SÁNG
KIẾN
KINH
NGHIỆM
Đề
Tài:
MỘT
SỐ
BIỆN
PHÁP
DẠY
VẬN
ĐỘNG
CƠ
BẢN
CHO
TRẺ
MẪU
GIÁO
1
I.
ĐẶT
VẤN
ĐỀ:
Giáo
dục
Mầm
Non
là
một
bậc
học
trong
hệ
thống
giáo
dục
quốc
dân
Việt
Nam.
Chỉ
thị
153/CP
của
Hội
đồng
chính
phủ
ngày
12/8/1966
về:
“
Công tác giáo dục mẫu giáo” đã khẳng định vị trí và tầm quan trọng của bậc
học mầm non. Trong giai đoạn lịch sử hiện nay, đất nước ta đang trên đà phát
triển công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước để hoà nhập với khu vực và thế
giới
buộc
chúng
ta
phải
xác định
những
mục
tiêu
giáo
dục
nói
chung,
giáo
dục
MN
nói riêng
để đáp
ứng nhu
cầu phát
triển
của
xã hội
nhằm đảm bảo
cho trẻ phát triển toàn diện đồng thời góp phần hình thành ở trẻ những cơ sở
đầu tiên của nhân cách con người Việt Nam trong giai đoạn lịch sử này.
Để
thực
hiện
tốt
các
mục
tiêu
của
ngành,
chúng
ta
phải
tiến
hành
các
nhiệm vụ như giáo dục thể lực( Giáo dục thể chất), trí tuệ, đạo đức, lao động,
thẩm mỹ.
Giáo dục thể chất bao gồm nhiều nội dung như: Đội hình đội ngũ, bài tập
phát triển chung, vận động cơ bản, trò chơi vận động. Những nội dung này rất
đa dạng đòi hỏi người giáo viên phải có những biện pháp phù hợp nhằm đạt
hiệu quả cao nhất trong các tiết dạy. Tuy
nhiên trong phạm vi đề tài này tôi
chỉ đề cập đến vấn đề “ Biện pháp dạy vận động cơ bản ( VĐCB) cho trẻ 4 –
5 tuổi” nhằm giúp cho giáo viên có những biện pháp phù hợp, chủ động, linh
hoạt,
giúp
trẻ hứng thú
khi dạy VĐCB cho
trẻ từ đó giúp
trẻ có
kỹ năng kỹ
xảo vận động đồng thời phát triển các tố chất thể lực cho trẻ. Đây là mục tiêu
đầu tiên khi dạy VĐCB cho trẻ.
Trên
thực
tế
những
biện
pháp
dạy
VĐCB
cho
trẻ
4
–
5
tuổi
của
GV
đã
được quan tâm một cách thích đáng nhưng do một số GV chưa dành thời gian
hợp lí cho giờ dậy, chưa đi sâu nghiên cứu đề ra những biện pháp phù hợp mà
chỉ dạy đúng phương pháp bộ môn và chưa nhận thức hết tầm quan trọng của
việc dạy VĐCB trẻ 4 – 5 tuổi… nên hiệu quả chưa cao.
2
Là
một
giáo
viên
tôi
nhận
thức
đầy
đủ
và
sâu
sắc
tầm
quan
trọng
của
việc
đề
ra
những
biện
pháp
phù
hợp
khi
dạy
VĐCB
cho
trẻ
đạt
hiệu
quả
cao
nên
tôi
đã
tìm
hiểu
thực
trạng
vấn
đề
này
ở
một
số
lớp
mẫu
giáo
4
–
5
tuổi
trong
trường
MN
Mai
Dịch.
Từ
thực
trạng
tôi
đã
điều
tra
được
hy
vọng
sẽ
đóng
góp
một
phần
nhỏ
bé
kinh
nghiệm
của
bản
thân
trong
việc
hạn
chế
được
những
tồn
tại
khi
dạy
VĐCB
cho
trẻ
đồng
thời
giúp
cho
giáo
viên
trong
trường
nắm
được
một
số
biện
pháp
dạy
VĐCB
cho
trẻ
4
–
5
tuổi
mà
tôi
đã
áp
dụng
đạt
hiệu
quả
trong
quá
trình
điều
tra.
Xuất
phát
từ
lí
do
trên,
tôi
mạnh
dạn
chọn
đề
tài
“Điều
tra
thực
trạng
biện
pháp
dạy
vận
động
cơ
bản
cho
trẻ
từ
4
–
5
tuổi”.
3
II.
GIẢI
QUYẾT
VẤN
ĐỀ:
1.
Vài
nét
về
thuận
lợi
và
khó
khăn
trong
quá
trình
thực
hiện:
a.
Thuận
lợi:
- Trường tuy mới thành lập với bộn bề công việc nhưng Ban giám hiệu luôn
quan tâm, chỉ đạo sâu sát, tạo điều kiện cho tôi được tiến hành điều tra trong
suốt quá trình nghiên cứu.
- Giáo viên phụ trách các lớp mẫu giáo nhỡ trong trường đều có trình độ Cao
đẳng - Đại học, nắm vững phương pháp bộ môn, một số giáo viên là chiến sĩ
thi đua
cấp
cơ
sở,
giáo
viên
giỏi cấp
quận,
có
kinh
nghiệm
giảng
dạy đồng
thời cũng rất tích cực phối hợp cùng tôi trong quá trình tôi điều tra.
-
Bản
thân
là
một
tổ
trưởng
chuyên
môn,
giáo
viên
lớp
MGN,
luôn
không
ngừng tìm tòi, học hỏi, sáng tạo trong công tác.
b.
Khó
khăn:
- CSVC cũng như dụng cụ thể dục phục vụ cho trẻ thực hiện các bài tập vận
động cơ bản còn thiếu, chưa hợp lý, đồng bộ.
- Giáo
viên và phụ huynh
chưa có sự
phối hợp
chặt chẽ trong quá trình dạy
trẻ.
- Giáo viên còn phụ thuộc nhiều vào tài liệu hướng dẫn, chưa dành nhiều thời
gian trong việc lựa chọn đề tài cho phù hợp chủ điểm.
2.
Thực
trạng:
2.1.
Thực
trạng
về
biện
pháp
dạy
vận
động
cơ
bản
cho
trẻ
4
–
5
tuổi
trong
các
loại
chương
trình
chăm
sóc
và
giáo
dục.
a. Trong chương trình cải cách:
*
Ưu
điểm:
Trong chương trình cải cách thì các bài tập dạy vận động
cơ bản cho trẻ 4 – 5 tuổi đã được sắp xếp theo một chương trình khung, theo
từng bài, từng giai đoạn cụ thể. Trên các nội dung đó giáo viên chỉ việc lựa
chọn
các biện
pháp
sao
cho
phù
hợp
với nội
dung
từng
bài,
giáo
viên
thực
hiện
được
rõ
các
bước
khi
dạy
trẻ
các
kỹ
năng
động
tác.
Giáo
viên
vẫn
là
người hướng dẫn, là trung tâm của quá tình giáo dục. Nội dung chăm sóc giáo
4
dục
đã bám
sát
mục
tiêu
kế
hoạch
đào
tạo
theo
quyết
định
55/QĐ
của
Bộ
Giáo dục và Đào tạo ký ngày 3/2/1990.
- Nội dung chương trình được đưa vào từ dễ đến khó, từ đơn giản đến
phức tạp, phù hợp với sự phát triển của trẻ. Nội dung giáo dục ngoài yêu cầu
và nội dung chung còn có phân phối chương trình cụ thể theo từng giai đoạn,
từng tháng và phần hướng dẫn thực hiện trình bày rõ ràng. Giáo viên dễ dàng
lựa
chọn
biện pháp. Giáo
viên ít phải thay
đổi điều kiện, khi dạy còn mang
tính hình thức nên tiết học đó đơn giản, ít tạo được sự hứng thú cho trẻ.
Ví
dụ:
Biện pháp dạy trẻ phối hợp với âm nhạc, giáo viên chỉ cần chọn
bất kỳ bài hát nào và chọn tốc độ nhanh hay chậm mà không cần theo một chủ
điểm nào.
Bài: Bò thấp – chui qua cổng.
Giáo viên chỉ cần chọn nhạc và điều chỉnh nhanh hay chậm theo nhạc
to
–
nhỏ
rồi cho
trẻ
thi đua vận động theo
nhạc.
Khi dừng 1 đoạn nhạc bạn
nào về trước không làm đổ cổng là thắng…
*
Khó
khăn
trong
việc
thực
hiện
theo
chương
trình
cải
cách:
- Giáo viên vẫn thường sử dụng những biện pháp để dạy trẻ theo kiểu
truyền
thống
với
đặc
trưng
chủ
yếu
coi
cô
giáo
là
trung
tâm
của
quá
trình
giáo
dục,
cô
chủ
yếu
hướng
dẫn
sau
đó
lần
lượt
trẻ
làm,
trẻ
làm
theo
mẫu,
mang tính đồng loạt, chưa phát huy được tính tích cực của cá nhân từng trẻ,
trẻ còn thụ động, cá nhân trẻ ít được vận động, không được rèn ở mọi lúc mọi
nơi
mà
chủ
yếu
trên
tiết
học
thể
dục.
Cô
giáo
phụ
thuộc
nhiều
vào
tài
liệu
hướng dẫn và các bài soạn có sẵn, các động tác
mang tính áp đặt cho trẻ, hình
thức biện pháp cô đưa ra còn đơn điệu, nghèo nàn chủ yếu nặng về tiết học,
trẻ ít có điều kiện vận động.
-
Nội
dung
giáo
dục
chưa
chú
trọng
đến
những
nội
dung
nhằm
hình
thành những cơ sở ban đầu các phẩm chất mới của nhân cách con người Việt
Nam trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
5
- Nội dung giáo dục chưa tạo nên sự tác động sư phạm mang tính tổng
hợp, các mặt giáo dục chưa được tích hợp hài hoà trong từng môn học, từng
hoạt động còn rời rạc, không gắn với cuộc sống thật của trẻ. Kỹ năng động tác
còn mang tính áp đặt, chưa chú ý tới vốn kinh nghiệm và nhu cầu của trẻ.
b. Trong chương trình đổi mới
*
Ưu
điểm:
Nội dung chương trình đổi mới được phân ra theo các chủ
điểm
rõ
ràng,
nội dung
phong phú
nên giáo
viên dễ dàng lựa chọn các biện
pháp phù hợp với từng chủ điểm, nội dung từng bài. Ngoài ra giáo viên có thể
tự sưu tầm hoặc sáng tác thêm bài hát mới lạ giúp trẻ hào hứng sao cho phù
hợp với chủ điểm, lôi cuốn trẻ tham gia tích cực vào vận động một cách chủ
động, hứng thú để trẻ phát triển theo đúng khả năng và nhu cầu
của bản thân
trẻ. Nội dung
chương trình được lồng ghép
tích hợp,
nhiều hình thức phong
phú giúp cho trẻ được chủ động sáng tạo và tích cực tham gia vận động. Giáo
viên linh
hoạt phối hợp
sử
dụng các biện pháp
dạy VĐCB cho
trẻ,
thay
đổi
điều hình thức học tập của trẻ, có thể chia trẻ học theo nhóm nhỏ giúp cho trẻ
tập luyện
kỹ năng, động tác chính xác hơn, chú ý đến nhiều cá nhân trẻ tham
gia vận động, trẻ được bộc lộ khả năng cá nhân, được tự lựa chọn giải pháp,
trong khi vận động trẻ trở nên năng động hơn, tự tin hơn.
Ví
dụ:
Vẫn là bài bò thấp – chui qua cổng
Chủ điểm: Thế giới thực vật
Giáo viên sử dụng các biện pháp như: dạy trẻ vận động kết hợp với âm
nhạc, thay đổi điều kiện học tập như giáo viên cho trẻ học dưới hình thức vào
“Vườn cổ tích” hái nhiều hoa thơm trái ngọt trong vườn cổ tích, cổng cô cuộn
những chiếc lá và tạo ra tình huống nếu bạn nào bò khéo, không làm đổ cổng
thì không những hái được nhiều quả mà lại tìm được cô công chúa nữa, còn
bạn
nào
chạm
vào
cổng
làm đổ
sẽ
không tìm
được gì
mà còn bị
lá che
vào
người nữa. Trẻ rất tò mò hào hứng bò cho khéo, thi đua. Trong lúc trẻ bò cô
đánh đàn bài hát: “Vườn cổ tích”, “Quả” các bài hát có nội dung về thế giới
thực vật. Trẻ vừa bò rèn kỹ năng khéo lại vừa nghe nhạc, giáo dục tích hợp cả
6
“
Hái được
quả
gì”
trẻ
học
một
cách
nhẹ
nhàng,
vận
động
thấy
thoải mái,
không mệt mỏi hay đối với những bài tập tổng hợp bao gồm từ 2 – 3 động tác
mà yêu cầu kỹ năng đòi hỏi phối hợp nhiều, trẻ phải thực hiện liên hoàn các
động
tác
mà
không
bị
gián
đoạn
giáo
viên
sử
dụng
hình
thức
biện
pháp
tổ
chức hội thi “Bé nhanh trí”, “ Bé khoẻ – Bé ngoan”, “ Hội khoẻ măng non”
theo một chủ điểm Thế giới động vật chẳng hạn.
Ví
dụ:
Bài ném xa – chạy nhanh, giáo viên cho trẻ ném – chạy
nhanh
lấy con vật theo yêu cầu của cô. Trong khi trẻ thực hiện các VĐCB cô kết hợp
bật nhạc các bài hát về thế giới động vật, trẻ rất hứng thú và chủ động chạy
nhanh
để
lên gắn được nhiều
con
vật
theo
yêu
cầu
của cô
trong thời gian 1
bản nhạc. Khi giáo viên biết phối hợp nhiều biện pháp, linh hoạt, gợi mở một
cách
nhẹ
nhàng
làm
trẻ
hào
hứng,
vận
động
không
nhàm
chán.
Nội
dung
phong phú được đan quyện chặt chẽ trong một thể thống nhất, giúp
cho quá
trình giáo dục phù hợp với
quá trình nhận thức và phát triển toàn diện của trẻ.
Trẻ cảm thấy thực sự học bằng chơi – chơi mà học.
*
Khó
khăn
trong
việc
thực
hiện
theo
chương
trình
đổi
mới
:
- Một số đồ dùng, dụng cụ thể dục để dạy theo chủ điểm còn thiếu do
trường mới thành lập.
- GV phải dành nhiều thời gian, phải luôn sáng tạo, tìm tòi, sưu tầm các
nội dung, hình thức, biện pháp phong phú để thu hút trẻ. GV phải lựa chọn đề
tài, đưa ra yêu cầu phù hợp điều kiện riêng của lớp, phù hợp với trẻ của mình.
GV phải thiết kế đồ dùng, dụng cụ giảng dạy đảm bảo kiến thức, kỹ năng vận
động của trẻ.
- Sự phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh chưa được chặt chẽ làm cho
một số
bài
tập
VĐCB
khi
trẻ
thực
hiện
chưa
đạt
như
mong
muốn
của
giáo
viên.
2.2.
Nhận
thức
của
giáo
viên
về
biện
pháp
dạy
vận
động
cơ
bản
cho
trẻ
MG
nhỡ
4
–
5
tuổi.
7
Để
đánh
giá
thực
trạng
về
biện
pháp
dạy
vận
động
cơ
bản
cho
trẻ
4
-5
tuổi
1
cách
khách
quan,
ngoài
việc
đánh
giá
kết
quả
thể
hiện
trên
phiếu
anket
tôi
còn
kết
hợp
trò
chuyện
với
giáo
viên,
quan
sát
trẻ
và
giáo
viên
thực
hiện.
Khi
có
điều
kiện
thăm
dự
các
lớp
trong
trường,
tôi
cố
gắng
quan
sát
và
trò
chuyện
với
giáo
viên,
với
trẻ.
Trong
quá
trình
điều
tra
tôi
thu
được
kết
quả
sau.
Bảng
1:
Kết
quả
thăm
dò
ý
kiến
GV
khi
dạy
vận
động
cơ
bản
cho
trẻ
để
đạt
được
kết
quả
tốt.
*Nhận xét chung:
Nhìn
trên
Bảng
1
ta
thấy
đa
số
GV
có
nhận
thức
đúng
đắn
về
các
biện
pháp
dạy
VĐCB
cho
trẻ
MG
nhỡ.
Chính
nhờ
có
sự
linh
hoạt,
lồng
ghép
các
biện
pháp
dạy
vận
động
cho
trẻ
mà
các
bài
tập
VĐCB
đều
đạt
được
kết
quả
tốt
và
có
một
số
ảnh
hưởng
lớn
đến
giờ
học.
Qua
phiếu
điều
tra
tôi
thấy
việc
GV
giúp
trẻ
được
thể
hiện
tính
chủ
động
và
tích
cực
trong
vận
động
chiếm
tỷ
lệ
cao
(7/8
GV)
đạt
tới
87,5%.
Vì
sao
được
kết
quả
cao
như
vậy,
bởi
lẽ
theo
TT ý
kiến
GV
Số
giáo
viên
đánh
giá
Tỷ
lệ
%
1
2
3
- Giáo viên giúp trẻ được thể hiện tính chủ động và tích cực
trong vận động
- Giáo viên gây hứng thú cho trẻ.
- Giáo viên giúp trẻ thực hiện tốt kỹ năng.
7/8
6/8
5/8
87.5
75.0
62.5
chương
trình
đổi
mới
hiện
nay
lấy
trẻ
làm
trung
tâm,
trẻ
được
hoạt
động
một
cách
tích
cực,
thoải
mái,
không
gò
bó.
Đồng
thời
GV
phát
huy
được
hết
khả
năng
nghệ
thuật
sư
phạm
,
chú
ý
đến
cá
nhân
trẻ,
bên
cạnh
đó
có
sử
dụng
tích
cực
các
biện
pháp
nên
trẻ
tham
gia
vận
động
một
cách
chủ
động
hơn.
Còn
việc
GV
giúp
trẻ
thực
hiện
tốt
kỹ
năng
mới
chỉ
đạt
tỷ
lệ
75%
(6/8
GV)
là
do
8
một
số
cháu
còn
quá
nhút
nhát,
chưa
tích
cực
vận
động
nên
kết
quả
đạt
được
chưa
cao.
Với
những
cháu
này
GV
phải
có
biện
pháp
riêng
với
trẻ
như
rèn
cho
cháu
ở
mọi
lúc
mọi
nơi.
Bảng
2:
Kết
quả
thăm
dò
ý
kiến
GV
về
việc
sử
dụng
các
biện
pháp
khi
dạy
VĐCB
để
đạt
kết
quả
vận
động
tốt.
T
T
Các
biện
pháp
Mức
độ
Thường
xuyên
Thỉnh
thoảng
Hiếm khi
Không bao
giờ
SL
GV
%
SL
GV
%
SL
GV
%
SL
GV
%
1
Nêu gương 6/8 75 2/8 25 0 0 0 0
2
Dạy
trẻ
thể
dục
phối
hợp
với âm nhạc
4/8 50 2/8 25 1/8 12,
5
1/8 12,5
3
Thay đổi điều kiện 3/8 37.5 3/8 37.5 2/8 25 0 0
4
Tạo tình huống bất ngờ 1/8 12.5 3/8 37.5 4/8 50 0 0
* Các biện pháp khác
9
* Nhận xét chung:
Tôi
vui
mừng
với
kết
quả
thể
hiện
trên
phiếu,
nhìn
chung
GV
đều
biết
sử
dụng
phối
hợp
các
biện
pháp,
phù
hợp
với
nội
dung
từng
bài.
Trên
thực
tế
GV
đã
sử
dụng
biện
pháp
nêu
gơng
nhiều
bởi
vì
đặc
điểm
tâm
lý
trẻ
là
rất
thích
đợc
khen.
Khi
trẻ
tham
gia
vào
bài
tập
VĐCB
nếu
trẻ
thực
hiện
đúng
kỹ
năng
động
tác
GV
động
viên
khen
ngợi
kịp
thời
ngay
trẻ
càng
hào
hứng
tham
gia
và
càng
làm
cho
những
bạn
khác
cũng
có
ý
thức
thi
đua
theo.
Tuy
nhiên,
còn
1/8
GV
chiếm
tỉ
lệ
12.5%
cha
sử
dụng
biện
pháp
dạy
thể
dục
phối
hợp
với
âm
nhạc
để
dạy
trẻ
VĐCB
là
do
GV
sử
dụng
đàn
còn
hạn
chế
hoặc
GV
đó
cha
hiểu
đợc
tác
dụng
tích
cực
khi
dạy
trẻ
VĐCB
có
kết
hợp
với
âm
nhạc.
Bên
cạnh
đó
có
1
số
GV
ngoài
việc
sử
dụng
4
biện
pháp
nêu
trên
thỉnh
thoảng
còn
sử
dụng
biện
pháp
dạy
VĐCB
dới
hình
trò
chơi
vận
động,
hội
thi
nh
Bé
nhanh
trí,
Bé
khoẻ
bé
ngoan,
Hội
khoẻ
măng
non.
Đây
cũng
là
biện
pháp
tốt
giúp
trẻ
học
bằng
chơi
-
chơi
mà
học.
Bảng
3:
Kết
quả
thăm
dò
ý
kiến
G
V
v
nhng
khú
khn
thng
gp
khi
dy
VCB
cho
tr.
10
TT Nhng
khú
khn
SL
GV
%
Nhng
khú
khn
khỏc
SL
GV
%
1. S tr trong lp quỏ ụng 5/8 62.5 1.
Tr
cha
tớch 2 25
* Nhận xét chung:
Qua
thăm
dự
các
lớp
trong
trường
tôi
thấy
rằng
hiện
nay
GV
các
lớp
đều
gặp
khó
khăn
chung
là
số
trẻ
trong
lớp
khá
đông
do
nhu
cầu
gửi
con
của
PH
cao,
số
lượng
trẻ
lứa
tuổi
MGN
quá
đông.
Mặc
dù
GV
đã
có
sự
linh
hoạt
chia
lớp
thành
2
nhóm
để
dạy
VĐCB
cho
trẻ
nhưng
số
trẻ
trên
tiết
học
vẫn
vượt
quá
so
với
quy
định.
-
Khó
khăn
thiếu
phương
tiện
giáo
dục
là
4/8
GV
chiếm
tỷ
lệ
50%
là
do
trường
mới
thành
lập
đồ
dùng
phục
vụ
cho
các
giờ
dạy
VĐCB,
cho
các
chủ
điểm
còn
thiếu
như
chủ
điểm
“
PTGT
“khi
cần
các
loại
đèn
tín
hiệu
giao
thông
thì
trường
chưa
có,
đồ
dùng
chưa
đáp
ứng
được
nhu
cầu
sử
dụng,
dụng
cụ
dạy
thể
dục
chưa
đồng
bộ,
đồng
phục
của
cô
và
trẻ
còn
chưa
có
khi
tổ
chức
các
giờ
vận
động
cơ
bản
dưới
hình
thức
hội
thi.
-
Khó
khăn
khác
khi
GV
gặp
là
do
1
số
trẻ
lười
vận
động,
không
thích
vận
động,
nhút
nhát,
chưa
tích
cực
hay
khả
năng
vận
động
của
trẻ
còn
hạn
chế
cô
cần
phải
tìm
biện
pháp
để
động
viên
trẻ
tập
cùng
cô,
cùng
bạn.
Bảng
4:
Kết
quả
thăm
dò
ý
kiến
GV
về
sự
cần
thiết
của
việc
dạy
VĐCB
cho
trẻ.
11
cực vận động
2 Lớp học chật hẹp 0 0 2. Trẻ nhút nhát 4 50
3 Việc phối hợp với PH 3 37.5
4
Cô
chưa thực
sự
gây hứng thú
cho
trẻ,
tạo
ra
các
tình
huống
bất ngờ.
2 25
5 Thiếu phương tiện GD
trẻ 4 50
* Nhận xét chung:
Thực
tế
cho
thấy
có
tới
7/8
GV
đạt
87.5%
cho
rằng
việc
dạy
các
VĐCB
cho
trẻ
MG
Nhỡ
là
rất
cần
thiết.
Để
thoã
mãn
nhu
cầu
VĐCB
cho
trẻ,
GV
phải
luôn
đề
cao
việc
rèn
luyện
cơ
thể
cho
trẻ
một
cách
hợp
lý.
Trẻ
nào
tích
cực
chủ
động
tham
gia
vận
động
thì
trẻ
đó
sẽ
khoẻ
mạnh,
nhanh
nhẹn,
có
kỹ
năng
vận
động
tốt.
Khi
trẻ
tham
gia
vận
động
thì
tất
cả
các
hệ
cơ
xương,
tuần
hoàn,
hô
hấp,
tiêu
hoá…
đều
phát
triển
tốt,
phát
triển
một
cách
toàn
diện.
Ngược
lại
nếu
trẻ
ít
tham
gia
vận
động,
chưa
tích
cực
vận
động
thì
sẽ
chậm
chạp,
cơ
thể
sẽ
yếu
ớt
điều
đó
sẽ
ảnh
hưởng
rất
nhiều
đến
việc
hình
thành
và
phát
triển
nhân
cách
toàn
diện
của
trẻ
sau
này.
TT Sự cần thiết của việc VĐCB SLGV Tỷ lệ %
1 Rất cần thiết 7/8 87.5
2 Cần thiết 1/8 12.5
3 Bình thường 0 0
4 Không cần thiết 0 0
12
III.
KẾT
THÚC
VẤN
ĐỀ:
Thông
qua
kết quả
thể
hiện
trên
phiếu điều
tra
cũng
như
quan sát
trò
chuyện, thông qua những buổi dự giờ, tổ chức cho trẻ MG 4 – 5 tuổi bài tập
VĐCB
tại một
số
lớp
trong
trường
nơi tôi công
tác,
tôi
nhận
thấy
rằng
GV
đưa nội dung VĐCB rất phù hợp với nội dung chương trình đổi mới.
Giáo viên đã biết phối kết hợp, lựa chọn lồng ghép các biện pháp dạy
vận động cơ bản cho trẻ 4 – 5 tuổi vào từng đề tài, từng chủ điểm một cách
linh hoạt, sáng tạo phù hợp với đặc điểm của lớp mình. Bên cạnh đó vẫn còn
một số giáo viên chưa quan tâm đến hoạt động này.
Khi giáo viên linh hoạt trong việc sử dụng phối kết hợp các biện pháp
để dạy trẻ bài tập VĐCB thì trẻ hào hứng tích cực tham gia vận động.
Giáo viên đã quan tâm phối hợp chặt chẽ với phụ huynh, có biện pháp
phù hợp dạy trẻ VĐCB sao cho đạt hiệu cao nhất và có tác động thực sự đến
trẻ.
GV
đã
khéo
léo
dẫn
dắt,
lôi
cuốn
trẻ
tích
cực
tham
gia
vận
động.
Mặt
khác, một số GV đã biết tạo tình huống và mở rộng kiến thức cho trẻ.
Khi tổ chức dạy VĐCB cho trẻ,GV cần phát huy tính tích cực sáng tạo
của trẻ. Mỗi GV cần phải có niềm say mê với nghề nghiệp, hết lòng vì trẻ thơ,
luôn
luôn tìm
tòi,
tiếp
cận
những cái mới để
thu
hút
trẻ
vận động một
cách
tích cực nhất. Giáo viên phải nghiêm túc thực hiện tốt những biện pháp đã đề
ra.
13
GV
cần
có
kiến
nghị
với
BGH
bổ
sung
thêm
phương
tiện,
đồ
dùng
cho
các
bài
tập
VĐCB
cho
đầy
đủ,
phong
phú.
Những
biện
pháp
trên
đây
về
tổ
chức,
hướng
dẫn
trẻ
bài
tập
VĐCB
mà
tôi
đã
áp
dụng
đã
đem
lại
kết
quả
tốt
đối
với
trẻ.
Qua
quá
trình
điều
tra
tôi
rút
ra
được
một
số
kinh
nghiệm
sau:
-
Cần
phải
có
sự
đầu
tư
thích
đáng
về
cơ
sở
vật
chất
cũng
như
trang
thiết
bị
phục
vụ
cho
trẻ
thực
hiện
bài
tập
VĐCB.
-
Giáo
viên
cần
nghiên
cứu
để
tìm
ra
những
biện
pháp
dạy
phong
phú,
đảm
bảo
tính
sư
phạm,
tính
vừa
sức,
giúp
cho
trẻ
hứng
thú
học
tập.
-
Tạo
điều
kiện
để
giáo
viên
tự
học
hỏi
bồi
dưỡng
thông
qua
các
buổi
dự
giờ,
kiến
tập
trong
trường
và
trường
bạn.
-
Có
nhiều
hình
thức
khen
thưởng
động
viên
kịp
thời
đối
với
những
GV
có
những
biện
pháp
hay,
sáng
tạo
trong
quá
trình
giảng
dạy.
-
Phụ
huynh
cần
quan
tâm
hơn
đến
dạy
VĐCB
cho
trẻ,
kết
hợp
chặt
chẽ
với
nhà
trường
để
cùng
nhau
đề
ra
biện
pháp
dạy
VĐCB
tích
cực
hơn
nữa
nhất
là
với
những
cháu
lười,
chưa
tích
cực
vận
động,
hay
nhõng
nhẽo,
được
bố
mẹ
quá
chiều
chuộng.
Phụ
huynh
phải
coi
trọng
việc
dạy
VĐCB
cho
trẻ.
Trong
quá
trình
nghiên
cứu,
điều
tra
thực
trạng
về
biện
pháp
dạy
VĐCB
cho
trẻ
4
–
5
tuổi
chắc
chắn
sẽ
còn
nhiều
thiếu
sót.
Rất
mong
được
được
sự
quan
tâm,
đóng
góp
ý
kiến
của
các
cô,
các
bác
và
các
chị
em
đồng
nghiệp
để
cho
tôi
cũng
như
các
GV
lớp
MGN
có
những
biện
pháp
hay
giúp
cho
việc
dạy
VĐCB
của
trẻ
đạt
kết
quả
ngày
càng
cao
và
để
sáng
kiến
kinh
nghiệm
của
tôi
đạt
kết
quả
tốt
hơn.
Ngày
31
tháng
3
năm
2008.
Người
viết
14
Nguyễn
Thị
Lê
Huyền
15