Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số kinh nghiệm trong việc dạy bồi dưỡng học sinh giỏi môn văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.75 KB, 19 trang )

- Tên sáng kiến:
Một số kinh nghiệm trong việc dạy bồi dưỡng học sinh giỏi
Cha ơng ta thường nói “Văn học là nhân học”, nhà phê bình Hồi Thanh
cũng khẳng định: “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta khơng có, luyện
những tình cảm ta sẵn có”. Đúng vậy, khẳng định trên là khẳng định đúng đắn đối
với việc dạy và học mơn Ngữ văn, ngồi việc truyền đạt và tiếp thu kiến thức là
một phần cơ bản thì việc dạy Văn còn bồi dưỡng cho các em những giá trị của
cuộc sống muôn màu, hướng các em đến đỉnh cao của giá trị chân, thiện, mĩ. Ở lứa
tuổi THCS các em rất giàu xúc cảm và có trí tưởng tượng phong phú, qua tiếp xúc
với tác phẩm văn học các em sẽ cảm nhận được tâm trạng, các cung bậc tình cảm
cũng như suy nghĩ của nhân vật và cùng buồn vui, đau khổ, bế tắc hay hy
vọng...với nhân vật. Thế giới hình tượng nhân vật và tiếng lòng cùng tâm hồn của
người nghệ sĩ sẽ giúp các em mở rộng tâm hồn của mình với thế giới bên ngồi,
giúp học sinh có đời sống tinh thần phong phú, sáng tạo, yêu đời và tự tin hơn
trong cuộc sống. Việc phát hiện và bồi dưỡng kịp thời những học sinh có khả năng
cảm thụ văn chương là một việc làm đúng đắn có ý nghĩa xã hội to lớn vì nó khơng
chỉ giúp cổ vũ tinh thần, thái độ học tập của học sinh mà còn nâng cao ý thức tìm
tịi, đào sâu kiến thức nhằm nâng cao chun mơn nghiệp vụ của giáo viên. Bên
cạnh đó việc bồi dưỡng học sinh giỏi cịn góp phần nâng cao chất lượng dạy và học
của cơ sở giáo dục, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Vậy bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn được hiểu như thế nào cho
đúng? Theo từ điển tiếng Việt: “bồi dưỡng” hiểu theo nghĩa thơng thường là bổ
sung thêm những yếu tố cịn thiếu cịn yếu cho một sinh thể nào đó giúp sinh thể
khỏe mạnh và phát triển, “bồi dưỡng” trong học tập là “học và luyện tập cho biết,
cho quen”. Giáo trình "Phương pháp dạy học văn" của Đại học Quốc gia Hà Nội
có viết: "Bồi dưỡng học sinh giỏi văn hiểu theo nghĩa thông thường tức là giáo
viên - người hướng dẫn biết khơi dậy khả năng, năng lực cảm thụ văn học của học
sinh trên cơ sở vốn hiểu biết học sinh đã có và cao hơn nữa là cung cấp cho các
em những điểm mới, sâu hơn về văn học mà học sinh chưa có. Để từ đó các em
vận dụng vào việc làm văn hiệu quả". Theo đó, ta có thể khẳng định rằng việc bồi
dưỡng học sinh giỏi là một cấp độ truyền đạt kiến thức, kỹ năng cao nhằm giúp các


em có đủ năng lực hồn thành nhiệm vụ, yêu cầu học tập nào đó. Ở đây, được hiểu
cụ thể là có đủ khả năng vượt qua các kỳ thi học sinh giỏi và được cấp có thẩm
quyền cơng nhận.
a. Giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
Từ những năm học về trước công tác bồi dưỡng học sinh giỏi đã được quan
tâm và nhiều thầy cô giáo đã dành nhiều tâm huyết cho việc bồi dưỡng học sinh.
Công tác bồi dưỡng được thực hiện theo kế hoạch thời gian hướng dẫn của Phòng

1


Giáo dục và Đào tạo, sự chỉ đạo của nhà trường. Mỗi thầy cô khi được phân công
dạy lớp nào thì bồi dưỡng học sinh lớp đó, việc lựa chọn học sinh cũng tùy theo
nguyện vọng, sở thích mơn học của các em.
* Ưu điểm
+ Việc bồi dưỡng theo kế hoạch như vậy giúp Ban giám hiệu nhà trường
cũng như giáo viên theo dõi được tiến trình thực hiện nhiệm vụ một cách khoa học,
đảm bảo tiến độ.
+ Học sinh được lựa chọn bộ mơn u thích phù hợp với sở thích của mình,
phát huy được tinh thần dân chủ trong học tập và cạnh tranh lành mạnh giữa các
em.
* Nhược điểm
- Đối với môn Ngữ văn là một môn học đòi hỏi khả năng tư duy và năng khiếu
cảm nhận vì vậy khơng phải học sinh nào cũng có hứng thú với môn học này, so với
các môn học khác thì ở mơn Ngữ văn việc lựa chọn được những học sinh có năng
khiếu và lịng đam mê đã là khó nhưng việc bồi dưỡng các em cịn gặp nhiều khó
khăn hơn vì:
+ Những học sinh có năng khiếu thường khơng có niềm đam mê và hứng thú
với mơn học này các em luôn dành ưu tiên lựa chọn tham gia bồi dưỡng và thi học
sinh giỏi các môn khoa học tự nhiên.

+ Những học sinh có hứng thú với mơn học thì lại khơng có năng lực cảm thụ
tốt cũng như kỹ năng trình bày vấn đề, hoặc thậm chí có những học sinh khơng có khả
năng ở các môn học khác bất đắc dĩ lựa chọn con đường theo đuổi mơn Ngữ văn vì
các em chưa nhận thức đúng về yêu cầu cũng như điều kiện của môn học.
+ Ngay cả khi các em đã tham gia bồi dưỡng thì bản thân vẫn khơng tự tin vào
khả năng của mình, thậm chí có những học sinh đã theo đuổi môn học từ lớp dưới
nhưng sau một kỳ thi chưa có kết quả như mong muốn các em lại chán nản bỏ lửng
chạy theo môn học khác nhằm tìm kiếm thành tích cho cá nhân mình.
- Về phía nhà trường cũng gặp nhiều khó khăn trong việc lựa chọn, phân công
giáo viên tham gia bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi môn Ngữ văn.
+ Một số giáo viên mới vào nghề, chưa có kinh nghiệm bồi dưỡng, thậm chí
một số giáo viên tuy có kiến thức và phương pháp để thực hiện nhiệm vụ nâng cao
chất lượng đại trà tốt nhưng năng lực cảm thụ văn học còn hạn chế cũng như chưa tự
tin vào bản thân, e ngại khi được nhận nhiệm vụ.
+ Chưa có chương trình, tài liệu biên soạn riêng cho công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi. Việc tìm kiếm tài liệu chính thống thường gặp khó khăn.
+ Việc giao lưu học hỏi, trao đổi kinh nghiệm giữa các giáo viên tham gia bồi
dưỡng chưa được thực hiện thường xuyên.
Đây là những lí do khiến cho chất lượng học sinh giỏi môn Ngữ văn chưa thật
cao như đáng lẽ vốn có. Để từng bước nâng cao hiệu quả trong công tác bồi dưỡng

2


cần thực hiện những giải pháp phù hợp hơn với nhận thức của học sinh và tình hình
nhà trường .
b. Mơ tả giải pháp sau khi có sáng kiến
b.1. Tính mới:
Giúp giáo viên xác định, lựa chọn đúng học sinh có năng khiếu, có lịng đam
mê mơn học để thành lập đội tuyển.

Biết định hướng kiến thức trọng tâm, phù hợp với tình hình thực tế.
Học sinh được định hướng, tư vấn một cách cẩn thận, thấy được ưu điểm,
hạn chế của bản thân để từ đó quyết định theo đuổi môn học.
Việc rèn kỹ năng cảm nhận văn học cũng như cách lập luận, hành văn, diễn
đạt...cho học sinh một cách linh hoạt sáng tạo nhưng vẫn nhẹ nhàng, không gây áp
lực quá lớn cho các em, không theo kiểu “nhồi nhét”.
b.2. Cách thực hiện
* Nhóm giải pháp với giáo viên
Giải pháp 1: Tự bồi dưỡng chuyên môn.
Với một giáo viên tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi thì ngồi kiến thức và
tâm huyết thì kỹ năng của bản thân là quan trọng. Chỉ khi người giáo viên có các
kỹ năng cảm nhận văn học, kỹ năng hành văn, diễn đạt... thì mới có thể giúp học
sinh có được những kỹ năng ấy và thực hành một cách nhuần nhuyễn.
- Tự rèn luyện năng lực cảm thụ văn học: Bản thân tôi vốn là một giáo viên
thường xuyên được bồi dưỡng về kỹ năng cảm thụ văn học ngay từ khi là học sinh
THPT nên việc rèn luyện thêm khơng q khó khăn. Cách tự rèn luyện của tơi là:
thường xuyên nghiên cứu và phân tích các tác phẩm u thích trong chương trình
THCS đặc biệt là những tác phẩm mới được đưa vào chương trình SGK như bài
thơ “ Tiếng gà trưa” - Xuân Quỳnh, “Thuế máu” - Nguyễn Ái Quốc, “Ánh
trăng” - Nguyễn Duy, “Sang thu” - Hữu Thỉnh, “Nói với con” - Y Phương....bởi lẽ
những văn bản mới sẽ kích thích trí tuệ và suy nghĩ mới của người đọc, giúp rèn
luyện năng lực cảm thụ tốt nhất, khơng cần đi theo lối mịn trước đây, qua đó bản
thân tự đánh giá được khả năng của mình để định hướng cách tiếp cận tác phẩm
văn học ở những khía cạnh khác nhau, vừa giúp rèn luyện năng lực vừa có thêm
kiến thức phục vụ cơng tác giảng dạy bộ môn và bồi dưỡng học sinh giỏi.
- Rèn luyện kỹ năng trau dồi vốn từ: Đây là kỹ năng quan trọng mà bất kỳ
giáo viên Ngữ văn nào cũng cần phải có. Khi người giáo viên có vốn từ phong phú
việc dạy học sẽ có hiệu quả hơn. Với tôi, việc tự rèn luyện được thực hiện nhiều
hơn khi tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi. Để trình bày được vấn đề khúc triết rõ
ràng khơng chỉ địi hỏi người trình bày cần hiểu sâu vấn đề mà cịn cần đến một

kho ngơn ngữ phong phú để kết hợp với kỹ năng tổng hợp, phân tích, diễn đạt và
sắp xếp trình tự các vấn đề liên quan chặt chẽ. Bản thân tôi đã cố gắng trau dồi cho
mình những vốn từ cần thiết để có thể truyền tải đến học sinh kiến thức đầy đủ, dễ

3


hiểu nhất. Để có vốn từ tơi cố gắng đọc nhiều tài liệu đặc biệt là các bài giảng bình
văn học, các tác phẩm văn học nổi tiếng. Ngoài ra tơi cịn tập viết các bài bình
giảng văn học phục vụ cho công tác giảng dạy Ngữ văn trên lớp.
Giải pháp 2: Học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp
Từ xưa đến nay, kinh nghiệm là một trong những yếu tố giúp con người
thành công trong mọi lĩnh vực, những kinh nghiệm mỗi người đã trải qua và tích
lũy được là vô cùng quan trọng. Đặc biệt việc bồi dưỡng học sinh giỏi càng đòi hỏi
kho kinh nghiệm nhiều hơn bao giờ hết. Bản thân tơi hiểu được điều đó nhưng là
một giáo viên mới được tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường THCS việc tích
lũy kinh nghiệm chưa có là bao, vì vậy tơi đã tìm đến những đồng chí đã nhiều
năm tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi các cấp có uy tín đồng thời xin được dự giờ
các giờ thi giáo viên dạy giỏi cấp huyện…chính các đồng chí đã giúp đỡ và hướng
dẫn tơi cách lựa chọn học sinh có năng khiếu, xây dựng kế hoạch bồi dưỡng phù
hợp tạo điều kiện cho tôi được tiếp cận đề tài.
Giải pháp 3: Lựa chọn đội tuyển
Theo tơi, việc lựa chọn học sinh có năng khiếu khơng phải chỉ thực hiện khi
có kế hoạch hướng dẫn của nhà trường, mà giáo viên cần theo dõi, phát hiện các
em trong suốt quá trình các em học lớp dưới. Để phát hiện học sinh có năng khiếu
chuẩn bị tham gia đội tuyển học sinh giỏi Ngữ văn 8, tôi dựa vào “nguồn” học sinh
đã có thơng qua trao đổi với giáo viên dạy Ngữ văn 7, đồng thời theo dõi kết quả
học tập của các em trong suốt năm học lớp 7. Đầu năm học lớp 8, khi nhà trường
có kế hoạch thành lập đội tuyển tơi tiến hành khảo sát bằng một đề văn để xác định
được một lần nữa khả năng thực tế của học sinh. Việc thành lập đội tuyển thực hiện

qua ba bước: bước một giáo viên tiếp nhận những học sinh có đam mê và u thích
mơn Văn; bước hai giáo viên rà sốt lại những học sinh có năng khiếu chưa mạnh
dạn tham gia bồi dưỡng động viên các em tham gia đội tuyển; bước cuối cùng giáo
viên lập danh sách học sinh tham gia đội tuyển báo cáo nhà trường.
Giải pháp 4: Xây dựng kế hoạch
Việc xây dựng kế hoạch bồi dưỡng là khâu quan trọng giúp giáo viên bồi
dưỡng lựa chọn được nội dung trọng tâm trong chương trình của cấp học để định
hướng, bồi dưỡng học sinh. Năm học 2015-2016, lần đầu tiên được giao nhiệm vụ
bồi dưỡng đội tuyển Ngữ văn 8 tôi khá lúng túng trong việc xây dựng kế hoạch,
sau khi được sự giúp đỡ của đồng nghiệp có kinh nghiệm, bước sang năm học
2016-2017 tơi đã tự tin, thành thạo hơn trong việc xây dựng kế hoạch với đầy đủ
những nội dung trọng tâm của môn học để tiến hành bồi dưỡng. Kế hoạch bồi
dưỡng của tôi trong năm học vừa qua được xây dựng cụ thể như sau:
KẾ HOẠCH BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI
Năm học: 2016-2017, Môn: Ngữ văn 8

4


Ngày

Buổi Tiết

1
2
3
4
5
6
7

8
9
10
11
12
13
14

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22

23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40

Nội dung chuyên đề

Rèn kỹ năng diễn đạt và xây dựng đoạn văn
Rèn kỹ năng xây dựng bố cục văn bản
Ôn tập tiếng Việt
Ôn tập tiếng Việt (tiếp)
Ôn tập tiếng Việt (tiếp)
Ôn tập tiếng Việt (tiếp)
Ôn tập văn học dân gian
Ôn tập văn học trung đại
Ôn tập văn học hiện đại

Ôn tập văn học hiện đại (tiếp)
Ôn tập văn học nước ngoài
Văn tự sự
Văn miêu tả
Văn biểu cảm

5

Ghi chú


41
42
43
44
45
47
48
15
50
Văn nghị luận
51
53
54
56
57
58
16
59
Cảm nhận văn học

60
61
17
62
Văn bản thuyết minh
63
64
18
65
Văn bản thuyết minh
66
67
19
68
Ôn tập tổng hợp
69
70
20
71
Luyện đề tổng hợp
72
73
21
74
Luyện đề tổng hợp (tiếp)
75
Với kế hoạch như trên tôi thấy rằng các phần kiến thức và kỹ năng các lớp
6,7,8 học sinh đều được ôn luyện, củng cố. Căn cứ vào kế hoạch đã xây dựng tôi
dễ dàng hơn trong việc sưu tầm, tìm hiểu các tài liệu phục vụ cơng tác bồi dưỡng.
Đồng thời, với kế hoạch cụ thể rõ ràng như vậy Ban giám hiệu nhà trường sẽ chủ

động bố trí thời khóa biểu đảm bảo cho giáo viên đủ thời gian bồi dưỡng, ơn luyện.
* Nhóm giải pháp với học sinh.
Giải pháp 1: Củng cố niềm tin và đam mê.
Ở lứa tuổi học sinh THCS các em đã biết đam mê và xác định mục đích,
nhưng đó chỉ là sự bột phát, đơi khi chỉ vì một lần thực hiện khơng thành cơng các
em có thể đánh mất tự tin vào bản thân. Trước khi bồi dưỡng kiến thức cho học
sinh tôi thấy rằng cần phải củng cố niềm tin và kích thích niềm đam mê cho các

6


em. Nhiều học sinh vì học lớp chọn nên thấy các bạn đăng kí tham gia bồi dưỡng
cũng khơng muốn “thua bạn, kém bè” chọn liều mơn Văn vì nghĩ môn học này
không cần học thuộc, viết thế nào cũng có điểm. Nhiều em tuy rất thích học mơn
Văn nhưng lại không biết cách hành văn, không tự tin sẽ có kết quả như mong
muốn do năm trước thi trượt...Chính vì điều này, bản thân tơi muốn có được đội
tuyển đã phải động viên các em rất nhiều. Cụ thể năm học 2015-2016 khi được
giao bồi dưỡng môn Ngữ văn 8, nhiều học sinh không tự tin tham gia đội tuyển đã
có 4 em của đội tuyển năm trước lựa chọn theo mơn học khác, những em cịn lại có
5 em do không tự tin với môn khác nên đành chọn mơn Văn, chỉ có hai học sinh là
có năng khiếu và đam mê thực sự với môn học. Mặc dù vậy các em vẫn khơng tin
tưởng sẽ có giải vì năm trước thi trượt, năm nay lại thầy giáo mới không biết năng
lực thế nào...? Tôi đã củng cố niềm tin của học sinh với giáo viên bằng cách cùng
các em ngồi thi trực tiếp tại lớp một đề văn do chính các em tự sưu tầm, sau đó tơi
phơ tơ bài làm của mình đưa cho từng học sinh chấm và so sánh với chính đáp án
của các em sưu tầm đó. Khi đã khẳng định được năng lực của mình trước học sinh
tơi định hướng cho các em mục tiêu cụ thể: Khi tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi
các em có cơ hội tiếp cận những kiến thức và kỹ năng sâu rộng hơn của bộ mơn,
đặc biệt là kỹ năng diễn đạt nó sẽ phục vụ hữu ích cho các em trong giao tiếp và
cuộc sống thường nhật; Với năng lực của bản thân các em cố gắng đoạt giải, điều

này sẽ là nguồn động lực lớn cho các em bước tiếp chặng đường sau này, nếu
khơng có giải cũng là một bước đệm để các em chuẩn bị đầy đủ kiến thức và kỹ
năng cho kỳ thi chọn học sinh giỏi vào năm học lớp 9....Thêm nữa, tơi giải thích để
các em hiểu rằng đối với các em việc tiếp thu kiến thức không hề khó khăn, cịn kỹ
năng chỉ cần chăm chỉ rèn luyện sẽ có...Tóm lại, có rất nhiều cách để động viên
học sinh nhưng dù là cách nào thì người giáo viên vẫn phải được học sinh tin
tưởng về năng lực, có như vậy mọi lời động viên mới có giá trị với các em.
Giải pháp 2: Bồi dưỡng kiến thức.
Một học sinh khi đã tham gia đội tuyển bồi dưỡng thì yêu cầu đầu tiên các
em phải nắm chắc kiến thức mơn học, nói như thế khơng có nghĩa là kiến thức của
các em phải cao sâu hơn các bạn khác, chỉ cần các em nắm được kiến thức cơ bản
trọng tâm của bộ mơn thì đó chính là cái “gốc” để giáo viên bồi dưỡng kỹ năng,
kết hợp với đam mê, động lực... sẽ giúp các em giải quyết tốt vấn đề.
Việc bồi dưỡng kiến thức cho học sinh đội tuyển Ngữ văn 8 tôi thực hiện
theo chuyên đề, mỗi chuyên đề các em sẽ được củng cố, ôn tập lại kiến thức liên
quan trước khi được rèn kỹ năng. Ví dụ như khi bồi dưỡng chuyên đề “Các biện
pháp tu từ” tôi phải giúp học sinh củng cố lại kiến thức như sau:
* Các biện pháp tu từ lớp 6:
So sánh:

7


- Là đối chiếu sự vật sự việc này với sự vật sự việc khác có nét tương đồng
để làm tăng sức gợi hình gợi cảm cho sự diễn đạt.
- Có hai kiểu so sánh:
+ So sánh ngang bằng
+ So sánh không ngang bằng
VD: Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

 So sánh ngang bằng
Nhân hóa:
- Là gọi hoặc tả con vật, cây cối, đồ vật.. bằng những từ ngữ vốn được dùng để
gọi hoặc tả con người; làm cho thế giới loài vật, cây cối, đồ vật ,… trở nên gần gũi với
con người, biểu thị được những suy nghĩ, tình cảm của con người.
- Có ba kiểu nhân hóa thường gặp:
+ Dùng từ vốn gọi người để gọi vật
+ Dùng những từ vốn để chỉ hoạt động tính chất của người để chỉ hoạt động
tính chất của vật.
+ Trị chuyện, xưng hơ với vật như với người.
VD:
Núi cao chi lắm núi ơi
Núi che mặt trời chẳng thấy người thương
 Trò chuyện, xưng hô với vật như với người.
Ẩn dụ:
- Là gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật hiện tượng khác có nét
tương đồng với nó nhằm làm tăng sức gợi hình gợi cảm cho sự diễn đạt.
- Có bốn kiểu ẩn dụ thường găp: + Ẩn dụ hình thức.
+ Ẩn dụ cách thức.
+ Ẩn dụ phẩm chất.
+ Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác.
VD1: Người Cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm
 Ẩn dụ phẩm chất
VD1: Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng
 Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác
Hoán dụ:
- Là gọi tên sự vật, hiện tượng, khái niệm này bằng tên của một sự vật hiện
tượng, khái niệm khác có quan hệ gần gũi với nó nhằm tăng sức gọi hình gợi cảm

cho sự diễn đạt.
- Có bốn kiểu hốn dụ thường gặp:
+ Lấy một bộ phận để gọi cái toàn thể.
8


+ Lấy vật chứa đựng để gọi vật bị chứa đựng.
+ Lấy dấu hiệu của sự vật để gọi sự vật.
+ Lấy cái cụ thể để gọi cái trừu tượng.
VD: Ngày Huế đổ máu => chiến tranh (Lấy dấu hiệu của sự vật để gọi sự vật)
Với kiến thức lớp 7, lớp 8 tôi cũng thực hiện hướng dẫn học sinh ôn tập
củng cố như trên.
Giải pháp 3: Rèn kỹ năng
Kỹ năng là chìa khóa vạn năng giúp học sinh linh hoạt biến chuyển những
kiến thức đã được học thành của riêng mình và diễn đạt nó theo cách riêng mang
đậm dấu ấn cá nhân.Vì vậy, để đảm bảo chất lượng bộ môn cũng như khả năng
đoạt giải của đội tuyển học sinh giỏi giáo viên cần có phương pháp rèn kỹ năng
cho học sinh. Trong hai năm thực hiện nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi tôi
thường chú ý rèn cho học sinh ba kỹ năng chính đó là:
Kỹ năng tham khảo tài liệu: Đây là kỹ năng tự học hợp lí và hiệu quả nhất đối
với học sinh sau giờ lên lớp, thông qua các tài liệu tham khảo các em vừa tiếp nhận
được kiến thức vừa được rèn luyện kỹ năng đọc, nhận xét bài viết của người khác.
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách tổng hợp, chuyển hóa kiến thức trong các tài
liệu thành kiến thức của riêng mình, chứ khơng phải đọc thuộc lịng rồi chép lại một
cách máy móc. Muốn vậy, giáo viên phải có cách kiểm tra việc tham khảo tài liệu
của các em, tôi đã tiến hành giám sát như sau: Sau khi xong mỗi chuyên đề tôi giao
cho học sinh một đề văn yêu cầu các em thực hiện hai nhiệm vụ: thứ nhất tìm các tài
liệu tham khảo liên quan đến đề văn, tìm đọc các bài viết có nội dung tương tự, từ
những bài viết đã tham khảo chọn ra một bài mà em tâm đắc nhất, sau đó dựa theo
nội dung đó lập dàn ý cho bài văn mình định viết; nhiệm vụ thứ hai các em chỉ được

dựa theo dàn ý đã xây dựng và viết thành bài văn của riêng mình, khi nộp bài các em
nộp cả dàn ý cho giáo viên. Làm như vậy, các em sẽ tự nâng cao ý thức tự học, vừa
củng cố được kỹ năng lập dàn ý, không phụ thuộc câu chữ trong tài liệu mà vẫn
được trau dồi vốn từ.
Kỹ năng cảm thụ văn học: Một học sinh giỏi môn Ngữ văn phải biết cách
“giải mã tác phẩm văn học”, tức là phải biết đặt bản thân mình vào vị trí của tác
giả, nhân vật trong tác phẩm sử dụng tổng thể các giác quan để hiểu, cảm nhận…
Tuy nhiên, đây là vấn đề khó, nhiều học sinh do khơng có năng lực này mà việc
phân tích một tác phẩm thường gặp khó khăn. Để có hiệu quả giáo viên cần kiên trì
hướng dẫn học sinh bắt đầu từ những đoạn trích hay tác phẩm đơn giản. Với kỹ
năng này tôi cũng mất khá nhiều thời gian giúp học sinh nắm được cách để cảm
nhận một tác phẩm, xin đơn cử một ví dụ như sau:
Phân tích đoạn trích trong bài thơ “Nhớ rừng” của tác giả Thế Lữ:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

9


Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan ?
Đâu những chiều mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới ?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng ?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật ?
Hầu hết học sinh khi đọc đoạn trích này đều nói là hay, nhưng hay như thế
nào các em khơng thể giải thích và chỉ ra được cái “hay” của nó. Tơi đã giúp học
sinh chỉ ra cái “hay” và “đặc sắc” của đoạn trích như sau:
+ Về nghệ thuật: Tác giả sử dụng hàng loạt những câu hỏi tu từ với điệp từ

“đâu”, nghệ thuật miêu tả với những tính từ chọn lọc (đêm) “vàng” (trăng) “tan”,
“mới”, “xanh”,…và những động từ mạnh gợi hình ảnh, cảm xúc “say mồi” ,
“uống”, (nắng) “gội”, (chim) “ca”, “chiếm”….rồi những từ láy đặc sắc “từng
bừng”, “lênh láng”, “gay gắt”. Nghệ thuật nhân hóa với đại từ nhân xưng “ta”
của con hổ và hình ảnh mặt trời “chết”. Giọng điệu thở than, ai oán và nuối tiếc
pha nỗi niềm uất hận.
+ Về nội dung: Đoạn thơ là bốn “bức tranh tứ bình” (giáo viên đã giải thích
khái niệm này trong giờ học chính khóa) mỗi bức tranh chân dung tự họa khác nhau
của con hổ. Nó đã khái quát trọn vẹn về cái “thời oanh liệt” của chúa sơn lâm. Mỗi
bức tranh là nỗi niềm hoài niệm đầy tiếc nuối, uất hận. Mỗi bức một khung cảnh,
một gam màu, một dáng điệu của vị “chúa tể cả mn lồi”.
Bức thứ nhất: Chúa sơn lâm hiện ra như nhà thi sĩ của chốn lâm tuyền, với
cử chỉ “uống ánh trăng tan” đầy thơ mộng. Chữ “say mồi” có thể làm người đọc
lạc hướng, bởi tưởng rằng “mồi” đây hẳn là một con thú đáng thương nào đó.
Khơng phải. Con mồi chính là con trăng vàng in bóng trong lịng suối. Con mồi cái đẹp, cái đẹp - con mồi một thân phận kép, đó là cảm nhận độc đáo của con hổ thi sĩ này.
Bức thứ hai, chúa sơn lâm hiện ra như một minh vương trước giang sơn
hùng vĩ (Đâu những chiều mưa chuyển bốn phương ngàn - Ta lặng ngắm giang sơn
ta đổi mới?). Đêm trăng đã nhường chỗ cho trời chiều với cơn mưa dữ dội khắp
khu rừng. Giang sơn của con hổ đã chuyển từ gam màu vàng ánh trắng sang xám
bạc pha lẫn ánh xanh tươi. Vị quân vương của chốn rừng già phóng tầm mắt bao
qt tồn cảnh vương quốc đang thay da đổi thịt với tư thế trang nghiêm, ưu tư, và
đầy kiêu hãnh.
Bức tranh thứ ba rạng rỡ cái gam màu được tắm ánh nắng bình minh ấm áp.
Trong dáng điệu một vị chúa con hổ nghiễm nhiên ườn mình trong giấc ngủ ngọt

10


ngào khi mặt trời đã lên mà thụ hưởng cái lạc thú “cung đình rừng xanh” (Đâu
những bình minh cây xanh nắng gội - Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?

Bộ tứ bình khép lại bằng giọng điệu đầy giận dữ và bi ai nhưng thể hiện rõ
nét cái oai linh đối với quá khứ mà cũng là đối với hiện tại.(Đâu những chiều lênh
láng máu sau rừng - Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt- Để ta chiếm lấy riêng phần
bí mật?). Chúa sơn lâm hiện ra với một tư thế hoàn toàn khác: tư thế kiêu hùng của
một bạo chúa. Nền cảnh thuộc gam màu máu. Ba từ “lênh láng máu” gợi cảnh
tượng chiến trường sau một cuộc vật lộn tàn khốc. Ánh tà dương lúc mặt trời hấp
hối, dưới cái nhìn kiêu bạc của con mãnh thú chính là sắc máu lênh láng đỏ….
Trong quá trình thực hành tơi hướng dẫn học sinh tìm câu từ “đắt”, ý tứ
được thể hiện trong đoạn thơ giúp các em hiểu quá trình khám phá tác phẩm cần
thực hiện như thế nào. Ở đây tôi không định hướng học sinh một cơng thức cụ thể
nào vì năng lực cảm nhận văn chương của mỗi cá nhân là khác nhau phải tùy thuộc
vào sự nhạy cảm của các em mà đưa ra cách thức khám phá, nhận xét khác nhau.
Chung quy lại tôi chỉ định hướng các em phải tùy thuộc vào thể loại của tác phẩm
cần phân tích để xác định cách thức tìm hiểu phù hợp. Mỗi thể loại tôi hướng dẫn
học sinh thực hiện một vài lần để cách em hiểu. Ví dụ tác phẩm thơ học sinh cần
chú ý đến giọng điệu, hình ảnh, câu từ, cảm xúc của tác giả…., tác phẩm truyện
cần chú ý đến chi tiết, ngôn ngữ đối thoại hay độc thoại…của nhân vật. Việc rèn
luyện học sinh không phải một sớm một chiều đã thành công mà giáo viên phải
kiên trì thực hiện trong tất cả các tiết học đồng thời kết hợp với việc hướng dẫn học
sinh tham khảo tài liệu và vận dụng tiềm năng sẵn có của chính bản thân các em
mới có thể thành cơng.
Rèn kỹ năng làm bài: Là một kỹ năng đòi hỏi các em phải tổng hợp được
nhiều kỹ năng khác như: xác định yêu cầu của đề, lập dàn ý, cách trình bày, diễn
đạt lô gic mạch lạc, cách dùng từ đặt câu….Ngồi ra các em cịn cần phải thành
thạo trong việc phân phối thời gian làm bài phù hợp với lượng kiến thức được yêu
cầu. Tôi tham khảo một số tỉnh bạn về cấu trúc đề thi:
Đề thi gồm 3 câu, thang điểm 20, gồm các nội dung sau
Câu 1. Tiếng Việt (5 điểm)
Nội dung: Phát hiện và phân tích giá trị của các biện pháp tu từ có trong
đoạn văn, đoạn thơ đã học trong chương trình học từ lớp 6 đến lớp 8.

Câu 2. (5 điểm). Viết một đoạn văn nghị luận (có giới hạn về số từ) về một
câu tục ngữ, ca dao hoặc câu nói của người nổi tiếng.
Câu 3. Nghị luận văn học 1 câu (10 điểm), tập trung vào các vấn đề sau:
Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ trong chương trình Ngữ văn THCS (tính
đến hết chương trình lớp 8)

11


Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xi trong chương trình Ngữ
văn lớp 8.
Nghị luận về một ý kiến bàn về một vấn đề của văn học trong chương trình
Ngữ văn lớp 8.
Căn cứ vào nội dung trên tôi hướng dẫn học sinh thực hiện từng câu :
Câu 1 : Với câu này tôi hướng dẫn học sinh thực hiện trên một đề bài cụ
thể : Hãy tìm và phân tích giá trị của các biện pháp nghệ thuật được sử dụng
trong khổ thơ sau:
“Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”.
(Quê hương - Tế Hanh)
Bước 1 : Xác định yêu cầu của đề bài bằng cách gạch chân các từ quan
trong: tìm, phân tích giá trị, các biện pháp nghệ thuật.
Bước 2 : Tìm biện pháp nghê thuật :
+ Nghệ thuật so sánh: thuyền – tuấn mã, cánh buồm – hồn làng độc đáo,
thổi thêm linh hồn cho sự vật.
+ Nghệ thuật nhân hóa: buồm – rướn thân trắng : ý nghĩa tâm linh, sự mạnh
mẽ của của cánh buồm và chính con người lao động
+ Từ ngữ gợi hình ảnh cảm xúc : hăng, phăng, vượt,. Sự mạnh mẽ, hứng

khởi của đoàn thuyền ra khơi.
Bước 3 : Hồn thiện bài làm.
Ở bước này tơi hướng dẫn học sinh sử dụng vốn ngôn ngữ của mình cùng
với kỹ năng sắp xếp ý viết thành đoạn văn mạch lạc, lô gic. Để học sinh dễ hiểu tôi
đã trực tiếp viết một đoạn như sau :
Mỗi bài thơ là một nốt nhạc tấu lên rộn ràng cùng hòa ca với dàn nhạc văn
học của dân tộc. “Quê hương”của Tế Hanh là một nốt nhạc như thế, nó âm vang
mãi hình ảnh người lao động miền biển yêu đời, khỏe mạnh vượt sóng gió để gieo
hạt cho cuộc sống thêm ý nghĩa. Dù chỉ là một đoạn trích ngắn nhưng ở đó tác giả
bộc lộ đầy đủ tài năng văn chương và lịng u q hương của mình.
Ở đoạn thơ này tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh hùng tráng, bất
ngờ ví “chiếc thuyền” như“con tuấn mã” và cánh buồm như “mảnh hồn làng” để
tạo nên hình ảnh độc đáo; sự vật như được thổi thêm linh hồn trở nên đẹp đẽ, sinh
động, gợi không khí ra khơi căng tràn năng lượng của những con thuyền đang lướt
sóng bon bon. Phép so sánh cũng gợi ra một vẻ đẹp bay bổng, mang ý nghĩa lớn
lao thiêng liêng, vừa thơ mộng. Cánh buồm còn được nhân hóa như một chàng trai
lực lưỡng đang “rướn” tấm thân vạm vỡ chống chọi với sóng gió, đó cũng chính là
12


hình ảnh những người lao động miền biển, vạm vỡ, khỏe khoắn, khơng ngại vất vả
khó khăn trong hành trình chinh phục thiên nhiên là mẹ biển. Một loạt từ: Hăng,
phăng, vượt... được diễn tả đầy ấn tượng khí thế hăng hái, dũng mãnh của con
thuyền ra khơi.
Việc kết hợp linh hoạt và độc đáo các biện pháp so sánh, nhân hóa, sử dụng
các động từ mạnh đã gợi ra trước mắt người đọc một phong cảch thiên nhiên tươi
sáng, vừa là bức tranh lao động đầy hứng khởi và dạt dào sức sống của người dân
làng chài.
Câu 2:
Với kiểu đề nghị luận này học sinh thường lúng túng vì vấn đề nêu ra

trừu tượng, đôi khi các em nhầm lẫn, để nghị luận được các em phải nắm và hiểu
vấn đề sâu sắc. Trong khi đó các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống xã hội là vô
vàn nhiều có những vấn đề các em ít quan tâm và xa lạ với lứa tuổi. Để giúp học
sinh tự tin hơn tôi đã cùng các em nghiên cứu một mơ típ cơ bản chung nhất cho
kiểu đề này như sau: Khi viết bài cần chú ý trả lời được những câu hỏi: Vấn đề nêu
ra là gì? Em hiểu vấn đề đó như thế nào? Những biểu hiện cụ thể của vấn đề được
nêu trong xã hội xưa và nay, mặt tích cực và hạn chế của vấn đề? Vấn đề có được
xã hội quan tâm khơng? Biện pháp phát triển hoặc hạn chế đối với vấn đề đó của
xã hội. Liên hệ bản thân em. Một điều quan trọng nữa là giáo viên phải tổng hợp
được một số vấn đề cơ bản quan trọng đang được quan tâm như: sự yêu thương,
chia sẻ đồng cảm giữa con người với con người; Ý thức bảo vệ mơi trường, lịng
u nước, tình cảm gia đình....có như vậy mới giúp học sinh chủ động tìm hiểu và
nghiên cứu tài liệu bổ sung kiến thức về vấn đề.
Câu 3:
Với nội dung được định hướng sẵn như trên nhiều học sinh chọn cách học
thuộc một “sườn” nội dung có sẵn liên quan đến tác phẩm để khi “trúng tủ” các em
chỉ việc mang ra sử dụng, cơ hội có giải rất cao. Tuy nhiên, qua theo dõi các đề thi
học sinh giỏi những năm gần đây, các đồng chí ra đề thi rất linh hoạt, sáng tạo
nhằm chọn đúng học sinh có năng khiếu vì vậy việc “học thuộc” là khơng thể thực
hiện. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm nội dung nghệ thuật chính của các tác
phẩm từ đó vận dụng các kỹ năng xây dựng dàn ý, sắp xếp ý, vận dụng vốn ngôn
ngữ của bản thân để triển khai vấn đề làm sao mỗi bài văn là một tác phẩm của
riêng mỗi học sinh. Nhưng nhằm giúp các em làm bài tốt tôi đã sưu tầm được một
số “công thức” có thể sử dụng cho những học sinh chưa thật tự tin vào khả năng
lập luận của mình. Để đảm bảo lô gich cho bài văn nghị luận các em có thể áp
dụng như sau với tất cả các đề văn:
* Mở bài: Phần mở bài là chìa khóa cho toàn bộ bài văn. Phần mở bài gây ấn tượng
đầu tiên cho người đọc về phong cách nghị luận, phong cách ngôn ngữ riêng của
người viết. Phần mở bài gồm có 3 phần, theo 3 cơng thức: gợi - đưa - báo, trong


13


đó: Gợi: gợi ý ra vấn đề cần làm; Sau khi “gợi” thì đưa ra vấn đề; Cuối cùng là Báo
- tức là phải thể hiện cho người viết biết mình sẽ làm gì.Trong đó, khó nhất là phần
gợi ý dẫn dắt vấn đề, có 3 cặp/ 6 lối để giải quyết như sau:
Cặp 1: Tương đồng/tương phản (đưa ra một vấn đề tương tự/hoặc trái ngược
để liên tưởng đến vấn đề cần giải quyết, sau đó mới tạo móc nối để “đưa” vấn đề
ra, cách này thường dùng khi cần chứng minh, giải thích, bình luận về câu nói, tục
ngữ, suy nghĩ).
Cặp 2: Xuất xứ/đại ý (dựa vào thông tin xuất xứ/ đại ý để dưa vấn đề ra, cách
này thường dùng cho tác phẩm/tác giả nổi tiếng).
Cặp 3: Diễn dịch/ quy nạp
* Thân bài: Thân bài thực chất là một tập hợp các đoạn văn nhỏ nhằm giải quyết
một vấn đề chung. Để tìm ý cho phần thân bài thì có thể dùng các cơng thức sau
đây để đặt câu hỏi nhằm tìm ý càng nhiều và dồi dào càng tốt, sau đó có thể sử
dụng tồn bộ hoặc một phần ý tưởng để hình thành khung ý cho bài văn:
Đối với giải thích: Gì - Nào - Sao - Do - Ngun - Hậu
Trong đó: Gì (Cái gì, là gì?). Nào (thế nào?). Sao (tại sao?). Do (do đâu?)
Nguyên (nguyên nhân nào?). Hậu (hậu quả gì?)
Hãy tưởng tượng vấn đề của mình vào khung câu hỏi trên, tìm cách giải đáp
câu hỏi trên với vấn đề cần giải quyết thì các em sẽ có vơ số ý tưởng.
Đối với Chứng minh: Mặt - Không - Giai - Thời - Lứa
Mặt (các mặt của vấn đề?); Không (không gian xảy ra vấn đề : thành thị,
nông thôn, trong nước hay nước ngoài...); Giai (giai đoạn, vd giai đoạn trước 1945,
sau 1945..); Thời (thời gian - nghĩa hẹp hơn so với giai đoạn - có thể là, mùa thu
mùa đông, mùa mưa mùa nắng, buổi sáng buổi chiều..); Lứa (lứa tuổi: thiếu niên
hay người già, thanh niên hay thiếu nữ...).
Hình thành đoạn văn từ khung ý tưởng: Sau khi dựa vào cơng thức hình thành
được khung ý tưởng, điều tiếp theo là từ từng ý tưởng đó ta triển khai ra các đoạn

văn hoàn chỉnh. Cách triển khai đoạn văn dùng công thức: Thế nào? Tại sao? Cảm
xúc, cảm giác, cảm tưởng của bản thân?. Như vậy các em sẽ có nhiều đoạn văn,
các đoạn văn này hợp lại là thân bài.
* Kết bài: Có cơng thức Tóm - Rút - Phấn: Tóm (tóm tắt vấn đề); Rút (rút ra kết
luận gì?); Phấn (hướng phấn đấu, suy nghĩ riêng của bản thân).
Với cách hướng dẫn như trên học sinh của đội tuyển Ngữ văn 8 do tôi bồi
dưỡng đã thực hành viết tương đối nhuần nhuyễn các đề văn nghị luận vốn là nỗi
lo lắng lớn nhất của các em khi bước vào kỳ thi. Đó cũng là một cách củng cố cho
các em không chỉ kỹ năng mà còn cả sự tự tin khi làm bài thi.
Giải pháp 4: Rèn thói quen

14


Thói quen là một phản xạ có điều kiện, nó giúp cho các em tránh được những
sai sót khơng đáng có trong khi làm bài. Có được một số thói quen sau sẽ giúp các em
có được bài văn hay về nội dung, đảm bảo hình thức cân đối, phù hợp:
Thói quen lập dàn ý: Thực tế đại đa số học sinh khi viết bài đều “ngại” lập
dàn ý vì nó làm mất thời gian, và nhiều em cho rằng lập dàn ý sẽ làm mất cảm xúc
làm bài. Nhưng chính điều này đã khiến bài văn của các em không đủ ý, không
được mạch lạc và lôgic về nội dung. Trong q trình tham gia bồi dưỡng tơi đã
giúp học sinh hiểu được việc lập dàn ý chính là công việc quan trọng đầu tiên các
em phải làm để xác định và “lưu lại” những nội dung cơ bản các em sẽ trình bày
trong bài văn, việc lập dàn ý còn giúp các em dễ dàng sắp xếp ý phù hợp với yêu
cầu của đề....Tuy nhiên, đó chỉ là về mặt lí thuyết, việc thiết thực nhất để rèn thói
quen này cho học sinh là mỗi lần thực hành giáo viên phải kiểm tra được việc các
em có lập dàn ý hay không bằng cách khi nộp bài viết các em nộp cả dàn ý của đề
văn đó. Với cách này các em khơng thể “trốn” được thói quen lập dàn ý.
Đọc lại bài: Hầu hết học sinh bao gồm cả học sinh tham gia bồi dưỡng học
sinh giỏi sau khi làm bài xong khơng có thói quen đọc lại bài viết của mình để phát

hiện lỗi và sửa lỗi. Để giúp các em có thói quen đọc lại bài của mình sau khi viết
tơi thường u cầu học sinh tìm và sửa lỗi trong bài văn của chính các em (lỗi dùng
từ, lỗi diễn đạt, lỗi trình bày...). Nhiều lần thực hiện việc tự sửa lỗi như vậy các em
sẽ tự hình thành thói quen đọc bài và sửa lỗi cũng đồng nghĩa với thói quen phân
phối thời gian hợp lí nhất cho việc làm bài.
B. Về khả năng áp dụng sáng kiến
Qua quá trình giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi, tôi nhận thấy yếu tố
quan trọng nhất để nâng cao chất lượng học sinh đó là phương pháp giảng dạy của
giáo viên, đồng thời vấn đề xác định nội dung và khâu tìm hiểu học sinh cũng đóng
vai trị then chốt. Hơn nữa, một vấn đề đặc biệt quan trọng là giáo viên phải thiết
kế được bài dạy để rèn luyện được kỹ năng thực hành cho học sinh một cách hợp lí
và khoa học. Có vậy mới phát huy được tính tích cực, năng lực tự học, tự nghiên
cứu của học sinh.
Sáng kiến đã được ứng dụng hiệu quả trong giảng dạy lớp 8 ở trường THCS
Đạo Đức ở năm học 2016- 2017. Hơn nữa sáng kiến là tư liệu tự học, tự nâng cao
kiến thức và năng lực chuyên môn cho giáo viên.
- Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải pháp
trong đơn theo ý kiến của tác giả với các nội dung sau:
+ So sánh lợi ích kinh tế, xã hội thu được khi áp dụng giải pháp trong đơn so
với trường hợp không áp dụng giải pháp.

15


Với kinh nghiệm biện pháp dạy, nội dung kiến thức như đã trình bày ở trên.
Tơi đã tạo hứng thú học tập cho học sinh. Trong các giờ thực hành học sinh tự giác
tìm tịi kiến thức được thể hiện qua các thao tác thực hành viết dưới sự hướng dẫn
của giáo viên. Các tiết thực hành viết trở nên sôi nổi tránh được sự nhàm chán, học
sinh hứng thú tích cực hơn trong học tập, u thích mơn học. Đại bộ phận học sinh
trong từng giai đoạn đã có những kỹ năng cơ bản về cách viết bài trong chương

trình.
Từ chỗ, học sinh nắm vững các nội dung kiến thực hành như : xác định yêu
cầu đề bài, thể loại, xác định phạm vi kiến thức, khả năng vận dụng vào bài viết để
từ đó các em hình thành các đoạn văn đúng ý, giàu cảm xúc và làm nổi bật chủ đề.
Học sinh đã biết vận dụng kiến thức vào hình thành nên thái độ tốt, cách cư
xử đúng mực trong giờ học, môn học, thể hiện thái độ hành động đóng góp ý kiến
với những cá nhân chưa chăm học cịn quậy phá. Có ý thức, biết yêu quý bộ môn.
+ Mang lại hiệu quả kinh tế: Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo
trong nhà trường.
+ Mang lại lợi ích xã hội:
- Lợi ích với cán bộ quản lí: Yên tâm về chất lượng giáo dục mũi nhọn của
nhà trường, nâng cao chất lượng giáo dục chung.
- Lợi ích với học sinh: các em có kĩ năng tìm tịi, khám phá kiến thức qua
nhiều kênh thơng tin chính thống, giúp học sinh hứng thú học tập. Rèn luyện ý
thức tự giác trong học tập, biết liên hệ những điều đã học vào thực tế cuộc sống.
- Lợi ích với phụ huynh: Tin tưởng vào chất lượng đội ngũ giáo viên và nhà
trường, nhận thấy rõ bước tiến bộ của con em mình trong quá trình học tập. Phụ
huynh cũng nâng cao được hiểu biết qua phần liên hệ thực tế khi học sinh về trao đổi
lại với cha mẹ về những thông tin đã tiếp thu được qua quá trình học tập.
Kết quả kiểm tra kỹ năng thực hành đã có sự chuyển biến mạnh mẽ so với
ban đầu. Cụ thể:

-Thống kê kết quả điểm kiểm tra khảo sát cấp trường năm học 2016 2017 như sau:
Kết
Bài kiểm tra
Bài kiểm tra 45
Kiểm tra 120
Kiểm tra 120
quả
15 phút

phút
phút (lần 1)
phút (lần 2)
Giỏi

8/10hs (80,0%)

9/10hs (90,0%)

16

8/10hs (80,0%)

10/10hs (100%)


Khá 2/10hs (20,0 %)

1/10hs (10,0%)

2/10hs (20,0 %)

0/10hs (0%)

Kết quả rèn luyện các kĩ năng phân tích đề, cảm thụ văn học.

Các kĩ năng rèn luyện

Bài kiểm tra: 60 phút


Bài kiểm tra: 120phút

Số bài đạt

Tỉ lệ (%)

Số bài đạt

Tỉ lệ (%)

Xác định đúng yêu cầu của 8/10 bài
đề bài
Xử lý dữ liệu đề bài, đối 9/10 bài
tượng, nội dung
Tìm ý, lập dàn bài chi tiết
8/10 bài

80,0%

9/10 bài

90,0%

90,0%

10/10 bài

100%

80,0%


9/10 bài

90,0%

Viết đoạn văn

10/10 bài

100%

10/10 bài

100%

Liên kết các đoạn văn

9/10 bài

90,0%

9/10 bài

90,0%

Thông qua kết quả của các bài kiểm tra. Tôi đã rút ra những nhận xét sau:
* Những ưu điểm mà các em đã đạt được:
Nhìn chung, các em đã xác định đúng được yêu cầu của bài làm. Biết vận
dụng các kỹ năng trong quá trình làm bài. Xử lý đề bài, xác định trọng tâm và lập
được dàn bài chi tiết cụ thể. Xây dựng đoạn văn linh hoạt theo các cách trình bày

như; song hành, quy nạp, diễn dịch…Vận dụng thao tác dấu hiệu nhận biết đoạn
văn, viết đoạn văn và biết cách liên kết đoạn. Hơn thế, học sinh đã biết đánh giá
nhìn nhận vấn đề một cách thiết thực, hiệu quả, khả năng cảm thụ văn học sâu sắc.
Tóm lại, đề tài đã nâng cao được chất lượng bài làm của học sinh một cách
rõ nét, học sinh không chỉ vận dụng các thao tác của bộ môn tốt mà biết cảm thụ và
hiểu rõ bản chất của vấn đề.
- Những thơng tin cần được bảo mật:
Khơng có thông tin cần bảo mật
d). Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Cơ sở vật chất nhà trường đáp ứng được yêu cầu bài học: Cần có trang thiết bị, cơ
sở vật chất, phòng học để thuận lợi cho việc áp dụng, thực hiện sáng kiến.
- Nguồn lực:

17


+ Học sinh ham học hỏi, say mê yêu thích bộ môn.
+ Giáo viên: Giáo viên phải biết sử dụng và kết hợp hiệu quả một số phương
pháp dạy học tích cực để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Giáo viên phải có kiến thức chun mơn vững vàng, nhiệt tình.
- Phương pháp: Nghiên cứu tài liệu, sách giáo khoa, sách tham khảo, mạng
Internet, từ thực tế giảng dạy của đơn vị, trao đổi với đồng nghiệp để phát huy sáng
kiến. Nghiên cứu kĩ đối tượng học sinh để áp dụng sáng kiến.
- Phương tiện: Sử dụng các sách tham khảo
- Thời gian: Cần có nhiều thời gian dành cho việc thực hiện chuyên đề.
đ) Về khả năng áp dụng của sáng kiến cho những đối tượng, cơ quan, tổ chức
nào hoặc những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có):
STT Tên tổ chức/ cá
Địa chỉ
Phạm vi/ lĩnh vực áp dụng

nhân
sáng kiến
1

Tổ KHXH

Trường THCS Đạo Chuyên đề tổ môn Văn
Đức, Bình xun, Vĩnh
Phúc

2

Gv giảng dạy mơn Trường THCS Đạo Áp dụng vào giảng dạy
Ngữ văn
Đức, Bình xuyên, Vĩnh một số bài trong chương
Phúc
trình mơn Ngữ văn lớp 8

3

Học sinh học môn Trường THCS Đạo Thực hành vận dụng vào
Ngữ văn 8
Đức, Bình xuyên, Vĩnh một số bài trong chương
Phúc
trình Ngữ văn THCS.
Tôi làm đơn này trân trọng đề nghị Hội đồng sáng kiến xem xét và công
nhận sáng kiến. Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng
sự thật, không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác và hồn tồn chịu
trách nhiệm về thông tin đã nêu trong đơn.


Đạo Đức, Ngày tháng 01 năm 2018
Thủ trưởng đơn vị
(Kí tên, đóng dấu)

Đạo Đức, Ngày 25 tháng 01 năm 2018

Tác giả sáng kiến
(Kí ghi rõ họ tên)

Ngô Quý Dương

18


19



×