Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Báo cáo TCQT : phân tích chính sách tỷ giá hối đoái của VN 1986-2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.39 MB, 40 trang )

Mục Lục:
Phần 1: Khái quát chung....................................................................................................2
I. Khái niệm Tỷ giá hối đoái........................................................................................2
II. Các nhân tố ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái...............................................................2
1. Chênh lệch tỷ lệ lạm phát giữa các đồng tiền.......................................................2
2. Sự biến động của cung - cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối...........................2
3. Sự can thiệp của Nhà nước....................................................................................2
4. Tâm lý dân chúng..................................................................................................3
III.

Chế độ tỷ giá hối đoái...........................................................................................3

1. Khái niệm về chế độ tỷ giá....................................................................................3
2. Các loại chế độ tỷ giá............................................................................................3
IV.

Chính sách tỷ giá hối đối.....................................................................................4

Phần 2: Phân tích chính sách điều hành tỷ giá của Việt Nam từ năm 1986 đến nay.........6
I. Giai đoạn 1986-1990................................................................................................6
1. Bối cảnh thực hiện chính sách điều hành tỷ giá giai đoạn 1986-1990..................6
2. Chính sách tỷ giá hối đối Việt Nam đã áp dụng trong giai đoạn 1986-1990 và
kết quả thực hiện.........................................................................................................7
2.2. Kết quả việc thực hiện chính sách tỷ giá trong giai đoạn 1986-1990................8
II. Giai đoạn 1991-2000................................................................................................9
1. Bối cảnh thực hiện chính sách điều hành tỷ giá giai đoạn 1991-2000..................9
2. Chính sách tỷ giá hối đối Việt Nam đã áp dụng trong giai đoạn 1991-2000 và
kết quả thực hiện.......................................................................................................10
3. Kết quả thực hiện................................................................................................15
III.


Giai đoạn 2000-2010...........................................................................................17

1. Bối cảnh thực hiện chính sách điều hành tỷ giá giai đoạn 2000-2011................17
2. Chính sách tỷ giá trong giai đoạn 2000-2010.....................................................18
3. Kết quả thực hiện................................................................................................22
IV.

Giai đoạn 2010-2018...........................................................................................24

1. Bối cảnh thực hiện chính sách điều hành tỷ giá giai đoạn 2010-2018................24
2. Chính sách tỷ giá trong giai đoạn 2010-2018.....................................................24


3. Kết quả thực hiện................................................................................................29
V. Giai đoạn 2019-2020..............................................................................................31
1. Bối cảnh thực hiện chính sách tỷ giá giai đoạn 2019-2020................................31
2. Chính sách tỷ giá trong giai đoạn 2019-2020.....................................................32
3. Kết quả thực hiện................................................................................................36
Phụ Lục:...........................................................................................................................38

1


Phần 1: Khái quát chung.
I. Khái niệm Tỷ giá hối đoái.
- Tỷ giá hoái đoái là giá cả của đồng tiền này được biểu hiện thông qua một đồng tiền
khác, là tỷ lệ trao đổi, quy đổi, chuyển đổi giữa các đồng tiền, về thực chất là so sánh
tương quan sức mua của các đồng tiền đó với nhau.
II. Các nhân tố ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái.
1.

Chênh lệch tỷ lệ lạm phát giữa các đồng tiền.
- Tỷ lệ lạm phát đã ảnh hưởng trực tiếp đến sức mua của các đồng tiền. Vì vậy,
trong một khoảng thời gian nhất định nếu hai đồng tiền nào đó có tỷ lệ lạm phát
không giống nhau, giả sử các yếu tố khác khơng thay đổi, có nghĩa là, tương
quan sức mua giữa chúng khơng cịn như cũ, mà đã thay đổi. Tức là, tỷ giá đã
thay đổi.
2.
Sự biến động của cung - cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
- Trên thị trường ngoại hối của các quốc gia, tỷ giá chính là giá cả của các loại
ngoại hối, mà chủ yếu là ngoại tệ, được đưa ra mua bán. Lúc này ngoại tệ là “hàng hóa”, tỷ giá là “giá cả” của ngoại tệ. Giá cả của bất cứ hàng hóa nào cũng
đều phụ thuộc vào cung - cầu của hàng hóa đó. Ở đây cũng khơng phải là ngoại
lệ và tỷ giá chịu ảnh hưởng rất lớn bởi sự tăng giảm của cung - cầu ngoại tệ trên
thị trường.
3.
Sự can thiệp của Nhà nước.
Thông thường, Nhà nước cũng là một nhân tố chủ quan tác động không
nhỏ đến sự tăng, giảm hay ổn định tỷ giá. Sự can thiệp đó thường theo các chiều
hướng sau đây:
- Can thiệp để giữ tỷ giá ổn định trong một thời gian dài.
Sự can thiệp này thể hiện rõ nét nhất khi Nhà nước chủ trương thực hiện
chính sách tỷ giá cố định, tức là, giữ cho tỷ giá ổn định, thậm chí là cố định trong
một thời gian dài. Muốn được như vậy, nhiều khi Nhà nước đã áp dụng các biện
pháp chủ quan để can thiệp vào thị trường ngoại hối. Như: quy định biên độ dao
động tỷ giá thấp; bán ngoại tệ ra với giá thấp khi tỷ giá có xu hướng tăng cao để
kéo tỷ giá xuống, hoặc mua ngoại tệ vào với giá cao khi tỷ giá có xu hướng giảm
thấp để kéo tỷ giá lên ...
- Phá giá nội tệ.
Đây là giải pháp mặc dù không phổ biến nhưng chính phủ của một số
quốc gia vẫn chủ trương thực hiện. Nội dung chính của giải pháp này là khi
chính phủ bị lâm vào tình trạng bội chi NSNN một cách trầm trọng mà với các

giải pháp đã có hầu như khơng thể xử lý được, lúc này chính phủ buộc phải phát
hành một khối lượng lớn nội tệ vào lưu thông để bù đắp thiếu hụt NSNN và đồng
thời tuyên bố phá giá đồng nội tệ. Với động thái này, ngay lập tức tỷ giá có sự
tăng lên đột biến thêm 10, 15, 30 % …, thậm chí cịn cao hơn nữa và sự tác động
kéo theo của các yếu tố khác.
2


4.

Tâm lý dân chúng.

Thơng thường ở những quốc gia có tỷ lệ lạm phát cao và diễn ra thường
xuyên trong một khoảng thời gian dài, tức là đồng nội tệ giảm giá nhanh và liên tục,
sẽ gây ra tâm lý thiếu tin tưởng vào đồng nội tệ của dân chúng. Với tâm lý này, mọi
người đều có xu hướng chối bỏ việc nắm giữ nội tệ, mà thay vào đó là tìm mọi cách
để nắm giữ các loại hàng hóa có giá trị, vàng bạc, ngoại tệ ... Trong đó, nhu cầu về
nắm giữ ngoại tệ, đặc biệt là một vài đồng ngoại tệ mạnh nhiều khi là rất lớn. Động
thái này đã đẩy cầu về ngoại tệ tăng vọt một cách giả tạo thị trường ln rơi vào tình
trạng khan hiếm ngoại tệ, kéo theo là tỷ giá bị đẩy lên cao.
III.

Chế độ tỷ giá hối đoái.
1.
Khái niệm về chế độ tỷ giá.
Có thể nói, tỷ giá là phạm trù tồn tại khách qua gắn liền với hoạt động kinh tế
quốc tế giữa các quốc gia. Tuy vậy, việc lựa chọn và vận dụng tỷ giá phục vụ cho lợi
ích kinh tế - xã hội của các quốc gia là khơng hồn tồn giống nhau và cũng khơng
phải là bất biến trong mọi giai đoạn. Hay nói cách khác, trong từng thời kỳ gắn với
các điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể, mỗi quốc gia đều lựa chọn áp dụng một chế độ

tỷ giá nào đó.
Vậy, chế độ tỷ giá là các loại hình tỷ giá được quốc đảm bảo cho các loại hình
tỷ giá đó được thực hiện.

Qua khái niệm này cho thấy, một chế độ tỷ giá gồm hai yếu tố cơ bản là:
+ Các loại hình tỷ giá, tức là các hình thức tỷ giá được lựa chọn áp dụng.
+ Các biện pháp được sử dụng để đảm bảo cho các loại hình tỷ giá đó được thực hiện.
2.

Các loại chế độ tỷ giá.
a) Nếu căn cứ vào số lượng loại hình tỷ giá cùng đồng thời tồn tại, có chế độ
tỷ giá đơn và chế độ tỷ giá kép.
- Chế độ tỷ giá đơn là chế độ tỷ giá mà ở đó chỉ tồn tại một loại hình tỷ giá cho
mọi giao dịch tiền tệ (chế độ một giá).
Như vậy, chế độ tỷ giá đơn tạo ra sự cơng bằng, bình đẳng trong các giao
dịch tiền tệ và chúng được áp dụng phổ biến trong điều kiện tỷ giá được thiết lập
chủ yếu trên cơ sở thị trường.
- Chế độ tỷ giá kép là chế độ tỷ giá mà ở đó cùng đồng thời tồn tại ít nhất hai loại
hình tỷ giá trở lên trong các giao dịch tiền tệ (chế độ nhiều giá).
Chế độ tỷ giá này đã tạo ra sự phân biệt của các giao dịch tiền tệ thuộc
các chủ thể khác nhau mà nhiều khi mức chênh lệch giữa các loại tỷ giá là rất
lớn. Từ đó tạo ra sự bất cơng bằng, bất bình đẳng, thậm chí tiêu cực trong việc
thực hiện những giao dịch tiền tệ.
3


-

-


IV.
1.
-

2.

Trong chế độ tỷ giá kép thường tồn tại trong điều kiện tỷ giá chính thức
được giữ cố định trong khoảng thời gian q dài, khơng cịn phù hợp với thực tế,
nên đã phát sinh tỷ giá khơng chính thức, tỷ giá ngầm.
b) Nếu căn cứ vào mức độ linh hoạt của loại hình tỷ giả được áp dụng, có chế
độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá linh hoạt.
Chế độ tỷ giá cố định là chế độ mà tỷ giá được giữ ổn định, thậm chí là cố định
trong một thời gian dài.
Thông thường, ở đây tỷ giá chính thức do nhà nước quy định và được giữ ở
mức cố định trong một khoảng thời gian dài. Chế độ tỷ giá này có ưu điểm là góp
phần tạo ra sự ổn định tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cho phát triển
kinh tế - xã hội. Tuy thế, nếu tỷ giá được giữ cố định q lâu sẽ khơng cịn phù
hợp với thực tế, dễ phát sinh tỷ giá ngầm như đã đề cập ở trên.
Chế độ tỷ giá linh hoạt là chế độ mà tỷ giá dàng biến động theo những tác động
của thị trường.
Trong chế độ này, tỷ giá được hình thành theo những yếu tố của thị trường
nên chúng thường là phản ánh sát với điều kiện của thị trường. Song, vì là linh
hoạt nên chúng rất dễ biến động và có thể xảy ra những cơn “sốc” tỷ giá, thậm
chí kéo theo là khủng hoảng tài chính - tiền tệ.
Từ ưu nhược điểm của các chế độ tỷ giá trên đây, nhiều quốc gia đã đi đến
quyết định lựa chọn một chế độ tỷ giá kết hợp của cả hai chế độ tỷ giá. Đó là Chế
độ tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của nhà nước, với các yếu tố cụ thể sau:
+ Linh hoạt. Tỷ giá được hình thành chủ yếu dựa theo các yếu tố của thị
trường.
+ Sự quản lý của nhà nước. Sự can thiệp của nhà nước nhằm chống các

cơn sốc tỷ giá bằng các biện pháp: Can thiệp vào thị trường ngoại hối lúc
cần thiết, Quy định biên độ dao động tỷ giá.
Chính sách tỷ giá hối đối
Khái niệm.
Chính sách tỷ giá hối đối là một bộ phận của chính sách tiền tệ của các quốc
gia. Đó là các chủ trương, biện pháp của nhà nước trong việc lựa chọn thực hiện
những chế độ tỷ giá phù hợp cho từng giai đoạn lịch sử cụ thể nhằm sử dụng có
hiệu quả cơng cụ tỷ giá hối đoái phục vụ cho các hoạt động kinh tế - xã hội.
Nội dung.

Tuỳ theo mục tiêu của chính sách tỷ giá trong từng giai đoạn mà nội dung của
chúng được xây dựng cho phù hợp. Phổ biến gồm các nội dung sau.
- Chính sách duy trì tỷ giá ổn định. Chính sách này thường lựa chọn chế độ tỷ giá
cố định hoặc thực hiện sự điều tiết mạnh mẽ của nhà nước để tỷ giá ít biến động.

4


- Chính sách thả nổi tỷ giá. Thả nổi tỷ giá cịn có tên gọi khác là tự do hóa tỷ giá,
tức là tỷ giá hoàn toàn để cho thị trường quyết định. Lúc này nhà nước sẽ lựa
chọn áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi (linh hoạt hoàn tồn).
- Chính sách duy trì tỷ giá linh hoạt có điều tiết. Với chính sách này tỷ giá vừa
được hình thành trên cơ sở thị trường, vừa chịu sự điều tiết của nhà nước thông
qua quy định biên độ dao động để tỷ giá biến động không quá thấp hoặc khơng
q cao, hay can thiệp vào thị trường hối đối khi cần thiết.
3.
Công cụ thực hiện.
Để đảm bảo thực hiện chính sách tỷ giá, các quốc gia thường sử dụng nhiều công
cụ khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng thời kỳ. Phổ biến có ba nhóm cơng cụ
sau đây:

- Các công cụ trực tiếp: Đây là các công cụ can thiệp trực tiếp vào tỷ giá hối đối
nhằm phục vụ cho chính sách tỷ giá. Thường có:
+ Phá giá đồng nội tệ.
+ Nâng giá đồng nội tệ.
+ Can thiệp trực tiếp của NHTW vào thị trường hối đối thơng qua mua bán ngoại
tệ
+ Thực hiện kết hối ngoại tệ.
+ Các quy định hạn chế về mua, bán ngoại tệ ...
- Các công cụ gián tiếp Các công cụ này sẽ ảnh hưởng, tác động gián tiếp lên tỷ giá
hối đoái. Gồm:
+ Lãi suất tái chiết khấu của NHTW.
+ Thuế quan, hạn ngạch ... để điều tiết xuất nhập khẩu.
+ Giá cả để điều tiết sản xuất và tiêu dùng ...
+ Các công cụ cá biệt: Đây là những công cụ không được sử dụng một cách phổ
biến, thường nhật, mà thường được sử dụng khi tình hình có những diễn biến bất
lợi, hoặc là những điểm “nóng” có thể nguy cơ gây sốc hoặc khủng hoảng tỷ giá.
Như:
+ Điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ của các ngân hàng thương mại.
+ Quy định lãi suất trần thấp với tiền gửi ngoại tệ.
+ Quy định trạng thái ngoại tệ đối với ngân hàng thương mại ...

5


Phần 2: Phân tích chính sách điều hành tỷ giá của Việt Nam
từ năm 1986 đến nay.
I.
Giai đoạn 1986-1990.
1. Bối cảnh thực hiện chính sách điều hành tỷ giá giai đoạn 1986-1990.
Trong những năm 1980, kinh tế nước ta tiếp tục trong tình trạng phải khắc phục

hậu quả do chiến tranh để lại, kinh tế bị tàn phá nặng nề trong nhiều thập kỷ, ngồi ra
cịn bị cấm vận, hầu như cô lập với thị trường khu vực và thế giới. Do đó, những thành
tựu khoa học kỹ thuật hiện đại của cơ chế thị trường khơng có khả năng thâm nhập vào
Việt Nam. Ngay từ năm 1979, tại Hội nghị trung ương 6, Đảng ta đã tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc trong cơ chế quản lý nền kinh tế, nhằm “cởi trói” và để cho sản xuất “bung
ra”. Tiếp theo, những cải tiến quản lý thử nghiệm được bắt đầu từ năm 1981 với khốn
trong nơng nghiệp, điều chỉnh kế hoạch và mở rộng quyền tự chủ cho xí nghiệp cơng
nghiệp quốc doanh. Có thể coi những cải tiến quản lý trong các năm này là các tìm tịi
thể nghiệm chuẩn bị cho cải cách toàn diện (Đổi mới) nền kinh tế. Song, các cải tiến cục
bộ này vẫn chưa làm thay đổi căn bản thực trạng nền kinh tế, khủng khoảng kinh tế vẫn
rất trầm trọng.
Từ 1981- 1983 kinh tế có phục hồi đơi chút song tốc độ phát triển chậm, nét đặc
trưng là hiệu quả thấp do chi phí sản xuất cao, cơng nghệ và thiết bị lạc hậu, trình độ tổ
chức sản xuất và quản lý kém hiệu quả. Cơ cấu kinh tế mất cân đôi nghiêm trọng, lệ
thuộc nhiều vào các nước xã hội chủ nghĩa, vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh bị sa
xút, thế mạnh của sản xuất không được khai thác. Kinh tế nhiều thành phần chưa được
chú trọng. Ngân sách nhà nước liên tục bội chi lớn phải dựa vào nguồn thu từ vay nợ và
viện trợ. Quản lý tài chính cịn lỏng lẻo mang nặng tính cấp phát, bù lỗ và trợ cấp, do đó
khơng khuyến khích các đơn vị kinh tế quốc doanh nâng cao vai trò tự chủ kinh tế, phát
triển sản xuất mà dựa vào ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, việc phát hành tiền trong
lưu thơng tăng cao. Vì vậy đổi mới tồn diện nền kinh tế trở thành yêu cầu cấp bách ở
nước ta.
Đầu năm 1985, cơ chế kinh tế kế hoạch hố tập trung quan liêu bao cấp và mơ
hình cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa kiểu Xơ Viết đã được áp dụng rộng rãi trên cả
nước. Mặc dù có nhiều nỗ lực trong xây dựng và phát triển kinh tế, nhất là tập trung cho
cơng nghiệp hố, ưu tiên phát triển cơng nghiệp nặng. Nhưng nền kinh tế nói chung và
sản xuất công nghiệp vẫn tăng chậm, hơn nữa, có xu hướng giảm sút và rơi vào khủng
khoảng. Trong khi nguồn viện trợ của bên ngoài, các nguồn vốn và hàng hoá vật tư,
nguyên liệu và hàng hoá tiêu dùng đã bị cắt giảm đáng kể, lại thêm bao vây cấm vận của
đế quốc Mỹ ngăn cản Việt Nam bình thường hố quan hệ với thế giới.

6


Nhận ra những bất cập của cơ chế kinh tế hiện hành, Nhà nước bắt đầu có một
số thay đổi trong chính sách quản lý kinh tế. Cơng cuộc đổi mới bắt đầu từ năm 1986,
nước ta đã thực hiện đường lối đổi mới chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đường lối đổi mới
của Đảng nhanh chóng được sự hưởng ứng rộng rãi của quần chúng nhân dân, khơi dậy
tiềm năng và sức sáng tạo của các loại hình kinh tế để phát triển sản xuất, tạo thêm
nhiều việc làm cho người lao động, tăng sản phẩm cho xã hội. Chính thức từ năm 1989,
chúng ta đã chuyển sang chế độ đơn tỷ giá, điều chỉnh theo tín hiệu lạm phát, lãi suất,
BOP.
Cụ thể, trước năm 1986 đây là thời kỳ nền kinh tế mang tính kế hoạch hóa tập
trung bao cấp, Nhà nước can thiệp vào mọi mặt của đời sống xã hội, quyết định các
chính sách kinh tế vi mơ và vĩ mơ theo một kế hoạch quy mơ tập trung tồn quốc. Vì
vậy việc áp dụng chế độ tỷ giá cố định do Nhà nước độc quyền xác định, khơng cần tính
đến yếu tố cung cầu của thị trường: Chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá. Chính thức từ
năm 1989, chúng ta đã chuyển sang chế độ tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của Nhà nước.
2. Chính sách tỷ giá hối đoái Việt Nam đã áp dụng trong giai đoạn 1986-1990
và kết quả thực hiện.
2.1.

Chính sách duy trì tỷ giá linh hoạt có điều chỉnh.

Năm 1986, Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VI khởi xướng cơng cuộc đổi mới
nhằm khắc phục tình trạng khủng hoảng kinh tế, tài chính. Sau khi có Nghị quyết Trung
ương 6 (khóa VI), với chủ trương kiên quyết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát triển
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, nền kinh tế - tài chính nước ta đã có những chuyển
biến tích cực, cơ chế thị trường từng bước hình thành thay thế dần cơ chế kế hoạch hóa

tập trung.
Trong giai đoạn 1986 – 1990, các chế độ thu quốc doanh, các pháp lệnh về thuế
công thương nghiệp, thuế nông nghiệp được bổ sung sửa đổi, hệ thống thu ngân sách
được cải cách, các bộ luật thuế áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế được xây
dựng và hoàn thiện từng bước. Trong khu vực kinh tế quốc doanh, chính sách động viên
tài chính khơng ngừng được hồn thiện đi đơi với chế độ quản lý xí nghiệp từng bước
được chấn chỉnh. Những bổ sung, sửa đổi chế độ thu quốc doanh và trích nộp lợi nhuận
trong giai đoạn này là bước chuyển tiếp dẫn đến sự ra đời các luật thuế chung, có hiệu
lực thi hành từ 1/10/1990.
Theo hệ thống phân loại của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), tháng 3/1989, Việt
Nam chính thức áp dụng Chính sách duy trì tỷ giá linh hoạt có điều chỉnh, cơ chế neo
tỷ giá với biên độ được điều chỉnh, tỷ giá chính thức được điều chỉnh dựa trên các tín
7


hiệu lạm phát, lãi suất, cán cân thanh toán; tỷ giá thị trường tự do, tỷ giá ngân hàng
thương mại được phép dao động trong giới hạn 5% tỷ giá chính thức:

Vào năm 1989, Việt Nam đã có nhiều điều chỉnh trong lựa chọn cơ chế tỷ giá.
Những thay đổi theo hướng thị trường đã góp phần nhất định giúp nền kinh tế Việt Nam
đạt được sự ổn định kinh tế vĩ mô trong một thời gian dài. Mặc dù đã phản ánh được
cung cầu của thị trường, nhưng về cơ bản chế độ tỷ giá tại Việt Nam vẫn xoay quanh
chế độ neo tỷ giá. Ở Việt Nam, đồng đô - la Mỹ (USD) gần như được mặc định là đồng
tiền cố định tỷ giá. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) là cơ quan công bố tỷ giá
VND / USD '. Căn cứ vào tỷ giá quốc tế giữa USD và các đồng tiền ngoại tệ khác, các
ngân hàng thương mại sẽ xác lập tỷ giá giữa các ngoại tệ đó với VND.
Sự lựa chọn cơ chế neo tỷ giá vào đồng đô la với nhiều lần điều chỉnh tỷ giá chính
thức hoặc điều chỉnh biên độ đã được thực hiện trong thời gian dài.
2.2.


Kết quả việc thực hiện chính sách tỷ giá trong giai đoạn 1986-1990.

Việc neo tỷ giá cố định ở một số thời điểm đã giúp ổn định được thị trường ngoại
hối, làm giảm hiện tượng đầu cơ và đơ - la hóa, hạn chế rủi ro thanh khoản đối với nợ
nước ngoài, và đặc biệt là neo được kì vọng lạm phát và hạn chế được hiện tượng nhập
khẩu lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, cơ chế tỷ giá này lại khiến VND lên giá cực mạnh,
làm giảm sức cạnh tranh của Việt Nam trong hoạt động thương mại quốc tế và gây thâm
hụt thương mại lớn. Ngồi ra, cơ thể neo tỷ giá cố định khơng theo tín hiệu thị trường
nhiều lúc cịn làm cho nguồn lực của nền kinh tế không được phân bổ một cách hiệu
quả, gây khó khăn và bất ổn cho các hoạt động kinh tế.
8


II.
Giai đoạn 1991-2000.
1. Bối cảnh thực hiện chính sách điều hành tỷ giá giai đoạn 1991-2000.
Đầu năm 1991, tình trạng leo thang giá USD đã thúc đẩy lạm phát do đồng Việt
Nam bị mất giá mạnh và do giá hàng nhập khẩu tăng nhanh. Trước tình hình đó từ năm
1992 chính phủ đã chọn con đường thay đổi cách quản lý ngoại tệ, đổi mới chính sách
và cơ chế điều hành tỷ giá. Đồng thời giai đoạn 1995 -2000 là khoảng thời gian diễn ra
khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á. Việt Nam tuy không nằm trong “tâm bão” nhưng
ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng.
Trong thời gian này, nước ta áp dụng Chính sách duy trì tỷ giá linh hoạt có điều
chỉnh, cơ chế neo tỷ giá với biên độ được điều chỉnh cơ chế là sự pha trộn giữa cơ chế
neo tỷ giá cố định và neo tỷ giá với biên độ được điều chỉnh. Cụ thể:

9



Bảng 2.0

2. Chính sách tỷ giá hối đối Việt Nam đã áp dụng trong giai đoạn 1991-2000
và kết quả thực hiện.
2.1. Chính sách tỷ giá trong giai đoạn 1991-1995.
Trong thời gian này, chế độ tỷ giá của Việt Nam là sự pha trộn giữa neo tỷ
giá cố định và neo tỷ giá với biên độ điều chỉnh (Bảng 2.0). Có thể nói đây là giai
đoạn có dấu mốc quan trọng trong việc lần đầu tiên dỡ bỏ thế độc quyền của nhà
nước trong kinh doanh ngoại hối. Nghị định 53/HĐBT ra đời, quy định về việc tách
hệ thống ngân hàng Việt Nam từ một cấp thành hai cấp, bao gồm Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) thực hiện chức năng quản lý vĩ mô và hệ thống Ngân hàng thương
mại (NHTM) thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và tín dụng.
Tỷ giá ngoại tệ do NHNN công bố được xác định dựa trên tổng hợp các yếu
tố như lãi suất, lạm phát, cung cầu ngoại hối…Tỷ giá mua bán các NHTM được
phép dựa trên cơ sở tỷ giá chính thức do NHNN công bố cộng trừ theo biên độ cho
phép. Để giảm bớt chênh lệch tỷ giá nhằm tiến tới điều hành tỷ giá dựa chủ yếu vào
quan hệ cung cầu trên thị trường. Nhà nước đã thơng qua chính sách tỷ giá linh hoạt
hơn, điều chỉnh tỷ giá chính thức theo tỷ giá trên thị trường tự do.
Trước nguy cơ lạm phát và sự mất giá của đồng Việt Nam, Chính phủ đã đổi
mới cách quản lý ngoại tệ cũng như cơ chế điều hành chính sách tỷ giá hối đối. NHNN
đề nghị với chính phủ thành lập quỹ điều hịa ngoại tệ tại NHNN để có thể can thiệp vào
thị trường ngoại hối nhằm ổn định tỷ giá. Việc thành lập quỹ ngoại tệ đã làm dịu những
biến động thất thường của tỷ giá trên thị trường. Tháng 9/1991, NHNN đã thành lập một
trung tâm giao dịch ngoại tệ tại thành phố Hồ Chí Minh và tháng 11/1991, một trung
tâm giao dịch thứ 2 ở Hà Nội cũng ra đời. Tỷ giá được yết 2-3 lần mỗi tuần với sự tham
gia của NHNN, các NHTM và các công ty XNK chủ chốt. Tỷ giá này là cơ sở tham
chiếu cho tỷ giá mà các NHTM áp dụng cho khách hàng.
Việc thành lập hai trung tâm giao dịch là nước ngoặt đầu tiên của hệ thống
ngân hàng trong quá trình đổi mới thực sự theo hướng thị trường. Thông qua hoạt động
của hai trung tâm, với vai trò là người tổ chức và điều hành, NHNN đã kịp thời nắm bắt

cung cầu ngoại tệ trên thị trường để điều hành chính sách tiền tệ cũng như tỷ giá phù
hợp với tín hiệu thị trường.
Năm 1992, do NHNN can thiệp vào thị trường ngoại tệ, tỷ giá USD/VND đã
dần ổn định, làm suy yếu tâm lý đầu cơ, khiến các doanh nghiệp tập trung ngoại tệ cho
hoạt động xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó, thặng dư cán cân thương mại năm 1992 cũng
đã góp phần làm cung ngoại tệ tăng, gây sức ép lên giá VND. Theo đà đó, từ năm 1993
10


trở đi, VND liên tục chịu sức ép lên giá. Để khắc phục xu hướng này, nhà nước đã thực
hiện một số biên pháp sau:
- Thông qua các giao dịch ngoại tệ, NHNN luôn kịp thời can thiệp vào thị
trường để ổn định tỷ giá hối đoái. Trong hầu hết các phiên giao dịch quý 1
năm 1993, hệ thống ngân hàng đã phải mua đồng USD vào nhằm hạn chế
xu hướng lên giá của VND.
- Nhà nước còn vận dụng công cụ lãi suất để ổn định giá. NHNN đã 24 chủ
trương giảm bớt sự chênh lệch lãi suất bằng cách nâng lãi suất ngoại tệ để
vừa ổn định tỷ giá, vừa thu hút ngoại tệ vào ngân hàng, bổ sung nguồn dự
trữ ngoại hối.

Ngày 20/10/1994, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được thành lập thay
thế hai trung tâm giao dịch ngoại tệ. Đây là bước ngoặt lịch sử trong qúa trình hình
thành và phát triển của thị trường ngoại hối Việt Nam theo chuẩn mực quốc tế. Do
thị trường liên ngân hàng có quy mơ lớn hơn, linh hoạt hơn, tỷ giá hối đoái ngày
càng phản ánh đầy đủ hơn quan hệ cung cầu thị trường. Qua thị trường liên ngân
hàng, NHNN có thể nắm bắt dấu hiệu thị trường về tỷ giá hối đối, cơng bố tỷ giá
chính thức hàng ngày và biên độ giao dịch cho các NHTM. Để gia tăng tính linh hoạt
của tỷ giá và với mục đích định giá thấp tiền đồng cho mục tiêu xuất khẩu, biên độ
dao động của tỷ giá đã được nới lỏng từ 0,5% lên 1% vào tháng 11/1996, lên 5% vào
tháng 2/1997, 10% vào tháng 10/1997 trước khi giảm xuống còn 7% vào tháng

8/1998.

11


Có thể nói, những đổi mới trong chính sách tỷ giá hối đối đó đã góp phần
nào xóa đi tâm lý găm giữ ngoại tệ, góp phần giảm giá USD và tỷ giá được duy trì
tương đối ổn định trong giai đoạn 1992 – 1997.

II.3. Chính sách tỷ giá trong giai đoạn 1995-2000.
Trong thời gian này, chế độ tỷ giá của Việt Nam là sự pha trộn giữa neo tỷ giá
cố định và neo tỷ giá với biên độ điều chỉnh (Bảng 2.0). Do chịu ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ, đồng Việt Nam chịu áp lực giảm giá mạnh đã khiến thị
trường ngoại hối rơi vào tình trang đầu cơ, tích trữ ngoại tệ. Đường tỷ giá trong giai
đoạn này là những bậc thang dứt khoát, thể hiện những đợt phát giá VND của NHNN.
Tỷ giá VND/USD có xu hướng tăng nhanh, đồng thời đột biến theo những cơn sốt giá
ngoại tệ (Biểu đồ 2.1).
Để gia tăng tính linh hoạt của tỷ giá và với mục đích định giá thấp tiền đồng cho
mục tiêu xuất khẩu, biên độ dao động của tỷ giá đã được nới lỏng từ 0,5% lên 1% vào
tháng 11/1996, lên 5% vào tháng 2/1997, 10% vào tháng 10/1997 trước khi giảm xuống
còn 7% vào tháng 8/1998. Do ảnh hưởng bởi những yếu tố nội tại của nền kinh tế như
lạm phát, mất cân đối cán cân thanh toán nên NHNN đã phải giảm giá mạnh tiền đồng 2
lần liên tiếp trong năm 1998 (tháng 2 và tháng 8) với tổng tỉ lệ phá giá lên đến 16,3%
(Bảng 2.0).
Việc điều chỉnh giá này là một quyết định kịp thời. Trong bối cảnh của cuộc
khủng hoảng tài chính khu vực, việc cố định một tỷ giá được coi là cao hơn so với tỷ giá
thực là một rủi ro quá lớn cho nền kinh tế Việt Nam, khơng những nó cản trở xuất nhập
khẩu mà còn hạn chế " khả năng đề kháng" của nền kinh tế Việt Nam. Việc tăng tỷ giá
đã góp phần giảm nhập siêu 20,3% năm 1997 xuống còn 17,6% năm 1998.
Trong năm 1999, với cơ chế điều hành tỷ giá mới, chính sách tỷ giá thả nổi có

sự điều tiết của nhà nước ở nước ta hiện nay càng có cơ hội phát huy hiệu quả. Nếu
trước tháng 2 năm 1999, (Bảng 2.2) cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt Nam là cơ
chế can thiệp trực tiếp bằng cách ấn định tỷ giá chính thức với biên độ giao dịch ở thời
điểm tương ứng có khi lên đến 10% thì từ ngày 25/02/1999 NHNN Việt Nam đã công
bố 2 quyết định mới về tỷ giá:
-

Quyết định số 64/1999/QĐ-NHNN7 về việc cơng bố tỷ giá hối đối của đồng Việt
Nam với các ngoại tệ.
( />
12


-

Quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 về việc quy định nguyên tắc xác định giá
mua bán ngoại tệ của các tổ chức được phép kinh doanh ngoại tệ.
( />
Từ ngày 26/2/1999, NHNN chỉ cơng bố tỷ giá giao dịch bình qn trên cơ sở tỷ
giá thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất
trước đó. Căn cứ vào đó các ngân hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ xác
định tỷ giá mua bán ngoại tệ giao ngay không vượt quá 0,1% so với tỷ giá này.
Việc điều chỉnh tỷ giá này nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá
xuất khẩu Việt Nam; giảm bớt sự mất cân bằng của đồng Việt Nam so với USD, dịch
chuyển tỷ giá dần tới trạng thái cân bằng của nó. Nhờ cơ chế điều hành tỷ giá mới, tình
hình tỷ giá hối đối ở Việt Nam rất ổn định, không biến động nhiều lắm, tỷ giá giữa
VND và USD giao động trong khoảng 14.000 - 14.014 đ/ 1 USD.
Trong năm 2000, từ ngày 5/9, cơ chế tỷ giá trong kinh doanh ngoại tệ của các NHTM
được thực hiện theo quyết định số 289/2000QĐ-NHNN7 ngày 30/8/2000 của Thống đốc
NHNN quy định mới về nguyên tắc xác định tỷ giá của các giao dịch hối đoái kỳ hạn,

hốn đổi của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ. Còn nguyên tắc xác
định tỷ giá giao ngay vẫn được thực hiện theo quyết định số 65/1999/QD-NHNN7.

13


(Bảng 2.2)

14


3. Kết quả thực hiện.
3.1. Giai đoạn 1991-1995.
Sự ổn định tỷ giá hối đoái danh nghĩa những năm này đã tạm thời góp phần tích
cực vào việc kiềm chế lạm phát, thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
với tốc độ cao trên 8%/ năm.
Do ngoại tệ được đánh giá rẻ nên đã khuyến khích các nhà đầu tư vay ngoại tệ
để đầu tư vào các ngành sử dụng nhiều vốn và nguyên liệu nhập khẩu mà khơng khai
thác có hiệu quả các nguồn lực sẵn có và những lợi thế so sánh của đất nước, đó là
nguồn lực lao động.
Việc duy trì tỷ giá hối đoái danh nghĩa gần như cố định trong điều kiện lạm
phát đã được kiềm chế, song vẫn cao hơn lạm phát của Mỹ (nước có đồng tiền chiếm tỷ
trọng chủ yếu trong giỏ ngoại tệ để xác định tỷ giá của Việt Nam) và các nước có quan
hệ thương mại chủ yếu của Việt Nam, đồng thời đồng USD có xu hướng tăng giá từ năm
1995 đã làm cho VND có xu hướng ngày càng bị đánh giá cao hơn thực tế. Do tỷ giá hối
đoái thực tế giảm xuống, VND được đánh giá cao đã làm suy giảm sức cạnh tranh quốc
tế của hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam, làm cán cân thương mại thâm hụt.
3.2.

Giai đoạn 1995-2000.


Mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính khu vực, thiên tai nghiêm
trọng xảy ra liên tiếp nhưng chúng ta vẫn duy trì được tốc độ tăng GDP đạt 7%. Bình
quân từ năm 1991-2000 GDP tăng 7,6%/năm.
Sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam bắt đầu đươc cải thiện, thể hiện
ở chỉ số tỷ giá xuất khẩu lớn hơn chỉ số tỷ giá nhập khẩu và thâm hụt của cán cân
thương mại giảm. Đặc biệt, trong năm 1999, lần đầu tiên cán cân thương mại thặng dư.
Nguyên nhân là do tháng 10/1997, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã quyết định mở
rộng biên độ giao dịch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá giao dịch tại các thị trường liên
ngân hàng.
Đến hết năm 1999, đã căn bản khắc phục xong hiệu ứng trễ của cuộc khủng
hoảng tiền tệ khu vực, góp phần kéo lạm phát từ mức 9,2% năm 1998 xuống cịn 0,1%
năm 1999. Tiếp đó là q trình chủ động kiềm chế và kiểm sốt lạm phát (Năm 1999:
0,1%; 2000: -0,6%
Việc điều chỉnh tỷ giá của NHNN trên đây đã có tác động tích cực đối với xuất
khẩu và hạn chế nhập khẩu của Việt Nam, giảm nhập siêu trong các năm 1997-1999.
Ngoài ra, giá cả trên thị trường biến động không đáng kể cũng là một nhân tố góp phần
cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam.
15


Trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, đã phân định những chức năng quản lý Nhà nước
của ngân hàng Nhà nước và chức năng kinh doanh của ngân hàng thương mại. Việc điều
hồ lưu thơng tiền tệ, ổn đinh giá trih đồng tiền Việt Nam, quản lý ngoại hối, xây dựng
thị trường hối đoái hợp pháp và các hoạt động tín dụng, thanh tốn đều có bước tiến.
Tuy nhiên, do chưa có chiến lược và tầm nhìn tổng thể, cách điều hành tỷ giá
của NHNN chưa mang tính chủ động, chưa phối hợp các để hỗ trợ cho sự thành cơng
như mong muốn của chính sách tỷ giá. Giữa NHNN và dân chúng, doanh nghiệp ln
có sự cách biệt, thơng tin trên thị trường về những động thái và quyết tâm của NHNN
đều chỉ là phỏng đoản, khơng chính thức. Điều này đã dẫn đến hệ quả là 2000, lạm phát

và thâm hụt cán cân vãng lai lại bắt đầu gia tăng.

III. Giai đoạn 2000-2010.
1. Bối cảnh thực hiện chính sách điều hành tỷ giá giai đoạn 2000-2011.

16


Từ năm 2000-2006, trong giai đoạn này, thị trường ngoại hối nhìn chung tương
đối ổn định, tỷ giá diễn biến theo chiều hướng tăng (Biểu đồ 2.3). Tuy nhiên, trong từng
năm tỷ giá lại có những diễn biến thất thường.

Đặc biệt với sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức
thương mại quốc tế WTO năm 2005, nền kinh tế Việt Nam mới có cơ hội thử sức mình
tại sân chơi cởi mở hơn. Cùng với những cam kết về tự do hóa thương mại mà chính
phủ Việt Nam đã kí trong các vịng đàm phán, các rào cản đối với hàng nhập khẩu dần
dỡ bỏ, hàng hóa 150 nước thành viên vào thị trường Việt Nam thuận lợi hơn và hàng
xuất khẩu của Việt Nam cũng có nhiều cơ hội xuất ra thị trường rộng lớn.
Tuy nhiên, khủng hoảng tài chính tồn cầu 2008 - 2009 và suy thối kinh tế sau
đó đã gây tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế trong nước với biểu hiện rõ nét là dòng
vốn đầu tư nước ngoài giảm mạnh, gây áp lực lạm phát và tỷ giá. Trong thời gian từ
năm 2007 đến năm 2011, lạm phát luôn ở mức cao.
Trong giai đoạn nay Nhà nước thực hiện chính sách tỷ giá thả nổi có sự điều tiết
của nhà nước với cơ chế neo tỷ giá có điều chỉnh. Theo đó, nhà nước sẽ quản lý thơng
qua “tỷ giá bình qn thị trường liên ngân hàng và biên độ dao động được phép”, nhằm
theo kịp xu hướng thay đổi của nền kinh tế mở cửa và đối phó với khủng hoảng tài
chính 2008.

17



2. Chính sách tỷ giá trong giai đoạn 2000-2010.
Năm 2003, tỷ giá VND/USD khá ổn định mặc dù USD mất giá mạnh so với
các ngoại tệ chủ chốt khác và có diễn biến phức tạp trên thị trường ngoại hối thế giới.
Năm 2004, tình hình tỷ giá tương đối ổn định do một số nguyên nhân. Thứ
nhất, đồng USD mất giá trên thị trường quốc tế. Thứ hai, nguồn cung USD dồi dào nhờ
hoạt động trực tiếp nước ngoài, hoạt động du lịch, xuất khẩu dầu mỏ, kiều hối. Sự ổn
định tỷ giá như vậy có lợi ích cho cả xuất khẩu và nhập khẩu, giúp kiềm chế lạm phát,
cải thiện cán cân thanh tốn. Nếu chính sách tỷ giá thay đổi nhằm khuyến khích xuất
khẩu thì sẽ khơng thể có lợi cho nhập khẩu và ngược lại. Đặc biệt, đối với Việt Nam
nhiều mặt hàng xuất khẩu lại dựa chủ yếu vào ngun liệu nhập khẩu, do đó chính sách
tỷ giá ổn định thì sẽ có lợi cả cho xuất khẩu và nhập khẩu.
Giai đoạn 2005-2007, tình hình TGHĐ ở Việt Nam tỷ giá VND/USD thường
khá ổn định, biến động thấp. Nếu so tháng 12 năm nay với tháng 12 năm trước thì
TGHĐ năm 2005 tăng 0,9%, năm 2006 tăng 1%, năm 2007 giảm 0,03% - bình quân
thời kì 2004 - 2007 tăng 0,57%. Nếu tính bình qn năm so với năm trước thì năm 2005
tăng 0,56%, năm 2006 tăng 0,95%, năm 2007 tăng 0, 62%. TGHĐ thực sự có những
chuyển biến tốt, khi mà TGHĐ tuy có tăng nhưng với mức tăng không lớn.

18


Cụ thế là, tỷ giá cuối năm 2005 là 15.905VND/USD so với 15.778VND/USD
vào đầu năm (vào ngày 13/10/2005 tỷ giá TTTD lên mức kỷ lục là 16.000VND/USD),
tỷ giá chính thức vào tháng 12/2006 là 15.965VND/USD và có lúc là tỷ giá TTTD tăng
lên 17.000 VND/USD tháng 6 năm 2007 tỷ giá là 16.101VND/USD, 6 tháng cuối năm
2007 là 16.132VND/USD, Tỷ giá VND/USD 6 tháng cuối năm 2007 đã diễn biến như
sau: tháng 7 tăng 0,22%, tháng 8 tăng 0,16%, tháng 9 tăng 0,57%, tháng 10 giảm 0,6%,
tháng 11 giảm 0,28%, tháng 12 giảm 0,19%. NHNN đã có những can thiệp đáng kế để
bình ổn, duy trì TGHĐ. NHNN đã thay đối biên độ dao động tỷ giá từ +0,25% năm

2005 lên ±0,5% năm 2006 và ±0,75% năm 2007, đây là một trong những chính sách can
thiệp kịp thời của NHNN tới TGHĐ.
(Nguồn: />Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu đạt 48 tỷ USD, tăng 20,5 % so với năm 2006, vượt
3,1 % so với kế hoạch CP đặt ra là 17,4 %. Trong đó kim ngạch xuất khẩu của khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài là 56,9 %, đạt 27,3 tỷ USD. Về giá trị kim ngạch xuất khẩu
năm 2007 tăng 8,2 tỷ USD, các nhóm hàng then chốt đều có sự gia tăng đáng kể. Trong
tháng 5/2008, kim ngạch xuất khẩu của cả nước đạt 5,15 tỷ USD tăng 3 % so với tháng
4/2008. Tính chung 5 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu đã đạt 23,4 tỷ USD, tăng
27,2 % so với cùng k (2007 và đạt 39,5 % kế hoạch năm 2008. Kinh tế Việt Nam được
đánh giá có nhiều tiềm năng và triển vọng về cơ hội đầu tư do vậy sau khi gia nhập
WTO, lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng đột biến (chỉ tính riêng năm
2007 đã tới 20 tỉ USD).

Sơ đồ: Mức tăng cung tiền của VN so với các nước khác trong khu vực

19


Khi luồng vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam tăng, Việt Nam Đồng (VND) sẽ
lên giá để tạo ra điểm cân bằng (quan hệ cung cầu). Tuy nhiên, với chiến lược phát triển
dựa vào xuất khẩu, NHNN Việt Nam phát hành VND mua lại lượng ngoại tệ này với
mục đích kìm tỷ giá của VND với đồng USD thấp hơn điểm cân bằng nhằm nâng cao
tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu về giá cả. Giữ VND yếu có thể coi là một hình thức
trợ giá cho hàng xuất khẩu và phát huy ở trong những điều kiện kinh tế thế giới nhất
định. Tuy nhiên, mặt trái thứ nhất của chính sách này là do phải tung VND ra mua lại
lượng ngoại tệ chảy vào, lượng cung tiền của Việt Nam từ năm 2005 đến nay tăng tổng
cộng 135 %. Đây là mức tăng rất lớn mặc dù NHNN đã có nỗ lực hút lại tiền. Đây là
nguyên nhân đầu tiên dẫn đến lạm phát.
Do thâm hụt thương mại khổng lồ đồng USD của Mỹ đã mất giá so với những
đồng ngoại tệ mạnh khác. Cộng thêm vào đó, cuộc khủng hoảng tín dụng nhà đất tại Mỹ

vào cuối năm 2007 khiến nền kinh tế này bước vào giai đoạn suy thoái, đầy đồng USD
mất giá nhiều hơn nữa, giá xăng dầu tính theo đồng USD tăng mạnh. Tuy nhiên tỷ giá
của VND trong thời gian này hầu như khơng biến đổi so với USD (tính đến cuối tháng
2/2008 chi tăng 0.24 % so với 2006). Do đó qua việc neo tỉ giá, VND cũng giảm trung
bình 15 % so với các ngoại tệ mạnh khác.
Việt Nam ràng buộc tỷ giá vào một điểm so với đồng USD trong khi đồng tiền
này biến động mạnh trên thị trường tiền tệ toàn cầu. Điều này đồng nghĩa với việc Việt
Nam đã nhập khẩu một phần ảnh hưởng lạm phát của việc USD mất giá. Lí do là sản
xuất tại Việt Nam hiện nay phụ thuộc rất lớn vào các nguyên vật liệu nhập khẩu như
xăng dầu, xi măng, sắt thép, máy móc ... Sự mất giá của USD hay nói cách khác là sự
tăng giá thành của các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu cho sản xuất tính bằng VND dưới
chế độ tỷ giá neo là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chi phí sản xuất trong nước tăng, kéo
theo giá cả hàng hóa tăng theo. Chi phí cho sản xuất tăng cao, lượng cung tiền lớn do
vậy lạm phát phi mã là khơng tránh khỏi. Điều này cũng có thể giải thích cho ngun
nhân vì sao mặc dù kim ngạch xuất khẩu của chúng ta tăng trưởng ngoạn mục, nhưng
cán cân thương mại vẫn bị thâm hụt hay Việt Nam vẫn nhập siêu rất lớn. Một phần
nguyên nhân vị VND mất giá so với các ngoại tệ khác khiến cho giá thành của hàng
hóa, nguyên nhiên liệu nhập khẩu tăng cao, khiến cán cân thương mại bị thâm hụt lớn.
Năm 2008, kinh tế thế giới bắt đầu rơi vào tình trạng khủng hoảng, nền kinh tế
Việt Nam cũng ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế tác động tới tình hình sản xuất,
xuất khẩu trong nước. Cũng với lãi suất và lạm phát, năm 2008 là 1 năm đầy biến động
với TGHĐ với những ảnh hưởng từ các yếu tố vĩ mô, cung cầu ngoại tệ. Một tiền lệ mới
chưa từng xảy ra trong lịch sử là biên độ tỷ giá được điều chính 5 lần, một mật độ dày
chưa từng có. Quy luật thị trường bị phá vỡ. Nếu như những năm trước tỷ giá luôn được
định hướng tăng nhẹ vào khoản 1 % / năm thì vào năm 2008, tỷ giá công bố liên ngân
20


hàng (LNH) thường có xu hướng duy trì ổn định đã tăng 5 %, dẫn đến tỷ giá giao dịch
LNH tăng 10 %.


Tốc độ tăng/giảm tỷ giá USD/VND từ năm 2008 đến 2013

Đầu tiên là vào tháng 2/2008, khi mà lượng kiều hối đổ về vào dịp tết nguyên
đán đã khiến lượng USD trong hệ thống tăng cao. Khi đó ngân hàng nhà nước đang thực
hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nên đã không thu mua USD mà cho phép nới lỏng biên
độ tỷ giá USD/VND từ 0,75%/năm lên 1%/năm trong ngày 10/03/2008.
Tiếp đó, vào 27/6/2008, NHNN lại tiếp tục nới biên độ từ 1% lên +/-2% và
kiểm soát chặt các bàn thu đổi ngoại tệ khi cơn sốt ngoại tệ tăng do nhu cầu sử dụng
ngoại tệ của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu tăng cao, cộng với tâm lý lo ngại khan
hiếm USD do giới đầu cơ tung ra. Ngay sau đó, NHNN đã can thiệp kịp thời vào thị
trường ngoại hối khi công bố lượng dự trữ ngoại hối ở mức 20.7 tỷ USD nhằm phủ định
tin đồn khan hiếm ngoại hối. Đây cũng là giai đoạn mà giá tỷ giá VND/USD bất ổn định
nhất khi mà trên thị trường đầu năm tỷ giá chỉ xoay quanh ở mức 15.000 đến 16.000
VND/1 USD vậy mà chỉ trong vòng 5 tháng ngắn ngủi con số này suýt sốt chạm
ngưỡng 19.500 VND.
17/07/2008 tới 15/10/2008: Nhờ có sự can thiệp kịp thời của NHNN, cơn sốt
USD đã bị chặn đứng. Nhận thấy tình trạng sốt USD đã ở mức báo động, lần đầu tiên
21


trong lịch sử, NHNN đã công khai công bố dự trữ ngoại hối quốc gia là 20,7 tỷ USD khi
các thông tin trên thị trường cho rằng USD đang khan hiếm. Ngay sau đó tỷ giá
USD/VND giảm mạnh từ 19.400 VND/USD cịn 16.400 VND/USD và giao dịch bình
ổn quanh mức 16.600 VND/USD trong giai đoạn từ tháng 8 đến tháng giữa tháng 10.
7/11/2008, một lần nữa NHNN buộc phải nới lỏng biên độ tỷ giá từ mức 2%
tăng lên 3% do làn sóng thối vốn đầu tư ngoại trên thị trường chứng khoán cộng với
tác động của việc mua vàng lậu sau khi nhà nước ra quyết định không cho phép nhập
vàng. Trước đó, NHNN cũng đã thực hiện việc tăng tỷ giá USD/VND bình quân liên
ngân hàng lên mức 16.517 VND/1 USD.

Năm 2009, tiếp tục làn sóng 4 tháng cuối năm 2008, biên độ tỷ giá lại được nới
lên mức 5% kéo tỷ giá trên thị trường vượt ngưỡng 18.000 VND/USD. Cuối năm 2009,
bằng một loạt các biện pháp nhằm thực hiện việc bình ổn tỷ giá như nâng lãi suất VND,
nâng tỷ giá liên ngân hàng, yêu cầu các doanh nghiệp bán ngoại tệ cho các ngân hàng
thương mại…. từ đó đã đẩy lùi được tình trạng bất ổn của tỷ giá. Tỷ giá bình quân liên
ngân hàng cũng được đẩy lên mức 16.983 VND. Từ cuối năm 2009 đến năm 2010, biên
độ lãi suất đã được hạ xuống chỉ còn 3%. Trong giai đoạn này tỷ giá trên thị trường chủ
yếu xoay quanh giá bán ở mức 18.000 VND – 19.000 VND/USD.
Ngày 10/2/2010, ngân hàng nhà nước quyết định điều chỉnh tỷ giá liên ngân
hàng từ mức 17.941 VND/USD lên mức 18.544 VND/USD, đồng thời ấn định lãi suất
tiền gửi tối đa bằng đôla Mỹ của các tổ chức kinh tế tại ngân hàng ở mức 1%. Các quyết
định này là nhằm mục đích cân đối cung cầu ngoại tệ, tạo điều kiện kiểm soát cung tiền,
khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, góp phần ổn định kinh tế vĩ mơ.
3. Kết quả thực hiện.
Có thể nói, giai đoạn 2000-2010 nền kinh tế Việt Nam nói chung và chính sách tỷ
giá hối đối nói riêng được vận động trong môi trường tự do cạnh tranh. Những thay đổi
của chính sách tỷ giá ít nhiều tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu và cán cân thương
mại tuy nhiên, mức tác động này chưa tương xứng với vai trị của chính sách tỷ giá
trong 1 nền kinh tế mở. Chính sách tỷ giá hối đối ở Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc
ổn định tình hình tiền tệ.
Tỷ giá giữa VND và các ngoại tệ ở VN đã có tính thị trường, nhưng cịn hạn chế. Có thể
thấy được một số ưu và hạn chế của chính sách tỷ giá trong giai đoạn này như sau:
Ưu điểm:
-

Khuyến khích thu hút, giải ngân FDI, ODA, Kiều hối.
Phù hợp vớ tín hiệu thị trường, phù hợp với cung cầu ngoại tệ thị trường, tăng
tính thanh khoản, kiềm chế nhập siêu.
22



-

Hướng tới điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng linh hoạt và góp phần ổn định thị
trường ngoại hối, đảm bảo lợi ích kinh tế.

Hạn chế
-

Tăng giá hàng hóa, ngun liệu nhập khẩu Tăng chi phí nhập khẩu hàng hóa của
các doanh nghiệp  Gia tăng áp lực lạm phát cung cầu, chi phí đẩy.
Rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh và tín dụng của DN vay USD lãi suất
cao và phải nhập khẩu nguyên liệu đầu vào sản xuất.
Ít nhiều xung lực tăng giá vàng trong nước.

23


IV. Giai đoạn 2010-2018.
1. Bối cảnh thực hiện chính sách điều hành tỷ giá giai đoạn 2010-2018.

Sự biến động của giá vàng do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu
khiến vàng trở thành kênh trú ẩn và đầu tư, đầu cơ trong suốt những năm đầu của
giai đoạn 2008-2018, ảnh hưởng lớn đến thị trường tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô và
giá trị tiền đồng. Trong giai đoạn 2008-2012 mỗi khi vàng biến động, đều dẫn đến sự
biến động của tỷ giá và cặp vàng – ngoại tệ tác động ảnh hưởng rất lớn đến sự ổn
định của thị trường tiền tệ, ngoại hối, đến ổn định kinh tế vĩ mô thông qua mối liên
hệ tỷ giá – lãi suất - lạm phát. Tuy nhiên, khi chính sách về quản lý thị trường vàng
(bằng Nghị định 24 của Chính phủ) và cơ chế điều hành tỷ giá theo tỷ giá trung tâm,
thị trường ngoại hối đã diễn biến tích cực theo định hướng điều hành.

Năm 2015 là một năm đầy biến động và nhiều thách thức trong cơng tác điều
hành chính sách tiền tệ nói chung và chính sách tỷ giá nói riêng trong bối cảnh đồng đô
la Mỹ liên tục lên giá do kỳ vọng Fed điều chỉnh tăng lãi suất và Trung Quốc bất ngờ
điều chỉnh mạnh tỷ giá đồng Nhân dân tệ kéo theo làn sóng giảm giá mạnh của các đồng
tiền của các đối tác thương mại chính của Việt Nam. Ở trong nước, việc huy động trái
phiếu Chính phủ (TPCP) với lượng lớn để bù đắp thâm hụt ngân sách không thành công
đã đẩy lãi suất TPCP tăng cao, tạo áp lực kép lên thị trường tiền tệ: Dư thừa thanh khoản
trong ngắn hạn trong khi lãi suất tăng cao trong dài hạn, qua đó gián tiếp cản trở mục
tiêu tiếp tục giảm lãi suất cho vay và ổn định tỷ giá.
Từ đầu năm 2016, cơ chế tỷ giá hối đoái mới chính thức vận hành. Trải qua một
năm nhiều biến động, đặc biệt là trên thị trường quốc tế, cơ chế tỷ giá hối đoái trung
tâm đã được thử thách và đã chứng tỏ vai trị tích cực trong đối phó với bão tố trên thị
trường tiền tệ thế giới, giữ tỷ giá hối đối giữa VND với USD có được sự ổn định cần
thiết, góp phần đáng kể vào ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế.
Năm 2018 là một năm đầy biến động với tình hình kinh tế vĩ mơ đi kèm căng
thẳng từ chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, thêm vào đó là chính sách từ Chính phủ
cũng phần nào tác động đến tình hình tỷ giá.
Trong suốt giai đoạn này, Việt Nam thực hiện chính sách neo với biên độ điều
chỉnh.
2. Chính sách tỷ giá trong giai đoạn 2010-2018.
Từ năm 2011-2015, để ổn định tỷ giá và thị trường ngoại tệ, Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) đã thay đổi cơ chế tỷ giá và can thiệp sâu vào thị trường ngoại tệ bằng
những biện pháp mua bán, duy trì chính sách chênh lệch lãi suất VNĐ và USD nhằm
đảm bảo nắm giữ tiền đồng có lợi hơn so với USD.
24


×