Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

de cuong on tap hoc ky 1 ngu van 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.01 KB, 25 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Đề 1 Câu 1: Em hiểu như thế nào về mối quan hệ giữa ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân? Câu 2: Phân tích bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ.. Đáp án và biểu điểm Câu. 1. 2. Nội dung. Điểm. Lời nói cá nhân là sản phẩm của mỗi người cụ thể khi sử dụng ngôn ngữ chung làm công cụ giao tiếp. Mỗi cá nhân đều vận dụng ngôn ngữ chung để tạo lập nên các văn bản nói và viết dùng để giao tiếp. 1. Thông qua lời nói cá nhân, với những dấu ấn cá nhân của từng con người khi nói và viết sẽ góp phần làm phong phú ngôn ngữ chung, thúc đẩy ngôn ngữ chung phát triển.. 1. Nguyễn Công Trứ (1778-1858) là nhà thơ lớn của dân tộc ta trong nửa đầu thế kỷ 19. Văn chương lỗi lạc, có tài kinh bang tế thế, lưu danh sử sách. Lúc sống cuộc đời một hàn sĩ, lúc cầm quân chinh chiến, lúc làm lính thú, lúc làm đại quan, vinh nhục đã từng, thăng trầm đã trải, nhưng lúc nào ông cũng hăm hở chí nam nhi, sòng phẳng với nợ tang bồng, sống vì một khát vọng phi thường.. 1. Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Công Trứ vô cùng rạng rỡ, cho thấy một cá tính sáng tạo rất độc đáo được thể hiện tuyệt đẹp qua bài phú Nôm “Hàn nho phong vị phú”, và trên 60 bài thơ hát nói cực kì tài hoa. “Bài ca ngất ngưởng” là một trong những bài thơ hát nói kiệt tác trong nền thơ ca dân tộc Khổ đầu cất cao một tiếng nói, một lời tuyên ngôn của đấng nam nhi, đấng làm trai. Rất trang trọng và hào hùng: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự - mọi việc trong vũ trụ chẳng có việc nào không là phận sự của ta. Một cách nói phủ định để khẳng định tâm thế của một nhà nho chân chính. Có cái tâm thế ấy chính vì “ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”. Hi Văn là biệt hiệu của Nguyễn Công Trứ. “Tài bộ” là tài năng lớn, nhiều tài năng. Chữ “lồng” trong câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. “Vào lồng” là vào khuôn phép vua chúa nhưng vẫn là chật hẹp, tù túng trái với cái tài bộ đội trời đạp đất của ông. Sau khi đã xưng danh, nhà thơ tự khẳng định tâm thế mình, “tài bộ” mình, chí nam nhi của mình mang tầm vóc vũ trụ.. 1. 1.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Bốn câu tiếp theo ý thơ mở rộng, tác giả tự hào, khẳng định mình là một con người, một kẻ sĩ có tài kinh bang tế thế. Thời loạn thì xông pha trận mạc, giữ trọng trách trước ba quân: “Bình Tây cờ Đại tướng”. Thời bình thì giúp nước giúp vua, làm “Phủ doãn Thừa Thiên”. Đó là năm 1847, Nguyễn Công Trứ đã lên tới đỉnh cao nhất danh vọng. Ông đã từng nói: “Lúc làm Đại tướng, ta chẳng lấy thế làm vinh, lúc làm lính thú, ta cũng chẳng lấy thế làm nhục”. Sau 30 năm làm quan, Nguyễn công Trứ về trí sĩ ở quê nhà. Trở lại đời thường, cụ Thượng Trứ đã hành động một cách ngược đời, hình như để giễu đời với tất cả sự ngất ngưởng. Vị đai quan thở nào “ngựa ngựa xe xe” nay chỉ cưỡi bò vàng và cho bò đeo đạc ngựa. Cả người và bò vàng đều ngất ngưởng. Như một sự thách đố với “miệng thế”. Cho đến nay dân gian vẫn cười và truyền tụng bài thơ để vào chiếc mo cau của ông Hi Văn thuở nào: Tám câu tiếp theo trong hai khổ đôi nói lên một cách sống ngất ngưởng. Xưa kia là một vị đại thần, một danh tướng – “tay kiếm cung” - thế mà nay sống cuộc đời hiền lanh, bình dị “nên dạng từ bi”. Đi vãn cảnh chùa, đi thăm thú những danh lam thắng cảnh “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”, ông đã mang theo “một đôi di”, những nàng hầu xinh đẹp với “gót tiên đủng đỉnh”… Ông đã sống hết mình và chơi cũng hết mình. “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng” là một tứ thơ độc đáo. Câu thơ tự hào nhiều hóm hỉnh. Bụt cười, hay thiên hạ cười? Hay ông Hi Văn tự cười mình? Đã thoát vòng danh lợi rồi, thì chuyện “được, mất” là lẽ đời, như tích “Thất mã tái ông” mà thôi, cũng chẳng bận tâm làm gì? Chuyện “khen, chê” của thiên hạ, xin bỏ ngoài tai, như ngọn gió đông (xuân) phơi phới thổi qua. Có bản lĩnh, có tự tin về tài đức của mình mới có thái độ phủ định như thế, dám sống vượt lên trên mọi thế tục. Nguyễn Công Trứ tự hào khẳng định mình là một danh thần thuỷ chung, trọn vẹ “nghĩa vua tôi” Bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” được ông viết sau khi đã về trí sĩ tại quê nhà. Bài thơ vang lên như một lời tự thuật về cuộc đời, qua đó ông Hi Văn tự hào về tài năng và công danh của mình, biểu lộ một cá tính, một phong cách sống tài tử, phóng khoáng ở đời. Bài hát nói này có hai khổ đôi, tất cả có 19 câu thơ đầy vần điệu, nhạc điệu trầm bổng, réo rắt, lúc khoan thai, lúc hào hùng, đọc lên nghe rất thú vị. Hát nói là một thẻ thơ dân tộc, có bố cục chặt chẽ, chất thơ chất nhạc kết hợp rất hài hoà, hấp dẫn. 1. 0,5. 0,5. 1. 0,5. 0,5. 1.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Đề 2 Câu 1: Em hãy cho biết tại sao muốn có vố hiểu biết về ngôn ngữ chung, nhất thiết phải thường xuyên học hỏi. Câu 2: Phân tích bức tranh đời sống của phố huyện nghèo lúc chiều tối trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam (8 điểm) Đáp án và biểu điểm Câu 1. 2. Nội dung. Điểm. Học là công việc suốt đời đối với mỗi người . Lê nin đã từng nói "Học, học nữa, học mãi". 0,5. Ngôn ngữ chung là ngôn ngữ của một cộng đồng trong xã hội sử dụng thống nhất để giao tiếp, phảihọc để hoàn thiện các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ, nhất là kĩ năng nói và viết vì hai kĩ năng này có vai trò quyết định đối với việc tạo lập lời nói cá nhân.. 0,5. Qua giao tiếp hàng ngày con người học ngôn ngữ theo kênh lời nói. Vốn hiểu biết tích lũy được nhờ cách học này thường có tính kinh nghiệm; cùng vói vốn hiểu biết ấy là sự hình thành và phát triển hai kĩ năng quan trọng là nói và nghe.. 0,5. Qua trường lớp, sach vở, con người học ngôn ngữ chung chủ yếu theo kênh chữ. Vốn hiểu biết từ cách học này thường có tính chất khoa học; cùng vói vốn hiểu biết ấy là sự hình thành và phát triển hai kĩ năng quan trọng là viết và đọc. Trong Tự Lực văn đoàn, nhà văn Thạch Lam đứng thành một dòng riêng biệt. Nhất Linh với Khái Hưng còn có thể viết tiểu thuyết chung nhưng Thạch Lam thì không. Giọng điệu của Thạch Lam nhỏ nhẹ, điềm tĩnh, sâu lắng, nhiều dư vị, có sức truyền cảm đặc biệt. Thạch Lam lại hướng về các nhân vật bé nhỏ ở tầng lớp dưới của xã hội. Trong khi đó, các nhà văn khác của Tự lực văn đoàn lại hướng về các nhân vật thượng lưu. “Hai đứa trẻ” là truyện ngắn tiêu biểu cho văn phong Thạch Lam, cho khuynh hướng tư tưởng của Thạch Lam, hướng về cuộc đời, hướng về cái Thiện, cái Mĩ. Truyện của Thạch Lam không có chuyện. Truyện “Hai đứa trẻ” cũng vậy. Chỉ có hai đứa trẻ từ Hà Nội chuyển về một phố huyện nghèo, trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Chiều, hai chị em ngồi trên chiếc chõng tre ngắm cảnh phố xá lúc hoàng hôn, rồi đêm đến, tuy đã buồn ngủ ríu cả. 0,5. 1. 1.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> mắt, hai chị em vẫn cố thức để đợi xem chuyến tàu đêm từ Hà Nội chạy qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ. Thạch Lam muốn tránh lối viết tầm thường là hấp dẫn người đọc bằng cốt truyện li kì, những tình tiết éo le, những cuộc tình mùi mẫn, hoặc là những xung đột gay cấn hồi hộp. “Hai đứa trẻ” hấp dẫn người đọc bằng chất liệu thật của đời sống. Cách lựa chọn chất liệu này lại kích thích người đọc bằng những ước mơ, hoài bão tốt đẹp. Tinh thần lãng mạn ấy gắn với các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo. Thạch Lam có một lối văn nhẹ như cánh bướm đậu trên hoa. Bức tranh bằng ngôn ngữ của ông có thể ví với tranh lụa chứ không phải sơn dầu. Thạch Lam trước sau vẫn là một nhà văn lãng mạn. lãng mạn tích cực, đẹp. Trong “Hai đứa trẻ” chất lãng mạn và hiện thực hòa quyện với nhau hiện ra trong bức tranh thiên nhiên của một vùng quê vào một buổi chiều ả. Rồi màn đêm dần dần buông xuống “Một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát...” thiên nhiên thì cao rộng thì cao rộng và thơ mộng. “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Nhưng làng quê thì đầy bóng tối, thảm hại. “Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. “Đôi mắt Liên, bóng tối ngập đầy dần”. “Chỉ thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn”. Chính bức tranh đời sống rất mực chân thật vừa thấm đượm cảm xúc chữ tình này đã gây nên cảm giác buồn thương day cho người đọc. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu toát ra từ bức tranh đời sống phố huyện nghèo. Dưới mắt của hai đứa trẻ, cảnh phố huyện hiện lên thật là cụ thể, sinh động, gợi cảm. Đó là cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ đã vãn từ lâu. “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Cảnh chợ tàn phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện. Ống kính cần mẫn của nhà văn lia qua phố huyện: trên đất chỉ còn “rác rưởi, bỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Cảnh còn được miêu tả bởi khứu giác tinh tế của nhà văn “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Bức tranh phố huyện trong “Hai đứa trẻ” đầy sức ám ảnh là vì những màu sắc và hương vị như thế. Trong khung cảnh tiêu điều, buồn bã đó, hình ảnh những con người nghèo khổ, lam lũ, nhếch nhác của phố huyện hiện dần ra. Những đứa trẻ đi nhặt nhạnh những thứ rơi vãi ở bãi chợ. Mẹ con chị Tí lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng, “ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này...”. Gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để ở trước mặt”. Thằng con bò ra đất nghịch nhặt rác bẩn bên đường. Và hai chị em Liên với cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê vì thầy Liên mất việc. Bà cụ Thi điên điên tàng tàng mua rượu uống và cười “khanh khách” lảo đảo đi vào bóng tối. Tất cả đều là những kiếp sống lầm than, cực khổ, tàn tạ. Qua con mắt. 1. 1. 1.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> của bé Liên, tất cả cuộc sống chìm trong đêm tối mênh mông, chỉ còn ngọn đèn của chị Tí, cái bếp lửa của bác Xiêu, ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ của Liên... tức chỉ là mấy đốm sáng tù mù, những đốm lửa nhỏ nhoi ấy chẳng làm cho phố huyện sáng sủa mà chỉ càng khiến cho đêm tối mịt mù dầy đặc mà thôi. “Tất cả phố xá trong huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”. Hình ảnh ngọn đèn con nơi hàng nước của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ấy trở đi trở lại tới bẩy lần trong huyện là hình ảnh đầy ám ảnh và có sức gợi rất nhiều về những kiếp sống nhỏ nhoi, lay lắt, mù tối trong đêm đen mênh mông của cuộc đời. Cảnh phố huyện lúc chiều tối như một khúc nhạc buồn mà điệp khúc cứ lặp lại. Chiều tối nào mẹ con chị Tí cũng lễ mễ dọn hàng, chị em Liên lại kiểm hàng rồi tính tiền, rồi ngồi trên chõng tre ngắm cảnh. Bác phở Siêu lại gánh hàng và thổi lửa, bác Xẩm lại trải chiếu, đặt thau. Điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại đơn điệu, buồn tẻ. Họ cũng lóe lên một chút hi vọng. Hi vọng là liều thuốc an thần cho những con người khốn khổ ấy. Nhất Linh cũng từng nói những người dân quê rất nghèo khổ tiền bạc nhưng rất giàu hi vọng hão “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Hai đứa trẻ làm sao ý thức rõ rệt được cảnh tù đọng, buồn chán, bế tắc mà chúng đang sống cũng như về những khát vọng tinh thần mơ hồ của mình. Song với tâm hồn ngây thơ, nhạy cảm, cô bé Liên cảm nhận thấm thía tuy chỉ là vô thức hiện thực đó, khát vọng đó. Chính vì khao khát được thoát khỏi cảnh tù đọng mù tối ấy mà chị em Liên đêm đêm cố thức đợi chuyến tàu đi qua. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn chị Tí và ánh lửa bác Siêu. “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam không đi sâu miêu tả những xung đột xã hội, xung đột giai cấp. Ông cũng không để tâm miêu tả những bộ mặt gớm ghiếc của những kẻ bóc lột và khuôn mặt bi thảm của những kẻ bị áp bức, vì nói cho cũng Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn. Ông phác họa bức tranh phố huyện nghèo, chân thật trong từng chi tiết và trong chiều sâu tinh thần của nó. Bức tranh làng quê mù xám với những con người nhỏ nhoi đáng thương ấy thấm đẫm niềm cảm thương chân thành của tác giả đối với những người lao động nghèo khổ sống quẩn quanh bế tắc, tối tăm. Qua bức tranh ảm đạm của phố huyện và qua hình ảnh của những con người bé nhỏ với chút hi vọng le lói, ta thấy được mơ ước lớn của nhà văn là muốn thay đổi cuộc sống ngột ngạt đó cho những con người lao động nghèo khổ.. 1. 1. 1. Đề 3 Câu 1: Cái riêng trong lời nói cá nhân được biểu lộ ở các phương diện nào? (2 điểm) Câu 2 :Phân tích bài Hương sơn phong cảnh ca của Chu Mạnh Trinh (8 điểm).

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Đáp án và biểu điểm. Câu. 1. 2. Nội dung. Điểm. Giọng nói cá nhân, vốn từ ngữ cá nhân và việc tạo ra các từ mới.. 1. Sự chuyển đổi sáng tạo khi sử dụng từ ngữ chung, quen thuộc và việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo quy tắc chung, phương thức chung.. 1. Hương Sơn là thắng cảnh nổi tiếng của xứ Bắc, có Chùa Hương kì lạ trong một cái động (động Hương Tích) trên đỉnh núi. Chỉ có một đường thủy (Khe Yến) vào Chùa Hương bằng đò dọc. Phong cảnh sơn thủy hữu tình. Hội Chùa Hương bắt đầu từ rằm tháng giêng hàng năm, thu hút nhiều khách thập phương, nhiều tao nhân mặc khách, người tu, kẻ tục. Điều lí thú nhất khi trẩy hộ Chùa Hương là giữa non xanh nước biếc của bầu trời cảnh bụt được nhìn những khuôn mặt người tứ xứ, họ trút hết những lo toan, những ưu phiền ngoài bến Đục mà vui sống nơi cõi Tiên, cảnh Phật, hội Người.. 1. Thơ viết về Chùa Hương có nhiều, nhưng có lẽ nổi tiếng nhất hai bài: “Chùa Hương” của Nguyễn Nhược Pháp và “Hương Sơn phong cảnh ca” của Chu Mạnh Trinh.. 0,5. Nguyễn Nhược Pháp viết “Chùa Hương” theo thể ngũ ngôn trường thiên, còn Chu Mạnh Trinh viết “Hương Sơn phong cảnh ca” theo thể Hát nói, một thể ca trù của dân tộc. Chọn thể Hát nói, tác giả “Hương Sơn phong cảnh ca” vừa thể hiện được tình cảm lãng mạn, phóng túng của thi nhân, lại cũng vừa thêm hương thêm sắc cho thể ca trù dân tộc.. 0,5. Phong cảnh Hương Sơn được giới thiệu khái quát trong khổ thơ đầu thật tự nhiên và mới mẻ: Câu thơ đầu bốn chữ thật lạ, mở ra không gian mênh mang của phong cảnh Hương Sơn. Bầu trời cao rộng, non xanh nước biếc, trời nước giao hòa. Con người như xa lánh cõi tục mà lạc vào cảnh thần tiên, “cảnh bụt”. Đặt chân đến Hương Sơn thi nhân như thỏa nguyện, thỏa lòng “ao ước”: Nhìn vào đâu, nhà thơ cũng thấy lạ lùng, thiêng liêng, huyền ảo:. 0,5. Những từ láy tiếng “non non”, “nước nước”, “mây mây” vừa gợi được nét đặc trưng của phong cảnh Hương Sơn, sự giao hòa lạ lùng của non nước mây trời vừa tạo ra nhịp điệu khoan thai của người trẩy hội. 0,5. Trong tứ thơ khái quát, tác giả cũng không nên nhắc đến dòng chữ gây ấn tượng cho khách thập phương là “Nam thiên đệ nhất động” tương truyền là. 0,5.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> của Chúa Trịnh, trong một câu hỏi tu từ tạo ra sự huyền hồ cho cảnh vật: Phong cảnh Hương Sơn cứ hiện dần lên trong âm thanh, trong hình ảnh mộng mị: Những đảo ngữ thần tình “thỏ thẻ rừng mai”, “lững lờ khe Yến”, những phép tu từ nhân hóa thật hay “chim cúng trái”, “cá nghe kinh”. Tuyệt vời thay, con người và muông thú đều say trong “cảnh bụt”, chỉ riêng “Nam thiên đệ nhất động” mới có cảnh lạ lùng như vậy. Và cũng phải nói là chỉ riêng tâm thồn thơ Chu Mạnh Trinh mới nhìn phong cảnh Hương Sơn ra thiêng liêng như vậy. Cảnh Chùa Hương hiện lên một cách đặc sắc là nhờ phần lớn ở cách tạo nhạc. Âm thanh “thỏ thẻ” của chim rừng như ru người vào mộng, tiếng cầu kinh mùi mẫn từ trong động vọng ra dụ cả cá vào cõi Phật, “cá nghe kinh”, để rồi “một tiếng chày kình” (hai thanh bằng “chày kình” rất trầm như tiếng đàn) làm giật mình những kẻ ngoại đạo (khách tang hải).. 1. Hình ảnh màu sắc trong bút pháp miêu tả của Chu Mạnh Trinh thanh tao, huyền ảo hợp với vẻ đẹp thần tiên của phong cảnh Hương Sơn. 0,5. Phong cảnh Hương Sơn đã kì tuyệt, lại thêm con mắt của thi nhân, nên nhà thơ hướng vào đâu là ở đó hiện hình họa “Nhác trong lên ai khéo họa hình”, màu sắc lung linh lên hết thảy “Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt”. Cảnh đẹp tự nhiên mà như có bàn tay của nhà điêu khắc, thật là kì ảo. Cảnh Hương Sơn nhìn lên đẹp, nhìn vào các hang động lại càng đẹp:. 1. “Thăm thẳm” là hang sâu, tối, Chu Mạnh Trinh đã lồng vào hang “bóng nguyệt” khiến cảnh động trở nên huyền ảo. Con đường lên Chùa Hương thì vòng vo, “gập ghềnh” được mây phủ mà thành “gập ghềnh mấy lối uốn thang mây” như cảnh tiên. Thật ra Hương Sơn núi không cao, nhưng hội Chùa Hương lại vào mùa xuân, tiết trời ẩm ướt, mây sà xuống thấp, người bên trên nhìn thấy mây quấn người dưới thấp đến nỗi Chu Mạnh Trinh, nhà thơ say mê với vẻ đẹp của thiên nhiên, nặng lòng với non nước phải thốt lên. 1. “Hương Sơn phong cảnh ca” là kiệt tác của Chu Mạnh Trinh. Bài thơ hay nhiều mặt: thể Hát nói thích hợp với tinh thần tự do, phóng khoáng của thi nhân, hình ảnh gợi cảm vừa hư vừa thực với bút pháp biến hóa, nhạc điệu trong trẻo thánh thiện với bản hòa tấu âm thanh của con người, của chim muông hoa lá. Mỗi chữ, mỗi lời, mỗi hình ảnh, âm điệu đều mang theo mảnh tài hoa của Chu Mạnh Trinh và tình yêu non Hương Sơn là thắng cảnh nổi tiếng của xứ Bắc, có Chùa Hương kì lạ trong một cái động (động Hương Tích) trên đỉnh núi. Chỉ có một đường thủy (Khe Yến) vào Chùa Hương bằng đò dọc. Phong cảnh sơn thủy hữu tình. Hội Chùa. 1.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Hương bắt đầu từ rằm tháng giêng hàng năm, thu hút nhiều khách thập phương, nhiều tao nhân mặc khách, người tu, kẻ tục. Điều lí thú nhất khi trẩy hộ Chùa Hương là giữa non xanh nước biếc của bầu trời cảnh bụt được nhìn những khuôn mặt người tứ xứ, họ trút hết những lo toan, những ưu phiền ngoài bến Đục mà vui sống nơi cõi Tiên, cảnh Phật, hội Người. Đề 4 Câu 1: Lập luận phân tích cần đáp ứng được những yêu cầu nào? Câu 2: Em hãy giải thích lý do và yêu cầu khi chọn nhân vật để phân tích trong truyện ngắn "Chữ người tử tù " của nguyễn Tuân? Đáp án và biểu điểm Câu. 1. 2. Nội dung. Điểm. Để phân tích đối tượng thành các yếu tố, cần dựa trên những yếu tố, quan hệ nhất định( Quan hệ giữa các bộ phận tạo nên đối tượng, quan hệ nhân quả, quan hệ giữa đối tượng và các đối tượng khác có liên quan, quan hệ giữa người phân tích với các đói tượng phân tích). 1. phân tích cần đi sâu vào từng mặt, từng bộ phận, song cần đặc biệt lưu ý đến quan hệ giữa chúng với nhau trong một chỉnh thể thống nhất, toàn vẹn.. 1. Chọn nhân vật. Một bài làm đầy đủ, trước hết cần xác định tác phẩm và nhân vật văn học bao giờ cũng là sản phẩm của sự sáng tạo (hư cấu) , ngay cả khi tác giả vay mượn và tỏ ra trung thành với mẫu “người thực, việc thực” ngoài đời.. 1. Yêu cầu. Yêu cầu chính ở đây trả lời : Tại sao chọn nhân vật ấy mà thực chất là phân tích nhân vật văn học đã chọn , để chỉ ra cái độc đáo của nhân vật và cái đặc sắc trong sáng tạo của nhà văn.. 1. Chọn nhân vật Huấn Cao - Huấn Cao, nhân vật chính diện trung tâm của tác phẩm là hiện thân của cái Đẹp kết tinh nhiều giá trị. Hiện thân của cái tài, đức và nhân cách. Tài thì văn võ kiêm toàn, có cái đẹp uy nghi của một người hào kiệt (khởi nghĩa), lại có cái đẹp cổ kính của một nghệ sĩ tài hoa cổ xưa (viết chữ - thư pháp). Đức và nhân cách thì ngạo nghễ trước mọi thế lực mà thường tình người ta vì nể, e sợ (tiền bạc, cường quyền...) nhưng lại chí tình, độ lượng. 2.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> bao dung (liên tài) trước cái thiện (thiên lương) của con người... - Nhân vật hấp dẫn người đọc từ dòng đầu, và cứ thế, cuốn hút suốt chiều dài thiên truyện. Đó là sức mạnh nghệ thuật ở một nhân vật có lí tưởng.. 1. - Nhân vật càng hấp dẫn khi ta biết liên hệ với nguyên mẫu Cao Bá Quát , một nhân vật huyền thoại lung linh.. 1. Chọn nhân vật quản ngục: Nếu Huấn Cao như một giả định về cái Đẹp và sức mạnh hướng thiện của nó, thì quản ngục mới là nhân vật được xây dựng để hiện thực hoá sức mạn giả định ấy. Nói cách khác , có viên quản ngục, ý đồ nghệ thuật của nhà văn ( chủ đề tư tưởng của tác phẩm) mới được thực hiện. Có điều vai trò ấy của nhân vật quản ngục không dễ nhận ra, bởi nhân vật này dường như được Nguyễn Tuân giấu kín, ẩn xuống hàng hai, sau nhân vật Huấn Cao. Song chính vì vậy, khi được “phát hiện”, nhân vật sẽ mang lại nhiều khoái cảm thẩm mĩ hơn. Trái lại, ở viên quản ngục có sự vận động của tính cách ông ta: ông ta từng là người tử tế, biết yêu cái đẹp, nhưng ra vào chỗ tối tăm, đã bị hoen ố đi nhiều. Giờ đây gặp được ông Huấn người mà viên quản ngục khát khao được gặp, lòng yêu cái đẹp sống dậy, mãnh liệt đến bất chấp cả tính mạng. Và ta tin, sau khi trang sách gấp lại, viên quản ngục sẽ quay về con đường của “thiên lương”. Tác phẩm có sức ngân, chủ yếu là ở đấy. Nói khác đi, vận mệnh nghệ thuật của tính cách Huấn Cao đã hoàn kết cùng với sự kết thúc của truyện trong khi vận mệnh đó vẫn tiếp tục ở nhân vật viên quản ngục. Viên quản ngục đời hơn, thực hơn và khó xây dựng hơn. 2. Đề 5 Qua phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam ,hãy trả lời Câu 1: Vì sao chị em Liên đêm đêm lại cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua? (8 điểm).

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Câu 2: Để thể hiện tâm trạng đợi tàu của hai đứa trẻ ,nhà văn muốn nói điều gì với người đọc? (2 điểm) Đáp án và biểu điểm Câu 1. Nội dung. Điểm. V ì sao chị em Liến cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua phố huyện? Đối với mọi người - Tìm một chút ánh sáng mới Chị Tý:Hằng ngày đi mò cua bắt tép ,tối mới dọn cái hàng nước dưới gốc cây bàng:chả kiếm được bao nhiêu ,nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng ,từ chặp tối đến đêm.Do đó ,việc dọn hàng sớm hay muộn chẳng có ăn thua gì. Bác Siêu :Bán hàng phở ( gánh ) nhưng cái huyện nhỏ này,quà bác Siêu là một thứ quá xa xỉ , hai chị em Liên không bao giờ mua được. Bác Xẩm Ngồi trên manh chiếu ,cái thau sắt trắng để trước mặt ,nhưng bác chưa hát vì chưa có khách.. 1. Tất cả những con người ấy làm những việc quen thuộc của mình,nhưng dường như không phải vì mục đích đó.Họ làm vì thói quen ? Vì để tránh sự buồn chán vào ban đêm ở phố huyện nghèo?hay làm vì “chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ.”. 0,5. 2. Đối với chị em Liên: - Nhạy cảm ,còn trẻ. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen , đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần,và cái buồn của buổi chiều quê thía vào tâmhồn ngây thơ của chị.Liên không hiểu tại sao ,nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.. 0,5. - Hiện tại :Một niềm vui giữa cảnh buồn tẻ nơi phố huyện.. 0,5. +Bóng tối ngập đầy dần> trời nhá nhem tối > cụ (Thi) đi lẩn vào bóng tối Trời bắt đầu đêm... Đường phố và các con ngõ con dần chưa đầy bóng tối. Tối hết cả ,con đường thăm thẳm ra sông ,con đường qua chợ về nhà,các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa. Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh , đêm của đất quê,và ngoài kia , đồng ruộng mênh mông và yên lặng đêm ở trong phố ,tịch mịch và đầy bóng tối.. 0,5.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> +Ánh sáng mờ nhạt ,lẻ loi: Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn trong lò. Các nhà đã lên đèn...Những nguồn ánh sáng ấy điều chiếu ra ở ngoài phố khiến cát từng chỗ lấp lánh và đuờng mấp mô thêm vì những hòn đá nhỏ một bên sáng một bên tối một vài cửa hàng còn thức nhưng cửa chỉ để hé ra một khe ánh sáng.Vòm trời hàng ngàn ngôi sao lấp lánh ,lẫn với những vệt sáng của đom đóm bay là trên mặt đất hay len vào cành cây, quãng sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng của chị Tý.Về phía huyện, một chấm lửa nhỏ và lơ lửng đi trong đêm tối,mất đi,rồi lại hiện ra... Giờ chỉ còn ngọn đèn con của chị Tý ,và cái bếp lửa của bác Siêu ,chiếu sáng một vùng đất cát với trong cửa hàng ,ngọn đèn của Liên ,ngọn đèn vặn nhỏ thưa thớt từng hạt sáng lọt qua phên nứa Qua khe lá của cành bàng ,ngàn sao vẫn lấp lánh ;một con đom đóm bám vào sưới mặt lá ,vừng sáng nhỏ xanh nhấp nháy... hai ba người cầm đèn lồng lung lay các bóng dài.. 1. + Cuộc sống càng trở nên buồn tẻ theo nhịp điệu của bóng tối và ánh sáng: Cái giờ khắc của ngày tàn:chiều êm ả như ru ,văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng. Hai chị em Liên gượng nhẹ ngồi yên nhìn ra phố Chợ họp đã vãn từ lâu .Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất... Một vài người bán hàng về muộn ...còn đứng nói chuyện với nhau ít câu nữa Người bán hàng đêm ủe oải dọn hàng ;bà già điên xuất hiện nhưng rồi đi lẩn vào đêm tối ,tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng.. 0,5. Đêm tối :Các nhà đóng cửa im ỉm... Trẻ con tụ họp nhau trên thềm hè...hai chị em (Liên) ngồi yên trên chõng , đưa mắt theo dõi những bóng người về muộn ,lừ đừ đi trong đêm. Bác (Siêu) cúi xuống nhóm lại lửa ,thổi vào cái ống nứa con.Bóng bác mênh mang ngả xuống đất một vùng và kéo dài đến tận hàng rào hai bên ngõ, tất cả phố huyện bây giờ đều thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tý.. 0,5. - Quá khứ đẹp đẽ: + Hấp dẫn ,sinh động : Liên nhớ lại khi ở Hà Nội chị được hưởng những thức quà ngon ,lạ - bây giờ mẹ Liên nhiều tiền,- được đi chơi Bờ Hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ.. 0,5. + Nhiều ánh sáng :Ngoài ra,kỷ niệm Hà Nội nhớ lại không rõ rệt cái gì, chỉ là một vùng sáng rực và lấp lánh .Hà Nội nhiều đèn quá!. 0,5. - Đoàn tầu: + Chuyến tàu đó là hoạt động cuối cùng của ban đêm. Mọi người cùng. 0,5.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> mong đợi :Bác Siêu nghển cổ ra phía ga lên tiếng : Đèn ghi đã kia rồi. +Một sự khác lạ:Liên cũng trông thấy ngọn lửa xanh biếc ,sát mặt đất như ma trơi .Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu cùng văng lại ,trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi mầu sắc /âm thanh .Hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập ,tiếng xe rít mạnh khi vào ghi.Một làn khói bùng sáng trắng lên đàng xa ,tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ .Tiếng còi đã rít lên và tầu rầm rộ đi tới ... đoàn xe vút qua ,các toa đèn sáng trưng ,chiếu ssáng cả xuống đường .Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người , đông và kền lấp lánh ,và các toa cửa kính sáng. +Một sự khác lạ: Liên cũng trông thấy ngọn lửa xanh biếc ,sát mặt đất như ma trơi .Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu cùng văng lại ,trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi mầu sắc /âm thanh .Hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập ,tiếng xe rít mạnh khi vào ghi.Một làn khói bùng sáng trắng lên đàng xa ,tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ .Tiếng còi đã rít lên và tầu rầm rộ đi tới ... đoàn xe vút qua ,các toa đèn sáng trưng ,chiếu ssáng cả xuống đường .Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người , đông và kền lấp lánh ,và các toa cửa kính sáng.. 0,5. Làm xáo động cuộc sống vốn tĩnh lặng :Tiếng vang động của xe hoả đã nhỏ rồi ,và mất dần trong bóng tối,lắng lại không còn nghe thấy nữa. Cả phố huyện mới thật hết xáo động.+ Không thuộc thế giới nơi chị em Liên sống :Nhưng họ ở Hà Nội về!Liên lặng theo mơ tưởng .Hà Nội xa xăm ,Hà Nội sáng rực,vui vẻ và huyền náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua.Một thế giới khác hẳn , đối với Liên ,khác hẩnccs vầng sáng ngọn đèn chị Tý và ánh lửa của bác Siêu.. 0,5. Gợi lên những khát vọng mơ hồ nhưng cay đắng LChừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ;Liên lặng lẽ theo mơ tưởng. 0,5. Ý nghĩa:. 2. - Thương cảm với cảnh sống nghèo khó,vô danh ,vô nghĩa : Ước mơ rất đỗi bình thường và nhỏ bé ,chỉ là một đoàn tầu vụt qua trong đêm tối.. 1. - Thể hiện cái nhìn lạc quan về con người => Họ còn sự gắn bó ,muốn thay đổi trong cuộc sống .Tất cả mọi người đều biết ước mơ ,mong mỏi thay đổi nào đó ,dù rất mơ hồ ,rời rạc. Điều đó chứng tỏ ,ngày dù tàn, cảnh cũng tàn nhưng lòng và đời của họ không tàn ,nhất là với đứa trẻ như chị em Liên.. 1.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Đề 6 Câu 1: Tại sao có thể khẳng định Hồ Xuân Hương là bà chúa thơ Nôm (2 điểm) Câu 2 : Phân tích bài thơ "Tự tình" (bài II) của Hồ Xuân Hương (8 điêm) Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn, Trơ cá hồng nhan với nước non. Chén rượu hương đưa say lại tỉnh, Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn. Xiên ngang mặt đất,rêu từng đám, Đâm toạc chân mây , đá mấy hòn. Ngán nỗi xuân đi ,xuân lại lại, Đáp án và biểu điểm Câu. 1. 2. Nội dung. Điểm. Tài năng nghệ thuật của tác giả bộc lộ rõ nhất là ở những sáng tác bằng chữ Nôm.. 0,5. Tác phẩm của bà được giới nghiên cứu phê bình đánh giá cao. Đặc biệt là 26 bài thơ chữ Nôm và một số bài truyền tụng được cho là của bà.. 0,5. Nội dung thơ là tiếng nói quyết liệt đòi quyền hưởng hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Tiếng nói ấy được thể hiện qua hình thức thơ độc đáo, táo bạo trong cách dùng từ ngữ, hình ảnh phá vỡ nhiều quy phạm của thư cổ điển.. 0,5. Thơ Nôm của hồ Xuân Hương được nhiều người yêu thích, ưa chuộng và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng.. 0,5. Tự tình ở số ít những bài thơ mà Hồ Xuân Hương bộc lộ trực tiếp “cái tôi” đầy xúc cảm và bản lĩnh của mình trước cuộc sống . Bài thơ mở đầu với một không gian. 1. Nhưng đấy cũng là một thời gian.Nói đấy đủ hơn ,Tự tình là tiêng lòng cất lên vào một không – thời gian.Không - thời gian ấy trong văn học trung đại thường hiếm , và nếu có thì đó là tiếng lòng của một đấng máy râu ,xót xa , cảm hoài trước thời thế .Nếu xem Truyện Kiều ra đời sau khi Hồ Xuân Hương đẫ mất thì kiểu bộc lộc tâm tình đao là liền kề , ở Thuý Kiều ,với nhiều trạng huống ,sau khi tảo mộ ,gặp Kim Trọng (Một mình nặng ngắm bóng nga / Rộn ràng đường gần với nỗi xa bời bời…),lúc đã quyết định. 1.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> bán mình chuộc cha ( Nỗi riêng ,riêng những bàn hoàn /Dầu chong trắng đĩa , lệ tràn thấm khăn) , khi thất thân bởi Mã Giám Sinh (Đêm xuân một giấc mơ màng/Đuốc hoa đẻ đó mặc nàng nằm trơ/Nỗi riêng tầm tã tuôn mưa),hoặc lúc ở lầu xanh Khi tỉnh rượu lúc tàn canh /Giật mình mình lại thương mình xót xa)… Đêm khuya thanh vắng là lúc con người thường đối diện với chính ản thân mình , để xót thương , để tự vấn , tự nhìn ngắm lại bản thân.Tự tình là một cách đối diện như thé . Đấy là lúc những âm vang của cuộc đời dường như không động đến con người ,song con người lại cảm nhận được cả bước đi của cuộc đời .Tiếng trống cnah chỉ văng vẳng , tức ngưòi nghe phải lắng tai nghe , nhưng nhịp điệu của nó thì đã qua đầy đủ ,với tất cả sự hối hả , thúc giục ( trông canh dồn ).Nó thúc giục người ta chẳng phải để hành động mà soi lại đời mình:. 1. Hồng nhan là gương mặt hồng , má hồng , đồng thời cũng để người đàn bà đẹp,người đàn bà đẹp .Cách Hồ Xuân Hương trên ,dưới bốn trăm năm có một người từng một mình một bóng dưới ánh trăng thanh , cũng cảm nhận bước đi của thời gian với bao u hoài:. 1. Ở đây , người đang cảm nhận về cuộc đời lại là một phụ nữ.Thế cuộc cũng khác .Nguời đó biết được giá trị của mình ( là hồng nhan = người đàn bà đẹp ,có tài sắc ) .Nhưng biết được phẩm giá của mình không phải để sung sướng ,tự hào .Trái lại , biết chỉ thêm ngậm ngùi cay đắng.Vì sao như vậy? Từ cái đạt trước một dnah từ sẽ khiến danh từ ấy mang sác thái ngữ nghĩa của sự xem thường ,khinh miệt,như:cái thằng ấy ,cái con ấy v.v… hồng nhan vốn là danh từ để chỉ người đẹp khi đặt sau từ cái đã không còn nguyên giá trị nữa .Sự tươi xinh , đẹp đẽ kia chỉ có giá trị tự nó thôi.Chưa hết ,trước cái hông nhan là tính từ trơ,vốn có hàm nghĩa xấu ,chỉ sự không biết xấu hổ ( Cứ trơ cái mặt ấy ra! ), đồng thời chỉ sự lẻ loi ,không biết nương tựa vào đâu (Đứng trơ giữa đồng) .Hoá ra,hồng nhan -một phẩm giá con người trong cuộc thế này đã trở thành thứ gì chẳng có 1ích gì, thậm chí đang xấu hổ nữa!. 1. Bốn câu thơ tiếp theo nói rõ thêm cái tình thế đáng buồn đó: Chén rượu cũng như miếng trầu là những thứ không làm cho người no nê,nhưng nhiều lúc khiến người ta vui sướng , thân mật , bớt buồn , quên đời.Thế mà,chén rượu ở đây không giúp ích điều đó ,bởi hương đưa say lại tỉnh.Vầng trăng tròn chỉ sự viên mãn ,tốt đẹp, song mong ước ấy mãi chưa tới ( Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn ).Thành ra hai câu luận có vẻ như tả cảnh ( về mặt đất ,về bầu trời ) mà thực ra là sự bộc lộ một thái độ. 1.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> bực dọc theo kiểu của Hồ Xuân Hương .Cuộc đời đang diễn ra trước mắt của nữ sĩ thật vẹo vọ,khập khễnh ,chẳng ra dáng ra hình gì ! Hai câu kết đẩy đến cùng tâm trạng của Hồ Xuân Hương trước cuộc đời: Cuộc đời đáng chán , đáng buồn như thế thì cái sự xuân tới ,xuân qua nào có gì đáng nói ? Nó lặp đi lặp lại buồn tẻ đến mức người ta phải ngán ngẩm.Hồ Xuân Hương không nói tới nỗi buồn -dường như điều đó trái với bản tính của thi sĩ , người thích sự thẳng thắn , mạnh mẽ .Bà nói tới nỗi niềm ngán ngẩm .Phải buồn lắm , chán lắm ngưòi ta mới có tâm trạng như vậy .Và ,cũng phải đau đớn , phẫn uất lắm người ta mới có một cách thề như vậy trước cuộc đời! ảnh tình san sẻ tí con con!. 1. Đề 7 Câu 1 Hãy cho biết nét đáng chú ý về thời đại và con người nhà thơ Nguyễn Khuyến (2 điểm) Câu 2: Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu (Thu điếu, ) của Nguyễn Khuyến (8 điểm) Đáp án và biểu điểm Câu. 1. 2. Nội dung. Điểm. Nguyễn Khuyến có làm quan với triều Nguyễn khoảng hơn 10 năm, ông từ chối phục vụ cho bọn tay sai của TD Pháp. Ông từ quan về quê sống và dạy học, giữ tiết tháo thanh cao của một nhà nho yêu nước.. 1. Giữa đời thơ và đời văn của Nguyễn Khuyến có mối quan hệ khăng khít. là một trí thức tài năng, sống thanh cao, có khí tiết, gần gũi với người dân lao động gắn bó với quê hương đất nước. Chính vì thế mà thơ văn ông thấm đượm một lòng yêu nước thiết tha nhưng u uất và cha chứa tinh thần nhân bản cao đẹp.. 1. Mùa thu ở đất bắc là khoảng thời gian kết thúc cái oi nồng nàn của mùa hạ, chưa kèm theo mưa dầm gió bấc của mùa đông. "Câu cá mùa thu" của Nguyễn Khuyến là hiện tượng độc đáo và là chiến công hiến xuất sắc của nhà thơ.. 1.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Nhà thơ - hoạ sĩ họ Nguyễn đã đưa chúng ta về một vùng chân quê quanh năm ngập nước của đất Hà Nam đầu thế kỷ này vào độ thu sang.. 0,5. Bài thơ dừng lại ở một không gian và thời gian cụ thể : trên một ao thu , vào một chiều thu, một ông già trên chiếc thuyền câu cá thả mồi đợi cá.. 0,5. Nơi quê hương nhà thơ trước đây lắm ao ,lắm vũng .Có lẽ không riêng gì Nguyễn Khuyến mà dân quê cả vùng nhất là các ông già ,lúc rảnh rỗi thường lên thuyền nan ngồi thả mồi đợi cá , coi đó là một lạc thú tiêu khiển chăng? Đối với cụ Tam nguyên mùa thu câu cá quả là một lạc thú.. 1. Ông đẩy thuyền ra xa bờ để được đắm chìm trong thiên nhien bao la ,trời nước một màu .Chỉ có câu kết nói đến chuyện thả câu ,bài thơ chủ yếu ghi nhận những diễn ra quanh mình . Ở đây mọi chi tiết đều được chắt lọc sao cho mỗi cảnh sắc chỉ cần điểm một nét ,cộng hưởng thành màu sắc thu đích thực và độc đáo . Ông kết hợp tuyệt diệu hình ảnh và từ ngữ .Cả bức tranh có vẻ tĩnh lặng nhưng từng chi tiết thì động và gợi cảm. 1. Ao thu lạnh lẽo nước trong veo :nước tinh khiết và lạnh gây cảm giác khẽ rùng mình .Thuyền câu vỗn đã nhỏ bé khi nhập vào không gian bao la trở nên bé xíu “bé toẻ teo”.Ngư ông dường như cảm thấy mình quá bé trước cái tối vĩnh đại của tạo hoá!. 0,5. Thuyền vừa xa bờ dẫn đến một cảm giác thu mơi :Phẳng lặng, trong xanh vốn là đặc tình của măth nước ao thu, hồ thu . Màu biếc xao động khi gió thu khẽ khàng lướt qua . “Hơi gợn tí” nhưng cũng đủ mạnh để đưa chiếc lá già của cây cao gần bờ lìa cành “đưa vèo” xoay xoay giữa không gian theo chiều gió ...Gió thu là như vậy.. 1. Hai câu 3 - 4 ,Xuân Diệu đã viết : “Thật tài tình !Nhà thơ đã tìm được cái tốc độ bay của lá , vèo , dễ tương xứng với cái mức độ gợn của sóng: “tí” .. 0,5. Chắc là sau khi đã buông câu ,nhà thơ mới có dịp ngẩng đầu nhìn trời và làng mạc vây quanh .Trời thăm thẳm một màu xanh .vài đám mây bạc lững lờ trôi như tôn thêm đọ cao xa của không gian ( Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt ) . Đường đi lối lại trong thôn viền rặng uốn lượn vòng vèo không ồn náo nhiệt như những ngày mùa mà êm đềm u tịch...Nhà thơ “tựa gối ôm cần” chìm đám vào cảnh vật tựa sống trong mơ.... 0,5. Câu kết thúc Cá câu đớp động dưới chân bèo.Tiếng động của cá đớp mồi đã trả nhà thơ về cõi thực.Nguyễn Khuyến là ông ngư trên chiếc thuyền nan mỏng mảnh.. 0,5.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Bài thơ là viên ngọc quý trong vườn thơ Việt Nam. Nó đậm đà màu sắc quê hương đất nước.Hình tượng và ngôn ngữ thơ đạt đến đỉnh cao của sự giản dị mà đầy chất thơ.Từ nét bút tạo hình đến các thủ pháp nghệ thuật khác như sử dụng từ ngữ trau chuốt ,chính xác, đối ngẫu rất chỉnh, gieo vần phong phú độc đáo ,kết hợp nhạc điệu và âm thanh tinh tế ...cả ba bài đều viết theo thể thơ Đường hoàn chỉnh nhưng khi đọc không có cảm giác đó là thể thơ ngoại lai. Nguyễn Khuyến đã góp phần Việt hóa đến kì tài thể thơ ngoại nhập này.. 1. Đề 8 “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu có một “Tượng đài nghệ thuật” mang tính chất bi tráng về người dân yêu nước chống ngoại xâm. Hãy Phân tích bài văn tế để làm rõ vẻ đẹp hiếm có của hình tượng nghệ thuật đó. Đáp án và biểu điểm Câu. Nội dung Điểm Năm 1859, giặc Pháp tấn công thành Gia Định, Nguyễn Đình Chiểu viết bài thơ “Chạy giặc”, hai câu kết nói lên niềm mong ước thiết tha: "Hỏi 0,5 trang dẹp loạn rày đâu vắng, Nỡ để dân đen mắc nạn này”. Mấy năm sau, nhà thơ viết bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” - đỉnh điểm nghệ thuật và tư tưởng trong sự nghiệp thơ văn của ông. Có thể coi bài văn tế là tấm lòng trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu trang trải đối với những 0,5 nghĩa sĩ anh hùng của nhân dân ta trong buổi đầu chống Pháp xâm lược. Nhà thơ lỗi lạc đất Đồng Nai đã dựng nên một “Tượng đài nghệ thuật” mang tính chất bi tráng về người nông dân yêu nước chống ngoại xâm. Sau khi chiếm đóng 3 tỉnh miền Đông, giặc Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam Bộ. Năm 1861, vào đêm 14-12 nghĩa quân đã tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc, thuộc tỉnh Long An ngày nay. Trận đánh diễn ra vô cùng ác 0,5 liệt “làm cho mã tà, ma ní hồn kinh”. Gần 30 chiến sĩ nghĩa quân đã anh dũng hy sinh. Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài văn tế này – bài ca về người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang. “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một “tượng đài nghệ thuật” hiếm có. “Bi 0,5 tráng” là tầm vóc và tính chất của tượng đài nghệ thuật ấy: vừa hoành tráng, hùng tráng vừa thống thiết, bi ai. Hùng tráng ở nội dung dựng lên giưa một bối cảnh thời đại sóng gió dữ dội, quyết liệt của đất nước và dân tộc. Hoành tráng về quy mô, nó không chỉ khắc hoạ một nghĩa quân, một anh hùng mà là đông đảo những “Dân ấp, dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ” dưới ngọn cờ “Bình tây” của Trương Công Định. Tính chất,.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> quy mô hùng tráng, hoành tráng ấy lại gắn liền với bi ai, đau thương, thống thiết. Cái “tượng đài nghệ thuật” về người nông dân đánh giặc Pháp giữa thế kỷ XIX đã được dựng nên trong nước mắt. Trong toàn bài văn tế, đặc biệt trong phần thích thực và ai vãn, ta cảm nhận sâu sắc tính chất bi tráng này. Mở đầu bài văn tế là một lời than qua cặp câu tứ tự song hành. Hai tiếng “Hỡi ôi!” vang lên thống thiết, đó là tiếng khóc của nhà thơ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo: “Súng giặc, đất rền; lòng dân trời tỏ” Tổ quốc lâm nguy. Súng giặc nổ vang rền trời đất và quê hương xứ sở. “Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây…”(“Chạy giặc”). Trong cảnh nước mất nhà tan, chí có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc để cứu nước cứu nhà. Tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của nhân dân, của những người áo vải mới tỏ cùng trời đất và sáng ngời chính nghĩa. Có thể nói cặp câu tứ tự này là tư tưởng chủ đạo của bài văn tế, nó được khắc trên đắ hoa cương, đặt ở phía trước, chính diện của “Tượng đài nghệ thuật Hình ảnh trung tâm của “Tượng đài nghệ thuật” “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là những chiến sĩ nghĩa quân. Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo, sống cuộc đời “cui cút” sau luỹ tre xanh. Chất phác và hiền lành, cần cù và chịu khó làm ăn, quanh quẩn trong xóm làng, làm bạn với con trâu, đường cay, sá bữa, rất xa lạ với “cung ngựa trường nhung”: "Nhớ linh xưa Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; Chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ" Họ là lớp người đông đảo, sống gần gũi quanh ta. Quanh năm chân lấm tay bùn với nghề nông “chưa hề ngó tới” việc binh và vũ khí đánh giặc: “Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó” Thế nhưng khi đất nước và quê hương bị giặc Pháp xâm lăng, những “dân ấp dân lân” ấy đã anh dũng đứng lên “Mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Đánh giặc để cứu nước cứu nhà, để bảo vệ “bát cơm manh áo ở đời” là cái nghĩa lớn mà họ, “mến” và đưo đuổi. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những câu cách cú hay nhất (giản dị mà chắc nịch) ca ngợi lòng yêu nước căm thu giặc của người nghĩa sĩ “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”. Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có một thái độ “ăn gan” và “cắn cổ”, chỉ có một chí khí; “Phen này xin ra sức đoạn kình… chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. Hình ảnh người chiến sĩ nghĩa quân ra trận là những nét vẽ, nét khắc, hùng tráng nhất, hoành tráng nhất trong “tượng đài nghệ thuật” bài văn tế. Bức tượng đài có 2 nét vẽ tương phản đối lập: đoàn dũng sĩ của quê hương với giặc Pháp xâm lược. Giặc cướp được trang bị tối tân, có “tàu thiếc, tàu đồng”, “bắn đạn nhỏ, đạn to”, có bọn lính đánh thuê “mã tà, ma ní” thiện. 0,5. 0,5. 0,5. 0,5. 0,5. 0,5 0,5.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> chiến. Trái lại, trang bị của nghĩa quân hết sức thô sơ. Quân trang chỉ là “một manh áo vải”. Vũ khí chỉ có “một ngọn tầm vông”, hoặc một “lưỡi dao phay”, một súng hoả mai khai hoả “bằng rơm con cúi”. Thế mà họ vẫn lập được chiến công: “đốt xong nhà dạy đạo kia” và “chém rớt đầu quan hai nọ”. “Tượng đài nghệ thuật” đã tái hiện lại những giờ phút giao tranh ác liệt của các chiến sĩ nghĩa quân với giặc pháp: “Chi nhọc quan quản gióng trống ky, trống giục, đạp vào lưới tới, Coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có. Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã Tà, ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lú ó sau, trố kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ”. Đây là những câu gối hạc tuyệt bút. Không khí chiến trận có tiếng trống thúc quân giục giã, có “bọn hè trước, lũ ó sau” vang dậy đất trời cùng với tiếng súng nổ. Các nghĩa sĩ của ta coi cái chết như không, tấn công như vũ bão, tung hoành giữa đồn giặc: “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược”, “hè trước, ó sau”… Giọng văn hùng tráng, phép đối tài tình, các động từ mạnh được chọn lọc và đặt đúng chỗ… đã tô đậm tinh thần chiến đấu quả cảm vô song của các nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nguyễn Đình Chiểu đã dành cho các chiến sĩ nghĩa quân những tình cảm đẹp nhất: ngợi ca, khâm phục, tự hào. Qua đó, ta thấy, trước Nguyễn Đình Chiểu chưa có nhà văn nào viết về người nông dân đánh giặc hay và sâu sắc như thế Trong bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” còn có những giọt lệ, lời than khóc, một âm điệu thống thiết, bi ai được thể hiện ở phần ai vãn. Nhiều nghĩa sĩ đã ngã xuống trên chiến trường trong tư thế người anh hùng: “Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ”. Đất nước, quê hương vô cùng tiếc thương. Một không gian rộng lớn bùi ngùi, đau đớn: Đoái sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng; Nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai hàng luỵ nhỏ.” Tiếng khóc của người mẹ già, nỗi đau đớn của người vợ trẻ được nói đến vô cùng xúc động. “Hàng trăm năm sau, chúng ta đọc Nguyễn Đình Chiểu có lúc như vẫn còn thấy ngòi bút nhà thơ nức nở trên từng trang giấy”(Hoài Thanh): “Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đè Khuya leo lét trong lều; não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trứơc ngõ”. Các nghĩa sĩ đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Tấm gương chiến đấu và hy sinh của họ là “Tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm” đời đời bất diệt, sáng rực mãi, trường tồn cùng sông núi. Rất đáng tự hào: “Ôi! Một trận khói tan; nghìn năm tiết rỡ”.Bài học lớn nhất của người nghĩa sĩ để lại cho đất nước và nhân dân là bài học về sống và chết. Sống hiên ngang, chết bất khuất. Tâm thế ấy đã tô đậm chất bi tráng “Tượng đài nghệ thuật” về người nông dân đánh giặc: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh. 0,5. 0,5. 0,5. 0,5. 0,5 0,5.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> giặc, linh hồn theo giúp Cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia…” Dám xả thân vì nghĩa lớn, “cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm”, các chiến sĩ nghĩa quân trong “văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là niềm tự hào và biết ơn sâu sắc của nhân dân ta T óm lại, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” khẳng định văn chương lỗi lạc, tấm lòng yêu nước thương dân mãnh liệt, thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu. Đúng là “Người thư sinh dùng bút đánh giặc” (Miên Thẩm). Một giọng văn vừa hùng tráng vừa thống thiết bi ai. Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên một “tượng đài nghệ thuật” mang tính chất bi tráng về người nông dân yêu nước chống ngoại xâm. “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một kiệt tác trong văn tế cổ kim của dân tộc.. 0,5. 1. Đề 9 Câu 1: Phân tích nhân vật Chí Phèo tác phẩm cùng tên của Nam Cao để làm nối bật bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo. Câu 2: Em có nhận xét gì về nhân vật Bá Kiến trong truyện ngắn "Chí Phèo" Đáp án và biểu điểm. Câu 1. Nội dung Điểm Nam Cao - một trong những cây bút xuất sác nhất của dòng văn học hiện thực,phê phán trước Cm tháng tám .ông nổi tiếng với các sáng tác về đề tài người nông dân và người trí thức tiểu tư sản. tiêu biểu cho đề tài về người 0,5 nông dân và trí thức tiểu tư sản.Tiêu biểu cho đề tài về người nông dân là tác phẩm "Chí Phèo " với nhân vật tên Chí trong vòng xoáy bi kịch cự tuyệt quyền làm Chí Phèo là một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội cũ. Đó là một con người cụ thể. Bản chất của Chí Phèo là một con 0,5 người lương thiện, luôn muốn sống lương thiện nhưng lại bị xã hội lúc bấy giờ biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bi kịch này bắt đầu diễn ra trong nội tâm Chí Phèo khi hắn gặp Thị Nở với “bát cháo hành”. Chính tình yêu Chí Phèo - Thị Nở đã đánh thức con 0,5 người lương thiện của hắn. Hay nói cách khác chính sự xuất hiện Thị Nở đã cứu Chí Phèo thoát khỏi tấn bi kịch dù trong phút chốc Ý nghĩa khái quát của nhân vật Chí Phèo. Chí Phèo là đại diện cho bi kịch của người nông dân bị tha hóa dưới xã hội cũ. Mặc dù thế ở họ luôn âm ỉ 0,5 một sự phản kháng mãnh liệt, một khát vọng rất đẹp: Tìm về lương thiện. Khác hẳn với các nhà văn hiện thực phê phán đương thời,trong tác phẩm 2 "Chí Phèo",Nam Cao không đi sâu vào miêu tả quá trình đói cơm rách áo, bần cùng khốn khổ...của người nông dân ,mặc dù trong thực tế ,đó cũng là hiện thực phổ biến. Nam CAo trăn trở, băn khoăn sy ngẫm nhiều hơn về.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> một hiện thực còn thảm khốc ,bức xúc hơn cả đói rét bần cùng,đó là hiện thực về sự tha hóa, một mối đe dọa thảm khốc trong xã hội đương thời,về nhân phẩm bị vùi dập,chà đạp bởi một bộ máy thống trị tạn bạo .Vấn đề nhâm phẩm,vấn đề quyền con người được đặt ra,chi phối cảm hứng sáng tạo trong nhiều sáng tạo của Nam Cao,trong đó Chí Phèo là tác phẩm thể hiện trực tiếp,tập trung mãnh liệt hơn cả .Mở đầu tác phầm là tiếng chửi ngoa ngoắt , thách thức của Chí Phèo đang ngật ngưỡng trong cơn say "Hắn vừa đi vừa chửi.Bao giờ cũng thế, cứ rươu song là hắn chửi .Bắt đầu hắn chửi trời .Có hề gì trời nào của riêng nhà nào?Rồi hắn chửi đời.Thế cũng chẳng sao :đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai .Tức mình ,hằn chửi tất cả làng Vũ Đại .Nhưng cả làng Vũ Đại , ai cũng tự nhủ "Chắc nó trừ mình ra !"Tức thật ! ờ thế này thì tức thật Tức chết đi được mất ! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn .Nhưng cũng không ai ra điều .Mẹ kiếp ! Thế có phí rươu không? Thế có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này .Đẻ ra cái thằng Chí Phèo "đây là mội tiếng chửi của một tên say rượu, một tiếng chửi vô thức .Nhưng nhiều khi vô thức ,con người lại thể hiện chính mình nhiều hơn khi thức .Qua tiếng chửi của Chí Phèo ta cảm thấy như đang đối diện với một người - vật quái gở và đơn độc ở tận cùng của sự đau khổ của mình.Và cũng qua lời chửi của Chí Phèo ta cảm thấy được 3 thái độ khác nhau,đó là thái độ hằn học thù địch của Chí Phèo , thái độ khinh miệt dửng dưng của người đời đối với Chí , thái độ phẫn uất của tác giả thể hiện qua giọng văn vừa xót xa vừa tàn nhẫn .Trước kia Chí rất lương thiện . Chỉ sau khi ở tù về,hắn mới hóa thành một con người khác hẳn ,bị tước mất cả nhân tính với "cái đầu trọc lốc ,cái răng cạo trắng hớn , cái mặt thì đen và cơng cơng , hai mắt gườm gườm trông gớm chết " sau khi ở tù về hắn đã trở thành con quỷ dũ của lành Vũ Đại mà không tự biết. Cuộc đời hắn không có ngày tháng bởi những cơn say triền miên ... Hắn ăn và ngủ trong cơn say , đập đạu rạch mặt chửi bới trong lúc say, để rồi say nữa , say vô tận ... Trong tác phẩm "Chí Phèo " Nam Cao đã chỉ ra rằng Chí Phèo không phải là một ngoại lệ. Cùng với hắn còn có Binh Chức ,Năm THọ .Đó là kết quả tất yếu cho một logic, một khi đã có Bá Kiến ,Lí Cương,Đội Tảo ...thì ắt sẽ có Chí Phèo , Binh Chức , Năm Thọ .Đó không phải chỉ là sản phẩm của sự thống trị mà thậm trí còn là phương tiện tối cần thiết để thống trị . Như thế xã hội không chỉ đẻ ra Chí Phèo mà còn tiếp tục nuôi Chí Phèo, biến những người như Chí Phèo thành công cụ thống trị của chúng . Những người dân lương thiện ấy bị biến thành công cụ , phương tiện thống trị cho kẻ thù mà không tự biết . Nam Cao đã chỉ ra hậu quả của sự soi sáng vào quá trình miêu tả một cảm hứng nhân văn sâu sắc . Nhưng điều đặc sắc ở tác giả là ngay trong khi miêu tả nhân vật bị tha hóa đến tận cùng , ông vẫn phát hiện ra chiều sâu của nhân vật bản tính tốt đẹp vốn có ,chỉ cần một chút tình thương khẽ chạm vào là có thể sống dậy mãnh.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> liệt , tha thiết . Vì vậy ,sự xuất hiện của Thị Nở - con người dương như hội tụ đủ tất cả yếu tố bất lợi cho một người phụ nữ , có một ý nghĩa thật đặt sắc. Con Người xấu " ma chê quỷ hờn " ấy , kì diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất dọi vào chốn tăm tối của Chí Phèo , thức tỉnh, gợi dậy bản tính người bên trong Chí Phèo , thắp sáng một trái tim đã bị ngủ mê qua bao ngày tháng bị vùi dập và hắt hủi . Sau khi gặp Thị Nở, Chí Phèo được tập trung miêu tả qua tâm trạng bi kịch .Đó là một buổi sáng thật trong lành , bao nhiêu âm thanh êm đềm, bình dị ,thân thiết dã dội vào lòng thức tỉnh của con người trong Chí Phèo . Tất cả những hình ảnh đấy , âm thanh đấy gợi nhác những giấc mơ xa xôi một thời đã làm cho Chí Phèo cảm thấy cô độc , nhất là sự cô độc khi tuổi già , cái này còn sợ hơn đói rét bệnh tật . Như vậy tình yêu thương mộc mạc của Thị Nở đã đánh thức được cái bản chất lương thiện của Chí Phèo ,sau bao ngày chìm đắm trong cơn say , sau bao ngày hung dữ , hoang dại như một con thú mang hình người. Khi Thị Nở bưng bát cháo hành tới , nhìn bát cháo hành bốc khói mà lòng Chí xao xuyến bâng khuâng " Hắn cảm thấy long thành trẻ con , hắn muốn được làm nũng với Thị như làm nũng với mẹ ...Ôi sao mà hắn hiền ! Hắn thèm lương thiện -Hắn khao khát được làm hòa với mọi người " Tù một con quỷ dữ , nhò Thị Nở, đúng hơn là nhờ tình thưong của Thị Nở , Chí thực sự chở lại làm con người , với tất cả nhưng năng lực vốn có của con người là yêu thương, cảm xúc , ao ước Đoạn văn miêu tả diễn biến tâm lí (sắc sảo nhất) nhân vật Chí Phèo là đoạn từ “khi Chí Phèo mở mắt thì trời đã sáng…đói rét và ấm no”. - Một lần hắn tỉnh. Những thanh sắc cuộc sống “mặt trời chắc đã cao”, “tiếng chim ríu rít” lại hiện lên mặc dù hắn đang ở trong cái lều ẩm thấp. Lần đầu tiên hắn tỉnh, và cũng là lần đầu tiên hắn có những rung động với trước cuộc sống. Hắn nghe “tiếng cười nói của những người đi chợ”, “nghe tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”. - Rồi những kỉ niệm xưa lại hiện về. Có lần hắn ước ao “một gia đình nho nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải…mặc dù chỉ là mơ hồ. - Từ đấy hắn cảm thấy buồn cô độc. Hóa ra chỉ cần một chút tình thương , dù là tình thương của một con người dở hơi ,bệnh hoạn , thô kẹch , xấu xí ... cũng đủ làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí .Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu đến mức nào! Bằng chi tiết này Nam Cao đã soi vào tác phẩm một ánh sáng nhân đạo thật đẹp đẽ , nhà văn như muốn hòa vào nhân vật để cảm thông , chia sẻ nhưng giây phút hạnh phúc thật hiếm hoi của Chí PhèoNhưng bi kịch và đau đớn thay , ngay cả Thị Nở cũng không thế gắn bó với Chí Phèo .Và thật khắc nhiệt , khi bản tính nơi Chí trỗi dậy , Chí hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa . Chí uống rượu và càng uống lại càng tỉnh và hắn thấm thía nỗi đau thân phận con người , càng thấm thía nỗi đau đã cướp đi cái quyền làm người của hắn , cướp đi cả bộ. 0,5. 1.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> 2. mặt lẫn tâm hồn người. Vậy nên ,thay vì đến nhà Thị Nở ,Chí Phèo đã đến nhà Bá Kiến vì lòng căm thù bấy lâu nay cháy bùng lên làm cho Chí Phèo vô cùng tỉnh táo .Hành động này quá bất ngò đối với Bá Kiến , với cả làng Vũ Đại. Ai cũng coi đây là vụ giết người dữ dội của con quỷ dữ Chí Phèo .Nhưng hôm nay , tâm hồn người trở về , mọi người cũng không nhận ra . Nam Cao miêu tả bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo hết sức tinh tế và sâu sắc như là một quá trình tự vận động của tính cách .Tù lương thiện biến thành lưu manh . từ một kẻ đâm thuê chém mướn bỗng thèm lương thiện , bị cự tuyệt quyền làm người thì trả thù kẻ làm hại đời mình rồi tự sát. Nam Cao vừa vạch trần cái xã hội thối nát , độc ác vừa lên tiếng đấu tranh cho những người nông dân lương thiện bị đẩy vào con đương tha hóa , lưu manh hóa .Truyện Chí Phèo là một truyện ngắn độc đáo , thấm nhuần tinh thần nhân đạo . Một Chí Phèo tỉnh đã giết chết một Chí Phèo say . Chí chết nhưng đọng lại trong ta hình ảnh Chí đòi quyền sống , quyền được lương thiện , và Chí chết trong bi kịch của sự đau đớn. Đây không phải hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống Cách tổ chức, dẫn dắt tình tiết của tác giả trong truyện Chí Phèo. Chí Phèo là một đưa con rơi, ra đời trong cái lò gạch cũ, bị người nhặt rồi đi khắp nơi. Khi lớn lên làm canh điền trong nhà Bá Kiến lại bị vợ ba Bá Kiến gọi lên “bóp chân”; Bá Kiến sanh ghen đưa đi tù. Trở về làng Vũ Đại Chí Phèo lại trở thành “con quỷ dữ của làng “Vũ Đại” tác oai tác quái dân lành. Chí Phèo chìm trong cơn say, chỉ có một lần hắn tỉnh thật sự vào một buối sáng (đã được Thị Nở đánh thức). Nhưng rồi tình yêu bị đổ vỡ. Bế tắc, đi tìm lương thiện, hắn giết Bá Kiến rồi tự giết mình. Chí Phèo chết nhưng chưa hết truyện. Thị Nở “nhìn nhanh xuống bụng” và “và thoáng hiện ra cái lò gạch cũ”. Một Chí Phèo con sắp ra đời. Cách sắp xếp khá tinh tế độc đáo. Cứ mỗi lần Chí Phèo ngoi lên thì lại bị cuộc đời này đè xuống. Khiến người đọc phải theo dõi liên tục không thể rời được. Giọng điệu kể chuyện của tác phẩm Chí Phèo: Tác giả đã nhập vai các nhân vật của mình hết sức nhuần nhuyễn. Nhiều đoạn là lời kể của tác giả nhưng người đọc có cảm tưởng như những đoạn bộc bạch, độc thoại nội tâm của nhân vật. Một CP tỉnh đã giết chết 1 CP say . CP bằng xương , bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lọng người đọc là CP đòi quyền sống , đang dõng dạc đòi làm người lương thiện. Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về , CP không bằng lòng sống như trước nữa . Và CP chết trong bi kịck đau đớn , chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống . Đây khong thể là hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống Hình tượng nhân vật Bá Kiến. Bá Kiến là một nhân vật điển hình cho tầng lớp địa chủ, cường hào ở nông. 1. 0,5. 0,5. 1.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> thôn thời bấy giờ: độc ác, tìm mọi cách để bóc lột lường gạt nông dân, sẵn sàng cấu kết với nhau để bóc lột người nghèo, nhưng cũng tìm cách xâu xé, hãm hại nhau. Bá Kiến đối xử với Chí Phèo hết sức nham hiểm, tàn nhẫn, khi thì dọa nạt, khi thì mềm mỏng ngọt ngào. Chính hắn đã biến Chí Phèo từ một con người lương thiện trở thành lưu manh. Cũng chính hắn cũng biến Chí Phèo trở thành một tên tay sai đắc lực cho hắn tiêu diệt Đội Tảo đe dọa dân làng Vũ Đại. 1. Đề 10 Trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, có một “tượng đài nghê thuật” mang tính chất bi tráng về người nông dân yêu nước, chống ngoại xâm. Anh (chị) hãy phân tích bài văn tế để làm rõ vẻ đẹp hiếm có của hình tượng nghệ thuật đó. Đáp án và biểu điểm. Câu. Nội dung Điểm Vẻ đẹp hiếm có của hình tượng người nông dân yêu nước, chống Pháp đựơc dựng lên trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu) như 1 một tượng đài mang tính bi tráng. Bài văn tế khóc thương người nông đân Cần Giuộc vì nghĩa mà đứng lên đánh giặc Pháp và đã hy sinh. Đó là đỉnh cao sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, rất bình dị mà đã dựng lên tượng đài nghệ thuật rất đẹp, mang tính bị tráng - Người nông dân Nam Bộ nghèo khó, “côi cút làm ăn” sống đời thầm lặng, cơ cực ở thôn ấp. Họ chỉ biết ruộng trâu, đã biết gì đến võ nghê, võ khí, chiến trận. Nhưng tấm lòng của họ rất đẹp: yêu nước cao độ, không đội trời chung với bọn xâm lăng và đã cầm gậy, cầm dao tự nguyện đứng lên đánh giặc trong thời đại “ vĩ đại và khổ nhục” của dân tộc. - Tượng đài đẹp hùng tráng: + Về trang bị: không có áo giáp mà với “manh áo vải thô sơ” với “ngọn tầm vông” quen thuộc của quê hương. Lần đầu tiên “ngọn tầm vông” đã đi vào văn học với ý nghĩa cao đẹp và nét tạo hình giàu giá trị thẩm mĩ. + Về tinh thần, hành động : Với trang bị thô sơ, thiếu thốn, người dân ấp dân lân dùng “rơm con cúi, lưỡi dao phay”, nhưng vật dùng của quê hương, gia định – mà chống lại súng đạn, tàu thiếc tàu đồng của Tây. Đến đây, đoạn văn ngắt nhịp ngắn, khẩn trương cùng với hàng loạt từ ngữ đầy. 1. 1. 0,5 2.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> sức mạnh chiến đấu quật cường “đạp rào lướt tới, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có. Kẻ đâm ngang, người chém ngược.Bọn hè trước, lũ ó sau…”. Tất cả làm hiện ra quần thể tượng đài người nông dân yêu nước trong tư thế tấn công mạnh mẽ hào sảng. - Những người nông dân chất phác đã tự dựng cho mình tượng đài anh hùng, cao cả, đầy nghĩa khí và nhà thơ mù đã xây dựng họ thành hình tượng nghệ thuật, thành quần thể tượng đài hào hùng cao đẹp trong áng văn tế bất hủ của mình. + Kết quả chiến đấu: Đốt đồn giặc, chém rớt đầu tên quan chỉ huy. + Tuợng đài vừa tráng vùa bi: a) Đây là những người anh hùng thất thế: Những người nông dân đã lấy gan đồng chọi với đạn sắt, lất cái yếu chống cái mạnh, lấy vũ khí thô sơ chống phương tiện hiện đại. + Tuy đã chiến đấy ngoan cường, đánh một trận oanh liệt tưng bừng nhưng họ đã ngã xuống hi sinh trong chiến bại. + Giọt nước mắt của sông nước cỏ cây, của nhân dân và đặc biệt nỗi đau của mẹ già, vợ yếu. - Ý thức yêu nước mãnh liệt, lòng khâm phục và xót đau với người nghĩa sĩ trong trận Cần Giuộc đã tạo ra kiệt tác cho nhà thơ mù Đồ Chiểu. Vẻ đẹp của quần tượng này vừa mới lạ xưa nay chỉ có các chủ soái mới được đề cao như thế) vừa rất đẹp, rất hào hùng, rất bi tráng, rất đáng tự hào. Đây là nước mắt của nhà thi sĩ anh hùng lao chẳng ráo, khóc thưiưng những anh hùng ngã xuống nhưng bất tử.. 1 0,5 0,5 0,5 0,5 0,5 1.

<span class='text_page_counter'>(26)</span>

×