Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Tài liệu Đề tài "Những lĩnh vực pháp luật kinh tế chịu tác động mạnh mẽ nhất sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức WTO? Giải thích. Nhà nước Việt Nam đã có những chuẩn bị gì để thích ứng với tình hình mới đó?" docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.33 KB, 13 trang )

 

Luận Văn

Đề Tài
Những lĩnh vực pháp luật kinh tế chịu tác
động mạnh mẽ nhất sau khi Việt Nam gia
nhập tổ chức WTO? Giải thích. Nhà nước
Việt Nam đã có những chuẩn bị gì để thích
ứng với tình hình mới đó?
PHẦN I
CHỦ ĐỀ TIỂU LUẬN
Những lĩnh vực pháp luật kinh tế chịu tác động mạnh mẽ nhất sau khi Việt Nam gia nhập
tổ chức WTO? Giải thích. Nhà nước Việt Nam đã có những chuẩn bị gì để thích ứng với
tình hình mới đó?

I. Khái Niệm
Khái niệm thương mại theo Luật Thương mại 1997 được hiểu theo nghĩa hẹp, bao gồm 14
hành vi điều chỉnh các quan hệ mua bán hàng hoá và dịch vụ liên quan trực tiếp đến mua bán
hàng hoá.
Thậm chí đối tượng của việc mua bán hàng hoá cũng bị giới hạn ở các động sản, chủ yếu là các
máy móc, thiết bị, nguyên liệu, vật liệu phục vụ sản xuất, tiêu dùng, các động sản khác được lưu
thông trên thị trường, nhà ở dùng để kinh doanh dưới hình thức cho thuê, mua bán (Điều 5 Luật
Thương mại 1997). Các bất động sản như nhà máy, công trình xây dựng (không phải là nhà ở),
các quyền tài sản như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các hành vi liên quan trực tiếp đến mua bán
hàng hoá như vận chuyển hàng, thanh toán tiền mua hàng qua hệ thống ngân hàng… cũng không
thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại 1997. Trong khi đó, ở các nước trên thế giới, khái
niệm thương mại ngày càng được mở rộng ra với một nội hàm rộng lớn, bao gồm tất cả các hoạt
động nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Chẳng hạn như, Bộ luật thương mại số 48 của Nhật
Bản ngày 9/3/1899, thuật ngữ thương mại được dùng để chỉ những hoạt động mua bán nhằm
mục đích lợi nhuận và hầu hết các dịch vụ trên thị trường như dịch vụ vận tải, cung ứng điện hay


khí đốt, uỷ thác, bảo hiểm, ngân hàng. Luật Thương mại của Philippin tuy không đưa ra các hành
vi thương mại cụ thể mà quy định phạm vi điều chỉnh là các hoạt động nhằm thúc đẩy sự trao đổi
hàng hoá và dịch vụ với mục đích thu lợi nhuận. Ngoài ra Luật Thương mại của Philippin còn
điều chỉnh các giao dịch thương mại trong tất cả các lĩnh vực kể cả lĩnh vực vận chuyển hành
khách. Bộ luật thương mại của Thái Lan cũng đưa ra khái niệm thương mại khá rộng không chỉ
bao gồm việc mua bán hàng hoá mà cả các hoạt động thuê tài sản, thuê mua tài sản, tín dụng, thế
chấp, đại diện, môi giới, bảo hiểm, công ty, hợp danh…
Cách hiểu khái niệm thương mại nêu trên cũng tương đồng với cách hiểu trong một số Hiệp định
quan trọng của ASEAN, Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại quốc tế gồm nhiều Hiệp định
cấu thành như Hiệp định GATT, GATS, TRIMP, TRIPS,...
Ở Việt Nam thuật ngữ “thương mại” được sử dụng khá rộng rãi trong đời sống xã hội và trong
nhiều các văn bản quy phạm pháp luật, Trong một đạo Luật Thương mại. Năm 1990, Quốc hội
thông qua hai đạo luật rất quan trọng, đó là Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Hai luật
này đã đưa ra một khái niệm mới trong khoa học pháp lý Việt Nam có liên quan nhiều đến việc
áp dụng pháp luật thương mại, đó là khái niệm “kinh doanh”. Khái niệm “kinh doanh” cũng
được nhắc lại trong Luật Doanh nghiệp 1999, theo đó “kinh doanh là việc thực hiện một, một số
hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” (Khoản 3 Điều 2). Khái niệm này trong một
chừng mực nhất định có những điểm tương đồng với khái niệm thương mại theo nghĩa rộng
được sử dụng phổ biến trên thế giới hiện nay và cũng được giải thích tại Luật mẫu về trọng tài
thương mại quốc tế của UNCITRAL năm 1985. Pháp lệnh trọng tài thương mại ra đời và có hiệu
lực ngày 1/7/2003 nêu rõ: “Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi
thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân
phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê; cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li
- xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hoá, hành
khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại
khác theo quy định của pháp luật”. Song có thể nói, khái niệm thương mại được hiểu theo nghĩa
rộng này mới chỉ được tồn tại trong một văn bản pháp quy mang tính chất tố tụng (luật hình
thức) mà chưa tồn tại trong văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao mang tính nội
dung.

Sự ra đời khái niệm “kinh doanh” theo Luật Doanh nghiệp 1999, sự tồn tại khái niệm “kinh tế”
trong Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989, cũng như khái niệm “thương mại” theo Pháp lệnh trọng
tài thương mại 2003 đã tạo ra sự nhận thức khác biệt trong cách hiểu về “thương mại” so với
Luật Thương mại 1997. Phạm vi điều chỉnh rộng hẹp của khái niệm thương mại trong hệ thống
pháp luật nêu trên đã tạo ra sự mâu thuẫn, chồng chéo trong việc áp dụng các quy định pháp luật
về luật nội dung (Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Thương mại 1997, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế
1989) cũng như luật tố tụng (Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003). Đặc biệt, điều này còn ảnh
hưởng đến quá trình Việt Nam thích ứng với các quy định và tập quán thương mại quốc tế. Có
thể nói đây là một trong những trở ngại lớn của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế, cụ thể là việc thực thi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ cũng như việc gia nhập Tổ
chức thương mại thế giới.
Việc xác định phạm vi điều chỉnh theo diện hẹp của Luật Thương mại 1997 trên thực tế đã
phát sinh nhiều vấn đề, không chỉ trong quá trình thực hiện các giao dịch thương mại mà còn ảnh
hưởng đến việc giải quyết các tranh chấp thương mại, tiếp sau đó là việc công nhận và cho thi
hành các bản án, phán quyết của trọng tài nước ngoài. Thực tế cho thấy nhiều bản án của toà án
và phán quyết của trọng tài nước ngoài, đặc biệt là các vụ tranh chấp liên quan đến đầu tư, xây
dựng… đã không được thực thi ở Việt Nam do nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của Luật Thương
mại. Điển hình là vụ tranh chấp hợp đồng giữa hai công ty xây dựng đối với hợp đồng được ký
kết năm 1995 về việc xây dựng khu nghỉ mát tại miền Trung Việt Nam. Tranh chấp được đưa ra
Trọng tài tại Queensland, Australia và phán quyết trọng tài được đưa ra theo hướng có lợi cho
Công ty Tyco và sau đó được chuyển sang Việt Nam để đề nghị công nhận và cho thi hành.
Ngày 23/5/2002, Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh công nhận phán quyết
trọng tài. Một trong các cơ sở chính được Công ty Leighton đưa ra để không công nhận và thi
hành phán quyết trọng tài là quan hệ hợp đồng liên quan đến vụ tranh chấp là quan hệ xây dựng
và quan hệ này không phải là quan hệ thương mại theo các quy định của Luật Thương mại 1997.
Tháng 1/2003, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử lại
vụ việc và bác quyết định của Tòa sơ thẩm bởi lẽ các giao dịch trong hợp đồng 1995 liên quan
đến hoạt động xây dựng nhưng hoạt động xây dựng này lại không có bản chất thương mại theo
pháp luật Việt Nam thời điểm đó cũng như theo Luật Thương mại 1997 và do vậy, phán quyết
trọng tài không đủ điều kiện để được công nhận và thi hành tại Việt Nam.

Như vậy, vấn đề đặt ra là khái niệm thương mại cần phải được quy định rõ và thống nhất
trong đạo luật thương mại, theo đó phạm vi điều chỉnh của nó cần được mở rộng phù hợp với các
quy định và tập quán thương mại quốc tế.
Theo Luật thương mại của quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam số
36/2005/qh11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 quy định:
Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng
hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh
lợi khác.
II. Những lĩnh vực pháp luật kinh tế chịu tác động mạnh mẽ nhất sau khi Việt Nam gia nhập
tổ chức WTO? Giải thích. Nhà nước Việt Nam đã có những chuẩn bị gì để thích ứng với tình
hình mới đó
Gia nhập WTO nghĩa là tham gia một sân chơi bình đẳng. Nhiều nước đang phát triển có cùng
trình độ như Việt Nam, có các chủng loại hàng hóa, dịch vụ tương tự như chúng ta, nhưng họ đã
gia nhập WTO trước và đã được hưởng một số ưu đãi. Việt Nam sẽ là đối thủ cạnh tranh với các
nước đang phát triển khác về hàng xuất khẩu vào các thị trường lớn như Mỹ, EU… Để duy trì lợi
thế cạnh tranh, các nước này không muốn chúng ta có những điều kiện ưu đãi hơn họ khi chúng
ta gia nhập WTO. Vì vậy, trong quá trình đàm phán đa phương và song phương, Việt Nam cần
khẳng định quyết tâm tham gia một sân chơi bình đẳng, tôn trọng lợi ích của các quốc gia khác,
đặc biệt là với các đối tác có tiềm năng xung đột cạnh tranh nhưng đồng thời phải thuyết phục để
họ hiểu thực trạng kinh tế Việt Nam và có những nhân nhượng thỏa đáng.

Khi gia nhập WTO, Việt Nam cũng sẽ phải cạnh tranh với các nước đã phát triển. Việt Nam
mong muốn giữ nguyên mức trợ cấp xuất khẩu như hiện nay và dần dần giảm xuống phù hợp với
các điều khoản của WTO. Chính vì vậy, việc điều chỉnh hệ thống pháp luật của việt nam, đặc
biệt là pháp luật kinh tế làm sao cho phù hợp, thích ứng với su hướng toàn cầu, phù hợp với các
điểu khoản trong các hiệp ước quốc tế mà việt nam là thành viên.
Mặc dù đã trải qua gần 20 năm mở cửa và đổi mới, nhưng hiện nay, Việt Nam vẫn là nước
đang phát triển ở trình độ thấp. Gần 80% dân số vẫn sống dựa vào nông nghiệp, nền kinh tế thị
trường đang trong giai đoạn hình thành và còn nhiều ảnh hưởng của thời kinh tế tập trung bao
cấp. Tình trạng độc quyền vẫn tồn tại khá nặng nề trong một số lĩnh vực, nhất là tài chính, ngân

hàng, điện, bưu chính viễn thông; khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp còn rất thấp; hệ thống
pháp luật hiện hành chưa đáp ứng các yêu cầu của hội nhập… Tất cả các yếu tố ấy làm cho tiến
trình hoàn tất các thủ tục và đáp ứng các điều kiện tham gia WTO của ta chậm trễ. Những yêu
cầu về mở cửa thị trường do các thành viên WTO đưa ra rất cao, trong khi Việt Nam chỉ đủ sức
đưa ra những cam kết thấp. Song song với việc đưa ra những cam kết trong thương thuyết.
Việt nam cần phải gấp rút chỉnh sửa hệ thống pháp lý cho phù hợp với cam kết, một loạt các văn
bản pháp luật được ban hành sau khi chỉnh sửa, quy định lại cho phù hợp với tiến bộ và hội nhập.
Mặc dù biết trước những khó khăn mà Việt Nam sẽ phải đối mặt trước mắt và sau khi gia nhập
WTO. Nhưng vì lợi ích lâu dài, bền vững, cho dù có rất nhiều khó khăn, bất lợi. Nhưng việc Việt
Nam thành công sau các vòng đàm phán, việc việt nam được chính thức là thành viên của WTO
là một sự thành công lớn, mang nhiều cơ hội, lợi ích dài lâu cho nền kinh tế nước ta.
Khi chưa gia nhập WTO, Việt Nam như con thuyền nhỏ loanh quanh trong hệ thống sông
ngòi nội địa. Các quan hệ kinh tế thuần túy về buôn bán gói gọn trong quan niệm tiêu thụ hàng
hóa đơn thuần của một quốc gia có nền kinh tế đóng, ít các yếu tố luật pháp quốc tế. Chính vì thế
hệ thống pháp luật của Việt Nam, đặc biệt là hệ thống pháp luật kinh tế cũng thiếu sự bình đẳng,

×