Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) giúp học sinh học tốt môn tập làm văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.37 KB, 24 trang )

ĐI TÌM NGUN NHÂN CỦA VIỆC DẠY VÀ HỌC BỘ
MƠN TẬP LÀM VĂN
1/ Những nguyên nhân về phía người dạy :
Có rất nhiều ngun nhân về phía người dạy nhưng tôi thấy nổi lên
những điểm lớn sau đây :
- Người dạy chưa xác định được chuẩn kiến thức của làm văn ,
nghĩa là : bài viết của học sinh như thế nào là do thể cơng nhận
được ?
do đó: dạy thế nào có thể la tiết tốt ? nếu xác định được chuẩn này thì
chúng ta mới có thể thống nhất dược khi đánh giá chất lượng dạy
cũng như chất lượng học .
- Hiện nay , chúng ta đang có xu hướng nâng cao dần nâng cao
mãikết quả bài làm văn của học sinh . Nghĩa là chúng ta đang mơ
tưởng những bài văn quá sức học sinh trong khi việc dạy của thầy ,
cô giáo lại chưa đạt dược yêu cầu hướng dẫn , dìu dắt người học
từng bước. Chấm bài thi dễ dàng tìm ra sai sót nhưng làm sao cho
học sinh khỏi sai sót thì nhiều khi , phần lớn chúng ta lại không chỉ
ra dược môt cách đầy đủ đúng hướng cho học sinh .
- Bản thân thầy lúng túng thì làm sao học trị có thể thảnh thơi mà
học tốt mà làm văn tốt dược .
Lớp nào cũng có 4 loại trình độ : Gỏi , Khá, Trung bình , Yếu
.Nhưng xác định cho đúng trình độ này cũng là một vấn dề cịn nhiều
bàn cãi .
Điểm lúng túng của người dạy còn thể hiện ở những điểm sau :
+ ở mỗi dạng bài , hướng dẫn học sinh thế nào là đủ là đúng hướng
dẫn bằng cách thế nào cho học sinh có hứng thú học , mà viết .
Người dạy dang bị quá nhiều ràng buộc trong giờ lên lớp , mà mỗi
giờ phải dạy đầy đủ , khơng đựoc bỏ sót phần việc nào : Nào ghi bảng
ra sao thì đựoc coi là tố ? Ghi những gì là đủ ? Phiếu học tập thế nào ?
Phiéu gồm mấy câu hỏi thì đủ ? ......
- Sách viết về phương pháp dạy làm văn , sách tham khảo hiện nay


tuy nhiều nhưng nói chung đều chưa tốt , gây cho giáo viên khơng
ít khó khăn .
I.


- Về sách giáo khoa : Đựoc viết từ hàng chục năm nay thời gian thay
sách kể cả nội dung và phương pháp đều có nhiều điểm đã lạc hậu
lỗi thời , rất khó sử dụng .
- về sách tham khảo : kể cả sách hướng dẫn , đã lạc hậu cả về nội
dung và phương pháp . Điểm khó dùng nhất cho học sinh và giáo
viên là có cả gần chục loại sách “ để học tốt tiếng việt “ nếu dùng
tất cả các loại sách thì kết quả sẽ ngược lại .
- Thường là những người viết sách chưa dạy tiểu học bao giờ , tuy
có đi dự giờ , thăm lớp nhưng vẫn không nắm vững bằng những
người trực tiép giảng dạy nên sách vẫn chưa thật hợp lý .
- Do không xuất phát từ thực tế trình độ học sinh , nên sách nào
cũng có bài mẫu. Nhìn chung các bài mẫu cịn q đầy đủ , đến lúc
học sinh chỉ việc chép bài mẫu là đã vượt yêu cầu của thầy,cô .
Học sinh chép nhưng thực chất khơng hiểu mà chép mọtt chác máy
móc . Nên ở một khía cạnh nào đó sách khơng giúp sự phát triển
mà kìm hãm , đè nế sự phát triển .
- Về phía giáo viên : Nhìn chung giáo viên tiểu học chưa phân tích
điều tốt , chưa tốt của sách cứ có sách là dùng , dùng nhiều sách
quá lại đâm ra lúng túng .
Vì vậy cả dạy và học cứ gặp hết khó khăn này đến cản trở khác .
2 / Nguyên nhân về phía người học .
ở cả lớp 2,lớp 3 , nhìn chung khi trả lời câu hỏi , làm các bài , tả , kể ,
theo chương trình học sinh đều lúng túng khơng biết trả lời , viết thế
nào là chuẩn là hay . thông thường các em bắt chước theo bạn , theo
thầy cô > Bắt chước hệt như người khác. ( Người khen ) là rất thích .

Bản chất của làm văn khơng phải la sự bắt chước máy móc , bắt
chước mãi , khơng cịn gì là của riêng mình , khơng cịn gì của riêng
mình thì sẽ trở thành người máy . Một lớp tồn người máy thì khơng
cịn là lớp học . Lớp mà như vậy thì việc dạy và học đã đi chệch con
dường dạy tốt học tốt
- Các phân mơn từ ngữ , ngữ pháp, chính tả ....Được viết nhiều , viết
kỹ nhưng lại phục vụ ít cho làm văn . Quan điểm “ dạy tiếng việt
cho ngưòi bản ngữ “ chưa được thấu triệt . sách viết đẻ dạy tiếng
việt hiện nay sẽ rất tốt nếu dạy cho người ngoại quốc nhưng lại
chưa tốt cho các em người việt học tiếng việt .


- Nhựoc điểm rõ nhất là dạy tiếng việt tách khỏi cuộc sống vốn có
của tiếng việt . Lẽ ra phải dạy xuất phát từ văn bản tiếng việt thì
dạy tách khỏi văn bản , sau đó mới trở lại văn bản . Hay nói một
cách khác đi , sách tiếng việt ở tiểu học đang được viết như viết
cho trung học cơ sở hay trung học phổ thông , cho nên học sinh rơi
vào tình trạng học một dường viết một nẻo . Cách dùng vốn tiếng
việt thế nào cho làm văn thuận lợi trở thành một vấn đè chưa đựoc
giải quyết dễ dàng , đúng đắn , chuẩn mực .
- Được học như vậy , được đọc như vậy , học sinh càng thấy mơn
văn nói chung , mơn tập làm văn nói rêng là lĩnh vực khơng thể
nào chiếm lĩnh đựoc . Có chăng , chỉ một tỉ lệ phần trăm ít ỏi là có
may mắn học gỏi mơn này mà thơi .
3/ Ngun nhân về phía cha mẹ học sinh :
- Cha mẹ học sinh có thể giúp học sinh Tiểu học , học tốt các môn
khác . Riêng môn tập làm văn , số người có thể phối hợp dạy cho
con cái học tốt mơn này cịn q ít . Họ vừa thiếu điều kiện thời
gian , vừa chưa được bồi dưỡng nội dung , phương pháp dạy phối
hợp . Vì vậy mà thiếu kiến thức để có thể dạy đơn đốc , dạy hỗ trợ

giáo viên .
- Một nét tâm lý khá phổ biến của cha mẹ học sinh là muốn cho con
học thêm về tốn , về các mơn tự nhiên , rất í cha mệ muốn cho
con học làm văn nếu khoong có u cầu của cơ giáo .
- Cha mẹ học sinh cũng cịn nhựoc điểm là ít mua sách mơn tập làm
văn cho các em đọc thường chiều theo ý thích của con thích đọc
truyểntang của cảu Nhật Bản . Hiếm thấy nhữ gia đình xây dựng
cho con tủ sách phục vụ tốt cho việc học môn văn ở tiểu học .
4/ Các nguyên nhân khác :
Có rất nhiều nguyên nhân thuộc về xã hội , tôi chỉ xinn nhấn mạnh
nguyên nhân xuất bản sách :
a) Về phía người viết :
có nhiều cuốn sách được viết với dụng ý tốt vì muốn giúp cho học sinh
học tốt mơn làm văn cho nên sách đều có tiêu đề . “ Để học tốt ...” Tuy
nhiên cách viết lại chưa xuất phát từ tiểu học nên càng viết nhiều càng
dối dắm. Hãy thử thống kê: Nừu một học sinh mua cho bằng hết các
sách “để học tốt...” thì sẽ tới bao nhiêu cuốn? Chưa ai nghĩ đầy đủ: Học


sinh lớp 4, lớp 5 phải đọc những gì, đọc như thế nào cho làm văn tốt
hơn.
b) Về phía người in:
Nhìn chung lợi ích của người in là in càng nhiều càng tốt. Do đó các
loại truyện tranh Nhật bản đang tràn lan. Truyện, tranh đang kích thích trí
tị mị, khuyến khích hết tập này đến tập khác. Nhưng nếu người ta khơng
vì tiền mà in các loại sách khơng có lợi ích thiết thực cho học sinh học
mơn văn cũng đẹp, cũng hấp dẫn như thế thì tốt biết bao.
Cơng bằng mà nói, đã thấy bên cạnh những “Đơ-rê- mon, bảy viên ngọc
rồng, ....đã có Dế mèn phiêu lưu ký, lá cờ thêu 6 chữ vàng, An- đéc xen”. Đáng mừng là vậy nhưng đáng nói là sách in chưa đẹp (ngồi các
bìa sách tồn chữ là chữ, thiếu tranh ảnh minh hoạ cho học sinh).

Đất nước ta thiếu gì những Tơ Hồi, Đồn Giỏi, Phạm Hổ, Võ Quảng, ...
Thiếu gì những họa sĩ tài ba như: Thi Ngọc, Tạ Lựu... Nừu chúng ta đầu
tư tiền để in và vẽ minh họa cho những “Dế mèn phiêu lưu ký, Đất rừng
phương Nam, Chú bị tìm bạn..” thì có lợi ích biết bao.
5. Nguyên nhân nào là chính, là cơ bản.
Xuất phát từ công việc người giáo viên cho nên dù đề cập đến
nguyên nhân nào đi nữa thì nguyên nhân đi giảng dạy vẫn là chính, là cơ
bản. Cho nên suy cho cùng vẫn cứ phải dạy sao cho tốt để người học đạt
kết quả tốt.
Ở cương vị người đứng lớp, hàng ngày đối diện với tất cả những
thực tế đã nêu ra, tôi thấy: Dù sao, đến thế nào, người giáo viên vẫn phải
làm đúng công việc cụ thể, xuất phát từ những suy nghĩ trên, một lớp
học với những học sinh mà tơi sẽ trình bày ở phần sau đây
II - NHỮNG SUY NGHĨ VÀ NHỮNG CÔNG VIỆC CỤ THỂ
TÔI ĐÃ LÀM.
1. Dạy từ điểm xuất phát của trình độ học sinh nâng dần từng
bước.
a) Thực ra điều này không mới. Giáo viên nào cũng phải làm.
Riêng tơi nghĩ, sau ít nhất một tháng tơi phải xác định được học
sinh tơi dạy có những điều tốt, những đièu chưa tốt như thế nào về làm
văn.


Tất nhiên nhận xét kết luận ấy còn phải được bổ xung thường
xuyên trong suốt học kỳ, suốt năm học.
Yêu cầu đặt ra là giáo viên phải hiểu thực sự trình độ người học:
Em nào loại giỏi, loại khá, loại trung bình, loại yếu kém về làm văn của
lớp mình (chứ khơng phải lớp khác).
Điều đó làm cơ sỏ, làm điểm xuất phát cho bài soạn, cho lượng
kiến thức, cho phương pháp dạy mỗi bài.

b) ở lớp tôi đã dạy và đang dạy, học sinh có những điểm yếu làm văn
cụ thể như sau:
- Các em đều biết một bài văn có ba phần:
Mở bài, thân bài, kết luận. Nhưng viết từng phần như thế nào thì lại
lúng túng, tơI giúp các em bằng cách mỗi dạng bài, chọn một bài văn
chuẩn để tập phân tích. Từ đó xác định cho mình có ý từng phần, diễn
đạt từng phần.
Trên đây tơi đã nói ở phần ngun nhân về nhược điểm của sách tham
khảo. Hiện nay rất may mắn, chúng ta đã có cuốn “Tiếng Việt nâng cao
lớp 4, lớp 5. Riêng tơi, tơi thấy 2 cuốn sách đó đúng là sách tốt cho môn
tập làm văn, dạy Tiếng Việt về nội dung, cịn có những điều bàn bạc
nhưng các tác giả đã nêu ra quan điểm đúng đắn: Từ một bài văn cụ thể
mà dạy các phần từ ngữ, ngã pháp, làm văn đó mới là cách dạy người
bản ngữ. Đó mới đúng quy luật dạy văn vì sách có nhan đề “Nâng cao”
nên bài văn được chọn thường là của học sinh giỏi đã được biên tập.
Nên nếu sử dụng khơng tốt thì vẫn gây cho học sinh khó khăn.
Từ suy nghĩ đó, tơi sử dụng theo cách dựa sách, viết lại bài văn cho
phù hợp với trình độ của lớp. Tôi viết lại theo những suy nghĩ sau: sao
cho phù hợp trình độ học sinh của mình, sao cho sát hợp với lý thuyết
mỗi loại bài; sao cho phát huy được cái riêng của mỗi loại trình độ học
sinh, sao cho các đối tượng học sinh đều được phát triển và đảm bảa có
chất văn chương.
Xin dẫn ra đây một thí dụ:
ở lớp 4, lớp 5, tả cảnh và tả cảnh sinh hoạt là loại bài khó, tơi đã dạy
bằng cách luyện cho học sinh phân tích bài văn:


Bài: Cảnh sắc mùa xuân vùng Trung du “Thuỷ -chợt nhận ra mùa xuân
khi mở 2 cánh cửa sổ nhìn ra bên ngoài. Trước mắt Thuỷ cảnh sắc hiện
ra thật huy hoàng”.

Lớp cỏ non đã lác đác phủ lên từng mảng trên những quả đồi chạy
tít tắp đến cuối tầm mắt. Những con đường mòn cũng trở lên mềm mại
lượn khúc, lúc ẩn, lúc hiện trông nhẹ như những chiếc khăn lụa mềm lơ
lửng trong gió. Xa hơn, một ít dãy núi đá vôi bỗng nhiên sừng sững uy
nghi hơn mọi ngày. Thuỷ hình dung nó như những thành qch lâu đài
cổ từ những thế kỷ xa xưa nào đó.
Mới thống trước đây thơi, mùa đơng đã làm cho tất cả trở nên huy
hoang vu, già cỗi. Những quả đồi gầy xơ xác, những con đường khẳng
khiu và dãy núi đá vôi kia ngồi im lặng, trầm mặc như những cụ già đến
lúc mãn chiều, sế bóng.
Phải chăng, mùa xuân kỳ diệu đã làm thay đổi tất cả? Mọi vật sáng
lên, trẻ ra dưới ánh nắng óng ả, mượt mà như nhung. Đôi mắt Thuỷ bao
chùm lên mọi cảnh vật. Thuỷ say sưa ngắm mãi không chán mắt!
(Theo văn thảô - Sách tiếng Việt nâng cao lớp 4 - trang 53)
*Sau đây là trình tự lớp dạy.
- Đầu tiên tơi đọc, đọc thật hay bài văn.
- Tôi giảng từ (Trung du) bằn cách vẽ nhanh với phấn mầu, cảnh
sắc mà bài văn miêu tả để học sinh có khái niệm: Quả đồi có những
mảnh cỏ xanh non, những con đường ẩn hiện trên các sườn đồi, dãy núi
đá vôi sừng sững, uy nghi … và ngơi nhà, có cửa sổ, vị trí mà Thuỷ đã
quan sát.
- Tơi lần lượt cho học sinh phân tích bài văn bằng hệ thống câu
hỏi.
* Tìm câu mở bài:
- Câu mở bài diễn tả nhận xét gì của Thủy?
- Thuỷ quan sát cảnh vật ở vị trí nào?
- Vì sao Thuỷ chợt nhận ra?
- Từ đó tơi kết luận: Câu mở bài phải giới thiệu được vị trí quan
sát, giới thiệu vị trí quan sát bằng cách thể hiện được cảm xúc người



viết. Nếu thử viết, Thuỷ mở cửa sổ, trông thấy cảnh mùa xn, thì câu
đó chỉ có giá trị thơng báa, khơng có giá trị thơng báa, khơng có giá trị
câu văn.
Mở bài cs thể là một câu, hai câu nhưng phải bảo đảm hai ý đó.
Nếu viết hay hơn sẽ đạt loại giỏi.
*Tìm câu kết thúc bài văn:
( Bài kết thúc bằng 2 câu).
- Câu 1: Kết thúc diễn tả điều gì?
( Một lần nữa, đơi mắt Thuỷ ngắm toàn bộ cảnh sắc mùa xuân.)
- Câu 2: Kết thúc diễn tả bài gì?
(Diễn tả niềm say sưa của Thuỷ và cảnh sắc xn đẹp, nhìn mãi
khơng chán)
Tơi kết luận: Kết thúc vừa tả cảm xúc của mình vừa gây ra truyền
cảm cho người đọc.
Nếu chỉ viết: Cảnh sắc mùa xn đẹp thật thì cũng chỉ là thơng
báo, chưa phải là câu văn, câu văn phải có cảm xúc của mình và
truyền cảm.
- Vị trí quan sát của Thuỷ có gì đặc biệt?
(Thuỷ ngồi trước cửa sổ, Thuỷ khơng ra ngồi).
Vị Trí chỉ cho phép diễn tả những điều trơng thấy. Nếu Thuỷ ra
ngồi thì phảI biết cả những điều nghe thấy, cảm thấy nữa.
* Thân bài có mấy ý lớn?
- 2 ý lớn: + Cảnh sắc mùa xuân trước mắt Thuỷ
+ Cảnh sắc mùa đơng trong trí nhớ Thuỷ
Đọc ý lớn thứ nhất:
+ Câu 1 diễn tả điều gì? (Diễn tả cái nhìn bao quát cảnh sắc)
+ Thuỷ - Tả tỉ mỉ cảnh sắc, nhìn thấy những chi tiết nào?
(Từ gần đến xa, đến xa hơn)
+ Tìm những từ láy trong câu miêu tả thời tiết? Thuỷ - tả chi tiết

bằng cách nào?
+ Ngoài những từ láy, so sánh, nhân hố, Thuỷ - cịn diễn tả cảm
xúc của mình, câu nào diễn tả cảm xúc?
- ý 2 miêu tả gì? Nếu bỏ ý 2 đi thì cảnh sắc mùa xuân được tả sẽ
ra sao?


+ Như vậy ý 2 của thân bài ngược lại với ý 1, cảnh đó có tên gọi là
gì?
(Cảnh đối lập)
+ Hãy tìm những chi tiết đối lập?
(Đối lập từ: Huy hoàng, hoang vu, già cỗi, mềm mại, lửng lơ, xác
xơ, khẳng khiu, sừng sững, uy nghi, im lặng, trầm mặc …).
(Đối lập ý: QUả đồi trong xuân, đồi trong đông. Dãy núi đá vôi
mùa xuân, dãy núi đá vôi mùa đông …)
- Hãy gọi tên những kiểu câu trong bài?
(Câu kể, câu cảm, câu hỏi).
- Nếu trong các câu cảm, câu hỏi bằng câu tả thì giá trị bài văn sẽ
thế nào?
* Hãy luyện tập theo đề bài và yêu cầu sau.
- Dựa theo cách viết của bài đã phân tích, em hãy viết 2 câu mở bài
giói thiệu cảm xúc ngơi nhà của gia đình em? Hay trường tiểu học
em đang học? Hoặc chậu cây trồng của bố hay ông em trồng …
- Hãy viết 2 hay 3 câu kết bài của những đề trên đây:
- Bài làm ở nhà:
Theo cách viết của bài chọn viết cả bài văn miêu tả một trong
những bài văn sau đây.
*Tôi cũng dùng những câu hỏi để dạy từ ngữ, ngữ pháp mà sách
đã nêu để vừa dạy các phân mơn đó vừa bổ sung cho dạy tập
làm văn.

Tôi xin dẫn ra đây một bài đạt điểm 7:
Hôm nay đi học về gần đến nhà, tôi bỗng nhận ra vẻ đẹp của ngoi
nhà mới sửa sang của bố mẹ tôi, cái màu vôI xanh hiện ra trước
mắt tôi thật đẹp. Nhà tôi chỉ có 2 tầng thơi nhưng đẹp hơn mấy nhà
3 tầng bên cạnh. Trên tầng 2 cửa sơn màu nâu nhạt, viền những
khn nâu sẫm trơng thật bóng. 2 cửa sổ nơi cho tơi ánh sáng vào
góc học tập và giường nằm của tơi cũng đẹp khơng kém ngồi
hiên, những bơng Hồng, bơng Cúc lấp ló sau dãy lan can bằng sắt
sơn xanh. Cửa vào tầng một có 2 lớp, lớp ngồi là cửa sắt sơn vàng
nhạt, có những lơp tơn sáng óng ánh, cửa trong bằng sắt sơn xanh.
Cửa vào tầng 1 có hai lớp, lớp ngồi là cửa xếp bằng sắt sơn vàng
nhạt, có những lớp tơn sáng óng ánh …


Mới năm ngối khi tơi đang học lớp 3, nhà tơi chỉ có một
tầng. Tường có thể đã nở vơi trơ cả gạch. Những hôm trời mưa to,
dội tứ tung ướt cả áa quần, sách vở của tôi.
Bố Mẹ tôi bảa đã dồn hết cả sức, cả tiền để sửa sang nhà đấy.
Tôi yêu nhà tôi lắm.
- Nếu đọc phần làm văn ở lớp 4 và 5 trong SGK thì thấy: Vừa
đơn giản quá, vừa bao quát quá, vừa có phần lạc hậu so với
hồn cảnh ngày nay.
Tơi thấy đã đến lúc và cần phải viết lại sách dạy làm văn theo cách
của các tác giả. Sách “Tiếng Việt nâng cao” lớp 4, lớp 5. Tơi nghĩ
đó là cách tốt nhất, hiệu quả nhất.
2. Dạy thu hút học sinh học văn, làm văn bằng những biện
pháp hỗ trợ:
a. Học sinh tiểu học có đặc điểm tâm lý là thích học say sưa
và ngược lại.
Những bài văn được chọn lọc trong SGK hiện nay có nhiều

ưu điểm nhưng nhìn chung cịn người lớn q, chất trẻ con trong
bài cịn qua ít, mặt khác chất văn chương trong nhiều bài cũng cịn
ít, chúng ta vẫn đang nặng nề nội dung mà còn coi nhẹ văn
chương. Cho nên học những bài đó có thể đạt kết quả cao về tinh
thần, tư tưởng nhưng sẽ khơng cao về tâm hồn nghệ thuật, càng ít
kết quả về sáng tạo, thông minh hồn nhiên ngây thơ.
b. Như vậy bài văn thiếu tính hấp dẫn. Học sinh tiểu học
khơng thích những bài đó. Đó cũng là ngun nhân dạy làm văn
khó đạt kết quả cao.
Tơi chọn dạy thêm những bài văn như trên đây. Đặc biệt
chọn những bài thơ phù hợp với tuổi các em để dạy cảm thụ, dạng
viết từ cảm thụ cái đẹp, cái hay, cái lạ của thơ văn.
Xin dẫn ra đây một vài ví dụ
- Tơi chọn bài “ngủ rồi”
Gà Mẹ hỏi gà con
Đã ngủ chưa đấy hả?
Cả đàn gà nhao nhao
Ngủ cả rồi đấy ạ!


- Hoặc bài: “Ngựa con”
Ngựa Cha đi móng sắt
Bật lửa đá dưới chân
Ngựa con thấy kêu ầm
“Bố ơi! chân Bố cháy!”
Trong thơ Phạm Hổ có biết bao nhiêu bài viết về những đề tài
quen thuộc, gần gũi mà lại rất lạ với trẻ em. Cái lạ là sự tinh tế
trong quan sát rồi viết ra những điều ấy. Đó chính là văn chương,
là tâm hồn, là thông minh rất cần cho làm văn! Những bài thơ loại
ấy chỉ cần đọc thật hay là đã gieo vào tình cảm học sinh biết bao

nhiêu vốn liếng cho văn chương hoặc cần dạy học sinh những bài:
Nguồn gốc cú đá hậu của họ hàng nhà Ngựa của Nguyễn
Hoàng Sơn.
Con ngựa xưa thuần lắm
Suốt đời ăn cỏ xanh
Nên tính khí hiền lành
Sừng cũng khơng mọc được
Nhưng nhiều khi rất cực
Hiền nên lắm kẻ trêu
Có cái đuôi mỹ miều
Họ cũng lừa cắt mất!
Ngựa mất đuôi ấm ức
Về suy nghĩ ba đêm
Hiền nhưng không thể hèn
Phải luyện chân cho khoẻ!
Ấy đầu đuôi là thế
(Hoa hồng phải có gai)
Vì q cái đi dài


Ngựa có thêm cú đá!
Sau khi giảng, tơi cho học sinh luyện đọc cá nhân, chọn em
đọc hay nhất dạy đọc nghệ thuật làm tiết mục biểu diễn. Tôi cho
học sinh viết những đề tài; Hãy giải thích xem, vì sao mèo có
móng sắc, vì sao Chuột hay diệt Mèo, Vì sao Chó- Mèo ghét
nhau…
Dần dần các em khơng sợ làm văn nữa, u thích và viết
được, có những học sinh (tuy ít thơi) nhưng viết hay, viết giỏi.
3. Tơi yêu cầu phụ huynh học sinh chuẩn bị điều kiện học
văn tốt cho con cái:

Với phụ huynh dễ gần, dễ thân, dễ đề xuất, tôi yêu cầu mỗi
tháng mua cho con sách gì, tơi hướng dẫn cách đọc và tìm hiểu nội
dung, cha mẹ hỗ trợ điều gì…
Khi có em viết bài tốt, tôi yêu cầu cha mẹ đọc và có nhận xét.
Với những em học sinh giỏi, thích viết tơi u cầu cha mẹ
khuyến khích các em tập viết nhật ký để luyện câu văn…
Cịn tơi với đại trà học sinh, tôi yêu cầu cha mẹ theo dõi kết
quả học làm văn, hỏi giáa viên những yêu cầu cần thiết để hướng
dẫn các em làm văn mỗi ngày..
KẾT LUẬN
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi rút ra được trong q
trình giảng dạy bộ mơn tập làm văn, khơng biết những nội dung
đặt ra có đáp ứng được chút nào với yêu cầu chỉ đạo!
Tôi chỉ muốn bằng tâm hồn, lương chi của người “Vì tương
lai con em chúng ta” mà đề xuất suy nghĩ, kể lại việc làm.
Qua nghiên cứu việc hướng dẫn học sinh học tốt môn tập làm
văn, Tôi chỉ thấy đây là một vấn đề rất quan trọng đối với việc
giúp học sinh học tốt mơn Tiếng Việt nói chung. Học sinh có học
tốt mơn Tiếng Việt mới có đỉều kiện thuận lợi
để tiếp thu tất cả các mơn học khác như: Tốn, ngoại ngữ, tự nhiên
xã hội …


Vì thế trong nhà trường tiểu học, để giúp các em học tốt lên
các lớp trên, cũng như sau này khi bước vào cuộc sống các em có
kiến thức tồn diện, có trình độ cao, có năng lực của một người
cơng dân thì thấy cơ giáo ở tiểu học phải có trách nhiệm giúp đỡ
các em học tốt mơn tập làm văn từ những bài đầu tiên.
Do trình độ và năng lực có hạn nên vấn đề trình bày cịn
nhiều hạn chế. Tôi rất mong được sự giúp đỡ của ban giám khảo.

Hà Nội, ngày 01 tháng 4 năm 2006
Người viết
Trần Mạnh Huân















×