Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số biện pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.42 KB, 20 trang )

TÓM TẮT SÁNG KIẾN

Họ và tên tác giả: VŨ THỊ DIỆU LINH
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: trường TH&THCS Tứ Yên
Tên sáng kiến: “Một số biện pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa. Phân biệt từ
đồng âm và từ nhiều nghĩa lớp 5”.
Mã lĩnh vực: 06
Nội dung tóm tắt:
Sáng kiến tập trung vào một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
môn Tiếng Việt lớp 5. Cụ thể, các giải pháp đã triển khai là:
Giải pháp 1: Giúp học sinh nắm vững kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
bằng cách dạy kĩ và chắc phần kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
Giải pháp 2: Tổ chức dạy học trên lớp có sự lồng ghép, gợi mở kiến thức
Giải pháp 3: Tìm các căn cứ để giúp học sinh nhận diện, phân biệt từ đồng âm và từ
nhiều nghĩa nhằm khắc sâu kiến thức cho học sinh.
Giải pháp 4: Tập hợp từ các bài tập về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
Giải pháp 5: Tự tích lũy một số trường hợp về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong cuộc
sống hàng ngày.

HIỆU TRƯỞNG

TÁC GIẢ


Vũ Thị Diệu Linh

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Trong giáo dục phổ thông, môn Tiếng Việt là một mơn học quan trọng, chiếm


vị trí chủ yếu trong chương trình. Trong các giờ học Tiếng Việt nhà trường cung cấp
cho các em những tri thức khoa học về ngơn ngữ. Đó là phương tiện giúp các em trau
giồi và phát triển ngôn ngữ, sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong hoạt động giao tiếp
hàng ngày qua đó rèn luyện cho học sinh các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết Tiếng Việt.
Và để làm tốt được điều đó thì một việc quan trọng cần thiết mà chúng ta cần làm là
dạy cho học sinh hiểu được nghĩa của từ.
Trong chương trình mơn Tiếng Việt lớp 5, mảng nội dung nghĩa của từ được tập
trung và được biên soạn có hệ thống trong phần luyện từ và câu. Nhiều năm liền trong


q trình nghiên cứu và giảng dạy, tơi thường nhận thấy các em học sinh dễ dàng tìm
được các từ trái nghĩa, việc tìm các từ đồng nghĩa hồn tồn, đồng nghĩa khơng hồn
tồn cũng khơng mấy khó khăn vất vả, tuy nhiên khi học xong từ nhiều nghĩa và từ
đồng âm thì các em bắt đầu có sự nhầm lẫn và khả năng phân biệt từ nhiều nghĩa và
từ đồng âm không được như mong đợi của cô giáo. Kể cả một số học sinh khá giỏi
đôi lúc cũng làm thiếu chính xác. Trăn trở về vấn đề này, qua năm dạy lớp 5 tôi đã rút
ra một số kinh nghiệm nhỏ về cách dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, bài tập phân
biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
Sau đây tôi xin chia sẻ một số kinh nghiệm qua đề tài: “Một số biện pháp dạy
từ đồng âm, từ nhiều nghĩa. Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa lớp 5”.
2. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa; phân biệt từ
đồng âm, từ nhiều nghĩa lớp lớp 5”
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Vũ Thị Diệu Linh
- Địa chỉ: Trường Tiểu học Tứ Yên,huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Điện thoại: 0963003634
- Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Vũ Thị Diệu Linh
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: môn Tiếng Việt
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử

- Từ tháng 9/2019 đến nay.


7. Bản chất của sáng kiến
7.1 Nội dung của sáng kiến
Khái niệm từ đồng âm và từ nhiều nghĩa được hiểu như sau:
Từ đồng âm là những từ có hình thức ngữ âm ngẫu nhiên giống nhau, nhưng
nghĩa hoàn toàn khác nhau.
Hiện tượng đồng âm là hiện tượng mang tính phổ quát xuất hiện trong nhiều
ngôn ngữ trên thế giới
Khái niệm nghĩa gốc - nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa
- Nghĩa gốc: Là nghĩa cơ bản, là nền tảng cho sự phát triển nghĩa của từ. Trong
từ điển, nghĩa gốc được nói đến đầu tiên.
- Nghĩa chuyển: Là loại nghĩa được hình thành từ nghĩa gốc, có mối quan hệ
mật thiết với nghĩa gốc.Trong từ điển, nghĩa chuyển được nói đến sau nghĩa gốc.
Một thực tế cho thấy khi học và làm bài tập về từ đồng âm học sinh tiếp thu và
làm bài nhanh hơn khi học và làm bài tập về từ nhiều nghĩa, có lẽ vì từ nhiều nghĩa
trừu tượng hơn. Đặc biệt, khi cho học sinh phân biệt và tìm các từ có quan hệ đồng
âm, các từ có quan hệ nhiều nghĩa với nhau trong một số văn cảnh thì đa số học sinh
lúng túng và làm bài tập chưa đạt yêu cầu,…Để kiểm tra khả năng phân biệt chính xác
từ đồng âm và từ nhiều nghĩa tôi đã cho học sinh lớp 5C (năm học 2018-2019) làm
bài tập 1 (trang 82- SGK – TV5 tập 1).
Đề bài: Trong các từ in đậm sau đây, những từ nào là từ đồng âm, những từ nào
là từ nhiều nghĩa?


a. Chín
- Lúa ngồi đồng đã chín vàng.
- Tổ em có chín học sinh.
- Nghĩ cho chín rồi hãy nói.

b. Đường
- Bát chè này nhiều đường nên rất ngọt.
- Các chú công nhân đang sửa chữa đường dây điện thoại.
- Ngoài đường, mọi người qua lại nhộn nhịp.
c. Vạt
- Những vạt nương màu mật.
- Lúa chín ngập lịng thung
- Chú Tư lấy dao vạt nhọn đầu chiếc gậy tre.
- Những người Giáy, người Dao
- Đi tìm măng hái nấm
- Vạt áo chàm thấp thoáng
- Nhuộm xanh cả nắng chiều
* Kết quả chất lượng năm học 2018-2019:
Qua quá trình giảng dạy và nghiên cứu học sinh lớp tôi đã đạt được kết quả
đáng kể:
Tổng số học
sinh

Số bài đúng cả Số bài có 1
3 phần

phần sai

Số bài có 2 Số bài có 3 phần
phần sai

sai


23

13
5
3
2
Như vậy số học sinh có phần bài làm sai khá nhiều, đặc biệt có những học sinh
sai từ 2 đến 3 phần.Vậy việc phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa của các em chưa
tốt.Tôi đưa ra một số biện pháp áp dụng
7.1.1. Áp dụng phương pháp hợp tác trong giờ thực hành môn Tiếng Việt
Giải pháp 1: Giúp học sinh nắm vững kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
bằng cách dạy kĩ và chắc phần kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
Khi dạy khái niệm về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, Tơi thực hiện theo quy
trình các bước sau:
Cho học sinh nhận biết ngữ liệu để phát hiện những dấu hiệu bản chất của từ
đồng âm và từ nhiều nghĩa.
Học sinh rút ra các đặc điểm của từ đồng âm,từ nhiều nghĩa và nêu định nghĩa.
Cho học sinh lấy ví dụ để nắm vững kiến thức.
Luyện tập để nắm khái niệm trong ngữ liệu mới.
Việc dạy hai bài học trên cũng tuân theo nguyên tắc chung khi dạy luyện từ và
câu và vận dụng các phương pháp, hình thức dạy học như:
Phương pháp hỏi đáp

- Hình thức học cá nhân

Phương pháp giảng giải

- Thảo luận nhóm

Phương pháp trực quan

- Tổ chức trò chơi



* Đối với các tiết dạy luyện tập về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, tôi chủ yếu
thông qua việc tổ chức các hình thức dạy học để giúp học sinh củng cố, nắm vững
kiến thức, nhận diện, đặt câu, xác định đúng nghĩa
VD1: Khi dạy bài từ đồng âm SGK TV5 tập 1 trang 51 tôi làm như sau:
- Tôi yêu cầu học sinh đọc bài tập 1 phần nhận xét:
a) Ơng ngồi câu cá.
b) Đoạn văn này có 5 câu.
Sau khi cho học sinh đọc tôi đưa câu hỏi để dẫn dắt học sinh tìm hiểu ngữ liệu:
+ Em có nhận xét gì về hai câu văn trên?
+ Hoặc hai câu văn trên có từ nào giống nhau?
+ Nghĩa của từ câu trong từng câu văn trên là gì? Em hãy chọn lời giải thích
đúng ở bài tập 2
Câu trong Ơng ngồi câu cá: Bắt cá, tơm,…bằng móc sắt nhỏ (thường có mồi)
buộc ở đầu một sợi dây
Câu trong Đoạn văn này có năm câu: Đơn vị của lời nói diễn đạt một ý trọn
vẹn, trên văn bản được mở đầu bằng một chữ cái viết hoa và kết thúc bằng một dấu
ngắt câu.
Sau đó tơi hỏi:
+ Hãy nêu nhận xét của em về nghĩa và cách phát âm các từ câu trên.
- HS rút ra khái niệm: Từ đồng âm là những từ giống nhau về âm nhưng khác nhau về
nghĩa (SGK Tiếng Việt 5 - tập 1 - trang 51)


- Tơi đưa thêm một số ví dụ cho HS tìm hiểu:
+ Bị trong kiến bị: Chỉ hoạt động di chuyển ở tư thế áp bụng xuống nền bằng
cử động của tồn thân hoặc những cái chân ngắn.
+ Bị trong trâu bị: Chỉ lồi động vật nhai lại, sừng ngắn, lơng thường có màu
vàng, được ni để lấy sức kéo, thịt, sữa,…

+ Đầm trong đầm sen: Chỉ khoảng trũng to và sâu giữa đồng để giữ nước.
+ Đầm trong cái đầm đất: Chỉ vật nặng, có cán dùng để nện đất cho chặt.
-Tơi u cầu học sinh tự tìm thêm ví dụ về từ đồng âm để khắc sâu kiến thức trước
khi chuyển sang phần luyện tập.
VD2: Khi dạy bài từ nhiều nghĩa SGK TV5 tập 1 trang 66 tôi làm như sau:
- Tôi yêu cầu học sinh đọc bài tập 1 phần nhận xét: Rồi hỏi học sinh
+ Bài tập 1 u cầu chúng ta điều gì?
Tơi u cầu học sinh tự làm bài. Nhắc học sinh dùng bút chì để nối từ với nghĩa thích
hợp
Nhận xét bài, kết luận đúng sai.
Gọi 1 học sinh nhắc lại nghĩa của từng từ.
A – Từ
Tai

a.
a.

B - Nghĩa
Bộ phận ở hai bên đầu người hoặc động vật, dùng để nghe
Phần xương cứng, màu trắng, mọc trên hàm, dùng để cắn, giữ

Răng
a.

và nhai thức ăn.
Bộ phận nhô lên ở giữa mặt người hoặc động vật có xương

Mũi
sống, dùng để thở và ngửi.
Sau đó tôi chuyển sang bài tập 2



Gọi học sinh đọc yêu cầu và nội dung của bài tập
Yêu cầu học sinh thảo luận theo nhóm bàn tìm câu trả lời
+ Nghĩa của các từ tai, răng, mũi ở hai bài tập trên có gì giống nhau?
Học sinh trả lời:
+ Răng: đều chỉ vật nhọn,sắc, sắp đều thành hàng.
+ Mũi: Cùng chỉ bộ phận có đầu nhọn nhơ ra phía trước.
+ Cùng chỉ bộ phận mọc ở hai bên chìa ra như tai người.
Sau đó học sinh tự rút ra khái niệm:
*Từ nhiều nghĩa là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển.Các nghĩa
của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau. (SGK Tiếng Việt 5 – Trang
67)
Giải pháp 2: Tổ chức dạy học trên lớp có sự lồng ghép, gợi mở kiến thức.
Trong chương trình SGK, bài dạy về từ nhiều nghĩa được sắp xếp sau bài dạy
về từ đồng âm.Như vậy để phòng xa sự nhầm lẫn giữa từ đồng âm với từ nhiều nghĩa
thì ngay ở bài dạy về từ đồng âm ngồi ví dụ đúng về các trường hợp đồng âm tôi đưa
thêm một số ví dụ về các trường hợp khơng phải đồng âm để các em nhận xét.
VD: Từ “đi” trong các trường hợp sau đây có phải hiện tượng đồng âm hay khơng?


Mẹ hay đi bộ vào buổi tối để giảm béo.



Bố mới đi cơng tác về.



Hè này, cả nhà em đi du lịch.




Cụ ốm nặng đã đi hơm qua rồi.




Anh đi con mã, tôi đi con tốt.



Thằng bé đã đến tuổi đi học.
Bài tập này tôi chỉ yêu cầu học sinh nhận diện từ đi trong các câu văn trên là

hiện tượng đồng âm hay không phải đồng âm, khơng u cầu các em các em giải
thích gì và sẽ có hai phương án trả lời: đồng âm/ khơng đồng âm. Đến đây giáo viên
gợi mở: để biết từ “đi” trong các câu văn trên có phải quan hệ đồng âm hay khơng,
các em về nhà suy nghĩ tìm hiểu SGK các tiết luyện từ và câu sau cô sẽ giúp các em
tìm câu giải đáp.
Để khơng mất nhiều thời gian tiết học cho nội dung trên, tôi viết sẵn nội dung
câu hỏi gợi mở ra bảng phụ và tiến hành sau khi học sinh lấy VD về từ đồng âm để
khẳng định lại ghi nhớ. Lúc đó tự các em sẽ có một sự so sánh giữa các ví dụ về từ
đồng âm với ví dụ trên, đồng thời kích thích được tư duy của học sinh. Trước khi kết
thúc tiết học, tôi cũng không quên nhắc học sinh về nhà tiếp tục suy nghĩ trả lời giải
thích về hiện tượng từ đi trong các câu văn đã cho.
Trong dạy bài từ nhiều nghĩa tôi cũng đưa thêm một ví dụ về từ đồng âm để học
sinh phân biệt, rèn kĩ năng nhận diện từ.
Sau phần ghi nhớ của bài học từ nhiều nghĩa tôi lấy thêm một hoặc hai ví dụ về
từ nhiều nghĩa, sau đó quay lại lấy ví dụ về từ đồng âm cho học sinh nhận định về các

từ trong ví dụ.
VD: Từ “chỉ” trong các trường hợp sau là từ đồng âm hay nhiều nghĩa? Vì sao?
Cái kim sợi chỉ - chiếu chỉ - chỉ đường – một chỉ vàng.


Ở câu hỏi này, tôi yêu cầu học sinh giải thích lí do lựa chọn để khẳng định kiến
thức và khả năng nhận diện phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Sau khi học sinh
trả lời tôi chốt lại: từ chỉ trong các trường hợp trên có quan hệ đồng âm vì nghĩa của
từ chỉ trong mỗi trường hợp hồn tồn khác nhau, khơng có quan hệ với nhau và nhấn
mạnh thêm ở cuối tiết học những điều cần lưu ý khi phân biệt từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa để tránh nhầm lẫn đáng tiếc giữa hai hiện tượng này.
Giải pháp 3: Tìm các căn cứ để giúp học sinh nhận diện, phân biệt từ đồng âm và
từ nhiều nghĩa nhằm khắc sâu kiến thức cho học sinh.
Khi tôi dạy bài: Luyện tập về từ nhiều nghĩa SGK TV5 tập 1 Trang 82
Khi học sinh làm bài xong tơi hỏi một học sinh có phần lỗi sai nhiều về nghĩa của từ
“vạt” trong câu:
“Chú Tư lấy dao vạt nhọn đầu chiếc gậy tre”nghĩa là gì?
Lúc đầu em im lặng khơng trả lời, sau đó tơi động viên, bảo em hiểu thế nào thì
cứ nói cho cơ nghe thì em trả lời “ vạt” trong câu văn đó là một phần đầu nhọn của
con dao.
Tôi thầm nghĩ, em đã hiểu sai nghĩa của từ vạt và nội dung ý nghĩa thông báo
của câu văn nên trong bài làm của mình em cho rằng từ vạt trong câu:
“Những vạt nương màu mật
Lúa chín ngập lịng thung”
Và từ vạt trong câu văn trên đều là những từ cùng nghĩa.


Tìm hiểu và nắm được một số sai lầm của học sinh như trên, tôi đã thử nghiệm
một số biện pháp phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa như sau:
- Yêu cầu học sinh thuộc và hiểu ghi nhớ

- Dùng tranh ảnh vật thật để minh hoạ cho từ nhằm giúp các em hiểu đúng nghĩa và
phân biệt được từ.
Ví dụ: Khi dạy bài từ đồng âm SGK TV5 tập 1 trang 51
- Để phân biệt nghĩa từ đồng trong bài tập: Cánh đồng - tượng đồng - một
nghìn đồng.Tơi đã đưa bức ảnh chụp cánh đồng, một pho tượng làm bằng đồng và tờ
tiền một nghìn đồng cho HS xem để HS nắm nghĩa của các từ đồng. học sinh nêu
nghĩa từng từ rồi từ đó tự rút ra kết luận : Đó là những từ đồng âm
Giải pháp 4: Tập hợp từ các bài tập về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
Tôi đã tiến hành tập hợp, phân loại các dạng bài tập để giúp học sinh nắm chắc
phần kiến thức này.
Dạng 1: Phân biệt nghĩa của từ
Đối với từ đồng âm:
Phân biệt nghĩa của các từ đồng âm trong các cụm từ sau: cánh đồng (1); tượng
đồng (2) ; một nghìn đồng (3)
Ở bài tập này tôi yêu cầu các em đánh số sau đó giải nghĩa của các từ đồng trong từng
trường hợp:
đồng (1): Khoảng đất rộng, bằng phẳng, dùng để cày cấy, trồng trọt.
đồng (2): Là kim loại có màu đỏ, dẽ dát mỏng và kéo thành sợi.


đồng (3): Là đơn vị tiền Việt Nam
Sau đó yêu cầu học sinh rút ra kết luận: Nghĩa của các từ đồng này hoàn toàn khác
nhau, chúng là những từ đồng âm.
Đối với từ nhiều nghĩa:
Trong các câu sau câu nào có từ chân mang nghĩa gốc và câu nào có từ chân
mang nghĩa chuyển ?
a.

Lịng ta vẫn vững như kiềng ba chân (1).


b.

Bé đau chân (2).
Tôi yêu cầu các em đánh số sau đó nêu nghĩa của từ chân và xác định nghĩa

gốc, nghĩa chuyển.
Từ chân trong câu a: Chỉ một bộ phận làm trụ đỡ của cái kiềng. (nghĩa chuyển)
Từ chân trong câu b: Một bộ phận của cơ thể, đỡ và di chuyển cơ thể (nghĩa gốc)
Dạng 2: Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm hoặc nhiều nghĩa.
Đối với từ đồng âm.
Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm: bàn, cờ, nước.
Ở bài tập này tôi hướng dẫn học sinh với mỗi từ các em cần đặt ít nhất là hai
câu, các từ đó có quan hệ đồng âm với nhau.
VD: Bàn:

Cả nhà ngồi vào bàn để ăn cơm.
Bố mẹ em đang bàn chuyện gia đình.

Đối với từ nhiều nghĩa.
Đặt câu để phân biệt nghĩa của từ “đứng”


Tôi yêu cầu học sinh đặt câu và gợi ý nghĩa của các từ đứng như sau:
Nghĩa 1: Đứng: Ở tư thế chân thẳng, chân đặt trên mặt nền.
Nghĩa 2: Đứng: Ngừng chuyển động
Dựa vào gợi ý đó học sinh có thể đặt câu:
Nghĩa 1: Chúng em đang đứng nghiêm trang chào cờ.
Nghĩa 2: Kim đồng hồ đứng lại.
Trời đứng gió.
Giải pháp 5: Tự tích lũy một số trường hợp về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong

cuộc sống hàng ngày.
Để dạy tốt phần kiến thức nghĩa của từ này, tôi nghĩ bản thân người giáo viên
phải luôn nỗ lực tự tích lũy, trau giồi bản thân để có được vốn từ phong phú. Bản thân
tơi đã tự tích lũy cho bản thân vốn từ sau:
Đối với từ đồng âm:
a. Bạc:
- Cái nhẫn bằng bạc
- Đồng bạc trắng hoa xòe.
- Cờ bạc là bác thằng bần.
- Ơng Ba tóc đã bạc.
- Đừng xanh như lá, bạc như vôi.
- Cái quạt máy này phải thay bạc.
b. Đàn:


- Cây đàn ghi ta.
- Vừa đàn vừa hát.
- Lập đàn để tế lễ.
- Bước lên diễn đàn.
- Đàn chim tránh rét trở về.
c. Đình
- Qua đình ngả nón trơng đình.
- Cơng việc bị đình lại vì khơng có người làm.
d. Đơn
- Lan bị ốm, phải viết đơn xin nghỉ học.
- Nhà đơn người, chỉ có một mẹ một con.
e. Mai
- Nếu miền Bắc có hoa đào thì miền Nam có hoa mai.
- Rùa, mực, cua là các con vật có mai.
- Nay đây mai đó.

Đối với từ nhiều nghĩa:
a. Chạy
- Cầu thủ chạy đón quả bóng
- Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại.
- Tàu chạy trên đường ray.
- Đồng hồ này chạy chậm


- Mưa ào xuống, khơng kịp chạy lúa phơi ngồi sân.
- Nhà ấy chạy ăn từng bữa.
- Con đường mới mở chạy qua làng tôi.
b. Lá
- Lá bang đang đỏ ngọn cây. ( Tố Hữu )
- Lá khoai anh ngỡ lá sen. ( ca dao )
- Lá cờ căng lên vì ngược gió. ( Nguyễn Huy Tưởng )
- Cầm lá thư này lịng hướng vơ nam.( bài hát)
c. Quả
- Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân. ( ca dao)
- Trăng trịn như quả bóng. (Trần Đăng Khoa)
- Quả đất là ngôi nhà chung của chúng ta.
d. Cứng
- Lúa đã cứng cây.
- Lí lẽ rất cứng.
- Học lực loại cứng.
- Quai hàm cứng lại. Chân tay tê cứng.
e. Xuân
Mùa xuân là tết trồng cây.
Làm cho đất nước càng ngày càng xuân.
( Hồ Chí Minh)



Ngày xuân con én đưa thoi.
( Nguyễn Du)
Sáu mươi tuổi hãy cịn xn chán
So với ơng Bành vẫn thiếu niên.
( Hồ Chí Minh)
7.1.2. Kết quả thực hiện
Việc dạy kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm với từ
nhiều nghĩa theo một số biện pháp trên đây là một thử nghiệm của bản thân tôi .Trong
năm học; 2019–2020. Kết quả đạt được rất tốt so với chất lượng học nội dung này ở
năm học trước đã có sự chuyển biến rõ rệt. Cụ thể năm học này tôi cũng ra những bài
tập tương tự năm học trước cho các em học sinh lớp tôi chủ nhiệm. Kết quả làm bài
như sau:
Tổng số

Số bài có 1

Số bài có 2

Số bài đúng cả
học sinh
23

20

Số bài có nhiều phần sai
phần sai

phần sai


3

0

0

So với kết quả kiểm tra năm trước số học sinh làm bài tốt tăng lên rất nhiều, số
học sinh có phần sai nhiều giảm đi đáng kể. Đây là một dấu hiệu khả quan cho việc
vận dụng một số biện pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong các năm học tiếp
theo.
7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến


Sáng kiến kinh nghiệm được áp dụng cho đối tượng là học sinh lớp 5 ở trường
TH&THCS Tứ Yên. Ngoài ra sáng kiến cịn có thể áp dụng cho đối tượng học sinh
các trường tiểu học trên phạm vi toàn tỉnh.
8. Những thông tin cần được bảo mật: Không
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
- Nhà trường có kế hoạch thành lập Câu lạc bộ Em yêu Tiếng Việt để tạo cơ hội
cho các em giao tiếp, củng cố và mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ để sử dụng có hiệu
quả trong học tập, tạo sự hứng thú say mê học
- Thường xuyên tổ chức các cuộc thi tìm từ, nêu nghĩa của từ dưới các hình
thức như hái hoa dân chủ, thả thơ, hội vui học tập trong các buổi sinh hoạt lớp, sinh
hoạt tập thể để các em được vận dụng, trau dồi các kiến thức đã học đồng thời mở
rộng thêm vốn từ của mình.
- Bản thân mỗi giáo viên phải biết tích lũy cho mình những kiến thức từ đơn
giản đến chuyên sâu về từ,trau dồi vốn từ phong phú, học hỏi các biện pháp dạy học
có hiệu quả của đồng nghiệp.
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến
theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng

sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có).
10.1 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến
theo ý kiến của tác giả:
Khối

TSHS

HTT
SL

HT
%

SL

CHT
%

SL

%


5
74
32
43,2
42
57,8
0

0
Tổng cộng
74
32
43,2
42
57,8
0
0
10.2 Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến
theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
Tôi đã mang những kinh nghiệm của mình trao đổi với các bạn đồng nghiệp trong
khối để cùng áp dụng vào trong năm học 2019-2020 đã được đánh giá cao cao và đã
thu được kết quả tốt. Cụ thể: có khoảng 43,2% số bài các em hoàn thành tốt, 57,8% số
học sinh hoàn thành, khơng có học sinh chưa hồn thành .Điểu đó giúp tơi có thêm
động lực để phát huy hơn nữa những mặt tích cực,để sáng kiến kinh nghiệm của tơi
được hồn thiện và có thể được ứng dụng trong phân mơn Tiếng Việt lớp 5 đối với các
nhà trường trong toàn tỉnh
11. Danh sách những tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng hoặc áp dụng sáng
kiến lần đầu (nếu có):

Tên tổ chức/ cá
TT

Địa chỉ

Phạm vi/ lĩnh vực áp dụng sáng kiến

nhân
Biện pháp dạy từ đồng âm và từ nhiều

1

Khối 5

Tiểu học Tứ Yên

nghĩa; phân biệt từ đồng âm, từ nhiều
nghĩa lớp lớp 5.

Tứ Yên, ngày

tháng năm 2020

HIỆU TRƯỞNG

Tứ Yên, ngày

tháng năm 2020

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

Tứ Yên, ngày

tháng năm 2020

Tác giả


SÁNG KIẾN CẤP CƠ SỞ


Vũ Thị Diệu Linh



×