Lễ hội Kỳ Yên
Hàng năm, mỗi đình làng ở Bình Dương có nhiều ngày lễ:
- Các lễ tiết tứ thời có ngày đưa thần (25/12), rước thần (30/12), nguyên Đán (1/giêng),
Đoan Ngọ (5/5), khai sơn (7/1).
- Xưa kia, ngày 25 tháng chạp, lúc hội có còn làm việc tại đình, có lợi rửa con dấu bỏ vào
hộp niêm kín, rồi dựng nêu báo tin thời gian nghĩ tết. Do đó ngày đưa thần còn gọi là ngày
dựng nêu hoặc ngày niêm ấn. Đồng thời đến chiều ngày mồng 7, hương chức hội tề làm lễ
khai ấn.
- Các ngày lễ của các tôn giáo xâm nhập vào chốn đình trung có ba ngày Thượng Nguyên, Trung
Nguyên, Hạ Nguyên.
- Các ngày lễ mang tính dân gian như lễ cúng miếu, cầu an tống phong.
Nhưng quan trọng nhất là lễ Hạ Điền và Thượng Điền. Lệ Hạ Điền thường tổ chức đầu mùa mưa
- biến dạng của lễ Xuân Tế và thường ba năm có lệ lấy ngày Hạ Điền là ngày Kỳ yên. Còn lễ
Thượng Điền tổ chức vào cuối mùa mưa, gọi là Thượng Điền chạp miễu. Nhưng ở Bình Dương
thường không tổ chức lễ Thượng Điền vào những ngày cuối năm mà lại ảnh hưởng điển lễ "thu
tế", tổ chức lễ Cầu Bông (còn gọi là lễ Cầu Hoa, Kỳ Huê) tổ chức vào khoảng giữa tháng 8. Đại
khái các đình trong tỉnh Bình Dương mỗi năm đều có một lễ lớn và một lễ phụ Kỳ yên có nghĩa là
cầu an, có nơi gọi là vía thần Thành Hoàng, vía Ông. Đây là lễ hội quan trọng nhất trong năm. Lễ
này kéo dài một ngày rưỡi đến ba ngày. Theo Trịnh Hoài Đức tác giả sách Gia Định Thành
Thông Chí thì ngày giờ cúng tế tuỳ theo tục lệ của từng làng. Có chỗ chọn tháng giêng, tháng
hai, giữ nghĩa "Xuân kỳ", có nghĩa vào mùa xuân làm lễ cầu thần cho được sắp tới. Hoặc có chỗ
tháng 8, tháng 9, giữ nghĩa "thu báo", có nghĩa vào mùa thu làm lễ báo đáp sau khi gặt xong.
Hoặc dùng trong ba tháng mùa Đông, giữ nghĩa trọn năm đã thành công nên tế "chưng", tế "lạp"
tạ ơn thần (ta gọi là chạp miễu). Như thế lễ Kỳ yên hay lễ Cầu Bông đều nhằm mục đích cầu
"Phong điều vũ thuận", mùa màng bội thu, "Quốc thái dân an", làng xóm yên vui, dân giàu nước
mạnh.
Kỳ yên thường tổ chức vào các ngày 12 - 13 hoặc rằm - 16 là những ngày có trăng để dân làng
có thể đến tham dự suốt đêm, ra về thuận tiện. Trong những ngày này triều cường cao, ghe
xuồng tới lui cũng tiện. Kỳ yên thường tổ chức vào những tháng giao mùa như tháng 2, tháng 4,
tháng 11… là thời điểm dân làng rãnh rỗi. Hiện nay chúng ta thấy nhiều đình ở gần nhau thì có
ngày lễ hội trùng gống nhau. Tương truyền đó là ngày đưa sắc thần về làng nên dân làng tổ
chức hội hè ăn mừng. Nhưng đó chỉ là một cách giải thích.
Chương trình lễ Kỳ yên tại các ngôi đình ở Bình Dương diễn tiến như sau:
• Lễ Khai môn
• Lễ thỉnh sắc thần
• Lễ Tiền Hiền, Chiến sĩ, Cúng miếu.
• Tế Túc Yết
• Tế Đàn Cả
• Lễ Đưa Sắc
Lễ Kỳ yên (tại đình làng) hay các lễ cúng tế ( tại các miếu thờ phúc thần) đều mục đích tạo việc
cho dân địa phương đến lễ bái cầu làng xóm bình yên, quốc gia thịnh vượng. Lễ Cầu Bông còn
mang nét đặc trưng của nông nghiệp, lễ này có nghi tiết tế Thần Nông, Vũ Sư, Phong Bá, Lôi
Công, Điển Di… cùng các vị thần sông núi để cầu mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu. Ngày
Kỳ yên cũng là ngày tế Tiền Hiền - Hậu Hiền, Tiền Bối - Hậu Bối … Đây là một nghi lễ bắt nguồn
từ nếp nghĩ quý trọng công lao của các bậc tiên tổ có công, biểu thị tư tưởng truyền thống uống
nước nhớ nguồn, một hình thức tri ân các bậc tiền nhân có công khai sáng bồi đắp cho địa
phương.
Gần đây các đình trong tỉnh Bình Dương thịnh hành tục thờ phượng cúng tế các liệt sĩ, là con
dân trong làng hy sinh vì sự nghiệp cứu nước và giữ nước. Hoặc các đình định ra nghi thức niệm
hương tưởng nhớ đên Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Vị lãnh tụ tài ba của dân tộc. Các tục lệ này bao
hàm ý nghĩa cũng tương tự như tục lệ thờ cúng các danh nhân hữu công ở địa phương, cần duy
trì và phát huy.
Theo tên gọi, "Kỳ yên" tức là "Cầu an". Do đó ngoài nghi thức tế tự chính thống còn mang nhiều
dạng tính ngưỡng dân gian. Như trong ngày Kỳ yên có lễ cúng miễu, có thể mời bà bống diễn
xướng múa hát. Một số nơi ngày Kỳ yên có thể mời thầy Pháp đến làm lễ tống ôn, tá thổ. Một số
nơi, nhiều nhà sư đến tụng kinh cầu an cho bà con trong làng trong xóm. Tuy nhiên, không phải
nơi nào cũng như thế vì xưa kia có nơi quan niệm chính thống đã lấn át các loại tín ngưỡng dân
gian. Hơn nữa, càng về sau các loại nghi lễ không còn hợp thời, (như lễ Tống On, Tá Thổ) cũng
bị trào lưu khoa học tấn công nên đã bị trừ. Thế nhưng từ khi kinh tế thị trường mở cửa thì các
dạng tính ngưỡng dân gian này có khuynh hướng khôi phục.
Lễ hội là dịp trưng bày tài nghệ, sự khéo léo của dân chúng. Đây là dịp chị em phụ nữ thi tài làm
bánh, thổi sôi (thông qua lễ vật dâng cúng). Đây là dịp các nghệ nhân giới thiệu tài chưng kết
bằng hoa quả, cây lá, giới thiệu bộ đỉnh đồng, cái lọ cắm hoa… có một số nơi ngày Kỳ yên còn là
dịp giới thiệu các loại trái cây đầu mùa… xa hơn có nơi còn tổ chức các trò chơi dân gian, đua
ghe, đua xuồng, triển lãm gia súc, gia cầm… sau lễ hội ban tổ chức thường trích một phần quà
phát thưởng (có thể là một khúc vải, một ít tiền) giá trị vật chất tuy không nhiều nhưng về tinh
thần thì không có gì sánh được.
Nói đến lễ hội là nói đến tiệc tùng, hát xướng. Thế nhưng ở địa phương Bình Dương không có
cảnh "chiếu trên, chiếu dưới" cũng không có cảnh "miếng thịt làng bằng một sàng xó bếp". Lý do
là theo tục lệ ở Nam bộ khi chức vụ cao được phần nhiều thì phải đóng góp nhiều. Hơn nữa,
ngay từ khi những ngày đầu bị đô hộ, đình làng hội hè đã không còn do chính quyền địa phương
trực tiếp quản lý. Do đó những người tham gia lễ hội có tính tự nguyện và bình đẳng, nhưng
mang tính chiêu đãi thù tạc vui vẽ. Ở thị xã, thị trấn… cảnh ăn uống nhậu nhặt say sưa trong
ngày lễ hội đã bắt đầu lùi vào quá khứ.
Còn hát bội trong ngày Kỳ yên là chương trình văn nghệ mang tính nghi lễ gồm ba tiết mục: Khai
chầu đại bội, hát tuồng và tôn vương, hồi chầu. Tiết mục cuối cùng mang tính chúc tụng. Tiết
mục đầu tiên mang tính nghi lễ như tẩy uế, thử trống và đánh ba hồi trống khai tràng. Chương
trình đại hội là chương trình văn nghệ gồm các điệu múa cung đình giải thích thuyết tạo lập vũ trụ
theo Dịch lý từ Thái cực sinh Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Ngũ Hành. Tiếp theo chương trình đại hội
là ba màn hát: hai màn đầu có thể là cảnh loạn lạc, người trung bị gian thần hãm hại, vua bị tiếm
quyền. Nhưng màn cuối cùng bắc buộc chính nghĩa phải thắng gian tà. Như vậy chức năng hát
bội cung đình không hoàn toàn là trò biểu diễn giúp vui mà còn mang tính nghi lễ. Như thế người
cầm chầu là người thay mặt thần, thay mặt khán giả khen chê bằng tiếng trống.
"Nghe trống chiến chết điếng cái đầu, nghe trống chầu cái đầu láng mướt" là tâm trạng của dân
làng trong ngày Kỳ yên. Xưa kia theo nguyên tắc "tam niên đáo lệ Kỳ yên", tức là ba năm phải tổ
chức Kỳ yên to, có tế lễ, có hát xướng. Thế nhưng sau giai đoạn chiến tranh kéo dài một phần
truyền thống được khôi phục, nhưng nhìn chung chỉ mới có một số đình đủ điều kiện tổ chức
theo lễ.
Lễ Thần Nông
Lễ Thần Nông tức là lễ tế vua Thần Nông để cầu mong được mùa và nghề nông phát đạt.
Trên các quyển lịch cổ hàng năm, người ta thường vẽ một mục đồng dắt một con
trâu.
Mục đồng tức là vua Thần Nông, còn con trâu tượng trưng cho nghề nông.
Hình
mục đồng cũng như con trâu thay đổi hàng năm tùy theo sự ước đoán của Khâm
thiên giám về mùa màng năm đó sẽ tốt hay xấu.
Năm nào được coi là được mùa, Thần Nông có giày dép chỉnh tề, còn năm nào mùa màng
bị coi là kém, Thần Nông có vẻ như vội vàng hấp tấp nên chỉ đi giày một chân. Con trâu
được đổi màu tùy theo
hành của mỗi năm, nó có thể có một trong 5 màu vàng, đen, trắng,
xanh, đỏ đúng với các hành Thổ, Thủy, Kim, Mộc, Hỏa.
Thời phong kiến, hàng năm đều có tục tế và rước Thần Nông tại triều đình cũng như ở
các địa phương.
[
sửa]
Nghi thức lễ tế Thần Nông thời Nguyễn
Lễ tế Thần Nông hàng năm cử hành vào ngày Lập xuân, bởi vậy nên lễ tế Thần Nông còn
được gọi là tế xuân.
Theo chỉ dụ của vua Minh Mạng, hàng năm sau tiết Đông chí, tòa Khâm thiên giám phải
lo sửa soạn việc tế Thần Nông. Các quan cùng nhau họp để nặn trâu và tượng Thần
Nông.
Trước ngày lập xuân hai ngày, tại gần cửa Ðông Ba (ngày nay là cửa chính Ðông), các
quan Khâm thiên giám cho lập một cái
Ðài hướng đông. Trâu và tượng Thần Nông cũng
được đưa tới lưu tại phủ Thừa Thiên để ngày hôm sau các quan trong phủ mới rước từ
phủ tới Ðài. Các quan vận lễ phục, có quân lính mang gươm giáo, tàn lọng, cờ quạt theo
hầu.
Tới Ðài thì một lễ đơn giản được cử hành, ngụ ý trình với Thổ Công về sự hiện diện của
tượng Thần Nông và trâu. Sau đó, trâu và tượng Thần Nông lại được khiêng về kho cất.
Hôm tế xuân, tượng và trâu lại được rước ra Ðài, nhưng lần này đi rước là các quan
bộ Lễ
và các quan phủ Thừa Thiên. Khi đám rước đi qua cung vua, một viên thái giám vào tâu
để vua biết. Sau đó, đám rước lại tiếp tục đi và khi đi qua bộ Lễ, một viên quan đánh vào
mông trâu ba roi, có ý thôi thúc trâu phải làm việc.
Tới Ðài, các quan làm lễ tế Thần Nông theo như nghi lễ các cuộc tế khác. Tế Thần Nông
xong, trâu và tượng Thần Nông được quân lính mang đi chôn sau buổi lễ.
Tại các tỉnh, trong ngày Lập xuân cũng có lễ tế Thần Nông và lễ cũng được sửa soạn từ
sau ngày Ðông chí. Các quan tỉnh phụ trách việc hành lễ. Trâu và tượng Thần Nông cũng
được đem chôn.
[
sửa]
Lễ tế Thần Nông của các dân tộc khác
Người Dao Tuyển, để cảm tạ công ơn và cầu xin cho mùa màng bội thu, nhà nhà hạnh
phúc thì lễ hội ngày 6 tháng 6 âm lịch là ngày cúng Thần Nông lớn nhất trong năm.
Ngoài ra họ còn thờ cúng Thần Nông vào các ngày 1 tháng 1 âm lịch và 9 tháng 9 âm lịch
hàng năm.
[sửa]
Một số vấn đề khác
Có tài liệu cho rằng Hoàng Đế và Thần Nông là một người. Có tài liệu thì lại cho rằng
Phục Hi, Thần Nông và Hoàng Đế là ba người khác nhau (gọi chung là Tam Hoàng).
Thực ra tất cả chỉ đều là huyền thoại, không có gì đảm bảo là họ là ba người hay chỉ là
một hoặc hai người.
Câu hỏi tại sao người Việt nhận là con cháu của Thần Nông, một trong những ông vua
đầu tiên của Trung Hoa là vấn đề được nhiều người tranh cãi. Một số nhà nghiên cứu
hiện nay, dựa trên các dữ liệu về sử học, thần thoại học, ngôn ngữ học, đã giả thiết rằng
Thần Nông là một vị thần có nguồn gốc từ phương nam (từ phía nam
sông Dương Tử
xuống đến hết
Việt Nam ngày nay, đó là vùng đất cư trú của cư dân Bách Việt). Sau khi
nước Trung Hoa mở rộng từ phía tây sang phía đông (giai đoạn một), rồi từ phía bắc
xuống phía nam (giai đoạn hai) thì Thần Nông được người Trung Hoa sát nhập vào văn
hóa của họ và được coi là một trong các "ông vua" đầu tiên của họ. Thực ra trước đó,
Thần Nông đã được coi là "ông tổ" của một số bộ tộc Bách Việt. Và sau này, do ảnh
hưởng của văn hóa Trung Hoa rất mạnh, nhiều người lầm tưởng người Việt nhận một ông
vua Trung Hoa làm ông tổ của mình.
Các dữ liệu ủng hộ giả thuyết trên:
•
Thần Nông tức là vị thần về nông nghiệp, vị thần này thường được hình dung
cưỡi trâu để đi lại nên vị thần gắn liền với văn hóa lúa nước.
•
Thần Nông còn có một tên gọi khác là Viêm Đế (vua xứ nóng - vua phương nam),
và được coi là vị thần cai quản phương nam.
•
Cách đọc từ Thần Nông là cách đọc của phương nam, người phương bắc sẽ có xu
hướng đọc là Nông Thần.
o
Tuy nhiên, điều này bị phản bác rằng từ Thần Nông vẫn hiểu được theo
ngữ pháp phương bắc, và có nghĩa là người nông phu-thần linh.
•
Truyền thuyết của một số dân tộc thiểu số của Việt Nam (ít bị ảnh hưởng của văn
hóa Trung Hoa) như
dân tộc Mèo cũng coi Thần Nông là ông tổ của nghề trồng
lúa nước.
[
sửa]