Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) giúp học sinh làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học đạt hiệu quả cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.93 KB, 24 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu:
Tác phẩm văn học nghệ thuật là một “chiếc gương soi” của cuộc
sống, là một kho kinh nghiệm sống, một kho tư liệu dồi dào về cuộc sống, là ý
thức, băn khoăn, rung động của con người trước cuộc sống. Cho nên để hiểu
cuộc sống một cách cụ thể, để có thể hình dung một cách cụ thể thời đại đã qua,
khơng gì có thể thay thế bằng tác phẩm văn chương.
(Lí luận văn học –Vấn đề và suy nghĩ, NXB GD,1998)
Từ việc tiếp nhận những giá trị tư tưởng, thẩm mĩ qua tác phẩm văn học
trong Nhà trường cũng như những tác phẩm ngồi chương trình và những vấn đề
trong đời sống, mỗi học sinh tự bày tỏ sự nhận thức, tình cảm, thái độ … của
bản thân thơng qua bài làm văn. Đó là kết qủa của quá trình lĩnh hội tri thức, là
thành quả học tập của các em.
Là một giáo viên dạy Văn, chúng tôi ln mong muốn học trị của mình
làm được những bài văn hay, đạt điểm cao trong các bài kiểm tra, qua các kì thi.
Tuy nhiên, đó khơng phải là một việc đơn giản. Bài văn hay trước hết phải là bài
văn viết đúng (đúng theo nghĩa tương đối, nghĩa là trong khn khổ nhà trường).
Hay và đúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Bài văn hay trước hết phải viết
theo đúng yêu cầu của đề bài, đúng những kiến thức cơ bản, hình thức trình bày
đúng quy cách … Xác định đúng yêu cầu của đề bài là rất cần thiết, bước này
giúp học sinh thể hiện đúng chủ đề của bài văn, tránh lạc đề hay xa đề. Xác định
đúng yêu cầu của đề cũng giúp người viết lập được một dàn ý tốt và do đó cũng
tránh được sự dài dòng, lan man “Dây cà ra dây muống”, “Trống đánh xuôi, kèn
thổi ngược” tạo được sự thống nhất, hài hoà giữa các phần của bài viết, tránh
tình trạng “Đầu voi đi chuột”. Mặt khác, việc viết đúng kiến thức cơ bản vô
cùng quan trọng, kiến thức cơ bản là “bột”, mà “Có bột mới gột nên hồ”. Hình
thức trình bày là sự thể hiện bố cục của bài văn trên trang giấy. Một bài văn
đúng quy cách là bài văn mà khi nhìn vào tờ giấy phần bài làm của học sinh
chưa cần đọc, chúng ta đã thấy rõ ba phần: Mở bài, thân bài và kết bài.
Muốn thế, người viết không chỉ phải chú ý đến nội dung mà hình thức cũng phải


rõ ràng.
Trong thực tế dạy – học tôi thấy bài văn của học sinh mình chưa đáp
ứng được những yêu cầu của một văn bản trong nhà trường. Bài văn của các em
vẫn cịn hiện tượng lạc đề, xa đề do khơng chú ý đến việc tìm hiểu đề; đoạn văn
trong bài thường sai quy cách (các em thường viết đoạn khơng có câu chủ đề
1


hoặc có nhiều câu chủ đề trong một đoạn,…). Bên cạnh đó, sự liên kết giữa các
đoạn văn chưa lơgic (triển khai ý nọ sọ ý kia, không nhất quán, trùng lặp,…).
Thậm chí , có rất nhiều em đã học đến lớp 12 nhưng hồn tồn khơng biết làm
một bài văn nghị luận đúng yêu cầu (một số em để giấy trắng, một số khác thì
viết linh tinh để đối phó trong bài kiểm tra). Trong khi đó phần Làm văn nghị
luận chiếm tỉ lệ 50% đến 70% điểm số bài thi, cho nên tình trạng học sinh điểm
dưới trung bình là rất cao. Đó cũng là lý do khiến các em lo sợ, không hào hứng
khi học môn Ngữ văn, nhất là phân môn Tập làm văn.
Từ những lý do đó, chúng tơi đã tiến hành tìm tịi, nghiên cứu và vận
dụng vào thực tế giảng dạy “Giúp học sinh làm bài văn nghị luận về tác
phẩm văn học đạt hiệu quả cao”
Trong đề tài này,chúng tôi chia sẻ chủ yếu cách làm hai dạng đề thiết thực
nhất là: kỹ năng làm bài nghị luận văn học phần truyện và kỹ năng làm bài nghị
luận văn học phần thơ nhằm giúp học sinh đạt điểm cao trong quá trình học tập,
đặc biệt học sinh lớp 9 kỳ thi vào lớp 10 sắp tới.
2. Tên sáng kiến:
“Giúp học sinh làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học đạt hiệu quả
cao.”
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Dương Thị Hòa
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Tiểu học và THCS Tứ Yên – Huyện Sông Lô
– Tỉnh Vĩnh Phúc

- Số điện thoại: 0984522117
- Email:
- Họ và tên: Lương Thị hồng Thái
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Tiểu học và THCS Tứ Yên – Huyện Sông Lô
– Tỉnh Vĩnh Phúc
- Số điện thoại: 0985576009
- Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
- Giáo viên: Dương Thị Hòa
- Địa chỉ : Trường Tiểu học và THCS Tứ Yên – Huyện Sông Lô – Tỉnh Vĩnh
Phúc
- Giáo viên: Lương Thị hồng Thái
- Địa chỉ : Trường Tiểu học và THCS Tứ Yên – Huyện Sông Lô – Tỉnh Vĩnh
Phúc
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến : Sáng kiến kinh nghiệm này được áp dụng
trong việc dạy và học môn Ngữ Văn lớp 8, 9 tại trường THCS Tứ Yên. Cụ thể là
2


“Giúp học sinh làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học đạt hiệu quả
cao”
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu : Sáng kiến này được áp dụng lần đầu
tiên từ tháng 8 năm 2019
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1. Cơ sở lí luận:
Đất nước ta đang trên đà đổi mới, ngành giáo dục đang có những bước
chuyển mình theo nhịp bước của thời đại. Do đó, việc đổi mới phương pháp dạy
học là vấn đề cần thiết và quan trọng trong tình hình hiện nay. Mà một trong
những biện pháp tối ưu trong quá trình dạy học là phương pháp dạy học tích cực
và dạy học theo chuẩn kiến tức và kĩ năng. Vì vậy, để nang cao hiệu quả giáo

dục ở bộ môn Ngữ văn trong nhà trường hiện nay, giáo viên cần đặc biệt chú
trọng hơn nữa trong việc rèn luyện kĩ năng nói và viết (tạo lập văn bản) cho học
sinh, nhất là rèn luyện kĩ năng viết văn nghị luận về tác phẩm văn học ở bậc
Trung học cơ sở theo chuẩn kiến thức và kĩ năng mà ngành yêu cầu.
7.2 Cơ sở thực tiễn:
Trong quá trình làm bài kiểm tra ở lớp cũng như ở kiểm tra học kì, thi
kiểm định chất lượng, thi thử vào lớp 10 ở môn ngữ văn nhiều năm qua, học
sinh làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học: Nghị luận về tác phẩm truyện
hoặc đoạn trích, nghị luận về nhân vật, nghị luận về tác phẩm thơ, đoạn thơ thì
cịn rất nhiều hạn chế. Bài làm của học sinh thường sơ sài, chung chung, lan
man, vừa thừa, vừa thiếu, có khi xa đề, lạc đề. Có bài chỉ viết được 7 đến 8 dịng
là hết, có nhiều em khơng biết mở bài, không biết xây dựng luận điểm… Thực
trạng ấy làm cho đội ngũ thầy cô giáo chúng ta phải trăn trở, phải suy nghĩ, mà
nguyên nhân chính là học sinh khơng có kĩ năng viết bài, khơng có định hướng
khi làm bài nghị luận văn học. Do đó chúng ta cần phải có cách dạy như thế nào,
học sinh cần phải có cách học như thế nào để có hiệu quả giáo dục ngày một đi
lên, đó là vấn đề mà thầy cô giáo cần phải quan tâm và chú trọng.
Bên trên là những lí do thơi thúc chúng tơi tổng kết kinh nghiệm “Giúp học
sinh làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học đạt hiệu quả cao”
7.3 Thực trạng việc viết bài Tập làm văn :
Nhà văn hố lớn của nhân loại Lê-nin từng nói:"Văn học là nhân học",
vậy mà một thực trạng đáng lo ngại là học sinh bây giờ khơng cịn thích học văn.
Thực trạng này lâu nay đã được báo động. Ban đầu chỉ đơn thuần là những lời
3


than thở với nhau của những người trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn và nay đã
trở thành vấn đề của báo chí và dư luận. Ai đã trực tiếp dạy và chấm bài làm văn
của học sinh trong những năm gần đây mới thấy cần thiết phải có những thay
đổi về phương pháp dạy văn và học văn hiện nay. Qua công tác giảng dạy cũng

như chấm trả các bài kiểm tra Ngữ văn, chúng tơi nhận thấy có rất nhiều những
biểu hiện thể hiện tâm lý chán học văn của học sinh, cụ thể là:
- Học sinh thờ ơ với Văn: Những năm gần đây, nhiều người quan tâm đến
công tác giáo dục không khỏi lo ngại trước một thực trạng, đó là tâm lý thờ ơ
với việc học văn ở các trường phổ thông. Điều đáng buồn nhất cho các giáo viên
dạy văn là nhiều học sinh có năng khiếu văn cũng khơng muốn tham gia đội
tuyển văn. Các em còn phải dành thời gian học các môn khác. Phần lớn phụ
huynh khi đã định hướng cho con mình sẽ thi khối khoa học tự nhiên thì chỉ chủ
yếu chú trọng ba mơn: Tốn, Lý, Hóa. Điều đáng lo ngại hơn nữa, là có khơng ít
phụ huynh đã chọn hướng cho con thi khối tự nhiên từ khi học tiểu học. Một bậc
học mà học sinh còn đang được rèn nói, viết, mới bắt đầu làm quen với những
khái niệm về từ ngữ mà đã định hướng khối A thì thật là nguy hại.
- Khả năng trình bày: Khi học sinh tạo lập một văn bản giáo viên có thể dễ
dàng nhận ra những lỗi sai cơ bản của học sinh như: dùng từ sai, viết câu sai,
viết chính tả sai, bố cục và lời văn hết sức lủng củng, thiếu logic. Đặc biệt có
những bài văn diễn đạt ngô nghê, tối nghĩa, lủng củng ...Đây là một tình trạng đã
trở nên phổ biến và thậm chí là đáng báo động trong xã hội ta.
Mục tiêu của bậc học phổ thơng là đào tạo con người tồn diện, nhưng
thực tế hiện nay cho thấy, các bộ môn khoa học xã hội thường bị học sinh xem
nhẹ, mặc dù kiến thức của các bộ môn này vô cùng quan trọng cho tất cả mọi
người. Muốn khôi phục sự quan tâm của xã hội đối với các bộ môn khoa học xã
hội, không thể chỉ bằng biện pháp kêu gọi mà chúng ta phải tích cực đổi mới
phương pháp dạy học văn, khơi gợi lại hứng thú học văn của học sinh, hình
thành cho các em phương pháp học văn hiệu quả nhất, đặc biệt vận dụng kiến
thức để làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học tốt nhất.
Dưới đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân trong việc “Giúp học sinh
làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học đạt hiệu quả cao” mà chúng tôi
đã đã đúc kết được qua giảng dạy Ngữ văn.
7.4 Hướng dẫn học sinh cách làm bài Nghị luận về tác phẩm văn học:
7.4.1. Mệnh lệnh của đề bài văn nghị luận văn học:

* Phân tích: Nói tới phân tích tức là nói tới việc mổ xẻ, chia tách đối
tượng ra thành các phương diện, các bộ phận khác nhau để tìm hiểu, khám phá,
cắt nghĩa. Cái đích cuối cùng là nhằm để tổng hợp, khái quát, chỉ ra được sự

4


thống nhất. Như vậy, phân tích là yêu cầu phân tích tác phẩm để nêu ra nhận xét
của người viết (người nói).
* Suy nghĩ: Là nhận xét, nhận định, phân tích về tác phẩm của người viết
ở góc nhìn nào đó về chủ đề, đề tài, hình tượng nhân vật, nghệ thuật…
* Cảm nhận: Là cảm thụ của người viết về một hay nhiều ấn tượng mà
tác phẩm để lại sâu sắc trong lòng người đọc về nội dung hay nghệ thuật hoặc cả
nội dung và nghệ thuật.
Như vậy, từ việc phân tích chỉ định về phương pháp, từ suy nghĩ nhấn
mạnh tới nhận định, phân tích, từ cảm nhận lưu ý đến ấn tượng, cảm thụ của
người viết. nếu học sinh khơng hiểu thì đề bài u cầu gì đi nữa thì học sinh đều
phân tích hết.
7.4.2.Hướng dẫn học sinh cách làm và viết đoạn văn nghị luận văn
học:
Trong chương trình, học sinh học nghị luận văn học về tác phẩm truyện
hoặc đoạn trích; về một đoạn thơ, bài thơ. Riêng nghị luận về tác phẩm truyện
(hoặc đoạn trích) có thể đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau như: về chủ đề, sự
kiện, nhân vật, cốt truyện, nghệ thuật…. Giáo viên cần tập trung vào nghị luận
về nhân vật văn học theo yêu cầu của sách giáo khoa.
Hướng dẫn học sinh viết bài văn phải có bố cục đầ đủ gồm ba phần: mở
bài, thân bài, kết bài.
Đối với bài thơ học sinh phải xác định được bố cục. Phân tích theo lối cắt
ngang ở từng đoạn thơ, khổ thơ.
Từ văn bản thơ, học sinh tiến hành chia đoạn và tìm những ý chính của

mỗi đoạn. đối với từng khổ thơ, đoạn thơ, câu thơ vẫn có thể chia tách ra thành
các ý nhỏ được. sau khi tìm được ý chính cảu mỗi đoạn thì biến những ý chính
ấy thành các luận điểm.
Ban đầu tập cho học sinh phân tích một câu, rồi đến hai câu. Từ hai câu
rồi đến mọt khổ thơ, từ khổ thơ (đoạn thơ) rồi đến bài thơ.
Ví dụ: Khổ thơ đầu của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận:
Mặt trời xuống biển như hịn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
Đồn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồn cùng gió khơi.

5


Giáo viên tâp cho học sinh phân tích câu thơ thứ nhát, rồi đến câu thơ thứ
hai. Phân tích một lượt hai câu (một và hai). Trong khi hướng dẫn học sinh phân
tích lưu ý cho học sinh khơng thể cắt ngang câu 3 vì câu thơ thứ 3 và câu thơ thứ
4 cùng nói về hồn cảnh đồn thuyền ra khơi, còn câu 1 và 2 là cảnh thiên nhiên
khi đoàn thuyền ra khơi. Cho nên để tách thành các ý nhỏ chỉ cắt câu thơ 1 và 2
ở khổ thơ trên.
Phân tích nghệ thuật cũng là nhằm biểu đạt nội dung, một ý tưởng nào
đấy mà tác giả muốn gửi gắm.
Lưu ý là tránh diễn nôm các câu thơ thành văn xuôi. Khi tiến hành diễn
thành văn xuôi, thuật lại ý, tứ của câu chỉ trong trường hợp cái ý, tứ ấy rất mơ
hồ, mỗi người hiểu một cách khác nhau.
**Hướng dẫn cụ thể ở từng phần:
a. Mở bài:
Giáo viên trình bày quy trình ở đoạn văn phần mở bài về nhân vật văn học
và về đoạn thơ, bài thơ để học sinh nhậ biết qua đối chiếu sau:
Về nhân vật văn học


Về đoạn thơ, bài thơ

(1) Giới thiệu tác giả -> (2) Tên tác
phẩm -> (3) Thời điểm, hồn cảnh
sáng tác -> (4) Nhân vật chính -> (5)
Nêu ý kiến, đánh giá sơ bộ của mình
về nhân vật.

(1) Giới thiệu tác giả -> (2) Tên tác
phẩm -> (3) Thời diểm, hồn cảnh sáng
tác -> (4) Trích ở đâu -> (5) Nêu nhận
xét, đánh giá sơ bộ về nội dung, nghệ
thuật của đoạn thơ, bài thơ.

Như vậy, nhìn vào phần mở bài của hai kiểu bài, học sinh sẽ thấy cả hai
đề có (1), (2), (3) giống nhau nhưng bắt đầu khác nhau từ (4) và (5). Điều này
giúp học sinh dễ nhớ.
Giáo viên lưu ý cho học sinh có thể mở bài theo trình tự như thế nhưng
cách trình bày trên là khơng bắt buộc. điều bắt buộc về nội dung phải có là (2)
và (5) ở mỗi phần.
Về giới thiệu tác giả, mỗi tác giả học sinh phải thuộc ít nhất một câu.
* Ví dụ:
- Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn.
- Nguyễn Thành Long là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và kí.
- Chính Hữu là nhà thơ quân đội trưởng thành trong kháng chiến chống
Pháp.
- Viễn Phương là một trong những cây bút có cơng xây dựng nền văn học
cách mạng miền Nam từ những ngày đầu…
6



* Ví dụ minh họa phần mở bài:
Đề 1: Phân tích nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa
Pa” của Nguyễn Thành Long.
Nguyễn Thành Long là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và kí. truyện
ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” được sáng tác vào mùa hè năm 1970, trong một chuyến
đi lên Lào Cai của tác giả. Nhân vật chính trong truyện là anh thanh niên. Dù
được miêu tả nhiều hay ít, trực tiếp hay gián tiếp, anh thanh niên vẫn hiện lên
trong lòng người đọc với bao vẻ đẹp đáng yêu, đáng khâm phục. (Câu cuối có
thể viết: Anh thanh niên nổi bật những phẩm chất tốt đẹp của con người trong
giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mĩ).
Đề 2: Phân tích bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh.
Hữu Thỉnh vốn rất gắn bó với cuộc sống nơng thơn. Ơng có nhiều bài thơ
hay về con người và cuộc sống nông thôn, về mùa thu. Bài thơ “Sang thu” được
Hữu Thỉnh sáng tác gần cuối năm 1977, giới thiệu lần đầu tiên trên báo Văn
nghệ. Bài thơ là những cảm nhận, suy tư của nhà thơ về sự biến chuyển của đất
trời từ hạ sang thu.
Đề 3: Phân tích hình ảnh người lính trong bài thơ “Đồng chí” của Chính
Hữu.
Chính Hữu là nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc kháng chiến
chống Pháp. Phần lớn thơ ông hướng về đề tài người lính với lời thơ đặc sắc,
cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ hàm súc, cô đọng giàu hình ảnh. Bài thơ “Đồng
chí” ra đời năm 1948,là một trong những bài thơ hay viết về người lính của
ơng. Bài thơ làm nổi bật hình ảnh người lính trong kháng chiến chống Pháp với
tình cảm gắn bó keo sơn.
Từ ba đề trên, giáo viên cho học sinh đối chiếu với phần mở bài ở từng kiểu bài
thì học sinh dễ dàng viết đoạn mở bài. Cách mở bài này dành cho đối tượng học
sinh từ trung bình trở xuống.

b. Thân bài:
Trước hết, GV nên xác định vai trò của phần thân bài cho HS nhận thức
đầy đủ tầm quan trọng của nó trong một bài văn .Phần thân bài sẽ lần lượt trình
bày, giải thích, nhận xét, đánh giá … các luận điểm của vấn đề được đặt ra trong
đề bài (thực hiện vừa đủ, không thiếu, không thừa các nhiệm vụ đã đề ra ỏ phần
mở bài).

7


Ở từng luận điểm, cần có sự phân tích, chứng minh cụ thể, chính xác bằng
những dẫn chứng sinh động trong tác phẩm.
Giữa các luận điểm, đoạn văn cần có sự liên kết, chuyển tiếp một cách linh
hoạt, uyển chuyển, tránh gị bó, máy móc, cơng thức.
b.1.Nghị luận về một tác phẩm truyện hoặc trích:
Giáo viên hướng cho học sinh viết đoạn theo cách trình bày nội dung
đoạn văn theo lối diễn dịch hoặc quy nạp. Giáo viên cho học sinh nắm cáh trình
bày nội dung diễn dịch hoặc quy nạp bằng sơ đồ để học sinh dễ nhậ biết hơn.
+ Diễn dịch:

(1) (câu chủ đề nêu luận điểm)

(2)

(3)

(4) …

Các câu (2), (3), (4) là các câu nêu các ý chi tiết, cụ thể để làm sáng tỏ câu
chủ đề. Như vậy, các câu (2), (3), (4) có thể là dẫn chứng, là nhận xét, đánh giá

của người viết.
Đoạn văn thực hiện như sau: (1) Câu chủ đề luận điểm -> (2) Dẫn chứng
lấy từ tác phẩm (chọn 1 hoặc 2 dẫn chứng) -> phân tích, nhận xét, đánh giá từ
dẫn chứng để làm sáng tỏ ý đã nêu ở câu chủ đề. Các câu này phải viết thành
đoạn văn.
Ví dụ:
(1) Anh thanh niên là người rất khiêm tốn. (2) Khi ông họa sĩ muốn vẽ
chân dung của anh, anh hào hứng giới thiệu về những con người đáng để vẽ
hơn mình. (3) Đó là ơng kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa vượt qua bao khó khăn vất
vả để tạo ra những củ su hào to hơn, ngon hơn cho nhân dân, là anh cán bộ khí
tượng dưới trung tâm suốt mười một năm chuyên tâm nghiên cứu và thiết lập
bản đồ sét. (4) Anh thấy đóng góp của mình bình thường nhỏ bé so với những
con người ấy. (5) Anh thấy thấm thía sự hi sinh thầm lặng của những con người
ngày đêm làm việc lo nghĩ cho đất nước ở nơi mảnh đất nghĩa tình Sa Pa này.
Như vậy: Câu (1) là câu chủ đề luận điểm
Câu (2) (3)là câu chuyển để đưa dẫn chứng gián tiếp từ tác phẩm
Câu (4) và (5) là những câu phân tích, nhận xét từ dẫn chứng của
người viết.

8


Cái khó là học sinh khơng biết phân tích, nhận xét nên giáo viên cho học
sinh đặt câu hỏi để trả lời. như: Vì sao anh lại giới thiệu những con người khác ở
Sa Pa? Anh nghĩ điều gì mà giới thiệu như vậy? Học sinh trả lời đúng, nghĩa là
học sinh đã biết nhận xét, đánh giá.
Quy nạp là cách trình bày ngược với cách diễn dịch. Giới thiệu cách quy
nạp để học sinh biết và viết đúng nhằm thay đổi thao tác lập luận trong khi làm
bài.
Học sinh xác định được đặc điểm, tính cách của nhân vật theo trình tự

diễn biến của truyện thì học sinh lần lượt viết được đoạn văn ở phần thân bài.
Theo tôi, khi hướng dẫn học sinh phân tích nhân vật trong các tác
phẩm truyện mỗi giáo viên cần nắm và hiểu rõ về nhân vật trong tác phẩm:
Nhân vật trong tác phẩm tự sự bao giờ cũng mang tính cách số phận riêng.
Muốn phân tích nhân vật ta phải căn cứ vào các chi tiết, phương diện liên quan
đến nhân vật như: Lai lịch, ngoại hình, ngơn ngữ, hành vi, cử chỉ và nội tâm.
- Về lai lịch: Lai lịch của nhân vật trong văn bản tự sự có thể hiểu là thành
phần xuất thân hay hồn cảnh gia đình. Lai lịch của nhân vật cũng góp phần chi
phối đặc điểm tính cách nhân vật.
* Ví dụ:
Lai lịch của nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của nhà văn Kim
Lân có hồn cảnh xuất thân là nơng dân sống ở nơng thơn vì thế ơng hiện lên
với những phẩm chất và tính cách của một người nơng dân như: Hay lam hay
làm, cần cù chịu thương chịu khó. Ở nơi tản cư, ông vẫn với những công việc
quen thuộc: Cuốc đất trồng rau, trồng sắn. Ơng ln qua tâm đến cơng việc
ruộng nương đồng áng vì thế khi gặp những người tản cư từ Gia Lâm lên, ông
đã hỏi thăm chuyện lúa má, chuyện đất tốt, đất xấu. Cũng do xuất thân từ nông
thôn nên ông luôn tự hào về quê hương của mình.
- Về ngoại hình: Giáo viên cần hiểu được việc miêu tả ngoại hình trong văn
bản tự sự cũng là cách để nhà văn hé mở tính cách nhân vật. Một nhà văn có tài
thường chỉ qua một số nét phác họa có thể giúp người đọc hình dung ra diện
mạo, tư thế và bản chất của nhân vật đó. Từ quan điểm về ngoại hình như trên,
giáo viên linh hoạt vận dụng phương pháp dạy học, tổ chức, hướng dẫn học sinh
khai thác để khái quát lên đặc điểm tính cách nhân vật.
* Ví dụ 1:
Trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”, Nguyễn Thành Long giới thiệu anh
thanh niên là một con người có tầm vóc nhỏ bé, khuôn mặt rạng rỡ. Chi tiết này
đã khiến nhà họa sĩ và cô kỹ sư trẻ cảm mến anh. Con người nhỏ bé ấy lại đang
9



làm những cơng việc vơ cùng khó khăn gian khổ ở một nơi heo hút, quanh năm
chỉ có mây mù bao phủ. Khuôn mặt rạng rỡ ấy vừa thân thiện vừa thể hiện sự tự
tin, lạc quan của nhân vật này.
* Ví dụ 2:
Trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng, vết thẹo
trên khuôn mặt anh Sáu được miêu tả rất tỉ mỉ, kỹ lưỡng đã phần nào gúp người
đọc cảm nhận được sự tàn khốc của chiến tranh, những hy sinh mất mát mà
người lính phải gánh chịu. Vết thẹo ấy như còn là minh chứng cho lòng dũng
cảm, kiên trung của người chiến sĩ cách mạng.
* Ví dụ 3:
Cũng như bao cơ gái mới lớn, Phương Định trong truyện “Những ngôi
sao xa xôi”rất nhạy cảm và quan tâm đến hình thức của mình. Phương Định
đẹp với “hai bím tóc dày tương đối mềm, một cái cổ cao kiêu hãnh như đài hoa
loa kèn” và “đôi mắt nâu nâu dài dài hay nheo lại như chói năng, hay có cái
nhìn xa xăm”. Biết mình đẹp, cơ thích ngắm mình trong gương, có chút kiêu
ngầm khi biết mình được các anh pháo thủ và lái xe thăm hỏi. Cơ vui và tự hào
về điều đó nhưng khơng hay biểu lộ tình cảm của mình mà thường rỏ ra kín đáo
giữa đám đơng. Lê Minh Kh đã rất tinh tế khi phát hiện ra cái nét tâm lí kiêu
ngầm ấy ở Phương Định. Đó là cái kiêu ngầm của một cơ gái trẻ có ý thức sâu
sắc về vẻ đẹp cuộc sống. Chính nét tâm lí rất đời thường, rất con gái này khiến
nhân vật Phương Định càng trở nên gần gũi, chân thực và đáng yêu.
- Về ngôn ngữ nhân vật: Ngơn ngữ nhân vật cũng góp phần thể hiện trình độ
văn hóa, tính cách nhân vật. Ngơn ngữ nhân vật gồm: Ngôn ngữ đối thoại, ngôn
ngữ độc thoại và ngơn ngữ độc thoại nội tâm.
* Ví dụ 1:
Trong truyện ngắn Làng của Kim Lân, ngôn ngữ độc thoại nội tâm của
ông Hai được nhà văn thể hiện qua đoạn văn: “ Chúng nó cũng là trẻ con làng
việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn
bằng ấy tuổi đầu…” Đoạn văn đã diễn tả được nỗi xấu hổ nhục nhã của ơng

Hai khi nghe tin làng mình theo tây làm việt gian, vừa thể hiện một cách xúc
động tình cảm chân thành của một người cha dành cho các con. Hay lời đối
thoại của ông với thằng Húc con trai ơng cũng hé lộ tình cảm của ơng với
kháng chiến, với cách mạng và với cụ Hồ.
* Ví dụ 2:
Trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng lời đối
thoại của bé Thu với Má và Bà ngoại giúp ta cảm nhận được phẩm chất, tính

10


cách của bé Thu – một đứa bé hồn nhiên trong sáng nhưng rất ương ngạnh
bướng bỉnh.
- Về cử chỉ, hành động của nhân vật: Phẩm chất, tính cách của nhân vật
cũng được thể hiện qua hành động và cử chỉ bởi lẽ nhân vật trong tác phẩm
trước hết là con người của hành động và hành động của con người được thể hiện
qua hành vi.
*Ví dụ:
Trong Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”, hành động trao gói củ tam thất cho bác
lái xe, bó hoa cho cơ gái, ấm trà và làn trứng cho hai vị khách, cái nắm tay tạm
biệt của anh thanh niên và cô gái… tất cả những hành vi cử chỉ đó giúp người
đọc cảm nhận đựơc lòng hiếu khách mến khách, sự quan tâm chu đáo và tình
cảm chân thành mà các nhân vật đã dành cho nhau.
- Về nội tâm của nhân vật: Là thế giới bên trong của nhân vật gồm: cảm
xúc tình cảm, tâm lí, suy nghĩ của nhân vật. Nội tâm nhân vật có thể được miêu
tả trực tiếp hoặc gián tiếp.
* Ví dụ:
Trong truyện ngắn “Làng” nhà văn Kim Lân đã miêu tả nội tâm nhân vật
ông Hai khi nghe tin làng Dầu theo Tây qua đoạn văn: “Cổ ông lão nghẹn ắng
lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. Một lúc

lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc
hẳn đi:”. Trong đoạn văn trên thì nội tâm nhân vật ơng Hai được miêu tả gián
tiếp qua những biểu hiện bên ngoài cơ thể. Những biểu hiện như cổ nghẹn ắng,
da mặt tê rân rân dã diễn tả nỗi đau đớn xót xa đến quặn thắt của người nông
dân luôn tự hào về làng quê của mình.
b.2. Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ:
Khi dạy học sinh cảm thụ các tác phẩm trữ tình, giáo viên cần chú trọng
cho học sinh khai thác cái đẹp, cái hay về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
(từ ngữ, các phép tu từ, trí tưởng tượng…); thấy được chiều sâu tư tưởng của tác
giả gửi gắm vào đấy để từ đó giúp học sinh có kĩ năng sống phù hợp với xã hội
hiện đại.
- Học sinh cần đọc kĩ văn bản, nắm chắc kiến thức, nắm cách làm bài, viết
bài, biết viết câu hay, ý hay qua quá trình hướng dẫn rèn luyện kĩ năng thực hành
của thầy cô giáo. Học sinh biết sáng tạo khi làm bài, biết xây dựng đoạn, liên kết
đoạn, biết xây dụng bố cục mạch lạc, rõ ràng, chặt chẽ.
- Người giáo viên cần giúp học sinh xác định được trọng tâm kiến thức để
học sinh nắm được vấn đề đặt ra trong tác phẩm mà từ đó có cách viết, cách thể
hiện cảm xúc của mình khi tạo lập văn bản.
11


Đầu tiên, giáo viên phải hình thành cho học sinh quy trình xây dựng
đoạn khi phân tích một đoạn thơ, khổ thơ như sau:
(1) Nhận xét khái quát về nội dung của đoạn thơ, khổ thơ ấy (câu này gọi
là câu dẫn) -> (2) Dẫn chứng đoạn thơ, khổ thơ -> (3) Giảng giải, cắt nghĩa (từ,
ngư, câu thơ) -> (4) Liên hệ, mở rộng, so sánh -> (5) Nhậ xét cách sử dụng nghệ
thuật và phân tích nghệ thuật ấy (chú ý vào các chi tiết nghệ thuật tiêu biểu, mà
ở đó, các ý nghĩa độc đáo, tài năng nghệ thuật của tác giả được bộc lộ - lựa chọn
chi tiết không dàn trải) -> (6) Nhận xét, đánh giá về nội dung của đoạn thơ, khổ
thơ (phần này có thể về cảnh, về tâm trạng, tình cảm của nhân vật trữ tình trực

tiếp hoặc nhân vật trữ tình nhập vai).
Các câu (1), (2), (5), (6) thường bắt buộc phải có khi phân tích. Câu (3),
(4) tùy theo đoạn thơ, khổ thơ mà thực hiện. Riêng câu (4) học sinh khá, giỏi
thường dùng đẻ mở rộng ý.
Ví dụ 1: Phân tích khổ thơ:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”
(Thanh Hải – Mùa xuân nho nhỏ)
Viết đoạn:
(1) Từ cảm nhận về mùa xuân của thiên nhiên, đất nước, nhà thơ đã có
ước nguyện:
(2)

“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”

(3) Nhà thơ muốn làm “con chim hót” để làm vui cho cuộc đời, muốn làm
“một cành hoa” để khoe sắc và tỏa ngát hương thơm làm đẹp cuộc đời, muốn
làm một nốt trầm trong bản hòa ca đẻ làm tăng ý nghĩa cuộc đời. (4) Nhà thơ đã
dùng những hình ảnh đẹp của tự nhiên như bông hoa, con chim để nói lên ước
nguyện của mình. Những hình ảnh ấy được lặp lại, trở lại mang một ý nghĩa
mới: niềm mong muốn được sống có ích, cống hiến có ích cho đời. Cũng trong

12



thời gian này, nhà thơ Tố Hữu đã viết trong bài “Một khúc xuân” những suy
ngẫm tưng tự:
Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.
Nét riêng trong những câu thơ của Thanh Hải là ở chỗ nó đề cập đến một
vấn đề lớn nhân sinh quan – vấn đề ý nghĩa của đời sống cá nhân trong mối
quan hệ với cộng đồng – một cách thiết tha, nhỏ nhẹ, khiêm nhường được thể
hiện qua những hình tượng đơn sơ mà chưa đựng nhiều xúc cảm.
(4’) Nếu khi bắt đầu vào bài thơ, nhà thơ xưng tơi “Tơi đưa tay tơi
hứng” thì giờ đây, tác giả đã chuyển sang “ta” . Hoàn toàn khơng phải ngẫu
nhiên. Với chữ “ta” vừa là số ít vừa là số nhiều, tác giả có thể nói được cái
riêng biệt, cá thể, đồng thời lại nói được cái khái quát, cái chung. (5) Cách sử
dụng điệp ngữ “ta làm” láy di láy lại thật tha thiết, chân thành. (6) Nhà thơ có
một ước nguyện nhỏ bé, một phương châm sống thật cao đẹp được hòa nhập và
cống hiến cho đời.
Từ doạn văn trên, học sinh sẽ nhậ thấy như quy trình trên :
Câu (1) nhận xét khái quát về nội dung của đoạn thơ, khổ thơ ấy.
Câu (2) dẫn chứng đoạn thơ, khổ thơ.
Câu (3) giảng giải, cắt nghĩa.
Câu (4), (4’) là liên hệ, mở rộng, so sánh.
Câu (5) là nhận xét cách sử dụng nghệ thuật.
Câu (6) là nhận xét, đánh giá về nội dung.
Đối với học sinh yếu thì khơng thể thực hiện những câu (4), (4’) mà dành
cho học sinh khá, giỏi. Khi học sinh đã quen thì hướng dẫn cho đối tượng trung
bình, yếu thực hiện những câu (4), (4’).
Ví dụ 2: Phân tích các câu thơ sau:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
13


(Y Phương – Nói với con)
Viết đoạn :
Những câu thơ mở đầu đã thể hiện tình yêu thương cảu cha mẹ đối với
con :
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
Những hình ảnh cụ thể về một em bé đang tập đi, tập nói. Lúc thì bước tới
níu lấy tay cha, lúc thì sà vào lịng mẹ. Điệp ngữ “bước tới” gợi bước chân
chập chững của đưa con, sự mong chờ, vui mừng đón nhận của đơi vợ chồng
trẻ. Nhà thơ đã tạo một khơng khí gia đình đầm ấm, quấn quýt, hạnh phúc.
Ví dụ 3 : Phân tích khổ thơ :
Trăng cứ trịn vành vạnh
kể chi người vơ tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.
(Nguyễn Duy – Ánh trăng)
Viết đoạn:
Khổ thơ cuối bài thơ mang tính hàm nghĩa độc đáo, đưa tới chiều sâu tư
tưởng triết lí:
Trăng cứ trịn vành vạnh
kể chi người vơ tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.

“Trịn vành vạnh” là trăng rằm, tròn đầy, một vẻ đẹp viên mãn. “Im
phăng phắc” là im như tờ, không một tiếng động nhỏ. Vầng trăng cứ trịn đầy
và lặng lẽ “kể chi người vo tình”. “Trăng cứ tròn vành vạnh” như tượng trưng
cho quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguuyeen chẳng thể phai mờ, cho sự bao dung độ
lượng, của nghĩa tình thủy chung trọn vẹn. “Ánh trăng im phăng phắc” là hình
ảnh nhân hóa, chính là người bạn – nhân chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc
14


đang nhắc nhở nhà thơ (và cả mỗi chúng ta). Con người có thể vơ tình, có thể
lãng qn nhưng thiên nhiên, nghĩa tình q khứ thì ln ln trịn đầy, bất diệt.
*** Phần đánh giá: Phần đánh giá bao gồm đánh giá về nội dung và
nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ hay nội dung nghệ thuật của tác phẩm truyện
hoặc đoạn trích. Đây là phần khơng thể thiếu của kiểu bài nghị luận văn học.
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh kỹ năng đánh giá nội dung, nghệ thuật của
một tác phẩm văn học. Cụ thể là:
+ Đối với tác phẩm thơ: Cần đánh giá về thể thơ, từ ngữ, hình ảnh, giọng điệu,
các biện pháp tu từ, cảm xúc, trí tưởng tượng, sự liên tưởng...
+ Đối với tác phẩm truyện: Cần đánh giá về nghệ thuật tạo tình huống, ngơi
kể, ngơn ngữ truyện;nghệ thuật xây dựng nhân vật, miêu tả nội tâm, ngoại hình,
tính cách...
Ví dụ : Đánh giá về nội dung- nghệ thuật
+ Truyện ngắn ”Làng ” của Kim Lân:
Nhà văn Kim Lân đã khá thành công khi xây dựng nhân vật ông Hai, một
lão nông cần cù, chất phác, yêu mến, gắn bó với làng quê như máu thịt. Nhà
văn đã chọn được một tình huống khá độc đáo là sự thử thách bên trong bộc lộ
chiều sâu tâm trạng. Tâm lý nhân vật được nhà văn miêu tả cụ thể, gợi cảm qua
các diễn biến nội tâm, qua các ý nghĩ, cảm giác, hành vi, ngôn ngữ. Đặc biệt là
nhà văn đã diễn tả đúng và gây được ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt
trong tâm trạng nhân vật.

+ Phân tích Phương Định trong ”Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh
Khuê:
Có thể nói, xây dựng nhân vật Phương Định, Lê Minh Khuê đã chọn
được những phương thức trần thuật hợp lí khi nhà văn đặt điểm nhìn vào nhân
vật chính của mình để nhân vật tự kể chuyện. Nhờ vậy, nghệ thuật miêu tả tâm
lí nhân vật – tâm lí Phương Định đạt đến độ tinh tế nhất. Ngôn ngữ trần thuật
qua nhân vật chính làm cho tác phẩm có giọng điệu, ngôn ngữ tự nhiên gần
với khẩu ngữ, trẻ trung, nữ tính. Lời kể linh hoạt, cùng câu ngắn dài, nhịp
nhanh tạo khơng khí chiến trường, nhịp kể chậm lại khi hồi tưởng như gợi nhớ
kỉ niệm của tuổi thơ êm đềm… Tất cả góp phần tạo nên một nhân vật chínhmột Phương Định thật như ở ngồi đời và một Phương Định rất Hà Nội.
Ví dụ : Đánh giá về nghệ thuật của bài thơ:
+ Phân tích “ Nói với con” của Y Phương

15


Bài thơ “ Nói với con” có bố cục chặt chẽ, cách dẫn dắt tự nhiên, giọng
điệu thiết tha, triều mến, chân tình và rất mới lạ trong phong cách miền núi
với ngôn ngữ “thổ cẩm” rất độc đáo, với cảm xúc, tư duy rất riêng cùng thể
thơ tự do bay bổng phù hợp với mạch cảm xúc tự nhiên tạo ra sự cộng hưởng
hài hoà với những cung bậc tình cảm khác nhau trong lời cha truyền thấm
sang con.
+ Phân tích “ Ánh trăng” của Nguyễn Duy:
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy đã gây được nhiều xúc động đối với độc
giả bởi cách diễn đạt bình dị như lời tâm sự, lời tự thú, lời tự nhắc chân thành.
Giọng thơ trầm tĩnh sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ mới lạ ,“Ánh trăng” cịn mang ý
nghĩa triết lí về sự thuỷ chung về cách sống, cách làm người “uống nước nhớ
nguồn” khiến cho người đọc phải “giật mình” suy nghĩ, nhìn lại chính mình để
sống đẹp hơn, nghĩa tình hơn.
- Phần liên hệ so sánh: Học sinh có thể liên hệ với các tác phẩm có cùng chủ

đề, cùng thời gian sáng tác... để chỉ ra sự đồng điệu, sự khác biệt hoặc sự thành
cơng của mỗi nhà văn...
Ví dụ :
Trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” từ khát vọng hòa nhập, nhà thơ thể
hiện rõ hơn khát vọng cống hiến của mình ở những câu thơ :
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
“Mùa xuân nho nhỏ” là cách nói ẩn dụ đầy sáng tạo của nhà thơ. Mỗi con
người đều có thể góp một phần cơng sức của mình như “một mùa xuân nho
nhỏ” để tô hương thêm sắc cho quê hương đất nước. “Dâng” là một hành động
cống hiến, cho đi mà khơng dịi hỏi sự đền đáp. Phép đảo ngữ nhằm nhấn mạnh
khát vọng cống hiến chân thành của nhà thơ. Nhà thơ muốn góp cơng sức của
mình trong công cuộc xây dựng đất nước nhưng chỉ với một thái độ hết sức
khiêm tốn, không khoa trương mà chỉ “lặng lẽ”, âm thầm nhưng lại là toàn tâm
toàn ý, như nhà thơ Tố Hữu đã khẳng định:
“Nếu là con chim chiếc lá
Con chim phải hót chiếc lá phải xanh

16


Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”
Điệp từ “dù là” được điệp lại hai lần thể hiện rõ sự tự tin, bất chấp thời gian và
tuổi tác của nhà thơ. Qua khổ thơ, nhà thơ đã nhấn mạnh một ý nghĩa hết sức
sâu sắc: nhiệm vụ cống hiến xây dựng đất nước là của mọi người và là mãi mãi.
Khơng ai là khơng có nghĩa vụ xây dựng đất nước, và nghĩa vụ ấy kéo dài cả
một đời người, từ tuổi đôi mươi cho đến khi đầu đã điểm bạc theo năm tháng.

Đây là lời kêu gọi mọi người cùng chung vai gánh vác công việc xây dựng và
phát triển đất nước, để đất nước có thể vững vàng mà tiếp tục “đi lên phía
trước”.
c. Kết bài:
Đoạn kết bài phải thể hiện đúng quan điểm đã trình bày ở phần thân bài.
Chỉ nêu những ý nhận xét, đánh giá khái qt, khơng trình bày lan man
hay lặp lại ý diễn giải, minh hoạ, cụ thể, chi tiết. Cũng không nên lặp lại nguyên
văn lời lẽ của phần mở bài. Khác với mở bài, phần kết bài thiên về đánh giá,
tổng kết vấn đề.
Có nhiều cách kết bài khác nhau, tuỳ theo dụng ý của người viết. Có khi
kết bài là tóm tắt, khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Có
khi kết bài là tổng hợp những cảm nhận sâu sắc về nhân vật, tác giả, tác phẩm.
Có khi kết bài lại là liên tưởng đến các vấn đề khác có liên quan.
Thế nên, để hướng dẫn HS viết được những kết bài sâu sắc, người GV cần
phải giúp HS nhận thức được tầm quan trọng của đoạn kết bài (khơng chỉ khép
lại, hồn chỉnh bài văn mà cịn làm cho bài văn thêm khái quát, nâng cao về mọi
mặt: tư tưởng, tình cảm, chủ đề, quan niệm sống tốt đẹp …
* Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích):
+ Nêu những nhận định đánh giá chung về: bút pháp xây dụng nhân vật,
ảnh hưởng của nhân vật đối với người đọc.
+ Có thể bày tỏ tình cảm, cảm xúc của mình đối với nhân vật.
+ Cần nói đến vai trị, vị trí của nhân vật trong tác phẩm, và tùy trường
hợp, có thể nói rõ tác giả đã đóng góp được những gì về tư tưởng, về nghệ thuật
trong quá trình phát triển của văn học một thời kì. (ý này dành cho học sinh khá,
giỏi).
Ví dụ: Phân tích nhân vật Phương Định trong truyện “Những ngơi sao xa
xôi” của Lê Minh Khuê.

17



Tóm lại, truyện “Những ngơi sao xa xơi” của Lê Minh Khuê đã làm
sống lại trong mọi người hình ảnh tuyệt đẹp của những cô gái thanh niên xung
phong thời kháng chiến chống Mỹ với tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần
dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc
quan. Phương Định, tuy chỉ là một ngôi sao bé nhỏ, nhưng sẽ luôn tỏa sáng,
sáng lấp lánh trên bầu trời Việt Nam. Các cơ mãi là những hình ảnh đẹp, tiêu
biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kì kháng chiến. Vẻ đẹp của Phương Định
như gợi nhắc ở người đọc về những hy sinh mất mát của cả dân tộc trong chiến
tranh. Là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, mỗi chúng ta cần tích cực
học tập để góp phần mình vào cơng cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam
XHCN.
* Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ:
+ Khái quát giá trị, ý nghĩa: có thể về nghệ thuật, nội dung hoặc vị trí của
đoạn thơ, bài thơ trong dòng văn học ấy.
+ Hoặc rút ra ý nghĩa giáo dục.
Ví dụ: Phân tích bài thơ “Nói với con” của Y Phương.
Bằng từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi cảm, nhà thơ thể hiện tình cảm gia
đình đầm ấm, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và
dân tộc mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một
dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó truyền thống, với q hương và ý
chí vươn lên trong cuộc sống.
Những nội dung trong phần kết bài chỉ là định hướng, khơng bắt buộc
pahir trình bày đầy đủ khi viết bài. Giáo viên lưu ý cho học sinh, khi hết giờ làm
bài có thể trình bày ngắn gọn về cảm nhận của mình về nhân vật (đoạn thơ, bài
thơ) cũng được.
Ví dụ:
- Nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa đã gợi lên
trong lòng người đọc về vẻ đẹp và ý nghĩa của những cơng việc thầm lặng, cống
hiến sức mình cho công cuộc xây dựng đất nước.

- Thơ ca Việt Nam có những câu thơ, bài thơ hay viết về mùa thu. Đến
lượt mình, Hữu Thỉnh lại làm cho mùa thu có một hương sắc mới.
Trên cơ sở lý thuyết về kiểu bài, giáo viên vận dụng linh hoạt để hướng
dẫn học sinh làm dàn ý cho từng kiểu bài cụ thể, thực hành tạo lập văn bản hoàn
chỉnh dựa trên dàn ý đã lập. Việc thường xuyên thực hành tạo lập văn bản sẽ rèn
cho học sinh có kỹ năng về kiểu bài, nắm được trình tự tạo lập văn bản nghị

18


luận. Việc đảm bảo ý, cấu trúc của bài văn nghị luận cũng là cách nâng cao chất
lượng bộ môn Ngữ văn trong các nhà trường.
8. Những thông tin cần được bảo mật: không
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Nhà trường có đủ trang thiết bị học tập phục vụ giảng dạy bộ môn.
- Trong những năm học tới Phòng Giáo dục - Đào tạo sẽ tiếp tục tổ chức các
buổi sinh hoạt chuyên môn hiệu quả hơn nữa để chúng tơi có được những
phương pháp dạy học hay, hiệu quả.
10. Đánh giá lợi ích thu được
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tác giả:
- Khi học sinh có kiến thức và kỹ năng tạo lập văn bản nghị luận, các em sẽ
có được sự tư duy logic trong nói viết. Các vấn đề về xã hội sẽ được các em
trình bày một cách ngắn gọn rõ ràng và có tính thuyết phục cao đối với người
đọc, người nghe.
- Hiểu được lập luận, các phép lập luận trong văn bản nghị luận sẽ hình thành ở
các em thói quen liên hệ thực tế khi trình bày các vấn đề có liên quan đến học
thuật.
- Việc dạy học Ngữ văn đúng phương pháp không chỉ giảm bớt áp lực về môn
học cho học sinh mà còn khắc phục được phần nào thói lười học văn, chán học

văn hiện nay của học sinh…
- Thực tế qua các kỳ kiểm tra của năm học 2018- 2019 cho thấy môn Ngữ văn
của nhà trường nói chung đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể là:
* Kết quả giảng dạy Ngữ văn 8 năm học 2019- 2020:
- Kết quả thi HSG Khoa học xã hội:
+ Cấp huyện: 01 học sinh đoạt giải Nhất
01 học sinh đoạt giải Ba
03 học sinh đoạt giải KK
- Kết quả thi kiểm định chất lượng :
+ Học kì 1: Đứng thứ 2 /18 trường của huyện
* Kết quả giảng dạy Ngữ văn 9 năm học 2019- 2020:
- Kết quả thi HSG :

19


+ Cấp huyện: 01 học sinh đoạt giải Nhì;
01 học sinh đoạt giải KK
- Kết quả thi kiểm định chất lượng :
+ Học kì 1: Đứng thứ 9 /18 trường của huyện
10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
Khắc phục có hiệu quả tình trạng học sinh gặp khó khăn, kỹ năng trong
trong việc nghị luận về tác phẩm văn học (Cả phần thơ và truyện). Góp phần
nâng cao hiệu quả dạy và học kĩ năng phân tích, cảm nhận trong việc học Ngữ
văn cho học sinh.
11. Danh sách những cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu:

Trường THCS Tứ Yên


Phạm vi/Lĩnh vực
áp dụng sáng kiến
Kỹ năng làm bài văn nghị
luận về tác phẩm văn học

2 Lớp 8A,8B

Trường THCS Tứ Yên

Kỹ năng làm bài văn nghị
luận về tác phẩm văn học

3 Dương Thị Hòa

Kỹ năng làm bài văn nghị
GV Trường THCS Tứ Yên luận về tác phẩm văn học

Stt Tên tập thể / cá nhân
1 Lớp 9A

Địa chỉ

Kỹ năng làm bài văn nghị
4 Lương Thị Hồng Thái GV Trường THCS Tứ Yên luận về tác phẩm văn học

5 Nguyễn Thị Kim Tứ

Tứ Yên, ngày.....tháng......năm
HIỆU TRƯỞNG
(Ký tên, đóng dấu)


Kỹ năng làm bài văn nghị
GV Trường THCS Tứ Yên luận về tác phẩm văn học

Tứ Yên, ngày.....tháng......năm......
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
SÁNG KIẾN CẤP TRƯỞNG
(Ký tên, đóng dấu)

Tứ Yên, ngày.....tháng......năm......
ĐỒNG TÁC GIẢ
(Ký, ghi rõ họ tên)
Dương Thị Hòa

20


Lương Thị Hồng Thái

21


Tài liệu tham khảo
1. Tài liệu tập huấn chuyên môn do Phòng giáo dục đào tạo tổ chức.
2. Tài liệu về phương pháp dạy học Ngữ văn theo chương trình đổi mới.
3. Tài liệu hướng dẫn việc dạy học Ngữ văn theo chuẩn kiến thức kỹ năng.
4. Tham khảo kiến thức về kiểu bài Nghị luận văn học trong SGK; sách Giáo
viên Ngữ văn 9.
5. Thư viên Violet – thư viện dành cho cộng đồng giáo viên Việt Nam.
6. Tham khảo các thành viên trong tổ KHXH trường THCS Thọ Nghiệp –

Xuân Trường - Nam Định.

22


V. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ:

23


Tơi hy vọng rằng, trong những năm học tới phịng giáo dục đào tạo sẽ tiếp
tục tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn hiệu quả hơn nữa để chúng tơi có
được những phương pháp dạy học hay, hiệu quả.
Trên đây là những định hướng của bản thân về phương pháp dạy học kiểu
văn bản nghị luận được rút ra trong quá trình giảng dạy. Tuy nhiên việc vận
dụng phương pháp dạy học có hiệu quả hay khơng cịn tùy thuộc vào khả năng
của mỗi giáo viên, đối tượng học sinh ở từng địa phương… Vì thế trong quá
trình dạy học, mỗi giáo viên cần linh hoạt trong việc thiết kế bài giảng, linh
hoạt sử dụng phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học, phát huy tối đa
khả năng tìm tịi sáng tạo của học sinh trong giờ học, chắc chắn chúng ta sẽ có
được những thành cơng.

24



×