đối với văn học và đời sống.
2.2.3.2. Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ.
2.2.3.2.1. Phương pháp, kĩ năng làm bài cảm thụ, phân tích một khổ
thơ, đoạn thơ hoặc bài thơ thuần túy (thơng thường).
Có thể nói đây là dạng bài mà học sinh được tự do phát biểu cảm nhận
của mình về tác phẩm thơ hay đoạn thơ để phân tích, bộc lộ những xúc cảm, suy
nghĩ của người viết nhằm cần làm nổi bật được những giá trị cơ bản về nội dung
và nghệ thuật của tác phẩm, lí giải được cái hay, cái đẹp của đoạn thơ, bài thơ.
Hiện nay, việc ra đề về một bài thơ đoạn thơ thường yêu cầu phân tích một đoạn
thơ trong bài thơ đối với bài thơ dài; yêu cầu phân tích bài thơ đối với bài thơ
ngắn.
Cho nên, với dạng đề bài này giáo viên hướng dẫn học sinh phương pháp
làm bài theo trình tự sau:
Bước 1: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề: Đọc kĩ đề, xác định nội dung

nghị luận trong bài thơ, đoạn thơ; Xác định thao tác lập luận; Phạm vi dẫn
chứng.
Bước 2: Hướng dẫn học sinh tìm ý:
- Tìm ý bằng cách lập câu hỏi: tác phẩm hay ở chỗ nào? Nó xúc động ở
tình cảm, tư tưởng gì? Cái hay thể hiện ở hình thức nghệ thuật nào? Hình thức
đó được xây dựng bằng những thủ pháp nào?
- Tìm ý bằng cách đi sâu vào những hình ảnh, từ ngữ, tầng nghĩa của tác
phẩm văn học.
Bước 3: Hướng dẫn học sinh lập dàn ý:
* Mở bài:
- Dẫn dắt vào đề: giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm (thường nêu xuất
xứ, hoàn cảnh ra đời của bài thơ).
- Nêu vấn đề:


14

+ Nếu đề u cầu phân tích tồn bộ tác phẩm thì khái quát đặc sắc nổi bật
về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
+ Nếu đề chỉ yêu cầu phân tích một đoạn thơ thì nêu vị trí và nội dung cơ
bản của đoạn trích đó.
* Thân bài: có thể triển khai theo hai cách sau:
- Cắt ngang theo bố cục tác phẩm: lần lượt phân tích từng khổ thơ, đoạn
thơ; ở mỗi phần cần làm rõ những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật cũng
như cái hay, cái đẹp của văn bản thơ.
- Bổ dọc: phân tích đoạn thơ, bài thơ theo hai bình diện cơ bản là nội dung
tư tưởng và hình thức nghệ thuật.
* Kết bài:
- Tổng kết, đánh giá về giá trị, đóng góp của đoạn thơ đối với chỉnh thể
tác phẩm, của bài thơ đối với sự nghiệp sáng tác của tác giả và với nền văn học.

2.2.3.2.2. Phương pháp, kĩ năng làm bài cảm thụ, phân tích một khổ
thơ, đoạn thơ hoặc bài thơ theo định hướng.
Đây là dạng bài yêu cầu học sinh cần vận dụng kiến thức về tác phẩm một
cách linh hoạt. Người viết không chỉ phân tích thuần t văn bản tác phẩm mà
cịn biết gắn việc phân tích ấy vào định hướng của đề bài, qua phân tích mà làm
rõ vấn đề được nêu. Dạng đề này thường hỏi toàn bộ văn bản bài thơ, do đó học
sinh khơng thể sa đà phân tích miên man, thuần tuý từ đầu đến cuối tác phẩm mà
cần bám sát vào yêu cầu của đề; ở mỗi luận điểm, luận cứ cần lựa chọn được
những câu thơ, đoạn thơ tiêu biểu nhất, phù hợp nhất để phục vụ tốt nhất cho
định hướng của đề bài. Định hướng này đã được nêu rõ, gợi dẫn trong đề bài (có
thể dưới dạng một ý kiến, nhận định) hoặc có khi người viết phải tự tìm dựa vào
kiến thức và kĩ năng của mình. Về cơ bản, có thể triển khai bài viết theo trình tự
sau:
Bước 1: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề: Đọc kĩ đề, xác định nội dung
nghị luận trong bài thơ, đoạn thơ theo định hướng mà đề bài đặt ra; Xác định
thao tác lập luận; Phạm vi dẫn chứng.
Bước 2: Hướng dẫn học sinh tìm ý:


15

- Tìm ý bằng cách lập câu hỏi: định hướng đặt ra vấn đề gì? Đoạn thơ, bài
thơ đã tập trung làm nổi bật định hướng như thế nào?,...
- Tìm ý bằng cách đi sâu vào những hình ảnh, từ ngữ, tầng nghĩa của tác
phẩm văn học để từ đó làm sáng tỏ định hướng đặt ra trong đề bài.
Bước 3: Hướng dẫn học sinh lập dàn ý:
* Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Nêu luận đề của đề bài. Nếu đề có ý kiến, nhận định thì cần trích dẫn ý
kiến, nhận định đó.

* Thân bài: có thể triển khai theo hai cách:
- Một là: phân tích tác phẩm trước, trên cơ sở đó khái quát, bàn luận về
luận đề được nêu trong đề bài.
- Hai là: dựa vào những gợi ý của đề bài và kiến thức đã học, chia tách
vấn đề cần giải quyết thành các luận điểm và lần lượt triển khai từng luận điểm
đó bằng những luận cứ phù hợp. Ở mỗi luận điểm, luận cứ cần lựa chọn những
câu thơ, những dẫn chứng tiêu biểu, phân tích để làm sáng tỏ vấn đề.
* Lưu ý: nếu vấn đề cần làm sáng tỏ trong đề bài được nêu dưới hình thức
một ý kiến, nhận định thì cần giải thích rõ nhận định; trên cơ sở đó mà tìm được
luận đề cũng như hệ thống luận điểm, luận cứ của bài viết.
* Kết bài:
Tổng kết, đánh giá về vấn đề đã triển khai trong bài viết, nêu ảnh hưởng,
tác dụng, ý nghĩa của tác phẩm.
2.2.3.3. Phân tích/cảm nhận nhân vật trong tác phẩm văn xi.
Phân tích, cảm nhận về nhân vật là dạng đề quen thuộc, thường gặp vì vậy
trở thành dạng đề quan trọng khi tiếp cận tác phẩm văn xi. Phân tích, cảm
nhận để hiểu rõ, hiểu đúng nhân vật trong tác phẩm chính là để tiếp nhận đúng
nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của tác phẩm đó. Có thể nói, phân
tích hay cảm nhận về nhân vật chính là cách tiếp cận tác phẩm trên cả phương
diện nội dung và hình thức của tác phẩm. Các kiểu nhân vật thường gặp trong
tác phẩm văn học như:


16

- Nhân vật chính và nhân vật phụ.
- Nhân vật chính diện (nhân vật tích cực) và nhân vật phản diện (nhân vật
tiêu cực).
- Nhân vật chức năng và nhân vật loại hình (dựa vào những đặc điểm và
nhiệm vụ của một loạt nhân vật cùng loại nào đó để phân loại).

- Nhân vật tính cách và điển hình (đây là ba cấp độ chất lượng xây dựng
nhân vật của nhà văn trong một tác phẩm nào đó).
- Nhân vật tư tưởng (qua loại nhân vật này nhà văn muốn phản ánh một
khuynh hướng tư tưởng, một vấn đề tư tưởng nào đó trong xã hội).
Kiểu dạng đề phân tích, cảm nhận nhân vật trong tác phẩm văn xuôi là
kiểu dạng đề phổ biến xuất hiện nhiều năm liền trong các đề thi THPT Quốc gia
môn Ngữ văn. Năm 2020, Bộ Giáo dục và Đào tạo trong lần công bố Đề thi
minh họa môn Ngữ văn (lần 01) ngày 03/04/2020 thì ở phần Làm văn, câu 2 đề
bài yêu cầu: Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đêm mùa xuân ở Hồng
Ngài (Vợ chồng A Phủ - Tô Hồi). Như vậy, có thể thấy kiểu dạng đề phân tích/
cảm nhận về nhân vật là dạng đề quen thuộc đối với cả giáo viên và học sinh.
2.2.3.3.1. Phân tích/cảm nhận nhân vật không theo định hướng:
Ở dạng đề này, người viết không buộc phải đi theo một chỉ dẫn cụ thể nào
mà được tự do trình bày ý kiến của mình (Chẳng hạn: Phân tích nhân vật Tràng
trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân; Phân tích nhân vật A Phủ trong truyện
ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hồi). Vậy thì vấn đề đặt ra với người viết là sẽ
xác lập hệ thống luận điểm như thế nào cho chính xác, chặt chẽ và hợp lí? Muốn
làm tốt kiểu đề này thì địi hỏi học sinh phải nắm vững hai yêu cầu:
Thứ nhất, có kiến thức chuẩn, đầy đủ, sâu sắc về tác phẩm và về nhân vật.
Thứ hai, có phương pháp, kĩ năng phân tích nhân vật.
Để thể hiện được hai yêu cầu trên, chúng tôi xin trình bày các bước và bố
cục một bài phân tích, cảm nhận nhân vật để giáo viên hướng dẫn cho học sinh
làm bài như sau:
Bước 1: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề: Đọc kĩ đề, xác định yêu cầu
được đặt ra trong đề bài; Xác định thao tác lập luận; Phạm vi dẫn chứng.


17

Bước 2: Hướng dẫn học sinh tìm ý:

- Tìm ý bằng cách lập câu hỏi: vai trị, vị trí của nhân vật trong tác phẩm?
Mối quan hệ của nhân vật trong tác phẩm? ấn tượng của nhân vật thông qua
những chi tiết, hình ảnh nào?,...
- Tìm ý bằng cách đi sâu vào những chi tiết, hình dáng, lời nói, hành
động, thế giới nội tâm của nhân vật,... để làm sáng tỏ nhân vật trong tác phẩm
văn học.
Bước 3: Hướng dẫn học sinh lập dàn ý:
* Phần mở bài:
- Nêu xuất xứ của nhân vật (từ tác phẩm nào, của tác giả nào).
- Giới thiệu khái quát về nhân vật (đây là nhân vật thuộc loại nào; đây là
nhân vật quen thuộc trong văn học hay có nguồn gốc từ chính sử, hoặc là
nguyên mẫu của cuộc sống,…). Lời giới thiệu khái quát dựa trên những hiểu
biết rõ ràng của người viết về nhân vật trong tác phẩm.
* Phần thân bài:
- Thứ nhất: Tìm hiểu nhân vật qua chi tiết.
Hình tượng nhân vật trong tác phẩm văn học hiện lên dần dần qua các chi
tiết cụ thể trong suốt quá trình đọc tác phẩm. Vậy người viết phải bám sát vào
các chi tiết lần lượt xuất hiện, nối kết các chi tiết đó lại mới thấy hiện lên nhân
vật hồn chỉnh.
Trình bày nhân vật theo từng luận điểm. Mỗi luận điểm có thể là một đặc
điểm, một khía cạnh nào đó của hình tượng nhân vật. Mỗi luận điểm được khai
triển sẽ tương ứng với một đoạn trong phần thân bài (cần tránh viết dàn trải, kể
lể về nhân vật). Ở mỗi luận điểm đều cần đưa ra những luận cứ, luận chứng cụ
thể xác đáng, làm bật lên được nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả, thái độ
của tác giả đối với nhân vật.
Khi phân tích, cảm nhận nhân vật theo tiến trình tác phẩm, bám sát các
chi tiết cần chú ý phân loại thành các khía cạnh sau:
+ Hình dáng bên ngồi (gương mặt, dáng dấp,…).



18

+ Lời nói, cách nói, cử chỉ của nhân vật (lời nói, cách nói của mỗi người
đều mang nét riêng, liên quan đến cuộc đời, tính cách và dụng ý trong từng
trường hợp).
+ Thế giới nội tâm (cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng bên trong).
+ Hình tượng nhân vật nổi rõ hơn lên trong mối quan hệ với các nhân vật
khác, khi đối sánh với các nhân vật khác (đối với nhiều tác phẩm tự sự, việc
phân tích tìm hiểu những chuyển biến trong tâm hồn, tình cảm của nhân vật là
cơ sở để lí giải cử chỉ, hành động của họ trong mối quan hệ với các nhân vật
khác. Từ đó thấy được sự phát triển tính cách của mỗi nhân vật).
+ Cảnh bên ngồi, mơi trường sống (nhằm giúp lí giải những điều nào đó
trong thế giới tinh thần của nhân vật).
- Thứ hai: Những tổng kết, nhận định, đánh giá về nhân vật.
Sau khi đã tìm hiểu các khía cạnh, các chi tiết cụ thể của hình tượng nhân vật
phải đi đến những tổng kết, nhận định, đánh giá về nhân vật:
+ Chiều sâu tư tưởng thể hiện qua nhân vật (thành công của tác giả về nội
dung tư tưởng).
+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật (thành cơng của tác giả về nghệ thuật).
+ Đóng góp của nhân vật về nhận thức, về giáo dục, về thẩm mĩ cho
người đọc.
Tất cả những nhận định, đánh giá đưa ra phải có căn cứ và lập luận chặt
chẽ. Có căn cứ là nói điều gì phải có dẫn chứng phù hợp rút ra từ văn bản tác
phẩm. Lập luận chặt chẽ nghĩa là phải nêu ra lí lẽ vì sao mình lại nói như thế.
Tuy khơng cần phải giải thích dài dịng, nhưng phải làm cho người đọc thấy rõ
những nhận định đưa ra đều theo một hệ thống lí luận, dựa trên những quan
điểm nhất định.
* Phần kết bài:
- Bày tỏ tình cảm, cảm xúc của mình đối với nhân vật.
- Đánh giá vị trí vai trị của nhân vật trong tác phẩm, đóng góp của nhà

văn về tư tưởng, về nghệ thuật cho quá trình phát triển của văn học.
2.2.3.3.2. Phân tích/cảm nhận nhân vật theo định hướng:


19

Đối với kiểu đề này thường yêu cầu làm rõ những điểm đặc sắc nổi bật
của nhân vật hoặc thành công của tác giả thể hiện trong tác phẩm thông qua
nhân vật.
Ví dụ: Một trong những nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là
nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ.
Hãy phân tích nhân vật người lái đị trong tùy bút Người lái đị sơng Đà
của Nguyễn Tuân để làm sáng tỏ nhận định trên.
Vì vậy khi khai triển vấn đề trong bài làm cần chú ý tập trung vào những
yêu cầu đó để tiến hành phân tích nhân vật.
Trên thực tế khi phân tích, cảm nhận nhân vật thuần túy hay theo định
hướng thì cơ bản vẫn phải đi theo chi tiết trong tác phẩm, tiến trình diễn biến các
sự kiện trong truyện để dựng lên bức chân dung của nhân vật. Từ đó đưa ra
những đánh giá kết luận về nhân vật đó. Chỉ khác biệt ở chỗ:
- Phần mở bài của dạng đề phân tích nhân vật theo định hướng sau khi
nêu những kiến thức văn học sử liên quan (tác giả, tác phẩm), cần phải (điểm
khác) giới thiệu khái quát nhận định được đặt ra trong đề bài để xác định đó là
căn cứ trọng tâm để triển khai thân bài.
- Phần thân bài, vẫn là điểm chung ở chỗ khai thác các khía cạnh về nhân
vật để bật lên nét riêng của nhân vật và thành công của tác giả. Nhưng ở đề bài
có định hướng thì người viết phải ln ln có ý thức dùng nhận định (ý kiến, sự
bàn luận) trong đề bài làm kim chỉ nam để hướng nhân vật đi theo, bám sát vào
định hướng để khai triển ý, hành văn và diễn đạt cảm xúc.
- Phần kết bài, ngồi những đánh giá chung thì cần nhấn mạnh vào khía
cạnh mà định hướng đặt ra để kết thúc vấn đề.

2.2.3.4. Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học.
Dạng đề nghị luận về một ý kiến bàn về văn học là dạng đề quen thuộc,
thường xuất hiện trong các đề thi THPT Quốc gia vài năm trở lại đây. Vì thế,
đây là dạng đề quan trọng và trọng tâm nhất mà học sinh cần năm vững kỹ năng,
phương pháp để làm dạng đề này. Đây là dạng đề có tính chất định hướng cụ


20

thể, căn cứ vào một ý kiến bàn về văn học qua đó khai thác tác phẩm để làm
sáng tỏ vấn đề cần bàn luận.
Giáo viên khi dạy dạng đề bài này cần giúp học sinh xây dựng các bước,
bố cục, dàn ý để triển khai, khai thác một đề bài nghị luận về một ý kiến bàn về
văn học như sau:
Bước 1: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề: Đọc kĩ đề, xác định yêu cầu
được đặt ra trong đề bài; Xác định thao tác lập luận; Phạm vi dẫn chứng.
Bước 2: Hướng dẫn học sinh tìm ý:
- Cần xác định rõ ý kiến bàn về phương diện nào của tác phẩm văn học:
nội dung hay nghệ thuật, tình huống truyện hay chi tiết truyện, nhân vật hay
nghệ thuật xây dựng nhân vật,…
- Ý kiến được đưa ra bàn luận là đúng hay sai? Quan điểm cá nhân đối với
ý kiến đó như thế nào?
- Bám sát vào tác phẩm để tìm những chi tiết nổi bật và làm rõ ý kiến
nhận định. Từ đó xây dựng thành hệ thống các luận điểm để làm sáng rõ vấn đề
lí luận được đặt ra qua tác phẩm văn học.
Bước 3: Hướng dẫn học sinh lập dàn ý:
* Phần mở bài:
– Dẫn dắt vấn đề, giới thiệu tác giả tác phẩm.
– Nêu xuất xứ và trích dẫn ý kiến.
* Phần thân bài:

– Giải thích, làm rõ vấn đề:
+ Giải thích, cắt nghĩa các từ, cụm từ có nghĩa khái quát hoặc hàm ẩn
trong ý kiến.
+ Sau khi cắt nghĩa các từ ngữ cần thiết cần phải giải thích, làm rõ nội
dung của cả ý kiến. Thường trả lời các câu hỏi: ý kiến trên đề cập đến vấn đề gì?
Ý kiến ấy có ý nghĩa như thế nào?
– Bàn bạc, khẳng định vấn đề. Có thể lập luận theo cách sau:
+ Khẳng định ý kiến đó đúng hay sai? Cụ thể?


21

+ Lí giải tại sao lại nhận xét như thế? Căn cứ vào đâu để có thể khẳng
định được như vậy?
+ Điều đó được thể hiện cụ thể như thế nào trong tác phẩm, trong văn học
và trong cuộc sống? Phân tích và lấy dẫn chứng trong tác phẩm văn học.
– Mở rộng, nâng cao, đánh giá ý nghĩa của vấn đề đó với cuộc sống, với
văn học.
* Phần kết bài:
- Khẳng định lại tính chất đúng đắn của vấn đề.
- Rút ra những bài học cho bản thân từ vấn đề đã nêu.
2.2.3.5. Nghị luận so sánh văn học.
Thứ nhất, đây là dạng đề phổ biến và xuất hiện nhiều trong các đề thi
THPT Quốc gia nhiều năm trở lại đây. Dạng đề nghị luận so sánh văn học
thường gặp như: So sánh hai tác phẩm văn học; So sánh hai chi tiết trong hai tác
phẩm văn học; So sánh hai tình huống trong hai tác phẩm văn học; So sánh hai
đoạn thơ; So sánh hai đoạn văn; So sánh một đoạn thơ và một đoạn văn xuôi; So
sánh hai nhân vật; So sánh cách kết thúc hai tác phẩm; So sánh, đánh giá lời
nhận định về một tác phẩm.
Thứ hai, giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm bắt đặc trưng cơ bản của

dạng đề so sánh văn học.
So sánh văn học trước hết để tìm ra những điểm chung, những nét giống
nhau của các hiện tượng văn học. Mặt khác, mục đích quan trọng nhất của so
sánh là phát hiện, khám phá những nét riêng độc đáo của từng tác phẩm, tác giả.
Trên cơ sở đó mà đánh giá những đóng góp và phong cách riêng của mỗi nhà
văn, mỗi hiện tượng văn học. Có thể so sánh văn học trên mọi cấp độ: nhỏ nhất
là giữa các chi tiết, từ ngữ, hình ảnh, lớn hơn là các nhân vật, sự kiện, tác phẩm,
tác giả, thể loại ,lớn hơn nữa là giai đoạn văn học này với giai đoạn văn học
khác, dân tộc này với dân tộc kia, thời đại với thời đại khác. Song, dù so sánh ở
cấp độ nào cũng đều phải dựa trên cùng một tiêu chí, chung một bình diện.
Với kiểu dạng đề bài so sánh, giáo viên cần phải giúp học sinh nắm chắc
phương pháp, kĩ năng, cách thức làm kiểu bài so sánh văn học.


22

Thứ ba, cách thức làm bài so sánh:
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh triển khai bài viết theo hai cách cơ
bản như sau:
- Cách thứ nhất (so sánh nối tiếp): phân tích lần lượt hết tác phẩm này
đến tác phẩm kia, hình tượng này đến hình tượng khác. Trên cơ sở đó mà khái
quát những điểm giống nhau và khác nhau của các hình tượng, các văn bản văn
học. Cách làm này dễ hơn, an toàn hơn nhưng khó hay. Mơ hình khái qt của
cách làm bài này như sau:
+ Mở bài: Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này); giới thiệu khái
quát về các đối tượng so sánh.
+ Thân bài:
Làm rõ đối tượng so sánh thứ nhất (bước này vận dụng kết hợp nhiều
thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích).
Làm rõ đối tượng so sánh thứ hai (bước này vận kết hợp nhiều thao tác

lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích).
So sánh: Nhận xét nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả
các bình diện như chủ đề, nội dung hình thức nghệ thuật,... (bước này vận dụng
kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích và
thao tác lập luận so sánh).
Lý giải sự khác biệt: Thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện:
bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc
trưng thi pháp của thời kì văn học,…(bước này vận nhiều thao tác lập luận
nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích).
+ Kết bài: Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu; có thể
nêu những cảm nghĩ của bản thân.
- Cách thứ 2 (so sánh song song): chia tách đối tượng, văn bản thành
nhiều bình diện khác nhau; xác định các tiêu chí so sánh. Mỗi bình diện sẽ tương
ứng với một luận điểm của bài viết. Ở mỗi luận điểm, người viết tìm ra những
luận cứ, dẫn chứng phù hợp; đối chiếu giữa các yếu tố, các phần đoạn văn bản
để thấy được nét riêng của từng tác phẩm, phong cách riêng của từng tác giả.


23

Cách làm này khó hơn, địi hỏi bản lĩnh cao hơn của người viết, nhưng cũng vì
vậy mà hay hơn, giàu sức thuyết phục hơn. Mơ hình khái qt của cách làm bài
này như sau:
+ Mở bài: Dẫn dắt (mở bài trực tiếp không cần bước này); giới thiệu khái
quát về các đối tượng so sánh.
+ Thân bài: Điểm giống nhau (đưa ra luận điểm, dẫn chứng); điểm khác
nhau (đưa ra luận điểm, dẫn chứng).
+ Kết bài: Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu; có thể
nêu những cảm nghĩ của bản thân.
Thứ tư, khi làm bài so sánh văn học giáo viên cần lưu ý cho học sinh

mấy điểm sau đây:
- So sánh cốt để làm nổi bật cái hay, cái đẹp của tác phẩm được phân tích
chứ khơng phải để phơ trương kiến thức lan man, mất trọng tâm; bài viết trở nên
tản mạn, lạc đề, gây cảm giác khó chịu cho người đọc. Những liên hệ so sánh
hay là những so sánh khiến cho người đọc cảm thấy rất tự nhiên mà vấn đề lại
nổi bật được các góc cạnh và màu sắc của nó.
- Nguyên tắc hàng đầu của so sánh văn học là không lấy nội dung so sánh
thay thế cho việc khám phá, phân tích bản thân tác phẩm. So sánh khơng phải là
mục đích mà chỉ là phương tiện, là con đường đi vào tác phẩm. Những liên hệ
ngoài tác phẩm không được làm đứt mối với đường dây chủ đề của tác phẩm.
2.2.3.6. Dạng đề phân tích một khía cạnh, một phương diện nào đó
của tác phẩm văn xi.
Đối với kiểu đề này vấn đề được đặt ra vô cùng phong phú, đa dạng. Vì
vậy, học sinh khơng chỉ nắm vững các đơn vị kiến thức về tác phẩm mà cần phải
có phương pháp, kĩ năng thuần thục để triển khai bài viết đáp ứng yêu cầu mà đề
ra. Với dạng đề bài này, học sinh sẽ gặp một số thuận lợi và khó khăn:
Về thuận lợi, khi hỏi một khía cạnh của tác phẩm đề thường gắn với định
hướng cụ thể. Tất nhiên có những định hướng nêu rõ (VD: Anh/chị phân tích giá
trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân), có
những định hướng khơng nêu rõ (VD: Phân tích những thành công về nội dung


24

tư tưởng của truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu). Nhưng
dù sao khi gắn với một định hướng học sinh sẽ chủ động hơn trong việc triển
khai bài viết.
Về khó khăn, nhiều học sinh sẽ đánh đồng kiến thức, khơng có ý thức đầy
đủ về u cầu của đề bài, không bám sát định hướng nên rập khn, máy móc
trong việc triển khai.

Trên cơ sở phân tích thuận lợi và khó khăn của dạng đề bài trên, giáo viên
cần xây các bước, dàn ý để triển khai một đề bài khai thác một khía cạnh hay
một phương diện nào đó của tác phẩm như sau:
Bước 1: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề: Đọc kĩ đề, xác định yêu cầu
được đặt ra trong đề bài; Xác định thao tác lập luận; Phạm vi dẫn chứng.
Bước 2: Hướng dẫn học sinh tìm ý:
- Tìm ý bằng cách lập câu hỏi: khía cạnh, phương diện bàn về nội dung
hay nghệ thuật? Biểu hiện của khía cạnh trong tác phẩm? Vai trị, ý nghĩa của
khía cạnh, phương diện trong tác phẩm?,....
- Tìm ý bằng cách đi sâu vào những biểu hiện của khía cạnh, phương diện
để làm rõ được vai trò, ý nghĩa trong tác phẩm văn học.
Bước 3: Hướng dẫn học sinh lập dàn ý:
* Phần mở bài:
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm.
- Gọi tên đích danh khía cạnh cần bàn và nêu khái quát nội dung cơ bản
của vấn đề đó.
* Phần thân bài:
Có nhiều cách khai triển khác nhau, nhưng cơ bản nên đi theo trình tự các
ý chính như sau:
- Xác định khía cạnh ấy thuộc phương diện nào của tác phẩm (nội dung,
nghệ thuật).
- Phân tích những biểu hiện của khía cạnh ấy trong tác phẩm (dẫn chứng).
- Nêu ý nghĩa của khía cạnh ấy đối với giá trị chung của tác phẩm.


25

- Đánh giá vai trị của khía cạnh đó của tác phẩm trên bình diện văn học
và cuộc sống.
(Chú ý: vì chỉ phân tích một khía cạnh nên bài viết phải nêu đầy đủ, cụ thể

những biểu hiện của khía cạnh ấy trong tác phẩm và tập trung phân tích để nêu
rõ vẻ đẹp và ý nghĩa của nó).
* Phần kết bài:
- Khẳng định khía cạnh đó là đóng góp về phượng diện nào của tác phẩm
(nội dung, nghệ thuật).
- Phương diện đó là thành cơng (hay hạn chế) của tác phẩm.
- Từ phương diện đó, tác phẩm có đóng góp gì đối với văn học và cuộc
sống.
2.2.3.7. Dạng đề nghị luận về tình huống truyện trong tác phẩm văn
xi.
Đây là dạng đề yêu cầu học sinh nghị luận về tình huống truyện trong tác
phẩm văn học. Trước hết giáo viên cần giúp học sinh hiểu được khái niện của
tình huống truyện: tình huống là sự kiện đặc biệt của đời sống mà nhà văn mô tả
trong tác phẩm. Tại sự kiện đó, nhà văn đã làm sống dậy một tình tiết bất thường
có tính chất éo le và gây bất ngờ trong quan hệ giữa các nhân vật. Tại sự kiện
đó, tính cách nhân vật được bộc lộ sắc nét, ý tưởng mà nhà văn định gửi gắm
cũng hiện hình khá trọn vẹn.
Thơng thường có ba kiểu dạng tình huống truyện trong tác phẩm đó là:
Tình huống tâm trạng, tình huống hành động, tình huống nhận thức. Với dạng đề
này, học sinh cần nắm chắc kiến thức lí luận về tình huống truyện, phát hiện và
chỉ ra biểu hiện của tình huống truyện. Qua đó, khẳng định vai trị, ý nghĩa của
tình huống truyện trong việc tạo nên giá trị của tác phẩm văn học.
Kĩ năng, phương pháp làm dạng đề về tình huống truyện đóng vai trị
quan trọng bởi lẽ nếu không nắm chắc, nắm sâu học sinh rất dễ bị nhầm lẫn
trong việc nghị luận từ tình huống sang phân tích tồn bộ tác phẩm. Điều quan
trọng khi phân tích tình huống truyện học sinh cần nắm chắc ba yếu tố cơ bản
như: giới thiệu tình huống, khai thác các biểu hiện của tình huống, đánh giá vai



×