Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.41 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA ĐIỆN TỬ VIỄN THÔNG
----o0o----

TIỂU LUẬN MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
Đề tài:

Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

Giảng viên hướng dẫn: TS. Lương Thị Phương Thảo
Sinh viên thực hiện.
Họ và tên: Nguyễn Thị Ngọc Mai
SHSV: 19020577
Mã lớp: HIS1001 6
Trường: Đại học Công Nghệ - ĐHQGHN

Hà Nội 2021


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền văn hóa Việt Nam được vun đắp qua 4000 lịch sử hình thành và phát triển, là minh
chứng sống động cho một dân tộc hăng say lao động sáng tạo, là điểm tựa vững chắc để
trong quá trình dựng đất nước phát triển và là nguồn lực to lớn để đấu tranh bảo vệ
nguyên vẹn từng mảnh đất thiêng liêng Tổ quốc của cộng đồng 54 anh em dân tộc Việt
Nam.
Việt Nam dưới “thời đại Hồ Chí Minh”, Đảng và nhà nước đã chủ trương xây dựng một
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc giúp nhân dân ta có những thắng lợi to lớn
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và bảo vệ Tổ quốc.


Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển như hiện nay, không một quốc gia nào có
thể phát triển nằm ngồi theo sự vận động của thế giới. Từ đây, hiện tượng cộng sinh văn
hóa ngày càng trở nên sâu sắc. Mỗi cá nhân vừa mang trong mình bản sắc văn hóa dân
tộc, vừa tiếp xúc với nền văn hóa khác mang đến những tác động tích cực nhưng cũng
khơng ít tiêu cực với sự sa sút và bào mòn các giá trị tinh thần. Chính lúc này, việc xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc càng trở nên quan trọng trong quá
trình hội nhập và giao lưu quốc tế như hiện nay.
Đây là đề tài có ý nghĩa với cách mạng Việt Nam, đặc biệt quan trọng với môn lịch sử
Đảng như đã nêu trên, em quyết định chọn đề tài “Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc” để nghiên cứu và tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này.

2. Tổng quan đề tài
Hiện tại có một số bài nói, bài viết nói về vấn đề này như:


“Giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc” - PGS, TS Vũ Thị Phương Hậu - Viện trưởng Văn hóa và Phát triển, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
“Kiên định, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều
kiện tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế” - TS. Lê Quang Mạnh - Phó Trưởng khoa Lịch sử
Đảng và Tư tưởng Hồ Chí Minh (Học viện Chính trị Cơng an nhân dân).
“Vai trị của nguồn lực văn hóa với q trình phát triển kinh tế - xã hội” - GS. TS.
Nguyễn Trọng Chuẩn - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.


3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài giúp em hiểu rõ hơn về nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
của Việt Nam. Từ đó, nắm bắt được sự chỉ đạo của Đảng góp phần nâng cao nhận thức
của mỗi người trong việc xây dựng, bảo vệ và phát triển nền văn hóa dân tộc. Đặc biệt là
một sinh viên, khi nhận thức đúng đắn và hiểu rõ giá trị của nền văn hóa Việt Nam sẽ tự

tin và bản lĩnh hịa nhập mà khơng sợ hòa tan, tiên phong trở thành lực lượng lao động
chất lượng cao để phát triển đất nước.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
trước thời kỳ đổi mới qua bản “Đề cương văn hóa Việt Nam” (1943) và trong thời kỳ đổi
mới qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”
(Cương lĩnh năm 2011) được Đại hội XI thông qua.

5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài


Nghiên cứu đề tài “Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” dựa trên thế giới quan,
phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, các quan điểm có ý nghĩa
phương pháp luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng.
Phương pháp nghiên cứu đề tài là phương pháp luận chung, phương pháp lịch sử, phương
pháp phân logic, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh.
Vận dụng quy luật phủ định của phủ định và thành quả của vận dụng quy luật phủ định
của phủ định vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam.

6. Đóng góp của đề tài
Bài tiểu luận giúp người học hiểu sâu sắc về nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc và các vấn đề liên quan, là tài liệu giúp các bạn khóa sau nghiên cứu sâu hơn về vấn
đề này.

7. Kết cấu của đề tài
Chủ đề “Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” sẽ được phân tích rõ hơn thơng
qua những nội dung chính sau đây:
Chương I. Cơ sở lý luận về nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

Chương II. Thực trạng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Chương III. Thành tựu và giải pháp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc


NỘI DUNG
Chương I: Cơ sở lý luận về nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc
1. Khái quát về văn hóa
1.1 Khái niệm về văn hóa
Văn hóa tồn tại theo lịch sử dựa trên quá trình xã hội hóa, truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác và không ngừng sáng tạo, phát triển thêm dựa trên những biến đổi của con người
với xã hội. Trình độ con người phát triển như thế nào được thể hiện rất rõ trong văn hóa
bởi chúng phản ánh đời sống và hành động của con người trong chính giá trị vật chất và
tinh thần do con người tạo nên.
Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân
tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Nếu như con người tạo nên ngơn ngữ, tư
tưởng, giá trị ở khía cạnh phi vật chất cũng như nhà cửa, quần áo, các phương tiện, v.v...
là những vật chất thường ngày trong cuộc sống hiện nay, thì văn hóa lại đóng góp to lớn
vào quá trình tạo nên con người, duy trì một quy luật nhất định trong mối quan hệ giữa
con người với xã hội.
Nói tóm lại, văn hóa là những vật thể có giá trị do con người sáng tạo trong mơi trường tự
nhiên xã hội.

1.2 Về văn hóa Việt Nam
Văn hóa Việt Nam là những giá trị vật chất và tinh thần được sáng tạo ra bởi các thế hệ
cộng đồng dân tộc thuộc về đời sống tinh thần và đời sống tâm linh mà ở đó, con người
thể hiện tư duy sáng tạo, sáng tác, phát minh về ngơn ngữ, lịch sử, kinh tế chính trị xã
hội, thẩm mỹ,…



Để làm nên nền văn hóa dân tộc như ngày nay, dân tộc Việt Nam đã được hun đúc từ
nhiều nguồn: nguồn văn hóa thời Vua Hùng dựng nước, nguồn văn hóa cộng đồng dân
tộc trong q trình lao động, sáng tạo và đấu tranh, nguồn văn hóa phương Tây du nhập
của chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, và gần đây nhất là nguồn văn hóa Mác –
xít và nguồn văn hóa Hồ Chí Minh.
Nguồn văn hóa Mác – xít được ra đời từ thực tiễn cách mạng Việt Nam bằng cách sáng
tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin dựa trên các tác phẩm của Mác – Ăng-ghen, Lenin và
lượng sách báo Mác – xít. Văn hóa Mác – xít góp phần quan trọng trong việc xây dựng
phương pháp tư duy khoa học về thế giới, về lịch sử, về lẽ sống con người để xây dựng
nền văn hóa Việt Nam hiện đại đặt trong thời điểm đất nước ta còn lạc hậu về xã hội và
kinh tế.
Văn hóa Hồ Chí Minh là nguồn văn hóa về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc kết
hợp với sức mạnh của thời đại, vì độc lập cho đất nước, tự do hạnh phúc cho nhân dân,
chăm bồi môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội lành mạnh cho cuộc sống con
người, bảo vệ hịa bình hữu nghị giữa các dân tộc và tình đồn kết quốc tế. Trong diễn
văn khai mạc Đại hội lần thứ II của Đảng ngày 11/2/1951, đồng chí Tơn Đức Thắng đã
khẳng định: Ðường lối chính trị, nền nếp làm việc và đạo đức cách mạng của Ðảng ta
hiện nay là đường lối, tác phong và đạo đức của Hồ Chủ tịch.
Văn hóa Hồ Chí Minh có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa văn hóa cổ truyền dân tộc, văn
hóa các tơn giáo, tinh hoa văn hóa phương Đơng, tiếp thu văn hóa phương Tây cùng với
văn hóa Mác – xít tạo nên một nền văn hóa Việt Nam đặc sắc, tạo nên hào khí dân tộc
giúp ta đánh bại được các thế lực thực dân đế quốc xâm lược và hướng mỗi người tu
dưỡng đạo đức cần kiệm liêm chính, ý thức về độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã
hội.

2. Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
2.1 Khái niệm về nền văn hóa tiên tiến



Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa xuất phát từ tình yêu Tổ quốc và tiến bộ theo tư
tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác – Lênin hướng tới sự độc lập, tự do, hạnh phúc và
sự phát triển toàn diện của con người giữa cá nhân với cộng đồng trong xã hội và tự
nhiên. Điều này đã được hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Đảng Trung ương khóa VIII
nhấn mạnh.
Để hiểu sâu hơn về nền văn hóa tiên tiến, chúng ta cần đi sâu vào chữ “nền”. Theo từ
điển tiếng Việt, “nền” là: mặt phẳng bên dưới của các buồng, phòng ở; lớp đất đá ở bên
dưới cùng để đỡ móng nhà; lớp đất đá cứng, chắc ở sâu bên dưới của ruộng, lòng sơng,
lịng đường; cái được trải rộng ra và làm nổi lên những gì ở trên đó; từ để chỉ lĩnh vực
được xây dựng trong hoạt động của con người, làm cơ sở cho đời sống xã hội.
Bởi vậy, nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa được xây dựng dựa trên những truyền thống
tốt đẹp của nền văn hóa truyền thống. Nền văn hóa tiên tiến khơng chấp nhận những
phong tục tập quán lạc hậu, lỗi thời và đi ngược lại với khoa học. Ngược lại, nền văn hóa
tiên tiến thúc đẩy tinh thần nhân văn và dân chủ sâu sắc, phát huy nền văn hóa yêu nước.
Phát triển nền văn hóa tiên tiến có sự tiếp thu của nền văn hóa phương Tây hay các nước
văn hóa phương Đông khác nhưng chọn lọc những giá trị tốt đẹp phù hợp với truyền
thống và đạo đức của con người Việt Nam.
Tóm lại, nền văn hóa tiên tiến được xây dựng dựa trên những yếu tố sau:
Thứ nhất, tiên tiến trong tư duy về khoa học, cơng nghệ và trình độ học vấn
Thứ hai, tiên tiến về tư tưởng: đời sống tình cảm, đạo đức, mối quan hệ giữa con người
với xã hội.
Chỉ có một nền văn hóa tiên tiến mới có thể bắt kịp sự phát triển của thời đại, rút ngắn
khoảng cách lạc hậu của Việt Nam đối với những nước tiên tiến trên thế giới và xây dựng
một đất nước Việt Nam năng động, sáng tạo và tích cực hội nhập.
Thực tiễn đã chứng minh thơng qua hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh


được hình thành, phát triển trên cơ sở kế thừa, chọn lọc những tư tưởng, giá trị truyền
thống của dân tộc Việt Nam, phù hợp với thực tiễn hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam. Cùng

với đó là sự tiếp thu, tiếp biến và vận dụng sáng tạo tinh hoa văn hóa nhân loại: văn hóa
phương Đơng và phương Tây mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin; trong đó, nét đặc
sắc chính là sự kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa phương Đơng với thành tựu
hiện đại của văn minh phương Tây và tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin trên nền tảng
những tri thức văn hóa tinh túy, chắt lọc, hấp thụ được tích lũy qua thực tiễn.

2.2. Khái niệm về bản sắc dân tộc và tính đậm đà bản sắc dân tộc
Bản sắc dân tộc là giá trị tinh hoa, là sức sống bên trong của cả dân tộc được phát triển
bền vững và không ngừng tự ý thức, tự khám phá và cạnh tranh để tồn tại, phát triển qua
lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Những giá trị văn hóa đó chính
là tình u nước, ý chí bất khuất kiên cường, tinh thần đồn kết giữa cá nhân – gia đình –
làng xã – Tổ quốc; là truyền thống “lá lành đùm lá rách”, sự đồng cảm và trọng nghĩa
tình; là lối sống giản dị, chân thật, không ngừng lao động sáng tạo để hướng tới cuộc
sống tốt đẹp.
Biểu hiện của bản sắc dân tộc, trước hết là ở lịng u nước nồng nàn, ý chí tự cường dân
tộc. Yêu nước là ý thức dân tộc phát triển trong lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước
bởi vì 54 dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam đều chung dòng máu Lạc Hồng, đều là
“con một cha, nhà một nóc”. Bởi vậy, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá
nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc được xây dựng trên tình yêu đất nước càng ý nghĩa
sâu sắc và đóng vai trị quyết định đến sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
Bản sắc dân tộc thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống: lao động sản xuất, cách tư duy,
ứng xử trong tự nhiên và trong xã hội,… được phản ánh thơng qua tính cách, tư chất, diện
mạo và năng lực sáng tạo. Trong đó, tính đậm đà bản sắc dân tộc được thể hiện rất rõ
thông qua phong tục và tập quán bởi chúng không chỉ là lối sống sinh hoạt của cộng đồng
dân cư mà còn thể hiện triết lý vũ trụ và nhân sinh quan.


Đối với người Việt Nam, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình và dịng tộc trở thành
nét văn hóa thể hiện quan hệ ứng xử giữa người sống và người chết, vừa mang ý nghĩa
tình cảm gia đình vừa chứa đựng triết lý đạo đức luôn hướng về nguồn cội. Tinh thần tự

lực, tự cường, ý chí và khí phách dân tộc được minh chứng qua những cuộc khai hoang
lập nghiệp, mở rộng bờ cõi đất nước trong quá trình lao động sáng tạo; trong lối sống
tương thân tương ái và cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
Theo nguyên Tổng giám đốc UNESCO F. May-ơ trong Hội nghị liên chính phủ về các
chính sách văn hóa tại Vơ-ni-dơ (I-ta-li-a), năm 1970: “Văn hóa bao gồm tất cả những gì
làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho
đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống và lao động”. Theo đó, văn hóa mang bản
sắc dân tộc.
“Đất nước này là đất nước nhân dân - đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại” nên
văn hóa Việt Nam là nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Văn hóa ra đời từ nhân dân, từ
con người lao động, từ chủ thể của xã hội nên văn hóa gắn bó mật thiết với dân tộc. Bản
sắc dân tộc là tiền đề để văn hóa Việt Nam tiếp tục phát triển một cách chủ động và tích
cực trong q trình hội nhập để lựa chọn những giá trị mới phù hợp với truyền thống của
cha ông ta. Bởi vậy, cần làm giàu thêm nội hàm giá trị văn hóa, nâng niu và hướng tới
đậm đà bản sắc dân tộc trong quan điểm của Đảng và nhà nước về xây dựng nền văn hóa
Việt Nam.

2.3 Mối quan hệ giữa nền văn hóa tiên tiến và nền văn hóa đậm đà bản sắc
dân tộc
Văn hóa thể hiện chiều sâu và chiều rộng trong trình độ phát triển một dân tộc bởi văn
hóa phản ánh chân thực nhất năng lực và khát vọng sáng tạo của con người trong q
trình hồn thiện bản thân. Hơn nữa, đời sống văn hóa và tinh thần của một dân tộc cịn là
thước đo để đánh giá nền văn hóa đó ở trình độ nào, thuộc cộng đồng nào trên thế giới.
Bởi vậy, nếu một nền văn hóa khơng tiên tiến, có nghĩa là không mở rộng giao lưu quốc
tế để học hỏi và tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, không giữ được những giá trị


truyền thống cốt lõi của tinh thần dân tộc mà dễ dàng bị hịa tan thì đất nước khơng thể
tồn tại.
Bản sắc dân tộc là tiền đề và là cơ sở để nền văn hóa tìm thấy điểm tựa và nguồn lực nội

sinh cho sự phát triển. Giữ gìn bản sắc dân tộc nhưng đồng thời phải đấu tranh, loại bỏ
những phong tục, tập quán lỗi thời và lạc hậu để xây dựng bản sắc dân tộc phù hợp với
thời đời.
Nền văn hóa Việt Nam ở nước ta thời nào cũng có tính tiên tiến và bản sắc dân tộc. Văn
hóa dân tộc tiên tiến được thể hiện trong tuyên ngôn “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” thời
chống giặc Tống phương Bắc, trong lời hịch của Vua Quang Trung "Ðánh cho để dài tóc"
"Ðánh cho để đen răng". Trong Cương Lĩnh hiện hành, Đảng và nhà nước ta đã nhấn
mạnh hai tính chất đặc trưng của văn hóa, là tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc với 8
định hướng phát triển cụ thể trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là sự kết tinh của yếu tố truyền thống quý
giá của dân tộc với nét đẹp tinh hoa chọn lọc của nhiều nền văn minh trên thế giới để trở
thành một nền văn hóa Việt Nam khơng ngừng phát triển hồn thiện mình phù hợp với xu
thế thời đại. Chính điều này đã hun đúc nên tình yêu nước nồng nàn, khí phách kiên
cường trong lao động, đấu tranh và sự gắn kết trong mối quan hệ người với người trong
xã hội. Trình độ tiên tiến của nền văn hóa phải thống nhất với bản sắc văn hóa dân tộc và
khẳng định tầm vóc, vị thế của văn hóa dân tộc trong giao lưu và hợp tác quốc tế, xây
dựng đất nước Việt Nam năng động, sáng tạo, hội nhập nhưng vẫn giữ được bản sắc
riêng.
Chính hệ thống quan điểm mang tính nhất quán của việc xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc mà Đảng và nhà nước ta đề ra. Đặc biệt
trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, phát triển văn hóa trong mối quan hệ với
kinh tế - chính trị - xã hội là vấn đề cần được nghiên cứu và giải quyết thì vai trị của nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc càng được đề cao hơn bao giờ hết.


3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa là hệ tư tưởng của đảng và dân tộc, mà nó cịn đóng vai trị
như một kim chỉ nam để Đảng hoạch định chính sách trong sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Trong đó, hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh chính là

nền tảng để Đảng xây dựng quan điểm và đường lối xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc.
Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh, dưới sự
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhân dân ta đã đánh đuổi được quân xâm lược, giành độc
lập và từng bước xây dựng sự nghiệp đổi mới trên nền văn hóa dân tộc. Theo sự phát
triển của thời đại, đất nước ta chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa càng cho thấy tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, quan điểm này tiếp tục tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về “xây dựng một nền văn hố Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại
chúng”.
Trước hết, tư tưởng Hồ Chí Minh ảnh hưởng rất lớn đến chủ trương xây dựng nền văn
hóa tiên tiến – sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố truyền thống với tinh hoa văn hóa nhân loại,
đặc trưng là yêu nước và tiến bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là tấm gương sáng cho chủ nghĩa yêu nước truyền thống và
tính hiện đại của dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà
nho u nước nên hấp thụ sâu sắc tinh hoa văn hóa và những giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc. Trong thời gian bơn ba nước ngồi, Người cũng tiếp thu và học hỏi tinh hoa
văn hoa thế giới và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam để tìm ra con
đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc. Người hiểu quy luật phát triển dân tộc, xã hội và
thời đại là sự kết tinh của sự tiến bộ nên một ngày sau khi thành lập nước, Hồ Chí Minh
khẩn cấp mở một chiến dịch chống nạn mù chữ để nâng cao dân trí, Người ln nhắc nhở
mọi người không ngừng phấn đấu để nâng cao trí tuệ, văn hóa và văn minh. Trong tác


phẩm Đời sống mới, Hồ Chí Minh cho ta thấy một chủ trương độc đáo và cái nhìn sâu
sắc về xây dựng đời sống mới: không phủ nhận, bác bỏ hồn tồn cái cũ và cũng khơng
nhất thiết cái gì cũng làm ra mới. Mọi điều mới được xây dựng và kế thừa dựa trên những
truyền thống tốt đẹp của ông cha. Theo Người, cái gì xấu thì nhất quyết phải bỏ, có
những cái cũ tuy khơng xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý; cịn cái gì cũ
mà tốt thì phải phát triển thêm.

Tiến tiến và bản sắc dân tộc là hai yếu tố luôn song hành cùng nhau trong hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh. Người đặc biệt quan tâm để việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc, đặc biệt là tinh hoa cộng đồng các dân tộc phản ánh lịch sử hàng nghìn năm
đấu tranh dựng nước và giữ nước của ơng cha ta. Theo Người, nền văn hóa Việt Nam là
nền văn hóa có cội nguồn từ truyền thống văn hóa dân tộc, thể hiện tâm hồn, cốt cách,
bản sắc của con người Việt Nam: truyền thống yêu nước thương nịi, tinh thần đồn kết,
cố kết cộng đồng; tinh thần nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù
sáng tạo trong lao động sản xuất; tinh thần dũng cảm, kiên cường bất khuất, mưu trí, gan
dạ trong chống giặc ngoại xâm.... Người phê phán mọi biểu hiện tơn sùng văn hóa ngoại,
bảo tồn truyền thống văn hóa tốt đẹp và loại bỏ những yếu tố tiêu cực trong đời sống tinh
thần của nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa ln là điểm tựa tinh thần vững chắc với sức sống
mãnh liệt và đang trở thành một bộ phận của nền văn hóa Việt Nam. Dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh, nền văn hóa Việt Nam trong thời hiện đại khơng ngừng phát triển và
đổi mới, trên cơ sở bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc, kết hợp tinh hoa văn hóa
của thời đại.

Chương II: Thực trạng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
1. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
trước thời kỳ đổi mới qua bản “Đề cương văn hóa Việt Nam” (1943)


Trước năm 1943, tình hình trên thế giới, Đơng Dương và trong nước có những diễn biến
căng thẳng và cực kỳ nghẹt thở. Sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc (1914 –
1918), những cuộc khủng hoảng liên tiếp xảy ra, đỉnh điểm là vào năm 1929 khiến cho
mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc càng trở nên sâu sắc. Đúng như dự đoán của Quốc tế
Cộng sản, nền dân chủ tư sản dần chuyển sang nền chuyên chính phát xít dần được hình
thành, phát triển và thiết lập. Đây là nền chuyên chính độc tài, tàn bạo, dã man và hiếu
chiến. Nó bóc lột thậm tệ giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Ngày 3 tháng 9 năm

1939, cuộc chiến tranh thế giới thứ 2 bắt đầu giữa khối phát-xít xâm lược đứng đầu là
phát-xít Đức, Italia và quân phiệt Nhật với liên minh các quốc gia và các dân tộc trên thế
giới.
Tháng 9-1940, quân phiệt Nhật vào Đông Dương, thực dân Pháp đầu hàng và câu kết với
Nhật để thống trị và bóc lột nhân dân Đông Dương, làm cho nhân dân Đông Dương phải
chịu cảnh “một cổ hai tròng”. Để phục vụ cho nhu cầu chiến tranh, chế độ phát xít ở Việt
Nam đã tăng cường bóc lột nhân dân khiến cho nơng nghiệp suy sụp, công nghiệp nhẹ và
ngành thủ công sa sút làm cho mâu thuẫn giai cấp và tầng lớp càng rõ.
Về tư tưởng – văn hóa, thực dân Pháp, phát xít Nhật thi hành những chính sách cực kỳ
phản động trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, lợi dụng văn hóa để tuyên truyền chủ
nghĩa Đại Đông Á. Chúng làm cho một số tri thức không thấy được bản chất tàn bạo của
chủ nghĩa đế quốc, tun truyền “tính ưu việt” của văn hóa Phù Tang, phục hồi những
quan điểm đạo đức cổ hủ và giả dối của giai cấp địa chủ phong kiến, tuyên truyền lối
sống dâm ô đồi trụy của giai cấp tư sản, khuyến khích mê tín dị đoan, du nhập các trào
lưu văn hóa phản động,…
Trước tình hình đó, Đảng và Hồ Chí Minh đã quyết định triệu tập Hội nghị Thường vụ
Trung ương Đảng từ ngày 25 đến 28/2/2943 diễn ra tại Võng La (Đông Anh, Hà Nội) và
đưa ra bản Đề cương văn hóa Việt Nam do đồng chí tổng Bí thư Trường Chinh trực tiếp
dự thảo để có chủ trương kịp thời về văn hóa văn nghệ Việt Nam vào thời điểm chuẩn bị
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền với mục đích ngăn chính những chính sách văn hóa
phản động của địch và đẩy mạnh phong trào đấu tranh trong nước.


Đề cương đã vận dụng sâu sắc những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, thế
giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử.
Trong phép duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ rõ, hạ tầng cơ sở quyết
định thượng tầng kiến trúc. Bởi vậy, Đề cương đã xác định lĩnh vực văn hóa là một trong
ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) của cách mạng Việt Nam: nền tảng kinh tế của
một xã hội và chế độ kinh tế dựng nên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội

kia.
Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được thể hiện rất rõ trong ba nguyên tắc
của cuộc vận động văn hóa mới Việt Nam là: dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa.
Ba nguyên tắc đã đáp ứng yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng dân chủ nhân
dân và sự nghiệp đổi mới, quyết tâm xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
Để cương nhấn mạnh cần xây dựng nền văn hóa Việt Nam đậm tính dân tộc, dân tộc hóa.
Nền văn hóa Việt Nam tự hào với lịng u nước, khí phách anh hùng, độc lập, tự chủ và
luôn kiên cường trong đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc. Bởi vậy, cần phải được dân
tộc hóa để chấn hưng tinh thần dân tộc, chống tư tưởng tự ti dân tộc và miệt thị văn hóa
dân tộc. Đề cương văn hóa chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa, khiến cho văn hóa
Việt Nam phát triển độc lập.
Đề cương đã xác định rõ tính đại chúng hóa – ngăn ngừa mọi chủ trương và hành động
làm văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa rời quần chúng. Nền văn hóa mới cần
phải được sáng tạo và hoạt động để phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân, cán bộ,
chiến sĩ cách mạng; làm cho đời sống tinh thần nhân dân thêm phấn khởi, hăng hái hướng
về cách mạng.
Nguyên tắc khoa học hóa trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam xác định rõ, văn hóa cần
được khoa học hóa, chống lại những gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ. Điều
này cho phép các hoạt động văn hóa mới ở Việt Nam kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những


giá trị tốt đẹp trong các dịng văn hóa kim, cổ, đơng, tây, có giá trị thúc đẩy tinh thần yêu
nước của nhân dân ta. Để chiến thắng được kẻ thù hùng mạnh và tân tiến hơn ta nhiều
lần, đòi hỏi chúng ta khơng chỉ bồi dưỡng ý chí quyết tâm, tự tơn dân tộc mà cịn chiến
thắng bằng trí thông minh, tinh thần sáng tạo độc đáo, phát triển khoa học công nghệ.
Những định hướng cơ sở cơ sở đó làm cho văn hóa Việt Nam ngày càng hiện đại, tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Có thể coi Đề cương văn hóa Việt Nam là bản Tuyên ngơn,
là Cương lĩnh của Đảng về văn hóa trước Cách mạng Tháng Tám mà ảnh hưởng của nó
cịn tác động sâu rộng trong các văn kiện, tài liệu và nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng.

2. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ
đổi mới qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội” Đại hội XI (Cương lĩnh năm 2011)
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh
năm 2011) là văn kiện có giá trị nền tảng chính trị, tư tưởng, tổ chức và là kim chỉ nam
hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh được xây dựng trong hoàn cảnh
tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 25 cơng cuộc đổi mới của đất nước, từ
đó đề ra phương hướng phù hợp với xu thế của thời đại trong thập niên thứ hai của thế kỷ
XX với tầm nhìn đến giữa thế kỷ. Đặc biệt phương hướng xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã chứng minh được tính đúng đắn và giá trị to lớn trong sự
phát triển của đất nước trong 10 năm qua.
Đại hội VI (1986) mở đầu công cuộc đổi mới đất nước với các chủ trương tập trung đưa
đất nước vào thế ổn định và phát triển. “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội” (Cương lĩnh 1991) được Đại hội VII thông qua hoạch định
đường lối và phương hướng căn bản của Đảng về văn hóa với đặc trưng: nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, Đại hội XI đã đánh giá phân tích kết quả đạt
được cùng với những bài học kinh nghiệm từ hạn chế và có những nhận thức mới về mặt
lý luận trong lĩnh vực văn hóa. Cương lĩnh năm 2011 và Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày


9-6-2014, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã nhất quán
quan điểm về một “nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” và nhấn
mạnh tầm quan trọng của văn hóa trong mối quan hệ của con người với các lĩnh vực
khác.
Trong mục 6, dự thảo Cương lĩnh có đưa ra các vấn đề chính đó là: “Xây dựng nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm
nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và
thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát
triển… Con người là trung tâm của chiến lược phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con

người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ
của nhân dân”. Cùng với đó, Đại hội cũng đề ra mục tiêu cho giai đoạn tiếp theo là “Xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc,
con người phát triển tồn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công
dân, tuân thủ pháp luật”.
Cương lĩnh 2011 đã nhấn mạnh văn hóa đóng vai trò như “nền tảng tinh thần vững chắc”
– một nền văn hóa kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
những tinh hoa văn hóa nhân loại để xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh với trình độ
tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng hoàn thiện hướng về phẩm giá tốt đẹp
của con người, tạo nên đời sống tinh thần phong phú và đa dạng hướng về dân chủ và dân
chủ. Coi văn hóa như “sức mạnh nội sinh” đã đề cao chủ nghĩa yêu nước và truyền thống
đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường, giúp bảo đảm cho công cuộc phát
triển, xây dựng đất nước bền vững và bảo vệ thành quả cách mạng. Thực tiễn đã chứng
minh, văn hóa là sức mạnh mềm biến sức mạnh tinh thần thành sức mạnh vật chất để thúc
đẩy xã hội phát triển.
Cương lĩnh 2011 có sự tiến bộ trong nhận thức về con người và mối quan hệ giữa văn hóa
với con người trong sự thống nhất hữu cơ. Khi công cuộc đổi mới đã có những thành tựu
nhất định, kế thừa nhận thức đúng đắn của Đảng về con người trong mối quan hệ con
người với văn hóa và các lĩnh vực khác, tiếp nối quan điểm của Người “Đem tài dân, sức


dân, của dân làm lợi cho dân”, dựa vào “sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của
hàng chục triệu người” để xây dựng chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh đặt ra vấn đề cần quan
tâm toàn diện đến con người về đời sống vật chất, đời sống tinh thần, khả năng phát triển
toàn diện và đảm bảo lợi ích chính đáng trong trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ cơng dân.
Từ đây, con người chính là biểu hiện tập trung nhất của văn hóa và văn hóa sinh ra để
phục vụ và phát triển con người, như Nghị quyết số 33-NQ/TW khẳng định, “Phát triển
văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn
hóa”.
Vì lý do này, trong phương hướng xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân

tộc, Cương lĩnh năm 2011 chỉ ra “xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội” và nhấn mạnh yêu cầu “xây dựng con người Việt Nam
phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo
đức, lối sống và nhân cách”, đồng thời “hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học
vào việc xây dựng con người có thế giới quan khoa học, hướng tới chân - thiện - mỹ”.
Trong hồn cảnh đất nước ta có nhiều thay đổi, Đảng đã có những nhận thức mới trong
kế thừa và phát triển sáng tạo những quan điểm về văn hóa phù hợp với yêu cầu thực tiễn
của thời đại, trong đó tính tiên tiến và bản sắc dân tộc gắn bó hữu cơ và hồn quyện với
nhau vừa bảo vệ bản sắc dân tộc, vừa mở rộng giao lưu để tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại rút ngắn khoảng cách với những nước tiên tiến trong khu vực và thế giới.

Chương III: Thành tựu và giải pháp xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
1. Thành tựu đạt được trong quá trình xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Những quan điểm, chủ trương về xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc đã có những thành tựu nhất định trong kháng chiến và kiến quốc. Chúng ta đã xóa
bỏ dần những mặt lạc hậu, những cái lỗi trong di sản văn hóa phong kiến, trong nền văn


hóa nơ dịch của thực dân Pháp, bước đầu xây dựng nền văn hóa dân chủ mới với tính
chất dân tộc, khoa học, đại chúng. Phát triển hệ thống giáo dục, cải cách phương pháp
dạy học, thực hành rộng rãi đời sống mới, bài trừ hủ tục, lạc hậu. Động viên nhân dân
tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Công tác tư tưởng và văn hóa đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần xứng đáng
vào sự nghiệp cách mạng cả nước. Trình độ văn hóa chung của xã hội đã được nâng lên
một cách đáng kể phát huy tích cực trong chiến đấu và sản xuất. Các hoạt động nghệ
thuật cũng phát triển trên nhiều mặt với nội dung lành mạnh, cổ vũ quần chúng trong
chiến đấu và sản xuất, góp phần xây dựng cuộc sống mới, con người mới. Lối sống mới
đã trở thành phổ biến, người với người sống có tình nghĩa, đồn kết thương u nhau.

Thắng lợi của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ có sự góp phần quan trọng
của chính sách của Đảng về một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhân dân
tiếp tục củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và đoàn kết đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo tính chủ động, sáng tạo và
dân chủ trên các lĩnh vực của đời sống.
Di sản văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy nhằm phục vụ đời sống tinh thần nhân
dân. Những sản phẩm văn hóa và giá trị văn hóa mới được ra đời phục vụ nhu cầu hưởng
thụ và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần nhân dân. Giáo sư, Tiến sĩ Lưu Trần Tiêu,
Chủ tịch Hội Di sản văn hóa quốc gia cho biết, cả nước hiện có trên 40.000 di tích các
loại được kiểm kê, trong đó có 10.109 xếp hạng di tích cấp tỉnh, 3.560 di tích cấp quốc
gia, 112 di tích cấp quốc gia đặc biệt... Trong đó, UNESCO ghi danh 8 di tích và danh
thắng là di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, 13 di sản văn hóa phi vật thể. Các lễ hội,
liên hoan nghệ thuật truyền thống được duy trì và đổi mới về hình thức; thư viện, trung
tâm văn hóa được mở rộng và phát triển đến thôn bản để xây dựng mơi trường văn hóa
lành mạnh.
Văn hóa trở thành nội dung quan trọng trong các hoạt động của Đảng và đi đôi phát triển
với kinh tế, xã hội. Đội ngũ cán bộ làm cơng tác văn hóa khơng ngừng lớn mạnh; phát
huy tính tích cực tự giác của nhân dân tham gia vào các hoạt động văn hóa đặc biệt là


cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Hệ thống thơng tin, hoạt
động văn học, nghệ thuật, báo chí phát triển và mở rộng đến vùng dân tộc thiểu số, miền
núi, hải đảo, biên giới đáp ứng nhu cầu về thông tin và thu hẹp sự chênh lệch giữa các
vùng miền. Trong thời đại công nghệ thông tin, Internet và mạng xã hội phát triển, Việt
Nam rất coi trọng văn hóa truyền thống và đấu tranh với các sản phẩm phi văn hóa trong
các lĩnh vực như quyền tác giả và xây dựng ngành công nghiệp văn hóa.

2. Hạn chế trong q trình xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc
Bên cạnh những thành tựu, nền văn hóa nước ta cịn có những hạn chế sau:

Cơng tác tư tưởng và văn hóa thiếu sắc bén, thiếu tính chiến đấu và khơng có giá trị tư
tưởng nghệ thuật cao. Việc xây dựng thể chế văn hóa, các văn bản quy phạm pháp luật
cịn chậm. Sự suy thối về đạo đức, lối sống có chiều hướng phát triển. Nhiều cá thể
trong xã hội có suy nghĩ ích kỷ, lừa dối, chạy theo đồng tiền đi ngược lại với chuẩn mực
đạo đức xã hội. Có một số trường hợp nghiêm trọng ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và
Nhà nước đối với niềm tin của nhân dân.
Đời sống văn học, nghệ thuật còn những bất cập. Những thành tựu và tiến bộ đạt được
chưa đủ sức mạnh để tác động tới các lĩnh vực đời sống xã hội, tư tưởng, đạo đức, lối
sống. Rất ít tác phẩm đạt đỉnh cao tương xứng với sự nghiệp cách mạng kháng chiến vĩ
đại của dân tộc. Một số cơng trình văn hóa vật thể và phi vật thể truyền thống có giá trị
khơng được quan tâm bảo tồn, lưu giữ, thậm chí bị phá hủy, mai một. Cơng tác thực hiện
chủ trương phát triển văn hóa ở một số địa phương còn hạn chế, gây ra khoảng cách
hưởng thụ về văn hóa giữa các vùng miền.
Nguyên nhân gây nên những hạn chế trên phải kể đến như:
Chiến tranh cùng với cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp và tâm lý
bình quân chủ nghĩa đã làm giảm động lực phát triển văn hóa, giáo dục; kìm hãm năng


lực tự do sáng tạo. Một số lĩnh vực chưa lường hết được tác động của tàn dư văn hóa cũ,
lạc hậu của mặt trái cơ chế thị trường.
Sự đổ vỡ của xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô - quê hương của Cách mạng tháng
Mười, nơi khai sinh ra nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới, nơi được coi thành trì của
chủ nghĩa xã hội hiện thực khiến cho một số người hoang mang về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Nhận thức của Đảng về vai trị của văn hóa chưa đầy đủ nên các nhiệm vụ xây dựng và
phát triển văn hóa chưa được thực hiện đồng bộ, kiên quyết và triệt để. Cơ chế và chính
sách chưa phù hợp để phát triển văn hóa trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Những người làm cơng tác văn hóa chưa được đào tạo
có kế hoạch, chưa làm tấm gương cho văn hóa quần chúng.


3. Giải pháp và vận dụng xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc
Từ thực tiễn trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập,
đồng thời khắc phục những hạn chế, yếu kém trong phát huy bản sắc dân tộc và thúc đẩy
phát cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, một số giải pháp và nhiệm vụ cơ bản cần được thực
hiện như sau:
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển văn
hóa, con người: phát huy sức mạnh nội lực toàn dân tộc để xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đi cùng với phát triển kinh tế - xã hội.
Xây dựng một pháp chế và hoàn thiện thể chế nền văn hóa phù hợp với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước bằng chiến
lược tuyển chọn, đào tạo các tài năng văn hóa để đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng.
Quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ văn hóa để văn hóa gắn kết chặt chẽ với đời sống xã
hội. Để làm được điều đó, tập trung xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa gương


mẫu, trách nhiệm, tận tụy trong đạo đức và lối sống; xây dựng môi trường cải thiện chất
lượng quy mô đào tạo theo hướng hiện đại và hội nhập; bồi dưỡng và tôn vinh các cán bộ
trong lĩnh vực văn hóa song song với lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội.
Mỗi sinh viên, học sinh, người dân, mỗi cá nhân cũng như tổ chức cần xây dựng nếp
sống tốt đẹp, lý tưởng sống cao thượng, tránh xa thói quen tiêu cực và lối sống ích kỷ.
Xây dựng gia đình văn hóa ấm no, hịa thuận, bình đẳng và hạnh phúc bởi gia đình là nơi
trực tiếp ni dưỡng và giáo dục con người toàn diện. Phát triển đời sống văn hóa đa
dạng, phong phú dựa trên các thiết chế văn hóa bằng các dạng hoạt động như: câu lạc bộ,
hoạt động từ thiện, thông tin tuyên truyền,…Phát triển văn hóa khoa học, giáo dục và
nghệ thuật để trở thành nguồn lực cho công cuộc đổi mới đất nước ở tất cả các khóa cạnh:
văn hóa khoa học, văn hóa giáo dục, văn hóa nghệ thuật. Bảo đảm mơi trường văn hóa
sinh thái tự nhiên và sinh thái xã hội để hoạt động văn hóa và sản phẩm văn hóa được duy
trì và sáng tạo, khơng ngừng gắn kết nhân tố con người.

Tóm lại, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là bộ phận quan trong
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bởi vậy địi hỏi lực lượng tồn xã
hội chung tay cùng ý chí Cách Mạng kiên định để xây dựng một nền văn hóa “mở” – vừa
kế thừa và phát huy giá trị truyền thống dân tộc, vừa tự làm giàu mình dựa trên những
việc tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Điều này tạo nên một nền văn hóa
Việt Nam vừa truyền thống, bản sắc, phản ánh cốt cách dân tộc, vừa mang hơi thở của
cuộc sống hiện đại, bắt nhịp xu hướng mới và phù hợp với trình độ khoa học – văn minh
mà nhân loại đã đạt được.

Kết luận
Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cần thiết
trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Nền văn hóa
Việt Nam sở hữu những giá trị truyền thống đã được giữ gìn, bảo lưu, sáng tạo và phát
huy qua nhiều thế hệ trở thành tinh hoa văn hóa của dân tộc. Chính điều này là cơ sở để
tạo sự kết nối giữa các thế hệ, giữa con người với con người trong xã hội để tạo nên sức


sống bất diệt của dân tộc Việt Nam. Những giá trị văn hóa tốt đẹp và tiêu biểu của dân tộc
cần được kế thừa và phát huy; đồng thời sáng tạo và bổ sung những giá trị mới để phù
hợp với yêu cầu phát triển của đất nước: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Trong quá trình thực hiện đề tài “Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, em đã
nhận được sự giúp đỡ và tạo điều kiện của cô Lương Thị Phương Thảo, giảng viên môn
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến cơ đã trực
tiếp hướng dẫn chúng em hồn thành đề tài. Em xin chân thành cảm ơn!

Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (phần
Cương lĩnh, bổ sung và phát triển), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011.
2. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006.

3. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
4. Bản sắc dân tộc và sự phát triển văn hóa - TS. NGUYỄN HỒNG - Học viện Báo chí và
Tuyên truyền - Báo “Tạp chí Cộng sản”
5. Đề cương Văn hóa Việt Nam – cội nguồn của đường lối đúng, cương lĩnh của chính
sách hay - Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
6. Tư tưởng Hồ Chí Minh với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc - Báo Nhân dân điện tử.
7. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam từ sau Đổi mới đến nay - TS. NGUYỄN GIÁO - Viện
Nghiên cứu Văn hóa, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
8. Vấn đề phát triển văn hóa trong dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước – Báo Xây
dựng Đảng.



×