Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.19 KB, 16 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span>PHẦN I : VĂN BẢN o A. VĂN BẢN NHẨT DỤNG : Câu 1 : Bài văn “Cổng trường mở ra” của tác giả Lí Lan muốn gởi gắm chúng ta điều gì ? -Trả lời : Như những dòng nhật kí tâm tình, nhỏ nhẹ và sâu lắng, bài văn giúp ta hiểu thêm tấm lòng thương yêu, tình cảm sâu nặng của người mẹ đối với con và vai trò to lớn của nhà trường đối với cuộc sống mỗi con người. Câu 2 : Bài văn “Mẹ Tôi” của Ét-môn-đô đơ A-mi-xi đọng lại trong em điều gì quan trọng ? - Trả lời : “Con hãy nhớ rằng, tình yêu thương, kính trọng cha mẹ là tình cảm thiêng liêng hơn cả. Thật đáng xấu hổ và nhục nhã cho kẻ nào chà đạp lên tình thương yêu đó” ( A-mi-xi ). Câu 3 : Viết một đoạn văn ngắn tóm tắt truyện “Cuộc chia tay của những con búp bê” của tác giả Khánh Hoài. Qua câu chuyện này, theo em, tác giả muốn gửi gắm đến mọi người điều gì ? - Trả lời : Vì cha mẹ chia tay nên Thành và Thủy cũng phải xa nhau. Trước lúc chia tay, hai anh em cũng phải chia nhau đồ chơi. Trong cuộc chia đồ chơi ấy Thành và Thủy đã khó giải quyết việc chia cặp búp bê ( Vệ Sĩ – Em Nhỏ ). Hai bạn đã dắt tay nhau đến lớp học để chia tay bạn bè và cô giáo lần cuối cùng. Trong buổi chia tay ấy, Thủy đã làm cho cô giáo xúc động là từ chối quà cô tặng ( cây viết vàng và cuốn sổ ) vì không được tiếp tục đi học.Lúc ra về, Thành cảm thấy bàng hoàng đau đớn vì cuộc đời bất hạnh của mình với em. Đến nhà, mọi việc đâu vào đấy và đó cũng là lúc xúc động và đau đớn nhất của cuộc chia tay : Thủy đã quyết định tặng lại cặp búp bê cho anh ( Thành ) trong nghẹn ngào. Qua câu chuyện muốn nhắn gởi đến mọi người : Tổ ấm gia đình là vô cùng quí giá và quan trọng. Mọi người hãy cố gắng bảo vệ và gìn giữ, không nên vì bất cứ lí do gì làm tổn hại đến tình cảm tự nhiên trong sáng ấy. B. CA DAO, DÂN CA : 1. Khái niệm : Ca dao, dân ca chỉ các thể loại trữ tình dân gian, kết hợp lời và nhạc, diễn tả đời sống nội tâm của con người. 2. Những câu hát về tình cảm gia đình : a. Bài 1 : Công cha như núi ngất trời Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông Núi cao biển rộng mênh mông Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi ! Nội dung : Nhắc nhở công lao to lớn của cha mẹ đối với con cái và bổn phận, trách nhiệm của con cái đối với công lao to lớn ấy. b. Bài 4 : Anh em nào phải người xa Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân Yêu nhau như thể tay chân Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy. Nội dung : Tiếng hát về tình cảm anh em thân thương, ruột thịt nhằm nhắc nhở anh em hòa thuận, nượng tựa lẫn nhau để cha mẹ được vui lòng. 3. Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người : a. Bài 1, SGK trang 37, 38. Nội dung : Ca ngợi những địa danh với những đặc sắc về hình thể, văn hóa, lịch sử. Đây là hình thức thử tài nhau, thể hiện sự lịch lãm, tế nhị. b. Bài 4 : Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát, Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát mênh mông. Thân em như chẽn lúa đòng đòng, Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai. Nội dung : Chàng trai ngợi ca cánh đồng trù phú, đầy sức sống và ngợi ca vẻ đẹp duyên dáng của cô gái, một cách bày tỏ tình cảm tế nhị, kín đáo. 4. Những câu hát than thân : a. Bài 2 : Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi..
<span class='text_page_counter'>(2)</span> Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe. Nội dung : Nỗi oan trái của người lao động không được lẽ công bằng soi tỏ. b. Bài 3 : Thân em như trái bần trôi Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu. Nội dung : Thân phận chìm nổi, lênh đênh vô định không được làm chủ bản thân của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. 5. Những câu hát châm biếm : a. Bài 1, SGK, trang 51 Nội dung : Chế giễu những kẻ nghiện ngập, lười biếng bằng hình thức nói ngược để giễu cợt, châm biếm. b. Bài 2, SGK, trang 51 Nội dung : Phê phán những kẻ hành nghề mê tín, dốt nát, lừa bịp, lợi dụng lòng tin của người khác để kiếm tiền. Đồng thời phê phán những kẻ mê tín mù quáng. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA CA DAO : - Ca dao trữ tình là một kiểu văn bản biểu cảm ; - Khác với tác phẩm của các cá nhân, ca dao trữ tình là những bài thơ, câu thơ có tính chất tập thể và truyền miệng ; - Một số thủ pháp nghệ thuật thường gặp trong ca dao trữ tình : ẩn dụ, so sánh, tượng trưng, … C. THƠ : I. Thơ Việt Nam : ( Trung đại và hiện đại ) STT 1. 2. 3. 4. 5 6. TÊN VĂN BẢN TÁC GIẢ THỂ THƠ NỘI DUNG CHÍNH NGHỆ THUẬT Sông núi nước Lí Thường Thất ngôn Bản Tuyên ngôn Độc lập đầu Giọng thơ dõng Nam Kiệt Tứ tuyệt tiên khẳng định chủ quyền về dạc, đanh thép lãnh thổ của đất nước và nêu cao ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền đó trước mọi kẻ thù xâm lược. Trần Quang Ngũ ngôn tứ Hào khí chiến thắng và khát Hình thức diễn đạt Phò giá về kinh Khải tuyệt vọng thái bình thịnh trị của cô đúc, dồn nén dân tộc ta ở thời đại nhà Trần. cảm xúc vào bên trong ý tưởng Bánh trôi nước Hồ Xuân Thất ngôn tứ Vẻ đẹp, phẩm chất trong Ngôn ngữ bình dị, Hương tuyệt trắng, son sắt của người phụ nhiều lớp nghĩa nứ Việt Nam ngày xưa vừa được trân trọng vừa cảm thương sâu sắc Qua Đèo Ngang Bà Huyện Thất ngôn Cảnh Đèo Ngang thoáng Phong cách thơ Thanh bát cú đãng mà heo hút thấp thoáng trang nhã Quan Đường luật có sự sống con người nhưng còn hoang sơ, đồng thời thể hiện nỗi nhớ nước thương nhà, nỗi buồn thầm lặng cô đơn của tác giả. Bạn đến chơi nhà Nguyễn Thất ngôn Ý nghĩa tình bạn thiêng Giọng thơ hóm Khuyến bát cú liêng, thắm thiết vượt lên trên hỉnh chứa đựng Đường luật cả vật chất. tình bạn đậm đà, ... Cảnh khuya, Hồ Chí Thất ngôn tứ Hai bài thơ miêu tả cảnh trăng Hai bài thơ có Rằm tháng giêng Minh tuyệt ở chiến khu Việt Bắc, thể hiện nhiều hình ảnh tình cảm với thiên nhiên, tâm thiên nhiên đẹp, có hồn nhạy cảm, lòng yêu nước màu sắc cổ điển.
<span class='text_page_counter'>(3)</span> 7. Tiếng gà trưa. Xuân Quỳnh. Ngũ ngôn. sâu nặng và phong thái ung dung, lạc quan của Bác Hồ. Tiếng gà trưa đã gọi về những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ và tình bà cháu. Tình cảm gia đình đã làm sâu sắc thêm tình quê hương đất nước. mà bình dị, tự nhiên. Thơ 5 tiếng có cách diễn đạt tình cảm tự nhiên và nhiều hình ảnh bình dị, chân thực.. MỘT SỐ TÁC PHẨM ĐỌC THÊM : ( Tham Khảo ) 1. Bài ca Côn Sơn ( Nguyễn Trãi ) 2. Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra ( Trần Nhân Tông ) 3. Sau phút chia li ( Đoàn Thị Điểm ) II. Thơ nước ngoài : ( Trung Quốc ) STT 1. 2. TÊN VĂN BẢN TÁC GIẢ Cảm nghĩ trong Lí Bạch đêm thanh tĩnh. THỂ THƠ NỘI DUNG CHÍNH NGHỆ THUẬT Ngũ ngôn tứ Tình quê hương của một Từ ngữ giản dị mà tuyệt người sống xa nhà trong đêm tinh luyện, cảm trăng thanh tĩnh. xúc nhẹ nhàng mà thấm thía Ngẫu nhiên viết Hạ Tri Thất ngôn tứ Tình yêu quê hương thắm Giọng thơ chân nhân buổi mới về Chương tuyệt thiết của một người sống xa thực mà sâu sắc, quê quê lâu ngày, trong khoảnh hóm hỉnh mà khắc vừa mới đặt chân trở về ngậm ngùi. quê cũ.. MỘT SỐ TÁC PHẨM ĐỌC THÊM : ( Tham Khảo ) 1. Bài ca nhà tranh bị gió thu phá ( Mao ốc vị thu phong sở phá ca ) ( Đỗ Phủ ) 2. Xa ngắm thác núi Lư ( Vọng Lư sơn bộc bố )( Lí Bạch ) D. TÙY BÚT : STT 1. TÊN VĂN BẢN TÁC GIẢ Một thứ quà của Thạch Lam lúa non : cốm. XUẤT XỨ Trích từ tập Hà Nội băm sáu phố phường. 2. Mùa xuân của tôi Vũ Bằng. Trích từ Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong tập Thương nhớ mười hai. NỘI DUNG CHÍNH “Cốm là thức quà riêng biệt của đất nước, là thức dâng của những cánh đồng lúa bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ” Cảnh sắc thiên nhiên, không khí mùa xuân ở Hà Nội và miền Bắc được cảm nhận, tái hiện trong nỗi nhớ thương da diết của một người xa quê. NGHỆ THUẬT Ngòi bút tinh tế, nhạy cảm và tấm lòng trân trọng, thể hiện được nét đẹp văn hóa. Bài tùy bút đã biểu lộ chân thực và cụ thể tình quê hương, đất nước, lòng yêu cuộc sống và tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, ngòi bút tài hoa của tác giả.. MỘT SỐ HÌNH THỨC ÔN TẬP KHÁC : 1.Xem vài đặc điểm thơ trung đại ( SGK/63 ) 2. Đặc điểm tùy bút ( SGK/161 ) - Tùy bút không có cốt truyện và có thể không có nhân vật ; - Tùy bút sử dụng nhiều phương thức biểu đạt nhưng biểu cảm là phương thức chủ yếu ; - Tùy bút có những yếu tố gần với tự sự nhưng chủ yếu thuộc loại trữ tình..
<span class='text_page_counter'>(4)</span> 3. So sánh tình huống thể hiện tình yêu quê hương và cách thể hiện tình cảm qua hai bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh và Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê. Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh. Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê - Tình cảm quê hương biểu hiện lúc ở xa quê - Tình cảm được biểu hiện lúc mới đặt chân về quê - Tình cảm biểu hiện trực tiếp - Tình cảm biểu hiện gián tiếp - Tình cảm biểu hiện nhẹ nhàng, sâu lắng - Tình cảm biểu hiện đượm màu sắc hóm hỉnh mà ngậm ngùi.. PHẦN II : TIẾNG VIỆT o. I. TỪ GHÉP : 1. Có những loại từ ghép nào ? Cho ví dụ. Trả lời : Có hai loại từ ghép - Từ ghép chính phụ có tiếng chính và tiếng phụ bổ sung nghĩa cho tiếng chính. Tiếng chính đứng trước, tiếng phụ dứng sau. ( ví dụ : lâu đời, nhà máy , cười nụ, … ) - Từ ghép đẳng lập có các tiếng bình đẳng về mặt ngữ pháp ( không phân ra tiếng chính, tiếng phụ ). ( ví dụ : suy nghĩ, chài lưới, cây cỏ, … ) 2. Nghĩa của từ ghép như thế nào ? ( Trình bày nghĩa của từ ghép ) Trả lời : - Từ ghép chính phụ có tính chất phân nghĩa. Nghĩa của từ ghép chính phụ hẹp hơn nghĩa của tiếng chính. - Từ ghép đẳng lập có tính chất hợp nghĩa. Nghĩa của từ ghép đẳng lập khái quát hơn nghĩa của các tiếng tạo nên nó. 3. Bài tập : 3.1 Điền thêm tiếng để tạo từ ghép chính phụ : bút ……; thước …. ….; làm … …; vui… … 3.2 Điền thêm tiếng để tạo từ ghép đẳng lập : ham… …; xinh……. ; học ……; tươi……… II. TỪ LÁY : 1. Vẽ sơ đồ các loại từ láy : Từ láy Từ láy toàn bộ : đo đỏ, đăm đăm, bần bật, …. Từ láy bộ phận : mếu máo, liêu xiêu, …. Láy âm : mếu máo, … Láy vần : liêu xiêu, … 2. Bài tập : ( SGK / 43 ) 2.1 Xác định từ láy trong đoạn văn cho sẵn. 2.2 Đặt câu với từ láy : nhỏ nhắn, nhỏ nhặt, nhỏ nhẻ, nhỏ nhen, nhỏ nhoi. - VD : Bàn tay nhỏ nhắn của em tôi nắn nót từng nét chữ rất dễ thương. 2.3 Phân biệt từ láy với từ ghép đẳng lập : máu mủ, tóc tai, khuôn khổ, …( từ ghép ) III. ĐẠI TỪ : 1. Thế nào là đại từ ? ( Đặc điểm của đại từ ) Trả lời : - Đại từ dùng để trỏ người, sự vật, hoạt động, tính chất, …được nói đến trong một ngữ cảnh nhất định của lời nói hoặc dùng để hỏi. - Đại từ có thể đảm nhiệm các vai trò ngữ pháp như chủ ngữ, vị ngữ trong câu hay phụ ngữ của danh từ, động từ, tính từ, … 2. Trình bày các loại đại từ : Trả lời : Đại từ dùng để trỏ : - Trỏ người, sự vật ( gọi là đại từ xưng hô ) : tôi, tao, chúng tôi, nó, họ,… - Trỏ số lượng : bấy, bấy nhiêu, … - Trỏ hoạt động, tính chất, sự việc : vậy, thế, … Đại từ để hỏi : - Hỏi về người, sự vật : ai, gì, .. - Hỏi về số lượng : bao nhiêu, mấy, … - Hỏi về hoạt động, tính chất, sự việc : sao, thế nào … 3. Bài tập : trang 56,57 IV. TỪ HÁN VIỆT : 1. Phân biệt từ ghép Hán Việt với từ ghép thuần Việt : Trả lời : - Cũng như từ ghép thuần Việt, từ ghép Hán Việt gồm từ ghép đẳng lập và từ ghép chính phụ.
<span class='text_page_counter'>(5)</span> - Trật tự các yếu tố trong từ ghép chính phụ Hán Việt : + Yếu tố chính đứng trước, yếu tố phụ đứng sau : VD : ái quốc, thủ môn, chiến thắng, … ( giống từ ghép chính phụ thuần Việt ) + Yếu tố phụ đứng trước, yếu tố chính đứng sau : VD : thiên thư, thạch mã, tái phạm, … 2. Cần chú ý sử dụng từ Hán Việt như thế nào ? Trả lời : - Sử dụng từ Hán Việt để tạo sắc thái biểu cảm trang trọng, thể hiện thái độ tôn kính ; tạo sắc thái tao nhã, tránh gây cảm giác thô tục, ghê sợ ; tạo sắc thái cổ, phù hợp với bầu không khí xã hội xa xưa. - Không nên lạm dụng từ Hán Việt : làm cho lời nói thiếu tự nhiên, thiếu trong sáng, không phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp. 3. Bài tập : ( SGK Tr70, 71, 83, 84 ) 3.1 Phân biệt nghĩa của các yếu tố Hán Việt đồng âm. 3.2 Phân biệt các loại từ ghép chính phụ ( tiếng chính đứng trước – sau ) 3.3 Tìm 5 từ ghép chính phụ có : - Yếu tố chính đứng trước :……………………………………………………………………... - Yếu tố phụ đứng trước : ……………………………………………………………………… 3.4 Chú ý các bài tập 1/Tr 83, 4/Tr 84. V. QUAN HỆ TỪ : 1. Thế nào là quan hệ từ ? Trả lời : Quan hệ từ dùng để biểu thị các ý nghĩa quan hệ như sở hữu, so sánh, nhân quả, … giữa các bộ phận của câu hay giữa câu với câu trong đoạn văn. 2. Các lỗi thường gặp về quan hệ từ là gì ? Trả lời : - Thiếu quan hệ từ ; - Dùng quan hệ từ không thích hợp về nghĩa ; - Thừa quan hệ từ ; - Dùng quan hệ từ mà không có tác dụng liên kết. 3. Bài tập : 3.1 Các bài tập Tr 98, 99 3.2 Các bài tập 1,2,3,4 Tr 107, 108 VI. TỪ ĐỒNG NGHĨA : 1. Thế nào là từ đồng nghĩa ? Trả lời : Từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau. Một từ nhiều nghĩa có thể thuộc vào nhiều nhóm từ đồng nghĩa khác nhau. 2. Có những loại từ đồng nghĩa nào ? Trả lời : Từ đồng nghĩa có hai loại : những từ đồng nghĩa hoàn toàn ( không phân biệt nhau về sắc thái nghĩa ) và những từ đồng nghĩa không hoàn toàn ( có sắc thái nghĩa khác nhau ). 3. Bài tập : trang 115,116, 117 VII. TỪ TRÁI NGHĨA : 1. Thế nào là từ trái nghĩa ? Trả lời : Từ trái nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược nhau. Một từ nhiều nghĩa có thể thuộc nhiều cặp từ trái nghĩa khác nhau. 2. Bài tập : Tr 129. VIII. TỪ ĐỒNG ÂM : 1. Thế nào là từ đồng âm ? Trả lời : Từ đồng âm là những từ giống nhau về âm thanh những nghĩa khác xa nhau, không liên quan gì với nhau. 2. Nhờ đâu phân biệt nghĩa của các từ đồng âm ? Trả lời : Trong giao tiếp phải chú ý đầy đủ đến ngữ cảnh để tránh hiểu sai nghĩa của từ hoặc dùng từ với nghĩa nước đôi do hiện tượng đồng âm. 3. Phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa : - Từ đồng âm : âm giống nhau, nghĩa khác xa nhau ( không có liên hệ với nhau về nghĩa ) Ví dụ : ( bức ) tranh, (cỏ ) tranh,… - Từ nhiều nghĩa : các từ có liên hệ với nghĩa gốc. Ví dụ : cổ ( cò ), cổ ( chai ), … 4. Bài tập : 1, 2, 3 Tr136 – Chú ý Bài tập 3. IX. THÀNH NGỮ : 1. Thế nào là thành ngữ ? Cho ví dụ. Trả lời : Thành ngữ là loại cụm từ có cấu tạo cố định, biểu thị một ý nghĩa hoàn chỉnh. Ví dụ : Lên thác xuống ghềnh, Bảy nổi ba chìm, Tắt lửa tối đèn, … 2. Thành ngữ được sử dụng như thế nào ? Trả lời : Thành ngữ có thể làm chủ ngữ, vị ngữ trong câu hay làm phụ ngữ trong cụm danh từ, cụm động từ,….
<span class='text_page_counter'>(6)</span> Thành ngữ ngắn gọn, hàm súc, có tính hình tượng, tính biểu cảm cao. 3. Bài tập : 3.1. Tìm thành ngữ và giải thích. ( BT1/145 ) a. Sơn hào hải vị, Nem công chả phượng : chỉ những đồ ăn, thức ăn quí hiếm b. - Khỏe như voi : sức mạnh ( rất khỏe ) - Tứ cố vô thân : không có ai họ hàng gần gũi c. Da mồi tóc sương : người già 3.2. Điền thêm từ để làm thành ngữ ( BT3/145 ) - Lời ăn tiếng nói, - Một nắng hai sương, - Ngày lành tháng tốt, - No cơm ấm cật ( áo ), - Bách chiến bách thắng,… 3.3 Sưu tầm thành ngữ và giải thích nghĩa của các thành ngữ sưu tầm. ( BT4/145 ) X. ĐIỆP NGỮ : 1. Thế nào là điệp ngữ ? Trả lời : Khi nói hoặc viết, người ta có thể dùng biện pháp lặp lại từ ngữ ( hoặc cả một câu ) để làm nổi bật ý, gây cảm xúc mạnh gọi là điệp ngữ. 2. Có các dạng điệp ngữ nào ? Trả lời : Điệp ngữ có nhiều dạng : điệp ngữ cách quãng, điệp ngữ nối tiếp, điệp ngữ chuyển tiếp (điệp ngữ vòng ) 3. Bài tập : 3.1. Tìm điệp ngữ và cho biết tác giả muốn nhấn mạnh điều gì ? ( BT1,SGK/153 ) a. Một dân tộc đã gan góc ( 2 lần ) Nhấn mạnh sự quyết tâm, bền bỉ đấu tranh của dân tộc ta Dân tộc đó ( 2 lần ) b. Đi cấy ( 2 lần ) Nỗi mong mỏi của người nông dân về thời tiết thuận hòa để làm ăn thuận lợi. Trông ( 9 lần ) 3.2. Tìm điệp ngữ và cho biết dạng điệp ngữ gì ? ( BT2, SGK/153 ) - Xa nhau : cách quãng - Một giấc mơ : điệp ngữ chuyển tiếp ( điệp ngữ vòng ) 3. 3 Viết đoạn văn có sử dụng điệp ngữ. ĐOẠN VĂN THAM KHẢO Trăng là người bạn muôn đời của thi sỹ. Với Hồ Chí Minh cũng vậy, trăng từ lâu đã trở thành người bạn tri âm, tri kỉ của Người. Mỗi đêm trăng Người lại gửi gắm tâm sự qua những vần thơ. Cũng bởi yêu trăng nên trăng trong thơ Bác rất đẹp. Trăng rằm tròn vằng vặc, trăng mùa xuân lung linh dát bạc tô điểm cho sức sống mùa xuân. XI. CHƠI CHỮ : 1. Thế nào là chơi chữ ? Cho ví dụ. Trả lời : Chơi chữ là lợi dụng đặc sắc về âm, về nghĩa của từ ngữ để tạo sắc thái dí dỏm, hài hước, … làm câu văn hấp dẫn và thú vị. Ví dụ : Bà già đi chợ cầu Đông Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng ? Thầy bói xem quẻ nói rằng : Lợi thì có lợi nhưng răng không còn. 2. Có những lối chơi chữ nào ? Trả lời : Các lối chơi chữ thường gặp là : Dùng từ ngữ đồng âm ; Dùng lối nói trại âm ( gần âm ); Dùng cách điệp âm ; Dùng từ ngữ trái nghĩa, đồng nghĩa, gần nghĩa. 3. Bài tập : 3.1 Xác định từ ngữ dùng để chơi chữ trong đoạn thơ : Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà, Rắn đầu biếng học chẳng ai tha. Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ, Nay thét mai gầm rát cổ cha. Ráo mép chỉ quen tuồng nói dối, Lằn lưng cam chịu dấu roi tra. Từ nay Trâu Lỗ chăm nghề học, Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia. ( Lê Quí Đôn ) Trả lời : Các từ dùng để chơi chữ : liu điu, rắn, hổ lửa, mai gầm, ráo, lằn, trâu lỗ, hổ mang ( đồng âm ) 3.2 Xác định cách chơi chữ - Trời mưa đất thịt trơn như mỡ, dò đến hàng nem chả muốn ăn thịt, mỡ, dò, nem, chả : các từ gần nghĩa - Bà đồ Nứa, đi võng đòn tre, đến khóm trúc, thở dài hi hóp. nứa, tre, trúc, hóp : các từ gần nghĩa.
<span class='text_page_counter'>(7)</span> 3.3. Sưu tầm một số cách chơi chữ : Ví dụ : Đi tu Phật bắt ăn chay Thịt chó ăn được thịt cầy thì không -. Chị hươu đi chợ Đồng Nai Bước qua Bến Nghé ngồi nhai thịt bò XII. CHUẨN MỰC SỬ DỤNG TỪ : ( Xem Bài tập SGK/166,167 ). PHẦN III : LÀM VĂN I. Cách làm bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học 1. Thế nào gọi là văn biểu cảm về tác phẩm văn học ? Văn biểu cảm về tác phẩm văn học còn gọi là văn phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học.Qua bài văn ta nói lên những cảm xúc, ý nghĩ của mình về cái hay ,cái đẹp của một tác phẩm văn học cụ thể, đã làm cho ta rung động, xúc động. Tác phẩm văn học mà ta nêu cảm nghĩ có thể là một bài ca dao, một bài thơ, một bài văn. Phải phân tích nội dung và nghệ thuật tác phẩm văn học có chọn lọc mới trình bày được cảm xúc, ý nghĩ của mình về tác phẩm đó. Không thể viết chung chung hời hợt. 2. Các bước làm bài văn phát biểu cảm nghĩvề tác phẩm văn học a. Chuẩn bị - Đọc bài văn, bài thơ …một vài lần, rút ra ấn tượng ban đầu. Đọc lần nữa để phát hiện ra giọng điệu, chủ đề, những tư tưởng tình cảm cao đẹp, ngôn ngữ nghệ thuật …mà tác giả đã diễn tả rất hay, gây cho mình nhiều ấn tượng. - Gạch chân hoặc đánh dấu các chi tiết nghệ thuật, các hình ảnh các câu thơ, câu văn hay nhất mà mình yêu thích nhất. - Làm dàn bài dựng đoạn - Nháp bài văn, đi từ mở bài đến kết bài, viết xong phần nào nên đọc lại phần ấy, sửa chữa rồi viết tiếp phần sau. Nháp bài văn xong, đọc lại, sửa chữa, bổ sung rồi mới chép vào vở hoặc viết vào tờ giấy thi. - Văn phát biểu cảm nghĩ thuộc nghị luận văn chương b. Bố cục một bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học - Phần mở bài : Có thể giới thiệu một vài nét về tác phẩm ; nêu lên ấn tượng sâu sắc nhất, khái quát nhất của mình khi đọc, khi xem tác phẩm ấy. Mở bài hay nhất là đạt được hai yêu cầu sau : tính khái quát và tính định hướng. - Phần thân bài : lần lượt nêu lên những tình cảm của riêng mình về những khía cạnh của tác phẩm. Không lan man dài dòng mà nên xoáy sâu vào các trọng tâm trọng điểm. Phải đi lần lượt, nhớ liên kết đoạn. - Phần kết bài : Nêu lên cảm nghĩ chung, có thể đánh giá và liên hệ. Tránh dài dòng, trùng lặp và đơn điệu, vô vị. c. Thao tác cơ bản : Phát biểu cảm nghĩ không thể nói chung chung mà phải rất cụ thể, phải chỉ ra được yêu thích, thú vị …ở chỗ nào, tại sao lại yêu thích thú vị ? Nghĩa là phải phân tích và trích dẫn. Vì vậy phân tích và trích dẫn là thao tác cơ bản nhất để phát biểu cảm nghĩ. Có lúc phải khen, chê chính là viết lời bình khen chê phải chính xác. Lúc nào viết được lời bình hay, sâu sắc thì bài phát biểu cảm nghĩ mới thực sự mang vẻ đẹp trí tuệ. Có lúc phải biết liên tưởng so sánh. Từ hiện tượng này mà nghĩ, mà nhớ đến hiện tượng văn học khác, tức là liên tưởng ; từ trái đào vườn mẹ mà so sánh với đào Sa Pa, từ câu thơ này mà so sánh với câu thơ khác, để rút ra cái hay riêng làm cho bài viết vừa rộng vừa sâu là so sánh Viết lời bình, liên tưởng, so sánh là thao tác nên có. Cái gì cũng cần có ở mức độ hợp lí. II. LUYỆN LÀM VĂN BIỂU CẢM VỀ TÁC PHẨM VĂN HỌC : BÀI 1 Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Sông núi nước Nam của Lí Thường Kiệt Lí Thường Kiệt là một vị tướng tài ba thời Lí, ông đồng thời là một nhà thơ nổi tiếng. Tương truyền bài Sông núi nước Nam được ông sáng tác vào khoảng cuối năm 1076 trong 1 trận chiến đấu ác liệt chống quân Tống xâm lược. Bài thơ vừa động viên tướng sĩ ta hăng hái giết giặc vừa đanh thép cảnh cáo làm lung lay ý chí của kẻ thù :.
<span class='text_page_counter'>(8)</span> Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư ( Phiên âm ). Sông núi nước Nam, vua Nam ở Vằng vặc sách trời chia xứ sở Giặc dữ cớ sao phạm đến đây Chúng mày nhất định phải tan vỡ. ( Theo lê Thước – Nam Trân dịch ). Cuối năm 1076 mấy chục vạn quân Tống do Quách Quỳ và Triệu Tiết cầm đầu sang cướp nước ta.Quân ta dưới sự chỉ huy của Lí Thường Kiệt đã chiến đấu dũng cảm, chặn chân chúng lại ở phòng tuyến bên sông Như Nguyệt.Truyền thuyết kể rằng một đêm nọ quân sĩ nghe văng vẳng trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát có tiếng ngâm bài thơ này. Điều đó ý nói thần linh và tổ tiên phù hộ cho quân ta. Bài thơ đã góp phần khích lệ binh sĩ quyết tâm đánh tan quân giặc, buộc chúng phải rút lui nhục nhã vào tháng 3 năm 1077. Câu thứ nhất nêu lên chân lí : Sông núi nước Nam vua Nam ở. Lẽ ra phải nói là dân Nam ở thì đúng hơn nhưng thời bấy giờ, vua đại diện cho quốc gia dân tộc. Chân lí ấy thật đơn sơ, hiển nhiên nhưng nhân dân ta phải gian khổ đấu tranh bao đời chống ngoại xâm mới đạt được.Tác giả xưng danh là nước Nam với chủ ý gạt bỏ thái độ khinh miệt coi nước ta là quận huyện tồn tại trong đầu óc lũ cướp nước bấy lâu nay. Đặt nước mình ngang hàng với Bắc quốc. Xưng vua Nam cũng là bác bỏ thái độ ngông nghênh của bọn vua chúa phương Bắc hay tự xưng là thiên tử coi thường vua các nước chư hầu và gọi họ là vương. Các từ nước Nam, vua Nam vang lên đầy kiêu hãnh thể hiện thái độ tự hào, tự tôn cùng tư thế hiên ngang làm chủ đất nước của dân tộc Việt. Câu thơ thứ 2 :Tiệt nhiên định phận tại thiên thư khẳng định chủ quyền của đất nước ta đã được ghi rõ trên sách trời. Sách trời đã chia cho vua Nam có riêng bờ cõi. Người xưa quan niệm rằng các vùng đất đai dưới mặt đất ứng với các vùng sao trên trời. Nước nào có vua nước đó. Điều đó là do trời định nên thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Câu thơ nhuốm màu sắc thần linh khiến cho chân lí nêu ở câu trên càng tăng thêm giá trị. Câu thơ thứ 3 : Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm là câu hỏi đối với binh tướng giặc. Chủ quyền độc lập của nước Nam không chỉ là chuyện của con người mà còn là chuyện rõ ràng, minh bạch trên sách trời, không thể chối cãi, ai cũng phải biết, phải tôn trọng. Vậy cớ sao quân giặc kia lại dám xâm phạm tới ? Câu hỏi thể hiện thái độ vừa bực tức, vừa khinh bỉ của tác giả. Tác giả khẳng định cho chân lí hiển nhiên đã nêu ở trên bằng nghệ thuật đối lập giữa cái phi nghĩa của lũ giặc dữ với cái chính nghĩa của nước Nam và sự phân chia minh bạch ở sách trời. Câu thơ thứ 4 : Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư, ý thơ vẫn tiếp tục thể hiện thái độ khinh bỉ quân giặc và thể hiện niềm tin sắt đá vào chiến thắng tất yếu của quân ta.Ở trên tác giả gọi quân xâm lược là giặc thì đến câu này ông đích danh như có chúng trước mặt : “chúng mày” Cách xưng hô không khác gì người trên với kẻ dưới hàm ý coi thường, đồng thời nghiêm khắc cảnh cáo chúng : nhất định phải tan vỡ.Y như là sự việc đã sắp đặt trước, chỉ chờ kết quả. Đó là chúng mày thua to, thất bại thảm hại. Ngoài ý cảnh cáo giặc câu thơ còn thể hiện niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh quân ta trên dưới đồng lòng và niềm tự hào cao. Bài thơ thần ra đời trong một hoàn cảnh cụ thể và nhằm vào một mục đích cụ thể. Cuộc đối đầu giữa quân ta và quân địch trước phòng tuyến sông Như Nguyệt đang ở thế gay go ác liệt, bài thơ ấy đã vang lên đúng lúc và được lan truyền nhanh chóng. Có thể tưởng tượng rằng lúc ấy quân ta như được hun đúc trong ánh lửa thiêng, máu sôi lên và khí thế giết giặc ngùn ngụt ngất trời. Tính chân lí của bài thơ có giá trị vĩnh hằng bởi nó khẳng định chủ quyền độc lập của nước Nam là bất khả xâm phạm. Tác dung to lớn, mạnh mẽ của bài thơ không chỉ bó hẹp trong hoàn cảnh lúc bấy giờ mà còn kéo dài vô tận. Chỉ bằng 4 câu thơ ngắn gọn, tác giả đã khẳng định một cách đanh thép chân lí độc lập tự do, đồng thời lên án tính chất phi nghĩa của hành động xâm lược cùng sự bại vong tất yếu của kẻ dám ngang ngược xâm phạm chân lí đó. Sông núi nước Nam của ra đời đã gần ngàn năm nhưng ý nghĩa to lớn sâu sắc của nó vẫn còn nguyên vẹn, xứng đáng là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiện của nước ta Bài 2 Phò giá về kinh của Trần Quang Khải ( bản dịch thơ của Trần Trọng Kim ) Trần Quang Khải ( 1241-1294 ) là con thứ 3 của vua Trần Thánh Tông, ông có công rất lớn trong 2 cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông ( 1284-1287).Ông không những là 1 võ tướng mà ông còn là một thi sĩ tài hoa. Bài Phò giá về kinh được ông sáng tác trong hoàn cảnh thượng tướng cùng đoàn tuỳ tùng đi đón vua cha Trần Thánh Tông và vua con Trần Nhân Tông về Thăng Long sau khi kinh đô được giải phóng. Bài thơ thể hiện hào khí chiến thắng ngút trời và khát vọng độc lập tự do mãnh liệt của dân tộc ta ở thời đại nhà Trần : Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm Tử bắt quân thù..
<span class='text_page_counter'>(9)</span> Thái bình nên gắng sức, Non nước ấy ngàn thu. Hai câu thơ đầu tác giả ghi lại hai chiến công vang dội của quân và dân Đại Việt vào xuân –hè năm 1285. Đây là những trận thuỷ chiến dữ dội nổ ra trên sông Hồng.Trận Hàm Tử diễn ra vào tháng 4, tướng Trần Nhật Duật chém được Toa Đô. Hai tháng sau, Trần Quang Khải đại thắng giặc Nguyên Mông tại Chương Dương. Hai cụm từ đoạt sáo ( cướp giáo ) và cầm Hồ ( bắt giặc ) được đặt ở đầu mỗi câu thơ giống như những nốt nhấn trong khúc ca đại thắng.Giọng thơ sảng khoái, hào hùng phản ánh khí thế bừng bừng của dân tộc ta thời ấy. Từ vua quan tướng sĩ đến dân chúng ai cũng hả hê, sung sướng tự hào. Nhịp thơ nhanh, gấp và các động từ biểu thị động tác mạnh mẽ dứt khoát ( đoạt, cầm ) thể hiện nhịp độ sôi động, quyết liệt của trận chiến. Tác giả không nói nhiều về những chiến công và cũng không tỏ ra say sưa với chiến thắng nhưng ta vẫn có thể cảm nhận được niềm phấn khởi, kiêu hãnh toát lên từ âm hưởng của bài thơ. Trần Quang Khải là nhà thơ đầu tiên đã đưa địa danh sông núi Đại Việt thân yêu vào thơ ca. Chương Dương và Hàm Tử đã in đậm vào lịch sử chống ngoại xâm, vào lịch sử văn chương như một dấu son chói lọi. Phải là người trong cuộc, tha thiết yêu non sông gấm vóc của nước mình, Trần Quang Khải mới viết được những câu thơ hào hùng như thế. Hai câu thơ sau : Thái bình nên gắng sức, Non nước ấy ngàn thu . Đây là lời vị thượng tướng động viên dân chúng hãy bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong hoà bình và tin tưởng sắt đá vào sự bền vững muôn đời của Tổ quốc. Vừa từ chiến trường trở về chưa kịp nghỉ ngơi đã lo ngay đến nhiệm vụ trước mắt cũng như kế sách lâu dài cho quốc gia, dân tộc chứng tỏ ông vừa là một chiến tướng vừa là một vị đại thần luôn đặt trách nhiệm với dân với nước lên hàng đầu. Ngôn ngữ bài thơ Phò giá về kinh rất giản dị nhưng ý tưởng chứa đựng bên trong thật lớn lao cho thấy tầm nhìn xa rộng và sáng suốt của Trần Quang Khải. Bài thơ ra đời cách đây đã 800 năm nhưng đến nay ý nghiã của nó vẫn còn nguyên vẹn. Bài học rút ra từ bài thơ là nếu chúng ta không chăm lo xây dựng đất nước hùng mạnh, dân trí mở mang thì làm sao chống lại được ý đồ xâm lược đồng hoá của các thế lực phản động nước ngoài đang rình rập nhòm ngó đất nước ta ? Cũng giống như bài Sông núi nước Nam, bài Phò giá về kinh cũng thể hiện lòng yêu nước theo kiểu mộc mạc tự nhiên nhưng mạnh mẽ, hào hùng. Hai bài thơ đều phản ánh bản lĩnh vững vàng, khí phách hiên ngang của dân tộc ta. Một bài nêu cao chủ quyền độc lập thiêng liêng, khẳng định nước Nam là của vua Nam, không kẻ nào được phép xâm phạm, nếu cố tình xâm phạm sẽ chuốc lấy thất bại. Một bài thể hiện khí thế hào hùng và bày tỏ khát vọng xây dựng, phát triển đất nước trong hoà bình với niềm tin đất nước sẽ bền vững nghìn thu. Phò giá về kinh là một kiệt tác trong văn học cổ của nước ta. Ý thơ hàm súc, cô đọng, ngôn ngữ giản di, gợi cảm, thể hiện niềm tự hào về sức mạnh chính nghĩa to lớn của dân tộc ta trong các cuộc chiến tranh giữ nước, chống xâm lược Nguyên Mông. Đồng thời nhắc nhở mỗi người Việt Nam phải biết nâng cao ý thức trách nhiệm công dân trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước thanh bình giàu đẹp và bền vững muôn đời. Bài 3 PBCN về bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương, chưa rõ lai lịch, sống ở nửa đầu thế kỉ 18, là người có học, có tài văn thơ nhưng cuộc đời riêng của bà có nhiều bi kịch. Bà là một trong những nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ của bà sắc sảo, trào phúng thì sắc nhọn, trữ tình thì tê tái đau xót, có giá trị nhân đạo sâu sắc. Bà được coi là bà chúa thơ Nôm. Bánh trôi nước là một bài thơ đặc sắc của bà, bài thơ cho thấy tác giả rất trân trọng vẻ đẹp, phẩm chất trong trắng, sắt son của người phụ nữ Việt Nam ngày xưa, vừa cảm thương cho thân phận chìm nổi của họ. Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà en vẫn giữ tấm lòng son. Bánh trôi nước là bài thơ đa nghĩa. Tác giả tả thực cái bánh trôi nước, làm bằng bột nếp nhân bằng đường phên và qua đó mang hàm nghĩa độc đáo. Câu 1 có 2 vế tiểu đối : Thân em vừa trắng lại vừa tròn gợi tả chất bánh ngon lành, tinh khiết, chiếc bánh xinh xinh, dân dã bình dị đáng yêu, hàm ẩn sự duyên dáng trinh trắng, vẻ đẹp xinh xắn của người thiếu nữ Việt Nam. Hai tiếng thân em không chỉ nhân hoá chiếc bánh trôi nước, thể hiện một cách nói đậm đà màu sắc dân gian mà còn ngợi ca đức tính khiêm nhường, kín đáo duyên dáng của người con gái làng quê..
<span class='text_page_counter'>(10)</span> Hai câu 2, 3 ngôn ngữ tương phản : rắn với nát, nghĩa đen là bánh ngon hay bánh không ngon ; nghĩa bóng là hạnh phúc hay bất hạnh đều tùy thuộc vào tay kẻ nặn, vào người cha, người chồng …vào lễ giáo phong kiến, vào số phận.Thành ngữ bảy nổi ba chìm được vận dụng tài tình nhằm gợi tả số phận người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ Hai câu 3, 4 cấu trúc mặc dù mà vẫn nhằm khẳng định 1 tâm thế : Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son Vẫn giữ biểu thị một thái độ kiên trinh, bền vững. Tấm lòng son tượng trưng cho phẩm chất sắt son thuỷ chung, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam trong cuộc đời. Câu thơ thể hiện niềm tự hào và biểu lộ khá đậm tính cách hồ Xuân Hương. Bài thơ nói về bánh trôi nước, một món ăn dân tộc bằng một ngôn ngữ bình dị, dân gian.Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt được Việt hoá hoàn toàn. Thơ hàm súc đa nhĩa giàu bản sắc Xuân Hương. Bánh trôI nước là 1 bài thơ hay, có giá trị sâu sắc. Bài thơ biểu lộ niềm cảm thông và tự hào đối với số phận, thân phận và phẩm chất của người phụ nữ việt Nam. Bài 4 Phát biểu cảm nghĩ của em về bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan Bà Huyện Thanh quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh sống trong nửa đầu thế kỉ 19, là 1 trong số nữ sĩ tài danh hiếm có, bà để lại 6 bài thơ Nôm.Thơ bà hay nói đến hoàng hôn, man mác buồn, giọng điệu du dương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp, điêu luyện. Xuất thân trong 1 gia đình quan lại, có nhan sắc, có học, có tài thơ Nôm, giỏi nữ công gia chánh, Bà Huyện Thanh Quan được vua Minh Mệnh vời vào kinh đô Phú Xuân làm quan nữ “Cung trung giáo tập”. Trên đường vào Phú Xuân, bước tới Đèo Ngang lúc chiều tà, cảm xúc dâng trào lòng người bà sáng tác bài Qua đèo Ngang. Bài thơ tả cảnh đèo Ngang lúc xế tà và nói lên nỗi buồn cô đơn, nỗi nhớ nhà của người lữ khách –nữ sĩ . Lần đầu nữ sĩ bước tới đèo Ngang, đứng dưới chân đèo đệ nhất hùng quang này, địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh – Quảng Bình, vào thời điểm bóng xế tà, lúc mặt trời đã nằm ngang sườn núi, ánh mặt trời đã tà, đã nghiêng, đã chênh chếch. Trời sắp tối. Âm tà cũng gợi buồn thắm thía. Câu 2 tả cảnh sắc : cỏ, cây, hoa, lá, đá. Hai vế tiểu đối, điệp ngữ chen, vần lưng đá -lá, vần chân tà-hoa, thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang 200 năm về trước : Cỏ cây chen lá, đá chen hoa Chỉ có hoa rừng, hoa dại, hoa sim, hoa mua. Cỏ, cây, hoa, lá phải chen với đá mới tồn tại được. Cảnh vật hoang sơ, đến nao lòng. Nữ sĩ sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Âm điệu thơ trầm bổng du dương, đọc lên nghe rất thú vị Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà Điểm nhìn đã thay đổi : đứng cao nhìn xuống dưới và nhìn xa. Thế giới con người là tiều phu, nhưng chỉ có vài chú. Hoạt động lom khom vất vả dang gánh củi xuống núi. Một nét vẽ ước lệ trong thơ cổ, nhưng rất thần tình tinh tế trong cảm nhận. Mấy nhà chợ bên sông thưa thớt lác đác. Chỉ mấy cái lều chợ miền núi. Cũng là cảnh hoang vắng heo hút, buồn hoang sơ nơi con đèo xa xôi lúc bóng xế tà. Tiếp theo nữ sĩ tả âm thanh tiếng chim rừng, chim gia gia, chim quốc gọi bầy lúc hoàng hôn. Điệp âm con cuốc cuốc và cái gia gia tạo nên âm hưởng du dương của khúc nhạc rừng, của khúc nhạc lòng người lữ khách. Lấy cái động để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm trên đỉnh đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn, đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh trong thi pháp cổ. Phép đối và đảo ngữ được vận dụng rất tài tình Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Nghe tiếng chim rừng mà nhớ nước đau lòng mà thương nhà mỏi miệng nỗi buồn thấm thía vào cõi lòng, toả rộng trong không gian từ con đèo tới miền quê thân thương. Sắc điệu trữ tình dào dạt, thiết tha trầm lắng. Lữ khách là một nữ sĩ nên nỗi nhớ nước nhớ kinh kì Thăng Long, nhớ nhà, nhớ chồng con, nhớ làng Nghi Tàm thân thuộc không thể nào kể xiết Bốn chữ dừng chân đứng lại thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn mênh mang. Trời non nước ; nhìn xa, nhìn gần, nhìn sâu, nhìn bốn phía ...rồi nữ sĩ thấy vô cùng buồn đau, như tan nát cả tâm hồn, chỉ còn lại một mảnh tình riêng. Lấy cái bao la, mênh mông, vô tận của vũ trụ, của trời non nước tương phản với cái nhỏ bé của mảnh tình riêng của ta với ta đã cực tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người lữ khách khi đứng trên đỉnh Đèo Ngang lúc ngày tàn. Đó là tâm trạng nhớ quê nhớ nhà, buồn mà đẹp. Qua đèo Ngang là bài thơ thất ngôn bát cú đường luật tuyệt bút, thế giới thiên nhiên kì thú của đèo Ngang như hiện qua dòng thơ. Cảnh sắc hữu tình thấm một nỗi buồn man mác.Giọng thơ du dương réo rắt. Phép đối và đảo ngữ có giá.
<span class='text_page_counter'>(11)</span> trị thẩm mĩ trong nét vẽ tạo hình đầy khám phá.Cảm hứng thiên nhiên trữ tình chan hoà với tình yêu quê hương đất nước đậm đà qua một hồn thơ trang nhã. Bài thơ Qua Đèo Ngang là tiếng nói của một người mà trở thành khúc tâm tình của muôn triệu người, nó là bài thơ một thời mà mãi mãi,bài thơ non nước.. Bài 5 Cảm nghĩ của em về tình bạn trong bài thơ Bạn đến chơi nhà của nhà thơ Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến ( 1835-1909 ) là nhà thơ Nôm kiệt xuất của dân tộc.Ông để lại nhiều bài thơ nói về tình bạn.Bạn đến chơi nhà là một trong những bài thơ Nôm đặc sắc của ông nói lên một tình bạn cao đẹp. Câu nhập đề rất tự nhiên như một lời nói mộc mạc của nhà thơ sau bao tháng ngày mới gặp lại bạn.Lời chào vồn vã, biểu lộ niềm vui mừng khôn xiết : Đã bấy lâu nay bác tới nhà Chữ bác gợi lên thái độ niềm nở, thân mật và kính trọng của nhà thơ đối với bạn tri âm, một cách xưng hô thân tình. Đằng sau câu thơ -lời chào hỏi –có thể là những giọt lệ ứa ra ở khoé mắt đôi bạn già. Đã bấy lâu nay là bao nhiêu năm tháng ? Tính thời gian không được xác định cụ thể, nhưng chắc chắn là đã khá lâu, vì sức yếu tuổi già...nên xiết bao đợi chờ mong nhớ. Bộ phận trạng ngữ chỉ thời gian được đặt lên đầu câu thơ diễn tả sự xa cách nhớ mong, làm nổi bật ý thơ : niềm xúc động và niềm vui sướng vô hạn khi gặp lại bạn. Chữ bác được nói đến trong bài thơ là bạn chí thân, ở xa lâu ngày mới gặp nên tác giả rất mừng và cảm động. Sáu câu thơ tiếp theo toát lên một nụ cười hóm hỉnh. Một ý thơ bao trùm : đã lâu ngày bạn mới đến chơi, biết lấy gì đãi bạn đây ? Một tình thế khá éo le : trẻ thời đi vắng, chợ thời xa. Chữ thòi là một hư từ rất ít khi xuất hiện trong thơ vì dễ rơi vào sự tầm thường nhạt nhẽo. Nhưng dưới ngòi bút của Tam Nguyên Yên Đỗ, nó trở nên thanh thoát tự nhiên vô cung chứng tỏ ông có một bản lĩnh nghệ thuật điêu luyện. Phần thực và luận, tính hệ thống của ngôn ngữ thơ rất chặt chẽ nhất quán ở một cách nói, một lối biểu cảm: có tất cả mà cũng chẳng có gì để đãi bạn thân ! Có ao và cá, có vườn và gà, có cà và cải, có mướp và bầu nhưng ....Bức tranh vườn Bùi hiện lên sống động, vui tươi. Một nếp sống dân dã, chất phác, cần cù, bình dị đáng yêu. Một cuộc đời thanh bạch ấm áp và tình người rất đáng tự hào. Chúng ta như cảm thấy Nguyễn Khuyến như dắt tay bạn ra thăm vườn cây, ao cá, tận hưởng thú vui dân dã của một ông quan về quê ở ẩn. Phép đối chặt chẽ, phân minh : cảnh với cảnh, tạo nên một giọng thơ nhẹ nhàng, vui tươi, lời thơ cân xứng. Các tính từ sâu, cả, rộng, thưa ; các trạng từ chỉ tình trạng khôn, khó ; các trạng từ chỉ sự tiếp diễn của hành động chửa, mới, vừa, đương hô ứng bổ trợ cho nhau, được sử dụng khéo léo và tự nhiên. Những từ ấy được đặt bên cạnh những chi tiết miêu tả chấm phá đã làm hiện lên khung cảnh vườn tược, cây cối đang đơm hoa kết trái, ẩn chứa một sức sống tiềm tàng, gần gũi và mến yêu. Dân gian có câu Khách đến chơi nhà không gà cũng vịt nhưng Nguyễn Khuyễn đã giãi bày với bạn : Câu thơ thứ 7 tiếp nối và mở rộng ý thơ trên, khẳng định luôn cái không có Đầu trò tiếp khách trầu không có Phải chăng cái nghèo của cụ Tam Nguyên đã đến mức ấy ư ? Nhà thơ đã nói quá về cái nghèo, thi vị hoá cái nghèo. Một ông quan triều Nguyễn về ở ẩn với một cơ ngơi 9 sào tư thổ là nơi ở thì không thể miếng trầu là đầu câu chuyện cũng không có để tiếp bạn. Đây là một lời thơ hóm hỉnh để bày tỏ một cuộc sống thanh bạch, một tâm hồn thanh cao của một nhà Nho khước từ lương bổng của thực dân Pháp, lui về sống bình dị giữa xóm làng quê hương. Câu kết là sự bùng nổ về ý và tình. Tiếp bạn chẳng cần có mâm cao cỗ đầy, mà chỉ có một tấm lòng, một tình bạn chân thành thắm thiết : Bác đến chơi đây ta với ta . Lần thứ 2 chữ bác xuất hiện trong bài thơ, thể hiện một sự trìu mến kính trọng. Mọi cái đều không có nhưng lại có tình bằng hữu thân thiết. Chữ ta là đại từ nhân xưng, trong bài thơ này là tôi và bác. Cụm từ ta với ta biểu lộ một niềm vui trọn vẹn, tràn đầy và lắng đọng trong tâm hồn, toả rộng trong không gian và thời gian. Với cụm từ ta với ta trong câu thơ Một mảnh tình riêng ta với ta của Bà Huyện thanh Quan là nỗi buồn cô đơn của khách li hương, còn trong thơ của Nguyễn Khuyến lại ấm áp tình người và sâu nặng tình bạn. Bài thơ Nôm viết theo thể thất ngôn bát cú đường luật, bố cục đặc biệt 1 – 6 – 1 khó quên này cho thấy một hồn thơ đẹp, một tình bạn chân tình, một tấm lòng hồn hậu đẹp đẽ. Tâm hồn đó, tấm lòng đó ngày nay vẫn xứng đáng là tấm gương sáng để mọi người soi chung. Nguyễn Khuyến không những là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam mà còn là nhà thơ của tình bạn trong sáng thuỷ chung và cao đẹp rất đáng yêu, đáng kính.. Bài 6 Cảm nghĩ về bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh ( Tĩnh dạ tứ ) của Lí Bạch Lí Bạch ( 701-762 ) là một trong những nhà thơ lớn đời Đường.Ông để lại trên 1000 bài thơ. Thiên nhiên tráng lệ, trăng và rượu, tình bằng hữu, tình cố hương, lòng khát khao tự do được diễn tả qua những vần thơ lãng mạn. Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh là nỗi buồn nhớ cố hương sâu lắng của LB. Đây là bài thơ dịch :.
<span class='text_page_counter'>(12)</span> Đầu giường ánh trăng rọi, Ngỡ mặt đất phủ sương. Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, Cúi đầu nhớ cố hương. Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt, vẻn vẹn có 20 chữ nhưng đã tạo nên một bức tranh thuỷ mặc về cảnh mộng đêm trăng gợi lên vẻ đẹp tâm hồn của thi nhân với bút pháp lãng mạn thần tình. Đêm về khuya càng trở nên thanh tĩnh. Không gian bốn bề vắng lặng. Không một tiếng gió thổi, một tiếng côn trùng kêu, cũng chẳng có một tiếng chuông chùa ngân buông. Nhà thơ chợt tỉnh giấc thấy mình nằm dưới trăng. Cả một không gian ngập tràn ánh trăng. Ánh sáng rọi vào đầu giường. Thật cảm động, trăng đến khơi gợi một nguồn thơ và trăng là chất liệu tạo nên vần thơ dào dạt. Ánh trăng sáng quá, tải khắp không gian bao phủ khắp mặt đất.Câu thơ thư 2 biểu hiện một trạng thái ngỡ ngàng của thi nhân vừa tỉnh giấc vừa nhìn trăng. Trăng đẹp và thơ mộng. Đêm đã sang canh, êm đềm thanh tĩnh. Chỉ có trăng và nhà thơ. Thế rồi thi tiên LB ngẩng đầu ngắm trăng. Trăng với thi nhân như đôi bạn tri âm gặp nhau, nhìn nhau cảm động không nói nên lời. Cả ba câu thơ đều tả ánh trăng trong đêm thanh tĩnh với tâm trang ngỡ ngàng và bồi hồi của thi nhân. Câu 1 và câu 3 tả trăng bằng trực giác, câu 2 tả trăng bằng cảm giác. Một không gian vừa thực vừa mộng, huyền ảo lung linh Đầu giương ánh trăng rọi Ngỡ mặt đất phủ sương . Ngẩng đầu nhìn trăng sáng Lí Bạch đang sống ở nơi đất khách quê người. Giữa đêm khuya thanh tĩnh chỉ có trăng và thi nhân. Ba câu thơ đầu gợi tả một tâm trang : nỗi buồn cô đơn của khách xa quê Hai câu 3 và 4 được cấu trúc theo phép đối : Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, Cúi đầu nhớ cố hương Hai tư thế ngẩng đầu và cúi đầu, hai tâm trạng : nhìn và nhớ ; hai đối tượng làm xúc động và trĩu lòng kẻ xa quê : trăng sáng và cố hương. Hai hình ảnh trăng sáng và cố hương đi sóng nhau biểu hiện một tâm hồn yêu thiên nhiên, một tấm lòng yêu quê hương thiết tha sâu nặng. Cố hương là quê cũ thân yêu, nhớ cố hương là nhớ tới gia đình, nhớ tới người thân thương ruột thịt, nhớ tới thời thơ ấu với bao mộng tưởng và kỉ niệm đẹp, nhớ lại những thăng trầm một đời người. Ánh trăng và cố hương gắn bó với nhau trong mạch cảm hứng trữ tình, hoà quyện thành một liên tưởng thấm thía, cảm động, nâng cánh cho hồn thơ bay lên. Trăng lênh láng tràn ngập. Cảm xúc thơ dâng lên dào dạt. Có thể nói Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh là một bài thơ trăng rất hay. LB rất tinh tế đã lấy ngoại cảnh ánh trăng miền đất lạ để biểu hiện tâm tình nỗi buồn nhớ cố hương. Ngôn ngữ thơ hàm xúc, hình tượng hoa lệ, cảm xúc mênh mang, gợi lên một nỗi buồn đẹp. Tất cả tạo nên vẻ đẹp văn chương của bài thơ trăng này. LB đã để lại hàng trăm bài thơ trăng. Ai đã từng trải qua nhiều năm tháng li hương, ai đã từng mang một tâm hồn yêu trăng chắc chắn sẽ bồi hồi xúc động khi đọc bài thơ này của thi tiên Lí Bạch.. Bài 7 Chép thuộc lòng bài thơ Ngầu nhiên viết nhân buổi mới về quê của Hạ Tri Chương ( bản dịch của Phạm Sĩ Vĩ hoặc của Trần Trọng San ) Trong hai câu thơ cuối, tác giả gặp gỡ những ai ở quê ? Em thử hình dung tâm trạng của tác giả khi “gặp nhau mà chẳng biết nhau” Đặc biệt là khi các em bé cười hỏi : “khách ở chốn nào lại chơi” - Hai câu cuối : + Tác giả gặp các em nhỏ của làng quê . + Tâm trạng của tác giả là tâm trạng buồn, lẽ ra gặp được người quen, người lớn thì thật vui, nhưng chỉ gặp trẻ em “không biết nhau”.Tác giả còn buồn hơn khi những người làng trẻ tuổi đã coi ông là một người xa lạ. Một người yêu quê tha thiết nhưng lại bị xem như là khách ngay trên quê hương mình. Chính sự chạnh lòng của tác giả đã tạo nên cảm xúc viết bài thơ này .. Bài 8 Phát biểu cảm nghĩ về bài Cảnh Khuya của Bác Hồ Hồ Chí Minh không những là vị lãnh tụ vĩ đại, người cha già của dân tộc Việt Nam mà còn là một thi sĩ nổi tiếng. Đọc bài Cảnh khuya mà em càng thấy rõ hơn tâm hồn thi sĩ và tấm lòng của người chiến sĩ trong Bác. Em thấy say mê cảnh đẹp hùng vĩ nên thơ của núi rừng Việt Bắc –cái nôi của Cách mạng. Em cũng rất khâm phục kính yêu lòng yêu nước vĩ đại của Bác. Tiếng suối trong như tiếng hát xa Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà..
<span class='text_page_counter'>(13)</span> Đầu tiên là âm thanh tiếng suối trong rừng đêm vắng Việt Bắc, nghe như tiếng hát của con người từ xa vọng lại làm ấm lòng người. Bức tranh tươi đẹp của rừng Việt Bắc thể hiệm ở ngay hai câu thơ đầu : Tiếng suối trong như tiếng hát xa Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa Cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc bỗng trở nên thơ mộng hơn, tươi đẹp hơn nhờ biện pháp so sánh tài tình và độc đáo :Tiếng suối trong như tiếng hát xa Âm thanh mới trong trẻo, du dương ngân nga làm sao. Âm a ở cuối câu thơ gợi nên cung bậc của tiếng suối, tiếng suối đều đặn, miên man mang lại cho tâm hồn em một âm hưởng thiết tha ngọt ngào mà sâu lắng. Nghệ thuật so sánh còn tạo ra một vẻ đẹp mới cho hình ảnh thơ : Bác biến dòng suối trở thành một con người có tâm hồn, có tình cảm, biến tiếng suối bằng tiếng hát, một âm thanh trong trẻo, trẻ trung. Tiếng suối như có hồn của người nghệ sĩ. Bác đứng dưới rừng Việt Bắc thưởng thức tiếng suối, thưởng thức cảnh thiên nhiên của núi rừng khi đã về khuya. Phải rất say mê, hoà hợp thân thiết với thiên nhiên bác mới nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên như thế. Thiên nhiên tạo ra vẻ đẹp trong tâm hồn Bác. Đọc đến đây dẫu không phải là một nghệ sĩ, không thân thiết được với thiên nhiên như Bác em cũng thấy lòng mình rung động mãnh liệt. Em thấy vô cùng sung sướng, xúc đông và em như thấy con suối hiện ra trước mắt mình thật lung linh huyền ảo. Sau đó là hình ảnh lung linh của rừng Việt Bắc dưới ánh trăng đẹp. Trăng chiếu trên cây cổ thụ, lồng vào các cành lá cổ thụ, in xuống mặt đất như dát hoa trên mặt đất ) “Trăng lồng cổ thụ bang lồng hoa” Trăng tròn vành vạnh toả sáng xuống trần gian. Những lùm cây rậm rạp được trăng chiếu xuống trông như những sợi kim tuyến lấp lánh trang điểm trên mái tóc bồng bềnh của người thiếu nữ.Trăng soi qua kẽ lá, chiếu xuống đất tạo thành muôn vàn những đốm trắng nhỏ li ti trên mặt đất lấm tấm như hoa gấm. Trăng, cây cổ thụ, bông hoa tuy ở tầng bậc khác nhau nhưng chúng không cách biệt mà gắn bó, đan xen vào nhau, lồng vào nhau, tôn thêm vẻ đẹp cho nhau.Chúng cũng sống động lên nhờ từ lồng.Trước mắt em là một bức tranh tươi đẹp, các nét cảnh hoà quyện đan xen khiến cho bức tranh càng lung linh huyền ảo hơn. Bức tranh đó làm em say mê ngây ngất. Cảnh rừng Việt Bắc rất phong phú nhưng thơ Bác chỉ khắc hoạ một vài nét, ánh trăng, tiếng suối.Tuy nhiên em vẫn hình dung thấy một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp trong tâm hồn tinh tế, nhạy cảm của Người. Thi sĩ HCM như thốt lên rung động cảnh khuya như vẽ. Làm sao mà thi nhân ngủ được, bởi lòng Người đang rung động trước vẻ đẹp của đêm trăng trong rừng. Phải chăng Bác thao thức chưa ngủ vì cảnh thiên nhiên quá đẹp ? Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ Nghệ thuật so sánh này gây được ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc.Cảnh rừng Việt Bắc tươi đẹp như một bức tranh hết sức hoàn hảo có trăng, có suối, có bông hoa, có cây cổ thụ. Hai lần tác giả dùng biện pháp so sánh trong bài nhưng mỗi lần so sánh rừng Việt Bắc hiện ra cụ thể hơn. Bác Hồ quả là một người có tâm hồn yêu thiên nhiên và yêu nước sâu sắc. Khác với người xưa, Bác không những yêu thiên nhiên mà Bác còn lo lắng cho giang sơn tươi đẹp. Thật là cảm động khi người đọc được tác giả lí giải đến bất ngờ : Bác chưa ngủ không chỉ vì đêm trăng đẹp mà vì Bác còn lo việc nước nhà Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà Cảm xúc khâm phục Bác càng dâng lên trong em, câu thơ đã lí giải toàn bộ nguyên do vì sao Bác không ngủ, vì lo cho nước nhà. Nhờ câu thơ này em hiểu ra hoàn cảnh của Bác lúc đó. Có lẽ đã bao đêm Bác thao thức không ngủ như thế này vì Bác lo cho dân cho nước. Rồi đêm nay giữa núi rừng Việt Bắc, bất chợt gặp khung cảnh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp, lòng Bác tràn trề cảm xúc và đã bật ra ý thơ chứ không phải ngắm cảnh để làm thơ.Điều ấy càng khiến em xúc động. Em càng kính yêu khâm phục vô bờ bến với tâm hồn, trái tim vĩ đại của Bác Đọc Cảnh khuya em vừa say mê với cảnh, vừa khâm phục phẩm chất và tâm hồn của Bác. Đọc bài thơ em bắt gặp tâm hồn của người thi sĩ và tấm lòng của người chiến sĩ. Tâm hồn ấy, tấm lòng ấy kết hợp hài hoà trong con người Bác, làm nên cái vĩ đại của Bác. Bác không bao giờ sao nhãng việc nước, sao nhãng việc quân dù chỉ trong một chút thư giãn với thiên nhiên hay một thoáng mơ màng sau một ngày làm việc vất vả .. Bài 9 Hãy phát biểu cảm nghĩ của em về bài thơ Rằm tháng Giêng của chủ tịch Hồ Chí Minh . Dàn ý 1. Mở Bài : Giới thiệu tác giả, hoàn cảnh ra đời ,nội dung bài thơ và cảm nghĩ chung của em . 2 Thân bài : Nêu cảm nghĩ theo từng câu thơ ( vận dụng các biện pháp liên tưởng, tưởng tượng, so sánh ...) - Câu đầu gợi lên một không gian tràn đầy sức sống của mùa xuân.Vầng trăng đêm rằm ở độ tròn đầy và toả sáng nhất. Câu thơ tả vầng trăng với thời gian, không gian cụ thể ... - Câu thứ 2 : Cảm xúc mùa xuân dào dạt trong lòng nhà thơ, và cả trong lòng người đọc. Ba chữ xuân ( Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên ) cùng với trăng rằm mùa xuân tạo nên 4 nét vẽ, 4 thành viên của một bức tranh xuân độc lập nhưng hợp nhất trong sự mênh mông của trời đất dưới ánh trăng..
<span class='text_page_counter'>(14)</span> - Câu 3 : Trên cái nền trăng là con người và chiếc thuyền trên dòng sông nước toả hơi mịt mờ như khói. Con thuyền giữa dòng sông như ở giữa một vùng hư ảo. Bác làm việc quân trong không gian và thời gian ấy. Cái mộng trở nên thực và cái thực cũng vì thế mà bay lên đẹp hơn. Đàm quân sự là bàn việc đời sống, việc cứu nước cứu dân. Chuyện chính nghĩa nên đẹp và thi vị. - Câu 4 : Trăng không chỉ sáng trên trời, trên sông, trên nước mà đã tràn trề trong tâm hồn nhà thơ. + Chuyện quân sự hẳn phải thú vị, thông suốt, sảng khoái, đầy lạc quan tin tưởng. + Hình ảnh Bác ung dung thanh thản giữa cảnh thiên nhiên tươi sáng. 3. Kết bài : Em trân trọng, kính yêu hồn thơ của Bác và tinh thần yêu thiên nhiên đất nước, lòng lạc quan cách mạng của Người.. Bài 10 Phát biểu cảm nghĩ của em về bài thơ Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh Xuân Quỳnh ( 1942-1988 )nổi tiếng với những bài thơ 5 chữ, một hồn thơ nồng nàn, đằm thắm, dào dạt yêu thương. Bài Tiếng gà trưa được nữ sĩ viết vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Câu thơ Tiếng gà trưa được điệp lại 4 lần cứ ngân vang mãi trong tâm hồn người lính trên đường hành quân ra trận như tiếng gọi của quê hương thân thương. Dòng cảm xúc từ hiện tại man mác và bâng khuâng trỗi về những năm tháng tuổi thơ với bao kỉ niệm cảm động về đàn gà và ổ trứng, về người bà đôn hậu đã làm sâu nặng tình yêu quê hương đất nước. Tiếng gà trưa là một âm thanh đồng vọng của gia đình, của xóm làng quê, trở thành hành trang của người lính trẻ. Đoạn thơ đầu 7 câu nói về tâm trạng người chiến sĩ trên đường hành quân xa. Tiếng gà nhà ai nhảy ổ : cục cục tác cục ta cất lên nơi xóm nhỏ. Tiếng gà nhà ai nhảy ổ là âm thanh bình dị, thân thuộc của làng quê ta đã bao đời nay. Đối với người lính trẻ lại vô cùng xúc động. Tiếng gà trưa đã xao động nắng trưa và cả hồn người. Như cho người lính thêm sức mạnh mới. Như gợi nhớ tuổi thơ. Chữ nghe được điệp lại 3 lần đã làm cho giọng thơ thêm phần ngọt ngào, tha thiết , bồi hồi : “Cục ....cục tác cục ta” Nghe xao động nắng trưa Nghe bàn chân đỡ mỏi Nghe gọi về tuổi thơ Đoạn thơ thứ 2 có 26 câu thơ. Câu thơ Tiếng gà trưa được láy đi láy lại 3 lần, một âm thanh hiện hữu đồng vọng gợi nhớ bao kỉ niệm sâu sắc một thời thơ bé. Nghe tiếng gà trưa, người lính trẻ sống lại, nhớ lại màu hồng trứng gà trên ổ rơm, nhớ lại đàn gà đông đúc mà bà đã tần tảo chắt chiu. Ta như được ngắm một bức tranh gà rất sống động, rất đẹp : Tiếng gà trưa Ổ rơm hồng những trứng Này con gà mái mơ Khắp mình hoa đốm nắng Này con gà mái vàng Lông óng như màu nắng . Có màu hồng của trứng gà trong ổ rơm, có sắc đốm của gà mái hoa mơ, có lông óng như màu nắng của con gà mái vàng. Cấu trúc song hành xứng đôi, chữ này điệp lại hai lần, ta cảm thấy tay bà, tay cháu đang chỉ đang đếm những con gà mái đang tìm mồi trong sân nhà. Nghe tiếng gà trưa cất lên nơi xóm nhỏ, người lính lại bồi hồi nhớ lại bao kỉ niệm về bà. Quên sao được tiếng mắng của bà vì tội cháu nhìn gà đẻ. Sợ bị lang mặt ...cháu nhớ mãi hình ảnh tay bà khum soi trứng, bà tần tảo chắt chiu từng quả trứng hồng cho con gà mái ấp. Là cháu nhớ tới bao nỗi lo, niềm mong ước của bà với tình thương bao la. Cái hay của thơ Xuân Quỳnh có lúc là ở những chi tiết nghệ thuật, tuy rất bình dị mà sống động nên thơ. Đó là cái ổ rơm hồng những trứng, là hình ảnh tay bà khum soi trứng. Đó là tiếng sột soạt của bộ quần áo mới. Tục ngữ có câu : già được bát canh, trẻ được manh áo mới. Cháu có bao giờ quên được cái quần chéo go,cái áo chúc bâu ngày xưa bà mua cho sau mỗi lần bán gà.Tình thương cháu của bà đã tạo nên hạnh phúc tuổi thơ. Từ liên tưởng tác giả chuyển sang suy tưởng. Lần thứ 4 câu thơ Tiếng gà trưa lại cất lên. Tiếng gà gọi về những giấc mơ tuổi thơ của người lính trẻ. Tiếng gà trưa bình dị mà thiêng liêng, nó nhắc nhở, nó lay gọi bao tình cảm đẹp dâng lên trong lòng người chiến sĩ trên đường hành quân ra trận thời chống Mỹ cứu nước: Cháu chiến đấu hôm nay Vì lòng yêu Tổ quốc Vì xóm làng thân thuộc Bà ơi, cũng vì bà Vì tiếng gà cục tác ổ trứng hồng tuổi thơ Bài thơ có 3 câu thơ hay nhất, đẹp nhất : Ổ rơm hồng những trứng, Giấc ngủ hồng sắc trắng, Ổ trứng hồng tuổi thơ.Tất cả đều nói về niềm vui hạnh phúc. Chữ hồng là tính từ làm chức năng vị ngữ, hình tượng thơ vừa đẹp vừa biểu cảm. Nghe tiếng gà trưa, người chiến sĩ lại nhớ bà, nhớ ổ trứng hồng tuổi thơ. Xuân Quỳnh đã tìm được một cách nói mới về kỉ niệm tuổi thơ, về tình bà cháu chan hoà trong tình yêu quê hương, đất nước..
<span class='text_page_counter'>(15)</span> Tiếng gà trưa là một bài thơ hay, thiết tha ngọt ngào. Tiếng gà trưa cũng là tiếng vọng của quê hương, là tình yêu thương của anh bộ đội trong kháng chiến chống Mĩ rất thơ và rất đẹp.. Bài 11 Cảm nhận cuả em về bài tuỳ bút Một thứ quà của lúa non : cốm Năm 1942 nhà văn Thạch Lam qua đời ở tuổi 32, và trước đó mấy tháng, tập tuỳ bút Hà Nội Băm sáu phố phường của ông đã ra mắt bạn đọc. Có thể nói đây là một tác phẩm xuất sắc và độc đáo viết về văn hoá ẩm thực VN viết về nét đẹp của Hà Nội ngàn năm văn vật. Một thứ quà của lúa non : cốm rút trong tập Hà Nội Băm sáu phố phường là một bài thơ trữ tình bằng văn xuôi tuyệt tác, được tác giả viết với tất cả tấm lòng trân trọng, thành kính, thiêng liêng . Phần đầu bài tuỳ bút nói về nguyên liệu làm ra cốm, một món quà thanh nhã và tinh khiết. Hương vị cốm là sự nhuần thấm cái hương thơm của lá, của vừng sen trên hồ do cơn gió mùa hạ đem lại. Là cái mùi thơm mát của bông lúa non ta ngửi thấy khi đi qua những cánh đồng xanh khi hạt thóc nếp đầu tiên làm trĩu thân lúa còn tươi. Nguyên liệu làm ra cốm là cái chất quý trong sạch của trời, được hình thành một cách linh diệu, lúc đầu là một giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ, về sau được nắng thu làm cho giọt sữa dần dần đông lại ...Thạch Lam đã có một cách quan sát tinh tế, một sự cảm nhận tài hoa một cách viết nhẹ nhàng biểu cảm và đầy chất thơ. Trái tim của ông tưởng như đang rung động trước màu xanh và hương thơm dịu ngọt của bông lúa nếp non trên cánh đồng làng quê. Lúa nếp non đến lúc nào được gặt đem về, cách chế biến cốm là một sự bí mật trân trọng và khắt khe giữ gìn được truyền từ đời này sang đời khác.Và chỉ có cốm Vòng mới là đặc sản Hà Nội do bàn tay những cô gái làng Vòng làm ra thứ cốm dẻo và thơm ấy. Cốm Vòng ngon nổi tiếng khắp cả nước. Những người làm ra cốm và gánh cốm đi bán rất duyên dáng, đáng yêu. Đó là các cô gái làng Vòng xinh xinh áo quần gọn ghẽ với cái đòn gánh hai đầu cong vút như chiếc thuyền rồng được bà con phố phường ngóng trông khi mùa cốm đến. Cốm đã ngon người bán cốm lại xinh dòn, cuộc sống thêm sắc màu ý vị. Cốm là sự kết tinh mọi thứ quý báu nhất tốt đẹp nhất của quê hương, là thức quà riêng biệt của đất nước, là thức dâng của những cánh đồng lúa bát ngát xanh. Là cái hương vị mộc mạc giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ An Nam.Hương vị của cốm được Thạch Lam cảm thụ với tất cả sự trân trong và tự hào.Cốm như một nhân chứng, một sứ giả của tình yêu, là thứ quà sêu tết làm cho tình yêu đôi lứa thêm bền đẹp vướng vít của tơ hồng. Tình duyên bền đẹp của đôi lứa cũng như hồng cốm tốt đôi vậy. Sắc màu, hương vị của hồng của cốm là một sự hoà hợp tuyệt vời : màu xanh tươi của cốm như ngọc thạch quý, màu đỏ thắm của hồng như ngọc lựu già. Một thứ thanh đạm, một thứ ngọt sắc, hai vị nâng đỡ nhau để hạnh phúc được bền lâu.Cách so sánh của Thạch Lam không chỉ sắc sảo tài hoa mà còn thể hiện một phong cách ẩm thực rất sành điệu. Phần cuối bài tuỳ bút Thạch Lam nói về cách ăn cốm, ăn cốm không thể ăn vội mà phải ăn từng chút ít thong thả và ngẫm nghĩ để tận hưởng cái mùi thơm phức của lúa mới của hoa cỏ dại ven bờ, cảm thụ được trong màu xanh của cốm cái tươi mát của lá non và trong chất ngọt của cốm cái dịu dàng thanh đạm của loài thảo mộc. Hương vị của cốm còn có mùi hơi ngát của lá sen già ướp lấy từng hạt cốm một. Tác giả viết rất gợi cảm, dùng chữ bao bọc nằm ủ để nói về mối quan hệ tự nhiên giữa lá sen và cốm. Sự cầu kì về cách diễn đạt biểu cảm của Thạch Lam không hề gây cho người đọc khó chịu mà đã tô đậm chất thơ. Giọng văn của ông nhẹ nhàng có lúc như tâm sự, có lúc như khẽ nhắc rất ân tình và thân mật. Ngòi bút nghệ thuật của tác giả rất tài hoa, giàu có trong việc chọn lọc ngôn từ, nhất là các tính từ, các so sánh ẩn dụ để ca ngợi sự ngon lành thanh quý của cốm. Một thứ quà của lúa non : cốm là một đoạn tuyệt phẩm hay nó đã đem đến cho chúng ta bao dư vị, đã để ta thêm yêu mến tự hào về hương vị của quê hương xứ sở.. Bài 12. Mùa xuân của tôi Vũ Bằng sinh năm 1913 tại HN, ông là cây bút viết văn, làm báo có tiếng từ trước năm 1945 ở HN. Sau 1954 ông vào sống ở Sài Gòn và mất tại đó năm 1984. Mùa xuân của tôi là đoạn đầu của thiên tuỳ bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt ,mở đầu cho nỗi Thương nhớ suốt 12 tháng của tác giả. Bài tuỳ bút đã tái hiện cảnh sắc thên nhiên và và không khí mùa xuân trong tháng giêng ở Hà Nội và miền Bắc qua nỗi nhớ thương da diết của một người xa quê. Mở đầu bài văn tác giả khẳng định tình cảm của con người với mùa xuân là một quy luật tất yếu tự nhiên . Cách sử dụng điệp từ, điệp ngữ và điệp kiểu câu nhấn mạnh tình cảm của con người đối với mùa xuân, thể hiện sự nâng niu trân trọng thương nhớ thuỷ chung với mùa xuân. Cảnh sắc và không khí mùa xuân ở đất trời và lòng người là nội dung của đoạn văn thứ 2. Tác giả thể hiện sự cảm nhận chung về cảnh sắc và không khí mùa xuân đất Bắc cùng với những cảm xúc dồi dào được khơi dậy trong lòng người khi xuân đến. Về cảnh sắc thiên nhiên, tác giả đã gợi tả được thời tiết, khí hậu đặc biệt của mùa xuân, vừa có cái lạnh của mưa riêu riêu gió lành lạnh như từ mùa đông còn vương lại, nhưng lại có cái ấm áp, nồng nàn của khí xuân,.
<span class='text_page_counter'>(16)</span> hơi xuân tràn ngập trời đất và ngấm vào lòng người, những âm thanh tiếng nhạn kêu, tiếng trống chèo, câu hát huê tình. Tình thương nhớ mùa xuân đất Bắc của Vũ Bằng rất tha thiết nồng nàn cháy bỏng. Ta thấy tâm hồn ông trải khắp cảnh sắc và con người từ xóm thôn đến bầu trời, từ lễ hội mùa xuân đến tiếng trống chèo đến câu tình ca thôn nữ. Không khí mùa xuân còn được thể hiện trong khung cảnh gia đình với bàn thờ đèn nến hương trầm...và tình cảm gia đình yêu thương thắm thiết.Tác giả không dừng lại nhiều ở ngoại cảnh mà tập trung thể hiện nổi bật sức sống của mùa xuân trong thiên nhiên và ở lòng người bằng nhiều hình ảnh gợi cảm và so sánh cụ thể : Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải trồi ra thành những cái lá nhỏ ti ti. Giọng điệu vừa sôi nổi vừa tha thiết của tác giả đã góp phần quan trọng tạo nên sức truyền cảm của đoạn văn. Đoạn văn thứ 3 tác giả tập trung miêu tả nét riêng của trời đất thiên nhiên và không khí mùa xuân trong thời điểm từ sau ngày rằm tháng giêng âm lịch.Ở đây đã bộc lộ sự quan sát và cảm nhận rất tinh tế, nhạy cảm của tác giả trong từng chi tiết ngoại cảnh.Tác giả đã phát hiện và miêu tả sự thay đổi chuyển biến của màu sắc và không khí bầu trời, mắt đất, cây cỏ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi từ đầu tháng qua rằm tháng giêng Qua đó cũng thấy rõ tác giả là người không chỉ am hiểu kĩ càng mà còn rất yêu thiên nhiên, trân trọng sự sống và biết tận hưởng những vẻ đẹp của cuộc sống. Mùa xuân của tôi thể hiện phong cách của VB, một lối viết tài hoa, câu chữ mượt mà, lời văn giàu hình ảnh, cảm xúc trong sáng đậm đà, giọng văn nhẹ nhàng mơn man như làn gió xuân. Với Vũ Bằng tình yêu mùa xuân, yêu thiên nhiên Bắc Việt, yêu mùa xuân Hà Nội rất nồng hậu đắm say, tình yêu ấy gắn bó với bao kỉ niệm, bao nỗi nhớ vơi đầy trong tâm hồn khách xa quê. Trong hoàn cảnh đất nước bị quân thù chia cắt tác giả nhớ mùa xuân Hà Nội cũng là nỗi nhớ quê hương, nhớ gia đình vợ con đã bao ngày tháng cách biệt.Tác giả đã kín đáo gửi qua Thương nhớ 12 một niềm tin sắt son thuỷ chung về cội nguồn, về ý chí thống nhất đất nước, về Bắc - Nam liền một dải, sum họp một nhà..
<span class='text_page_counter'>(17)</span>