Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số kinh nghiệm trong” giải toán có lời văn” cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.24 KB, 15 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và sự thách thức trước
nguy cơ tụt hậu trong cạnh tranh trí tuệ đang địi hỏi phải đổi mới giáo dục,
trong đó có sự đổi mới cơ bản về phương pháp dạy học. Những phương pháp
dạy học kích thích sự tìm tịi, đòi hỏi sự tư duy của học sinh được đặc biệt
chú ý. Mục tiêu giáo dục của Đảng đó chỉ rõ: “... Đào tạo có chất lượng tốt
những người lao động mới có ý thức và đạo đức xã hội chủ nghĩa, có trình
độ văn hố phổ thơng và hiểu biết kỹ thuật, có kỹ năng lao động cần thiết,
có óc thẩm mỹ, có sức khoẻ tốt...”. Muốn đạt được mục tiêu này thì dạy và
học Tốn trong trường Tiểu học là một khâu quan trọng của quá trình dạy
học. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng nói về vị trí vai trị của bộ mơn
Tốn: “ Trong các mơn khoa học và kỹ thuật, toán học giữ một vị trí nổi bật.
Nó có tác dụng lớn đối với kỹ thuật, với sản xuất và chiến đấu. Nó là một
mơn thể thao của trí tuệ, giúp chúng ta nhiều trong việc rèn luyện p hương
pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp học tập, phương pháp
giải quyết các vấn đề, giúp chúng ta rèn luyện trí thơng minh sáng tạo. Nó
cịn giúp chúng ta rèn luyện nhiều đức tính quý báu khác nhau: Cần cù và
nhẫn nại, tự lực cánh sinh, ý chí vượt khó, u thích chính xác, ham chuộng
chân lý.” Để đáp ứng những yêu cầu mà xã hội đặt ra, Giáo dục và đào tạo phải
có những cải tiến, điều chỉnh, phải thay đổi về nội dung chương trình, đổi mới
phương pháp giảng dạy cho phù hợp.
Đối với học sinh lớp 1 mạch kiến thức giải tốn có lời văn được sắp xếp
xen kẽ với các mạch kiến thức cơ bản khác của mơn tốn. Qua đó địi hỏi người
giáo viên phải có phương pháp dạy học linh hoạt, phải đổi mới cách dạy, cách
truyền đạt kiến thức tới học sinh giúp học sinh tự phát hiện giải, quyết vấn đề, tự
nhận xét, so sánh, phân tích tổng hợp để tìm ra cách giải bài tốn. Nhờ có giải
tốn, học sinh sẽ có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, phương


pháp suy luận kỹ năng trình bày và những phẩm chất cần thiết của người lao


động mới .
Trong thực tiễn giảng dạy, việc dạy dạng toán này đạt hiệu quả chưa cao vì:
- Giáo viên đã hướng dẫn học sinh giải toán nhưng chưa xác định được chuẩn
kiến thức kỹ năng và mục tiêu của sách giáo khoa. Giáo viên chưa chủ động,
linh hoạt sáng tạo trong giảng dạy. Khi dạy chưa phân hóa đối tượng học sinh.
- Giáo viên chưa chú trọng hướng dẫn học sinh đọc kỹ bài tốn, hiểu nội dung
bài tốn và tóm tắt bài tốn để tìm cách giải bài tốn theo các bước. Do đó việc
rèn luyện tư duy học sinh cịn hạn chế.
- Học sinh đọc bài tốn chưa thơng thạo, chưa hiểu nội dung bài toán, chưa xác
định được yêu cầu của bài tốn: Bài tốn cho biết gì? Bài tốn hỏi gì?
- Một số học sinh chưa biết cách trình bày bài giải
Từ những lý do trên bản thân tôi cũng như một số giáo viên đang trực
tiếp giảng dạy còn nhiều băn khoăn và suy nghĩ. Cần dạy như thế nào để học
sinh nắm tốt bài.Với mong muốn được học hỏi trao đổi kinh nghiệm lẫn
nhau, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài :
Một số kinh nghiệm trong” Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp 1.
1.2. Điểm mới của sáng kiến
Sáng kiến chỉ ra các biện pháp cụ thể nhằm giúp học sinh Học sinh lớp Một
bước đầu biết giải tốn có lời văn và trình bày được bài giải. Với mong muốn
góp phần nhỏ bé cơng sức của mình nhằm nâng cao chất lượng dạy học mơn
Tốn ở Trường Tiểu học, cụ thể hoá định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở
Nhà trường tiểu học. Đồng thời qua đó để đúc rút những kinh nghiệm thiết thực
cho bản thân trong công tác giảng dạy sau này.


2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng vấn đề giải toán có lời văn của học sinh lớp 1. Nguyên nhân
của thực trạng
2.1.1. Thực trạng
* Về học sinh

Trong các tuyến kiến thức tốn ở chương trình tốn Tiểu học thì tuyến
kiến thức “Giải tốn có lời văn” là tuyến kiến thức khó khăn nhất đối với
học sinh, và càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp Một. Bởi vì đối với lớp
Một: Vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng t ư duy lơgic của
các em cịn rất hạn chế. Một nét nổi bật hiện nay là nói chung học sinh c hưa
biết cách tự học, chưa học tập một cách tích cực. Nhiều khi với một bài tốn
có lời văn các em có thể đặt và tính đúng phép tính của bài n hưng khơng thể
trả lời hoặc lý giải là tại sao các em lại có được phép tính như vậy. Thực tế
hiện nay cho thấy, các em thực sự lúng túng khi giải bài tốn có lời văn. Một
số em chưa biết tóm tắt bài tốn, chưa biết phân tích đề tốn để tìm ra đường
lối giải, chưa biết tổng hợp để trình bày bài giải, diễn đạt vụng về, thiếu
lơgic. Ngơn ngữ tốn học cịn rất hạn chế, kỹ năng tính tốn, trình bày thiếu
chính xác, thiếu khoa học, chưa có biện pháp, phương pháp học toán, học
toán và giải toán một cách máy móc nặng về rập khn, bắt chước.
- Nhiều em cịn có hồn cảnh khó khăn, một số em có bố mẹ đi làm ăn xa
nên việc học tập của các em chưa thực sự được quan tâm.
* Tình hình dạy học toán ở lớp : Qua nghiên cứu cho thấy khi dạy giáo
viên và học sinh cịn có một số tồn tại sau:
- Vẫn còn một số giáo viên chưa biết cách dạy loại Tốn có lời văn. Một số
giáo viên ngại sử dụng đồ dùng minh hoạ, ngại tóm tắt bằng sơ đồ hình vẽ
hoặc đoạn thẳng, sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp trong việc giúp
học sinh tìm đường lối giải và giải tốn cịn khó hiểu.


- Về mặt nhận thức giáo viên còn coi việc dạy cho học sinh “Giải tốn có lời
văn” cho học sinh lớp 1 là đơn giản, dễ dàng nên chưa tìm tịi nghiên cứu để có
phương pháp giảng dạy có hiệu quả.
- Khả năng phối hợp, kết hợp với nhiều phương pháp để dạy tuyến kiến thức:
“Giải tốn có lời văn” ở lớp 1 còn thiếu linh hoạt.
- Giáo viên cịn lúng túng khi tạo các tình huống sư phạm để nêu vấn đề.

Chưa khuyến khích động viên và giúp đỡ một cách hợp lý các nhóm cũng như
các đối tượng học sinh trong quá trình học.
- Giáo viên chưa yêu cầu học sinh đọc kỹ bài toán, xem bài tốn cho biết gì?
Bài tốn u cầu gì?
- Học sinh cịn lúng túng trong phần giải tốn: chưa biết điền phần bài tốn
cho biết vào phần tóm tắt của bài toán. Đặc biệt nhiều em chưa biết viết câu
lời giải khi giải bài toán.
*Về đồ dùng dạy học :
Tư duy của học sinh lớp Một là tư duy cụ thể, để học sinh học tốt “Giải
tốn có lời văn” trong quá trình giảng dạy rất cần đồ dùng thiết bị dạy học
để minh hoạ.
Trong những năm qua, nhà trường đã được cung cấp khá nhiều trang thiết
bị và đồ dùng dạy học đồng bộ để dạy cho cả cấp học và những bộ va-li để
dạy theo lớp nhưng thống kê theo danh mục thì số lượng vẫn chưa đáp ứng
được đầy đủ u cầu dạy “Giải tốn có lời văn”.
2.1.2. Qua tìm hiểu tơi rút ra một số ngun nhân sau:
* Về phía học sinh.
a/ Ưu điểm
- Phần lớn học sinh biết làm bài tốn có lời văn. Kết quả của bài tốn đúng.
- Học sinh ham học, có hứng thú học tập mơn Tốn nói chung và “Giải bài tốn
có lời văn” nói riêng.
- Học sinh bước đầu biết vận dụng bài tốn có lời văn vào thực tế.
b/Hạn chế


- Trình bày bài làm cịn chưa sạch đẹp.
- Một số học sinh chưa biết cách đặt câu lời giải phù hợp.
- Một số ít học sinh khơng hiểu nội dung bài tốn có lời văn dẫn đến khơng làm
được bài.
* Về đồ dùng dạy học :

Tư duy của học sinh lớp Một là tư duy cụ thể, để học sinh học tốt “Giải
tốn có lời văn” trong q trình giảng dạy rất cần đồ dùng thiết bị dạy học
để minh hoạ.
Trong những năm qua, các trường tiểu học đã được cung cấp khá nhiều
trang thiết bị và đồ dùng dạy học cho từng khối lớp nhưng thống kê theo
danh mục thì số lượng vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ u cầu dạy “Giải
tốn có lời văn”.
* Về giáo viên
Vẫn còn một số giáo viên chuyển đổi phương pháp giảng dạy cịn lúng
túng, chưa phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh, phương pháp dạy
học truyền thống đã ăn sâu vào tư duy vào lề lối dạy học hàng ngày. Một số giáo
viên dạy theo cách thơng báo kiến thức sẵn có, dạy theo phương pháp thuyết
trình có kết hợp với đàm thoại, thực chất vẫn là "thầy truyền thụ, trò tiếp nhận
ghi nhớ". Một số giáo viên còn ngại đầu tư làm thêm đồ dùng dạy học để phục
vụ cho tiết dạy, ngại tóm tắt bằng sơ đồ hình vẽ hoặc đoạn thẳng, sử dụng
phương pháp phân tích, tổng hợp trong việc giúp học sinh tìm đường lối giải và
giải tốn cịn khó hiểu.
Vì vậy từ lí do trên tơi quyết định tìm những biện pháp, giải pháp tối ưu
nhất để giải tốt bài toán có lời văn ở lớp Một, tơi xin mạnh dạn đưa ra một số
giải pháp sau:
2.2. Một số giải pháp rèn kỹ năng giải tốn có lời văn cho học sinh lớp
1:
2.2.1. Nắm bắt nội dung chương trình.


Để dạy tốt mơn Tốn lớp Một nói chung, "Giải bài tốn có lời văn" nói
riêng, điều đầu tiên mỗi giáo viên phải nắm thật chắc nội dung chương trình,
sách giáo khoa.Trong chương trình tốn lớp Một, giai đoạn đầu học sinh còn
đang học chữ nên chưa thể dạy ngay "Bài tốn có lời văn". Mặc dù đến tận
tuần 23, học sinh mới được chính thức học cách giải "Bài tốn có lời văn"

song chúng ta đã có ý ngầm chuẩn bị từ xa cho việc làm này ngay từ bài
"Phép cộng trong phạm vi 3 (Luyện tập) " ở tuần 7.
Bắt đầu từ tuần 7 cho đến các tuần 35 trong hầu hết các tiết dạy về phép
cộng, trừ trong phạm vi (khơng q) 10 đều có các bài tập thuộc dạng "Nhìn
tranh nêu phép tính" ở đây học sinh được làm quen với việc:
- Xem tranh vẽ.
- Nêu bài toán bằng lời.
- Nêu câu trả lời.
- Điền phép tính thích hợp (với tình huống trong tranh).
Ví dụ: Sau khi xem tranh vẽ ở trang 46 (SGK), học sinh tập nêu bằng
lời: "Có 1 quả bóng trắng và 2 quả bóng xanh. Hỏi có tất cả mấy quả bóng?"
rồi tập nêu miệng câu trả lời: "có tất cả 3 quả bóng", sau đó viết vào dãy
năm ơ trống để có phép tính:
1

+

2

=

3

* Dạy "Giải bài tốn có lời văn" ở lớp Một.
Quy trình "Giải bài tốn có lời văn" thơng thường qua 4 bước:
- Đọc và tìm hiểu đề bài.
- Tìm đường lối giải bài tốn.
- Trình bày bài giải
- Kiểm tra lại bài giải.
2.2.2. Đọc và tìm hiểu đề tốn

Muốn học sinh hiểu và có thể giải được bài tốn thì điều quan trọng đầu
tiên là phải giúp các em đọc và hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên cần
tổ chức cho các em đọc kỹ đề toán, hiểu rõ một số từ khoá quan trọng như


"thêm, và, tất cả, ... " hoặc "bớt, bay đi, ăn mất, cịn lại ..." (có thể kết hợp
quan sát tranh vẽ để hỗ trợ). Để học sinh dễ hiểu đề bài, giáo viên cần gạch
chân các từ ngữ chính trong đề bài. Một số giáo viên còn gạch chân quá
nhiều các từ ngữ, hoặc gạch chân các từ chưa sát với nội dung cần tóm tắt.
Khi gạch chân nên dùng phấn màu khác cho dễ nhìn.
Trong giai đoạn đầu, giáo viên nên giúp học sinh tóm tắt đề tốn bằng
cách đàm thoại "Bài tốn cho gì? Hỏi gì?" và dựa vào câu trả lời của học
sinh để viết tóm tắt, sau đó cho học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại đề toán.
Đây là cách rất tốt để giúp học sinh ngầm phân tích đề tốn.
Nếu học sinh gặp khó khăn trong khi đọc đề tốn thì giáo viên nên cho
các em nhìn tranh và trả lời câu hỏi.
Ví dụ : Bài 3 trang 118, giáo viên có thể hỏi:
- Em thấy dưới ao có mấy con vịt? (Dưới ao có 5 con vịt)
- Trên bờ có mấy con vịt? (Trên bờ có 4 con vịt)
- Đàn vịt có tất cả mấy con? (Có tất cả 9 con)
Trong trường hợp khơng có tranh ở sách giáo khoa thì giáo viên có thể
gắn mẫu vật (gà, vịt, ...) lên bảng từ để thay cho tranh; hoặc dùng tóm tắt
bằng lời hoặc sơ đồ đoạn thẳng để hỗ trợ học sinh đọc đề tốn.
Thơng thường có 3 cách tóm tắt đề tốn:
- Tóm tắt bằng lời:
Ví dụ 1: Lan :

3 quyển

Vy :


2 quyển

Cả hai bạn có: ... quyển?
- Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
Ví dụ 2: Bài 2 trang 123
A

5 cm

B

3 cm C

? cm
- Tóm tắt bằng sơ đồ mẫu vật:


Ví dụ 3:
Có :

Thêm :

Có tất cả :.....con thỏ?
Với các cách tóm tắt trên sẽ làm cho học sinh dễ hiểu và dễ sử dụng.
Với cách viết thẳng theo cột như:

14 quyển




26 quả

12 quyển

33 quả

... quyển?

... quả?

Kiểu tóm tắt như thế này khá gần gũi với cách đặt tính dọc nên có tác
dụng gợi ý cho học sinh lựa chọn phép tính giải.
Giai đoạn đầu nói chung bài tốn nào cũng nên tóm tắt rồi cho học sinh
dựa vào tóm tắt nêu đề toán. Cần lưu ý dạy giải toán là một q trình khơng
nên vội vàng u cầu các em phải đọc thơng thạo đề tốn, viết được các câu
lời giải, phép tính và đáp số để có một bài chuẩn mực ngay từ tuần 23, 24.
Chúng ta cần bình tĩnh rèn cho học sinh từng bước, miễn sao đến cuối năm
(tuần 33, 34, 35) các em đọc và giải được bài tốn là đạt u cầu.
2.2.3. Tìm đường lối giải bài tốn.
Sau khi giúp học sinh tìm hiểu đề toán để xác định rõ cái đã cho và cái
phải tìm.
Chẳng hạn: Nhà An có 5 con gà,mẹ mua thêm 4 con gà.Hỏi nhà An có
tất cả mấy con gà?
- Bài tốn cho gì? (Nhà An có 5 con gà)


- Cịn cho gì nữa? (Mẹ mua thêm 4 con gà)
- Bài tốn hỏi gì? (Nhà An có tất cả mấy con gà?)
Giáo viên nêu tiếp: "Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà em làm

tính gì? (tính cộng) Mấy cộng mấy? (5 + 4) ; 5 + 4 bằng mấy? (5 + 4 = 9);
hoặc: "Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà em tính thế nào? (5 + 4 = 9);
hoặc: "Nhà An có tất cả mấy con gà ?" (9) Em tính thế nào để được 9 ? (5 +
4 = 9).
Tới đây giáo viên gợi ý để học sinh nêu tiếp "9 này là 9 con gà", nên ta
viết "con gà" vào trong dấu ngoặc đơn: 5 + 4 = 9 (con gà).
Sau khi học sinh đã xác định được phép tính, nhiều khi việc hướng dẫn
học sinh đặt câu lời giải cịn khó hơn việc chọn phép tính và tính ra đáp số.
Với học sinh lớp Một, lần đầu tiên được làm quen với cách giải loại toán này
nên các em rất lúng túng.Có thể dùng một trong các cách sau:
Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (Hỏi) và cuối
(mấy con gà ?)để có câu lời giải:"Nhà An có tất cả:" hoặc thêm từ "là" để có
câu lời giải:Nhà An có tất cả là:
Cách 2: Đưa từ "con gà" ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ "Hỏi"
và thêm từ Số (ở đầu câu), là ở cuối câu để có: "Số con gà nhà An có tất cả
là:"
Cách 3: Dựa vào dịng cuối cùng của tóm tắt, coi đó là "từ khố" của
câu lời giải rồi thêm thắt chút ít.
Ví dụ: Từ dịng cuối của tóm tắt: "Có tất cả: ... con gà ?". Học sinh viết
câu lời giải: "Nhà An có tất cả:"
Cách 4: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: "Hỏi nhà An có tất cả mấy con
gà?" để học sinh trả lời miệng: "Nhà An có tất cả 9 con gà" rồi chèn phép
tính vào để có cả bước giải (gồm câu lời giải và phép tính):
Nhà An có tất cả:
5 + 4 = 9 (con gà)


Cách 5: Sau khi học sinh tính xong: 5 + 4 = 9 (con gà), giáo viên chỉ
vào 9 và hỏi: "9 con gà ở đây là số gà của nhà ai?" (là số gà nhà An có tất
cả). Từ câu trả lời của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải:

"Số gà nhà An có tất cả là" v.v...
Ở đây giáo viên cần tạo điều kiện cho các em tự nêu nhiều câu lời giải
khác nhau, sau đó bàn bạc để chọn câu thích hợp nhất. Không nên bắt buộc
học sinh nhất nhất phải viết theo một kiểu.
2.2.4. Trình bày bài giải
Có thể coi việc trình bày bài giải là trình bày một sản phẩm của tư duy.
Thực tế hiện nay các em học sinh lớp 1 trình bày bài giải cịn rất hạn chế, kể
cả học sinh khá giỏi. Cần rèn cho học sinh nề nếp và thói quen trình bày bài
giải một cách chính xác, khoa học, sạch đẹp dù trong giấy nháp, bảng lớp,
bảng con hay vở, giấy kiểm tra. Cần trình bày bài giải một bài tốn có lời
văn như sau:
Bài giải
Nhà An có tất cả là:
5 + 4 = 9 ( con gà )
Đáp số : 9 con gà
Nếu lời giải ghi: "Số gà nhà An là:" thì phép tính có thể ghi: “5 + 4 = 9
(con)”. (Lời giải đã có sẵn danh từ "gà").
Giáo viên cần hiểu rõ lý do tại sao từ "con gà" lại được đặt trong dấu
ngoặc đơn? Đúng ra thì 5 + 4 chỉ bằng 9 thôi (5 + 4 = 9) chứ 5 + 4 khơng thể
bằng 9 con gà được. Do đó, nếu viết:"5 + 4 = 9 con gà"là sai.Nói cách
khác,nếu vẫn muốn được kết quả là 9 con gà thì ta phải viết như sau mới
đúng: "5 con gà + 4 con gà = 9 con gà". Song cách viết phép tính với các
đơn vị đầy đủ như vậy khá phiền phức và dài dịng, gây khó khăn và tốn
nhiều thời gian đối với học sinh lớp 1.Ngoài ra học sinh cũng hay viết thiếu
và sai như sau:
5 con gà + 4 = 9 con gà


5 + 4 con gà = 9 con gà
5 con gà + 4 con gà = 9

Về mặt toán học thì ta phải dừng lại ở 9, nghĩa là chỉ được viết 5 + 4 = 9
thơi.
Song vì các đơn vị cũng đóng vai trị rất quan trọng trong các phép tính
giải nên vẫn phải tìm cách để đưa chúng vào phép tính. Do đó, ta mới ghi
thêm đơn vị "con gà" ở trong dấu ngoặc đơn để chú thích cho số 9 đó. Có
thể hiểu rằng chữ "con gà” viết trong dấu ngoặc đơn ở đây chỉ có một sự
ràng buộc về mặt ngữ nghĩa với số 9, chứ khơng có sự ràng buộc chặt chẽ về
tốn học với số 9. Như vậy cách viết 5 + 4 = 9 (con gà) là một cách viết phù
hợp.
2.2.5. Kiểm tra lại bài giải
Học sinh Tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp Một thường có thói quen khi
làm bài xong không hay xem, kiểm tra lại bài đã làm. Giáo viên cần giúp
học sinh xây dựng thói quen học tập này. Cần kiểm tra về lời giải, về phép
tính, về đáp số hoặc tìm cách giải hoặc câu trả lời khác.
2.3. Biện pháp khắc sâu loại “Bài tốn có lời văn"
Ngoài việc dạy cho học sinh hiểu và giải tốt "Bài tốn có lời văn" giáo
viên cần giúp các em hiểu chắc, hiểu sâu loại toán này. Ở mỗi bài, mỗi tiết
về "Giải tốn có lời văn" giáo viên cần phát huy tư duy, trí tuệ, phát huy tính
tích cực chủ động của học sinh bằng việc hướng cho học sinh tự tóm tắt đề
tốn, tự đặt đề tốn theo dữ kiện đã cho, tự đặt đề tốn theo tóm tắt cho
trước, giải tốn từ tóm tắt, nhìn tranh vẽ, sơ đồ viết tiếp nội dung đề toán
vào chỗ chấm (...), đặt câu hỏi cho bài tốn.
Ví dụ 1: Nhìn tranh vẽ, viết tiếp vào chỗ chấm để có bài tốn, rồi giải
bài tốn đó:
Bài tốn: Dưới ao có ... con vịt, có thêm ... con vịt nữa chạy xuống.
Hỏi ..........................................................................?
Ví dụ 2: Giải bài tốn theo tóm tắt sau:





:

7 hình trịn

Tơ màu

:

3 hình trịn

Khơng tơ màu : .......... hình trịn?
2.4. Một số phương pháp thường sử dụng trong dạy: "Giải bài tốn có
lời văn" ở lớp Một.
2.4.1. Phương pháp trực quan:
Khi dạy “Giải bài tốn có lời văn” cho học sinh lớp Một thường sử
dụng phương pháp trực quan giúp học sinh tìm hiểu đề bài, tóm tắt đề tốn
thơng qua việc sử dụng tranh ảnh, vật mẫu, sơ đồ … giúp học sinh dễ hiểu
đề bài hơn. Từ đó tìm ra đường lối giải một cách thuận lợi. Đặc biệt trong
sách giáo khoa Tốn Một có hai loại tranh vẽ giúp học sinh “Giải tốn có lời
văn” đó là: Một loại gợi ra phép cộng, một loại gợi ra phép trừ. Như vậy chỉ
cần nhìn vào tranh vẽ học sinh đã định ra được cách giải bài toán. Trong
những trường hợp này bắt buộc giáo viên phải sử dụng tranh vẽ và phương
pháp trực quan.
2.4.2. Phương pháp hỏi đáp (đàm thoại):
Sử dụng khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu, phân tích đề bài, tìm đường
lối giải, chữa bài làm của học sinh ...
2.4.3. Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề.
Với mục đích giúp các em khắc sâu những kiến thức về “Giải toán có lời
văn” trong q trình giảng dạy giáo viên nên áp dụng phương pháp dạy học này.

Ở mỗi dạng toán “thêm, bớt” giáo viên có thể biến tấu để có những bài
tốn có vấn đề. Chẳng hạn bài tốn “bớt” trở thành bài tốn tìm số hạng, bài
tốn “thêm” trở thành bài tốn tìm số trừ.
Giáo viên có thể tạo tình huống có vấn đề bằng cách cho sẵn lời giải,
học sinh tự đặt phép tính hoặc cho sẵn phép tính học sinh đặt câu lời giải.
Cho hình vẽ học sinh đặt lời bài toán và giải.


Với những tình huống khó có thể phối hợp với các phương pháp khác
để giúp học sinh thuận lợi cho việc làm bài như: Phương pháp thảo luận
nhóm là phương pháp phổ biến nhất ở các trường Tiểu học hiện nay.
2.5. Kết quả đạt được:
Sau thời gian đầu tư nghiên cứu và áp dụng những biện pháp dạy học như
trên, học sinh lớp tơi đã có chuyển biến đi lên về chất lượng giải bài tốn có lời
văn nói riêng và chất lượng mơn Tốn nói chung.
Kết quả đạt được:
Tổng số HS

Số HS giải tốt

Số HS giải được

Số HS còn hạn chế

21

9

11


0

Chất lượng giải bài Tốn có lời văn của học sinh ngày càng tốt hơn. Học
sinh hứng thú hơn với giờ học Toán.
2.6. Bài học kinh nghiệm:
- Mỗi giáo viên phải nắm vững nội dung chương trình, cấu trúc sách giáo
khoa về “Giải tốn có lời văn” ở lớp Một để xác định được trong mỗi tiết học
phải dạy cho học sinh cái gì, dạy như thế nào?
- Đối với học sinh tiểu học và đặc biệt là học sinh lớp Một, cần coi trọng sử
dụng trực quan trong giảng dạy nói chung và trong dạy “Giải tốn có lời văn”
nói riêng, tuy nhiên cũng khơng vì thế mà lạm dụng trực quan hoặc trực quan
một cách hình thức.
- Dạy “Giải tốn có lời văn” cho học sinh lớp Một khơng thể nóng vội mà
phải hết sức bình tĩnh, nhẹ nhàng, tỷ mỉ, nhưng cũng rất cương quyết để hình
thành cho các em một phơng pháp tư duy học tập đó là tư duy khoa học, tư duy
sáng tạo, tư duy lơ gic. Rèn cho các em đức tính chịu khó cẩn thận trong “Giải
tốn có lời văn”.
- Vận dụng các phương pháp giảng dạy phù hợp, linh hoạt phát huy tính
tích cực chủ động sáng tạo của học sinh.
3. phÇn kÕt luËn


3.1.Ý nghĩa của đề tài.
Qua thời gian nghiên cứu tuy khơng dài nhưng tơi thấy đã
tạo khơng khí chan hịa và u thích học giải tốn có lời văn ở
lớp Một. Mỗi giáo viên phải nắm vững nội dung chương trình,
cấu trúc sách giáo khoa về “Nâng cao giải tốn có lời văn ở lớp
1”. Để xác định được trong mỗi tiết học phải dạy cho học sinh
cái gì, dạy như thế nào? .
- Tơi thấy việc dạy giải tốn cho học sinh có vai trị rất quan trọng. Dạy giải

toán nhằm củng cố, khắc sâu kiến thức cho các mạch kiến thức khác. Đó là kiến
thức về số học, đại lượng, các yếu tố hình học…đồng thời sự tác động trở lại
giữa các phần kiến thức đối với giải tốn nhằm đặt hiệu quả cao, góp phần hồn
thiện chương trình mơn tốn. Mặt khác giải tốn làm cho học sinh tư duy tích
cực linh hoạt, trí tuệ phát triển. Giáo viên cần dẫn dắt học sinh tự tìm tịi cách
giải phát huy tích cực trong học tốn của học sinh. Mặc dù vậy việc giải tốn
cịn gặp khơng ít khó khăn. Do đó việc đổi mới phương pháp dạy giải tốn có lời
văn là vơ cùng cần thiết để đạt hiệu quả cao trong việc dạy giải toán, đáp ứng
mục tiêu giáo dục hiện nay. Chính vì thế người giáo viên cần học hỏi trao đổi
kinh nghiệm với đồng nghiệp, đổi mới phương pháp dạy học, nghiên cứu tài
liệu, sách giáo khoa… Bên cạnh đó giáo viên phải có lịng nhiệt tình, tinh thần
trách nhiệm của người thầy với nghề nghiệp sẽ mang lại kết quả cao trong giảng
dạy, là chiếc chìa khố vàng tri thức để mở ra cho các em cánh cửa khoa học vì
một ngày mai tươi sáng. Đó là vinh dự và trách nhiệm của người giáo viên.
Đối với học sinh lớp Một, làm tốt việc dạy “Giải tốn có lời văn cho học
sinh lớp 1” sẽ góp phần vơ cùng quan trọng để phát triển trí tuệ cho các em một
cách tổng hợp. Từ đó các em sẽ có một nền tảng vững chắc để học các môn học
khác và tiếp tục học lên các lớp trên .
Song bên cạnh đó, sáng kiến này còn một số hạn chế nhất định :
Các biện pháp trên mới chỉ áp dụng cho học sinh lớp 1 mà tôi đang chủ nhiệm.
3. 2. Kiến nghị, đề xuất:


- Đối với giáo viên thực sự coi trọng đầu tư quan tâm hơn nữa vào việc giảng
dạy đổi mới phương pháp dạy theo hướng tích cực hố hoạt động của người học
- thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng tham khảo tài liệu sách báo tập san..
- Đối với trường Tổ chức xây dựng tiết dạy điển hình, thao giảng chun đề về
Giải tốn có lời văn để đồng nghiệp có cơ hội chia sẻ những kinh nghiệm hay về
giải toán và PP dạy.
Những kết quả đạt được của sáng kiến mới chỉ là bước đầu. Bản thân tôi hi

vọng sẽ tiếp tục nghiên cứu để khắc phục những hạn chế và mở rộng phạm vi
ứng dụng của sáng kiến. Rất mong được sự trao đổi, góp ý của chun mơn,
đồng nghiệp và bạn bè để giúp tơi hồn thiện sáng kiến này.
Xin chân thành cảm ơn !
Lệ Thủy, ngày 11 tháng 5 năm 2017



×