Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Luận văn Thạc sĩ Châu Á học: Thành ngữ, tục ngữ Hàn Quốc nói về động vật và thực vật. (Một vài so sánh với Việt Nam)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 119 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------

LÊ THỊ HƢƠNG

THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ HÀN QUỐC NÓI VỀ
ĐỘNG VẬT VÀ THỰC VẬT
(MỘT VÀI SO SÁNH VỚI VIỆT NAM)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Châu Á học

Hà Nội, 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------

LÊ THỊ HƢƠNG

THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ HÀN QUỐC NÓI VỀ
ĐỘNG VẬT VÀ THỰC VẬT
(MỘT VÀI SO SÁNH VỚI VIỆT NAM)

Chuyên ngành: Châu Á học
Mã số: 60 31 06 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. Mai Ngọc Chừ



Hà Nội, 2015


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn “Thành ngữ, tục ngữ Hàn Quốc nói về động vật và thực vật.
(Một vài so sánh với Việt Nam)” là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới
sự hướng dẫn của GS Mai Ngọc Chừ - Khoa Đông Phương, Trường Đại học
KHXH&NV, ĐHQGHN. Các tài liệu sử dụng tham khảo, trích dẫn trong
Luận văn đều đảm bảo rõ nguồn, trung thực. Các kết quả nghiên cứu được
cơng bố trong Luận văn là hồn tồn chính xác.
Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 2015
Tác giả
Lê Thị Hƣơng


LỜI CẢM ƠN
Hồn thành luận văn này, trước hết tơi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến
GS. TS Mai Ngọc Chừ – người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tơi trong suốt
q trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn đến các thầy cô khoa Đông Phương học,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã
dạy bảo tôi trong suốt thời gian vừa qua.
Trân trọng cảm ơn các thầy cô trong Hội đồng đã đọc, nhận xét và góp
ý về luận văn.
Qua đây, tơi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, người thân,
bạn bè,… những người đã tạo điều kiện thuận lợi, cổ vũ và động viên tôi rất
nhiều trong quá trình thực hiện luận văn này.
Dù người viết đã có nhiều cố gắng song luận văn chắc chắn khơng
tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Kính mong nhận được sự chia sẻ,

những ý kiến đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn.
Tác giả
Lê Thị Hƣơng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài. ........................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. ......................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 3
5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................ 4
6. Đóng góp của luận văn................................................................................ 4
7. Bố cục của luận văn..................................................................................... 5
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 6
1.1. Khái niệm thành ngữ. .............................................................................. 6
1.2. Khái niệm tục ngữ. ................................................................................... 8
1.3. Phân biệt thành ngữ và tục ngữ ............................................................ 11
1.4. Một số biện pháp tạo nghĩa biểu trƣng của thành ngữ, tục ngữ. ...... 16
1.5. Nghĩa biểu trƣng của thành ngữ, tục ngữ. ........................................... 20
CHƢƠNG 2: THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ HÀN QUỐC NÓI VỀ ĐỘNG
VẬT. MỘT VÀI SO SÁNH VỚI VIỆT NAM. ........................................... 24
2.1. Khái quát chung thành ngữ, tục ngữ nói về động vật. ....................... 24
2.2. Thành ngữ, tục ngữ nói đến một số loài động vật tiêu biểu và so sánh
với Việt Nam. ................................................................................................. 27
2.2.1. Thành ngữ, tục ngữ liên quan đến con bò ......................................... 27
2.2.2. Thành ngữ, tục ngữ liên quan đến con ngựa ..................................... 32
2.2.3. Thành ngữ, tục ngữ liên quan đến con hổ, báo. ................................ 36
2.2.4. Thành ngữ, tục ngữ liên quan đến con gà ......................................... 40
2.2.5. Thành ngữ, tục ngữ liên quan đến con chuột .................................... 46

2.3. Thành ngữ, tục ngữ nói đến một số lồi động vật khác và so sánh với
Việt Nam......................................................................................................... 49


CHƢƠNG 3: THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ HÀN QUỐC NÓI VỀ THỰC
VẬT. MỘT VÀI SO SÁNH VỚI VIỆT NAM. ........................................... 62
3.1. Khái quát chung về thành ngữ, tục ngữ nói về thực vật .................... 62
3.2. Thành ngữ, tục ngữ nói đến một số loại thực vật tiêu biểu và so sánh
với Việt Nam. ................................................................................................. 65
3.2.1. Thành ngữ, tục ngữ liên quan đến hạt đậu. ....................................... 65
3.2.2. Thành ngữ, tục ngữ liên quan đến cây (cành, lá, rễ). ....................... 70
3.2.3. Thành ngữ, tục ngữ liên quan đến hoa. ............................................. 74
3.2.4. Thành ngữ, tục ngữ liên quan đến bầu, bí. ........................................ 76
3.2.5. Thành ngữ, tục ngữ liên quan đến gạo (thóc, lúa, mạ). .................... 79
3.3. Thành ngữ, tục ngữ nói đến mốt số loại thực vật khác và so sánh với
Việt Nam......................................................................................................... 81
KẾT LUẬN .................................................................................................... 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 92
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 97


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Bảng tục ngữ tiếng Hàn có chứa hình ảnh động vật. ........................ 25
Bảng 2: Bảng tục ngữ tiếng Việt có chứa hình ảnh động vật. ........................ 26
Bảng 3 : Bảng so sánh một vài thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn và tiếng Việt nói
về động vật. ..................................................................................................... 54
Bảng 4: Bảng tục ngữ tiếng Hàn có chứa hình ảnh thực vật. ......................... 64
Bảng 5: Bảng tục ngữ tiếng Việt có chứa hình ảnh thực vật. ......................... 64
Bảng 6: Bảng so sánh một vài thành ngữ, tục ngữ tiếng Hànvà tiếng Việt nói
về thực vật. ...................................................................................................... 84



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Thành ngữ và tục ngữ là những sáng tạo dân gian mang đậm bản
sắc dân tộc, do vậy khi nghiên cứu ngôn ngữ, văn hóa của bất kì quốc gia nào
trên thế giới, người ta khơng thể khơng nói đến thành ngữ và tục ngữ. Thành
ngữ, tục ngữ là sản phẩm của tư duy, là công cụ diễn đạt tri thức và ghi lại
những kính nghiệm quý báu về cuộc sống lao động, sản xuất, đấu tranh…của
con người. Bên cạnh đó, thành ngữ và tục ngữ còn mang những giá trị giáo
huấn rất cao. Thành ngữ, tục ngữ sâu sắc, thâm thúy về nội dung, phong phú,
đa dạng về nghệ thuật biểu hiện, do đó có sức sống lâu bền, có thể truyền từ
đời này sang đời khác.
Trong giao tiếp ngôn ngữ, thành ngữ và tục ngữ chiếm một vị trí vơ
cùng quan trọng. Vì vậy, đối với việc giảng dạy ngoại ngữ, một trong những
nhiệm vụ hàng đầu là phải giúp người học nắm được và sử dụng được các
thành ngữ, tục ngữ. Tuy nhiên để có thể sử dụng thành ngữ, tục ngữ thuần
thục như người bản ngữ là điều không dễ. Do vậy, ngoài việc nâng cao nghiệp
vụ sư phạm, đặc biệt là các thao tác giảng dạy ngoại ngữ, người dạy ngoại
ngữ không thể không tập trung nghiên cứu sâu về các thành ngữ, tục ngữ để
hiểu được cái hay, cái đẹp của chúng, đồng thời nâng cao hiệu quả việc giảng
dạy ngoại ngữ.
1.2. Hiện nay số người học tiếng Hàn ở Việt Nam tăng nhanh, tiếng
Hàn được giảng dạy khơng chỉ cho các sinh viên chính quy ở các trường đại
học mà còn cho rất nhiều đối tượng khác nhau, kể cả công nhân làm việc
trong các nhà máy của người Hàn ở Việt Nam và Hàn Quốc. Quan hệ Việt
Nam – Hàn Quốc nâng lên tầm đối tác, hợp tác chiến lược đã tạo điều kiện
cho Hallyu (Hàn lưu) nói chung và tiếng Hàn nói riêng càng ngày càng được
phổ biến rộng rãi ở Việt Nam. Để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy


1


tiếng Hàn cho người Việt Nam đồng thời tìm hiểu cái hay, cái đẹp của ngôn
ngữ này, chúng ta không thể không chú ý đến thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn.
Cũng giống như thành ngữ, tục ngữ của Việt Nam, thành ngữ và tục
ngữ của Hàn Quốc rất đa dạng, phong phú về nội dung, trong đó nhiều thành
ngữ tục ngữ nói về động - thực vật, về cuộc sống, hoạt động sản xuất của con
người. Chúng tôi cũng rất quan tâm đến động vật và thực vật, thêm vào đó,
gần như chưa có đề tài nghiên cứu về động vật và thực vật. Chính vì vậy,
chúng tơi quyết định lựa chọn đề tài “Thành ngữ, tục ngữ Hàn Quốc nói về
động vật và thực vật (Một vài so sánh với Việt Nam)” làm tiêu đề cho luận
văn cao học của mình. Thơng qua luận văn, chúng tơi muốn làm rõ hơn đặc
trưng, tính chất, điểm tương đồng và khác biệt trong thành ngữ, tục ngữ về
động thực vật của hai nước.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Tình hình nghiên cứu trong nước:
Đề cập đến mảng đề tài này, ở Việt Nam gần đây cũng đã xuất hiện
một số bài báo, luận văn, luận án.v.v… nghiên cứu về thành ngữ, tục ngữ Hàn,
chẳng hạn: “Quan niệm đền bù về đạo đức của người Hàn Quốc thông qua ca
dao, tục ngữ và những thay đổi trong thời hiện đại” của PGS. TS Đỗ Thu Hà,
2002; “Nghiên cứu đối chiếu thành ngữ Hàn – Việt có thành tố cấu tạo là tên
gọi động vật từ góc nhìn ngơn ngữ - văn hóa”, 2009; “Hình ảnh đơi mắt trong
tục ngữ, thành ngữ Hàn Quốc” của Phan Hồng My Thương, 2010; “Một số
tín hiệu thẩm mỹ trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn”, 2013 .v.v…
Tình hình nghiên cứu ngồi nước:
Do đây là mảng đề tài còn khá mới và hiếm nên phần lớn là những cơng
trình nghiên cứu của các học giả Hàn Quốc. Liên quan đến mảng đề tài này
thì chúng ta có thể kể đến những cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như là:
“Quan điểm về cuộc sống của người Hàn Quốc phản ánh qua tục ngữ” của

Yu In Chang” (1981); “Nghiên cứu yếu tố ý nghĩa của tục ngữ tiếng Hàn”
2


của Kim Chung Hyo” (1983); “Khảo sát về chức năng ý nghĩa của tục ngữ
tiếng Hàn” của Kim Ji Man (1986); “Nghiên cứu phân tích cấu tạo của tục
ngữ tiếng Hàn” của Jo Jae Yun (1986); “Nghiên cứu so sánh tục ngữ có từ
chỉ động vật của Hàn Quốc và Trung Quốc – trọng tâm là những tục ngữ liên
quan đến “chó” của Choi Sang Jin (2010) …v.v.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1.

Mục đích nghiên cứu

Thực hiện đề tài, chúng tơi hy vọng góp phần khẳng định được ý nghĩa
biểu đạt, giá trị biểu trưng của thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn. Qua đó làm sáng
tỏ giá trị ngơn ngữ, văn hóa cũng như lối tư duy của người Hàn, đặc biệt là
những thành ngữ, tục ngữ nói về động – thực vật.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nêu trên, đề tài của chúng tôi hướng đến những
nhiệm vụ sau:
- Thống kê, phân loại các thành ngữ, tục ngữ nói về động vật và thực
vật trong tiếng Hàn.
- Phân tích ý nghĩa và giá trị biểu trưng của các thành ngữ, tục ngữ
Hàn về động vật và thực vật.
- So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa các thành ngữ, tục ngữ nói
về động vật, thưc vật trong tiếng Hàn và tiếng Việt.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thành ngữ, tục ngữ nói về động
vật và thực vật trong tiếng Hàn.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn sử dụng 181 thành ngữ Hàn Quốc nói về động vật và 85
thành ngữ nói về thực vật; 2.111 câu tục ngữ Hàn Quốc nói về động vật và
667 câu tục ngữ nói về thực vật được đăng tải trên trang chủ của Viện ngôn
ngữ quốc gia Hàn Quốc (www.korean.go.kr). Bên cạnh đó, luận văn cịn sử
3


dụng từ điển giấy (Từ điển thành ngữ; từ điển tục ngữ; Từ điển thành ngữ bốn
chữ) làm tư liệu cho luận văn thêm phần phong phú.
Ngoài ra, luận văn của chúng tôi dùng 794 câu tục ngữ Việt Nam có
hình ảnh động vật; 635 câu tục ngữ Việt Nam có hình ảnh thực vật dựa theo
cuốn “Biểu trưng trong tục ngữ người Việt” của tác giả Nguyễn Văn Nở
(2010) để làm tư liệu so sánh; đối chiếu với tục ngữ tiếng Hàn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Để thực hiện được 3 nhiệm vụ nêu trên, trong luận văn này, chúng tôi
sử dụng các phương pháp tương ứng như sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại các thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn có
liên quan đến động vật và thực vật.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu là phương pháp cơ bản chúng tơi sử
dụng trong tồn bộ luận văn, đối chiếu các thành ngữ và tục ngữ tiếng Hàn
với tiếng Việt.
- Phương pháp phân tích ngữ nghĩa, ngữ cảnh cũng được sử dụng trong
luận văn của chúng tôi. Qua việc phân tích ngữ nghĩa và ngữ cảnh của các
thành ngữ, tục ngữ đó, chúng tơi thấy được giá trị biểu trưng, lớp nghĩa biểu
trưng.
Để thực hiện luận văn này, chúng tơi có tham khảo một số thành ngữ,

tục ngữ tiếng Hàn trong luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thùy Dương (2013)
“Một số tín hiệu thẩm mỹ trong tiếng thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn”.
6. Đóng góp của luận văn.
Nghiên cứu đề tài này, chúng tơi có những đóng góp như sau:


Cung cấp con số chính xác về thống kê, phân loại một cách có hệ

thống các thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn nói về động thực vật.
 Bước đầu làm sáng tỏ những đặc điểm ngữ nghĩa và giá trị biểu
trưng của các thành ngữ, tục ngữ Hàn nói về động vật và thực vật.

4


 Chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt trong cách sử dụng thành ngữ,
tục ngữ của người Hàn Quốc và người Việt Nam.
 Luận văn hoàn thành sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho những
người quan tâm đến tiếng Hàn và văn hóa Hàn Quốc cũng như cho các sinh
viên có chun ngành ngơn ngữ Hàn Quốc hay Hàn Quốc học.
7. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
luận văn được triển khai thành 3 chương với các tiết sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
Chương 2: Thành ngữ, tục ngữ Hàn Quốc nói về động vật. Một vài so
sánh với Việt Nam.
Chương 3: Thành ngữ, tục ngữ Hàn Quốc nói về thực vật. Một vài so
sánh với Việt Nam.

5



CHƢƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm thành ngữ
Khi nghiên cứu về thành ngữ, nói chung các học giả Việt Nam đã đưa ra
nhiều điểm khá thống nhất. Tuy nhiên, đi vào chi tiết, việc quan niệm về
thành ngữ giữa các tác giả khơng phải khơng có những ý kiến khác nhau.
Dương Quảng Hàm (1951), trong “Việt Nam văn học sử yếu” quan niệm:
“Thành ngữ là những lời nói có sẵn để ta tiện dùng mà diễn đạt một ý gì hoặc
một trạng thái gì cho có màu mè.” [20; tr 15]. Hồ Lê trong “Vấn đề cấu tạo từ
của tiếng Việt hiện đại” coi thành ngữ là “những tổ hợp từ có tính vững chắc
về cấu tạo và tính bóng bẩy về ý nghĩa dùng để miêu tả một hình ảnh, một
hiện tượng, một tính cách hay một trạng thái nào đó.” [32; tr 97]. Nhà ngôn
ngữ học Nguyễn Văn Tu (1968) ở “Từ vựng học tiếng Việt hiện đại” thì cho
rằng: “Thành ngữ là từ tố cố định mà các từ trong đó đã mất tính độc lập đến
một trình độ cao, kết hợp làm thành một khối vững chắc, hoàn chỉnh. Nghĩa
của chúng không phải do nghĩa của từng thành tố (từ) tạo ra. Những thành
ngữ này cũng có hình tượng hoặc cũng có thể khơng có. Nghĩa của chúng đã
khác nghĩa của những từ nhưng cũng có thể cắt nghĩa nguyên do như từ
nguyên đọc.” [46; tr 147 ]. Các tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu,
Hoàng Trọng Phiến (2001), trong “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt” xem
thành ngữ là “cụm từ cố định hoàn chỉnh về cấu trúc và ngữ nghĩa. Nghĩa của
chúng có tính hình tượng và gợi cảm”. [7; tr 157 ]. Nguyễn Thiện Giáp (2008)
trong “Giáo trình ngơn ngữ học” quan niệm: “Thành ngữ (idiom) là những
cụm từ trong cơ cấu cú pháp và ngữ nghĩa của chúng có những thuộc tính
đặc biệt, chỉ có ở cụm từ đó. Nói cách khác, thành ngữ là một cụm từ mà ý
nghĩa của nó không được tạo thành từ ý nghĩa của các từ cấu tạo nên nó.”
Ngồi ra trong cuốn “Từ vựng học tiếng Việt”, ông đã định nghĩa thành ngữ


6


một cách rất ngắn gọn: “Thành ngữ là những cụm từ cố định vừa có tính
hồn chỉnh về nghĩa, vừa có tính gợi cảm” . Theo Hồng Văn Hành (2010)
trong “Tuyển tập ngôn ngữ học”, “Thành ngữ là một loại tổ hợp từ cố định,
bền vững về hình thái – cấu trúc, hồn chỉnh và bóng bẩy về nghĩa, được
sử dụng với chức năng như từ” và “Thành ngữ là một hiện tượng trung
gian nằm ở khu đệm, giữa một bên là từ, thuộc từ vựng; một bên là ngữ,
thuộc cú pháp; và một bên nữa là các hiện tượng thuộc văn hóa dân gian
(tục ngữ, ca dao)…”.
Tại Hàn Quốc, trong “Nghiên cứu thành ngữ quốc ngữ”, Kim Moon
Chang (1974) quan niệm “Thành ngữ là cụm từ hoặc từ có cấu tạo từ hai từ
trở lên hoặc mang ý nghĩa đặc biệt khác với phương pháp diễn đạt thông
thường của một ngôn ngữ.” Theo Park Young Sun (1985), trong “Nghiên cứu
về thành ngữ” thì “Thành ngữ là một hình thái ngơn ngữ được kết hợp từ hai
từ trở lên, nó được sử dụng phổ biến giữa những từ kết hợp phi cú pháp. Về
mặt cấu trúc, thành ngữ là từ ghép được ghép bởi hai từ trở lên, còn về mặt ý
nghĩa nó là loại ngơn ngữ đặc thù mang ý nghĩa thứ ba mà không mang theo
ý nghĩa cơ bản”. [44; tr 7].
Có một tình hình đáng chú ý là, vì cách quan niệm của các học giả khơng
hồn toàn trùng nhau nên trong dịch thuật, để biểu thị khái niệm tương đương
với thuật ngữ “thành ngữ”, người ta có thể diễn đạt bằng nhiều cách khác
nhau, chẳng hạn, thành ngữ, quán ngữ, quán dụng cú, ngữ quán dụng, thậm
chí cả cách biểu đạt qn dụng, những lời nói quen thuộc hay lời nói thường
xuyên sử dụng.v.v…
Tuy nhiên, dù có nhiều định nghĩa khác nhau về thành ngữ nhưng tựu
chung lại các tác giả đều thống nhất với nhau ở chỗ: Đó là tập hợp từ cố định
đã quen dùng mà nghĩa của nó thường khơng thể giải thích được một cách
đơn giản bằng nghĩa của các từ tạo nên nó. Ví dụ: Một nắng hai sương, Rán

sành ra mỡ, An cư lạc nghiệp , Ăn cây táo rào cây sung, v.v.
7


Trong hệ thống thành ngữ tiếng Hàn, đặc biệt là những thành ngữ nói về
động – thực vật, chúng ta có thể thấy một số ví dụ tiêu biểu như sau:
“견견견견” (Khuyển vượn chi gian), là thành ngữ dùng để chỉ những
người có tính cách trái ngược khơng thể sống hịa hợp với nhau và nó tương
đương với thành ngữ “như chó với mèo” trong tiếng Việt. “견견견견” (Cửu
ngưu nhất mao) hàm ý chỉ sự quá ít ỏi, chẳng thấm tháp gì, chẳng có tác dụng
gì như việc chín con trâu mất một sợi lông. Thành ngữ này tương đương với
“Như muối bỏ biển” hay “Hạt cát trong sa mạc” trong tiếng Việt. “견견견견
(Tái ông thất mã), đây là thành ngữ chỉ sự luân hồi của phúc - họa, trong họa
có phúc, trong phúc có họa. Trong tiếng Việt, chúng ta thường dùng: “Trong
cái rủi có cái may” hay “họa phúc khôn lường” với ý nghĩa tương tự. “견견견
견견견 견견 견견 견견 견견 견견 견견견견 견견 견견견 견견” có thể
hiểu là: Nếu chim khách kêu vào buổi sáng thì có điềm may đến hay có tin
vui, cịn nếu quạ kêu vào ban đêm thì sẽ có điềm khơng tốt (đại biến) hay
chuyện không hay sắp xảy ra. Đây là thành ngữ nói về điềm dự báo trong
tương lai.
Như vậy qua một vài phân tích ở trên chúng ta đã có được những hiểu biết
cơ bản nhất về thành ngữ nói chung và thành ngữ nói về động thực vật trong
tiếng Việt và tiếng Hàn nói riêng.
1.2. Khái niệm tục ngữ
Cũng như thành ngữ, hiện nay vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau
của các nhà nghiên cứu văn học, văn hóa dân gian và ngơn ngữ học về khái
niệm tục ngữ. Tuy nhiên trong luận văn này, chúng tôi đi sâu tìm hiểu khái
niệm tục ngữ dựa trên quan điểm của nhà ngôn ngữ học là chủ yếu.

8



Nói về tục ngữ, Dương Quảng Hàm (1968) trong quyển “Việt Nam văn
học sử yếu” quan niệm: “Một câu tục ngữ tự nó phải có ý nghĩa đầy đủ, hoặc
khuyên răn, hoặc chỉ bảo điều gì”. [21; tr 15]. Nguyễn Văn Tố trong bài “Tục
ngữ ta đối với tục ngữ Tàu và tục ngữ Tây” viết: “Tục ngữ là câu thành ngữ
nói đã quen trong thế tục, nhiều câu nghĩa lý thâm thúy, ý tứ cao xa, câu nào
từ đời xưa truyển lại gọi là ngạn ngữ, cũng có khi gọi là tục ngạn; tục ngữ
hay tục ngạn thì nghĩa cũng gần giống nhau”. (Dẫn theo Chu Xuân Biên –
Lương Văn Đang – Phương Tri (1975), Tục ngữ Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, tr 20).
Kế thừa quan điểm của các học giả đi trước, năm 1978 trong cuốn “Từ
và vốn từ tiếng Việt hiện đại”, Nguyễn Văn Tu (1978), đưa ra quan niệm:
“Trong tiếng Việt, những tục ngữ, phương ngơn và ngạn ngữ có liên quan đến
thành ngữ và quán ngữ. Chúng không phải là đối tượng của từ vựng học mà
là đối tượng của văn học dân gian. Nhưng vì chúng là đơn vị có sẵn trong
ngôn ngữ được dùng đi dùng lại để trao đổi tư tưởng cho nên chúng dính
dáng đến vấn đề cụm từ cố định. Thực ta chúng là những câu hoàn chỉnh chỉ
một nội dung đầy đủ, không cần những thành phần cú pháp nào cả”. [47; tr
87]. Sau đó, vào năm 1985, Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn “Từ vựng học
tiếng Việt”, cho rằng: “Các tục ngữ cũng được dùng lặp đi lặp lại nhiều lần
trong lời nói như một đơn vị có sẵn; nhưng khác với thành ngữ ở chỗ nghĩa
của tục ngữ bao giờ cũng là một phán đoán. Về mặt nội dung, nghĩa của tục
ngữ gần với cụm từ tự do, bởi vì nó khơng biểu thị một khái niệm như thành
ngữ mà biểu thị một tổ hợp khái niệm”. [17; tr 87].
Ngồi ra chúng ta cịn thấy hàng loạt các định nghĩa khác về tục ngữ,
chẳng hạn, theo Nguyễn Lân, “Tục ngữ là những câu hoàn chỉnh, có ý nghĩa
trọn vẹn, nói lên hoặc một nhận xét về tâm lý, hoặc một lời phê phán, khen
hay chê, hoặc một câu khuyên nhủ, hoặc một kinh nghiệm về nhận thức tự
nhiên hay xã hội…” [30; tr 6]. Còn theo Vũ Ngọc Phan (1998), “Tục ngữ là

9


một câu tự nó diễn trọn vẹn, một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một luân
lý, một công lý, có khi là một sự phê phán” [40; tr 39]. Gần đây, Nguyễn Văn
Nở (2008) đề cập đến khái niệm tục ngữ theo cách hiểu: “Tục ngữ là sản
phẩm của tư duy, là công cụ diễn đạt những tri thức, kinh nghiệm quý báu,
những triết lý nhân sinh vừa sâu sắc, vừa thâm thúy vừa không kém phần
nghệ thuật, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác” [38; tr 11].
Cũng giống như tình hình ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu ngơn ngữ
Hàn Quốc cũng có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về tục ngữ. Ở Hàn Quốc,
một trong những người quan tâm đặc biệt đến tục ngữ là Im Dong Kwon.
Trong cuốn “Từ điển tục ngữ”, ông viết, tục ngữ “có thể được coi là di sản
văn hóa tuyệt vời, trong đó cơ đọng và hàm súc những lời giáo huấn, những
tri thức, kinh nghiệm trong cuộc sống, là nghệ thuật ngơn từ của tồn thể dân
tộc được truyền khẩu từ đời này sang đời khác” [63; tr 3]. Cũng với quan
niệm tương tự, Won Young Sub (2003) coi “Tục ngữ không phải là những cái
được làm mới trong một khoảng thời gian ngắn mà là những lời đúc kết cô
đọng truyền miệng từ đời này sang đời khác” [66; tr 3].
Như vậy, qua cách hiểu cũng như định nghĩa của các nhà nghiên
cứu ngôn ngữ kể trên chúng ta có thể hiểu tục ngữ chính là sản phẩm tư duy,
di sản văn hóa dân tộc, là công cụ diễn đạt những kinh nghiệm sống hay
những lời giáo huấn quý báu, cô đọng và hàm súc, đồng thời tục ngữ có thể là
một nhận xét, một phê phán khen hay chê…Tục ngữ được truyền từ đời này
sang đời khác.
Dưới đây là một số câu tục ngữ nói về động thực vật trong tiếng Hàn và
ý biểu hiện tương đương trong tiếng Việt. Trong tiếng Hàn, câu tục ngữ
“견견견견 견 견견견 견견” được hiểu là: Hổ nghe thấy là hổ đến, và nó
tương đương với câu tục ngữ “Nhắc đến Tào Tháo, Tào Tháo đến” trong tiếng
Việt. Câu tục ngữ “견견 견견 견견견 견견 견견 견견” có nghĩa là “Lời nói


10


đi có hay thì lời nói đến mới hay” và nó gần tương đương với có câu: “Lời
nói chẳng mất tiền mua; Lựa lời mà nói cho vừa lịng nhau” trong tiếng Việt.
Câu tục ngữ “견 견견 견견견 견견견”, có nghĩa là: Mất bị mới sửa chuồng,
chỉ người khơng biết lo xa, tương đương với “Mất bò mới lo làm chuồng”
trong tiếng Việt. Câu tục ngữ “견견견견 견견견견 견견견견” được hiểu là
“Con khỉ cũng có thể rơi từ trên cây xuống”, gần tương đương với câu “Nhân
vơ thập tồn” trong tiếng Việt. Câu tục ngữ “견견견 견 견견”, được hiểu là
“Đọc kinh thánh bên tai bò”, tương đương với câu “Đàn gảy tai trâu” trong
tiếng Việt.
Trong tiếng Việt chúng ta có thể kể đến một số câu tục ngữ như: “Đói
cho sạch, rách cho thơm”, câu này hàm ý dùng để khun cần phải giữ mình
trong hồn cảnh túng bấn. Hay “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, câu này
nghĩa là cho dù có họ xa với nhau cịn hơn người ngồi, có họ vẫn hơn. Câu
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” hàm ý nói sống phải có tình, có nghĩa, phải tỏ lịng
biết ơn người đã làm ơn cho mình. Hay “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay
cao thì nắng, bay vừa thì râm” là câu tục ngữ nói về kinh nghiệm của nhân
dân về thời tiết.
1.3. Phân biệt thành ngữ và tục ngữ
Thành ngữ và tục ngữ là các đối tượng nghiên cứu khoa học, cả hai đều
được sử dụng khá phong phú và đa dạng trong đời sống hằng ngày của nhân
dân. Nếu thành ngữ là đối tượng nghiên cứu của ngơn ngữ học nói chung, từ
vựng học nói riêng thì tục ngữ chủ yếu là đối tượng nghiên cứu của văn học
dân gian. Thành ngữ và tục ngữ là những khái niệm có nhiều điểm tương
đồng và khác biệt, song việc phân biệt chúng một cách thật rạch rịi thì khơng
phải dễ. Theo Dương Quảng Hàm (1951), “Một câu tục ngữ tự nó phải có ý
nghĩa đầy đủ, hoặc khuyên răn, hoặc chỉ bảo điều gì, cịn thành ngữ chỉ là


11


những lời nói có sẵn để ta tiện dùng mà diễn một ý gì hoặc tả một trạng thái
gì cho có màu mè”. [20; tr 15]. Trong cách thức phân loại của Dương Quảng
Hàm, tác giả đã đưa ra quan điểm của mình về thành ngữ và tục ngữ nhưng
vẫn chưa phân định được rõ ràng về mặt tác dụng của thành ngữ và tục ngữ,
bởi vì ở mặt này cả hai có phần tương đối giống nhau.
Trong “Góp ý kiến về phân biệt thành ngữ với tục ngữ” (1973), Cù
Đình Tú đưa ra nhận xét: “Sự khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ là
ở sự khác nhau về chức năng, thành ngữ là những đơn vị định danh, về mặt
này thành ngữ tương đương như từ, còn tục ngữ cũng như các sáng tạo khác
của dân gian như ca dao, truyện cổ tích đều là các thông báo”. [48; tr 41].
Đến Vũ Ngọc Phan (1978), trong cuốn “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam”,
tác giả đã phân biệt thành ngữ và tục ngữ một cách khá rõ ràng: “Tục ngữ là
một câu tự nó diễn đạt trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một
ln lý, một cơng lý, có khi là một sự phê phán. Còn thành ngữ là một phần
câu sẵn có, nó là một bộ phận của câu mà nhiều người đã quen dùng, nhưng
tự riêng nó khơng diễn đạt được một ý trọn vẹn. Về hình thức ngữ pháp, mỗi
thành ngữ chỉ là một nhóm từ, chưa phải là một câu hoàn chỉnh. Về cấp độ,
thành ngữ ngang hàng với từ, thành ngữ là anh, từ độc lập là em, vì thành
ngữ qua thời gian, đã được tập hợp một cách gắn bó thành cụm”. [40; tr 37].
Đỗ Thị Kim Liên trong cơng trình “Tục ngữ Việt Nam dưới góc nhìn ngữ nghĩa
– ngữ dụng” cũng đã đưa ra các tiêu chí để phân loại thành ngữ và tục ngữ. Tác
giả phân loại dựa vào cấu tạo, ngữ nghĩa, chức năng và đích tác động.
Qua đó, có thể thấy việc phân biệt thành ngữ và tục ngữ một cách triệt
để, rạch rịi với các tiêu chí cụ thể vẫn chưa đi đến đích. Điều này hiện nay
vẫn đang được các nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu. Trong khuân khổ luận
văn, dựa trên việc kế thừa các cơng trình nghiên cứu đi trước, chúng tôi tạm

thời nêu ra sự khác biệt giữa thành ngữ và tục ngữ như sau:


Về số lượng âm tiết:

12


Thứ nhất, thành ngữ thường chủ yếu gồm 4 âm tiết, cũng có khi có 3
âm tiết, ví dụ, trong tiếng Việt: Đầu xuôi đuôi lọt, con dại cái mang, Khô như
rang, Cứng như đá, trong tiếng Hàn: “견견견견” (hỏi đông đáp tây – hàm ý
những người hỏi một đằng trả lời một nẻo, trong tiếng Việt có câu “hỏi gà đáp
vịt”) , 견견견견 (làm một chén – dùng để rủ ai đó đi ăn nhậu cùng)…
Ngược lại, tục ngữ thường có cấu tạo 6 âm tiết trở lên, cũng có tục ngữ
4 âm tiết nhưng chúng tại khác thành ngữ về mục đích. Ví dụ, trong tiếng
Việt,:“Có đi có lại mới toại lịng nhau”, “gần mực thì đen gần đèn thì sáng”,
trong tiếng Hàn: “견견 견견 견견 견견 견견 견견” (Miếng bánh cho đi có
to thì miếng bánh nhận về, đến mới to – hàm ý khi người khác thăm hỏi, biếu
xén hay làm điều gì tốt cho mình thì mình cũng phải báo đáp lại một cách tử
tế thì quan hệ đó mới bền chặt được, trong tiếng Việt có câu “Có đi có lại mới
toại lịng nhau”), “견견 견 견견 견견 견견” (Thuốc đắng thì tốt cho cơ thể
- ý nói thuốc đắng thì chóng khỏi bệnh, lời nói thẳng thắn thì khó nghe nhưng
lại tốt, bổ ích cho mình nên chớ nóng giận, tiếng Việt có dùng: “Thuốc đắng
dã tật, sự thật mất lòng”)…
 Về cấu tạo:
Thành ngữ có cấu tạo là một cụm từ cố định, giữa các thành tố có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, nó là một bộ phận của câu.
Ví dụ trong tiếng Việt: Mồm cá ngão, Mẹ trịn con vng…
Trong tiếng Hàn: “견견견 견” (bánh vẽ - để nói những việc hão huyền,
“mơ hão”), “견견견 견 견견” (Nằm ăn bánh gạo – hàm ý nói những việc dễ

dàng, “dễ như trở bàn tay” trong tiếng Việt)…

13


Ngược lại tục ngữ là một câu hoàn chỉnh, đưa ra trọn vẹn một nhận
định, một phán đoán, quan hệ giữa các thành tố trong tục ngữ là quan hệ tự do,
quan hệ cú pháp
Ví dụ: “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm”
Trong tiếng Hàn: “견견견 견견 견견 견견견 견견” (Nếu nhện chăng
tơ thì thời tiết đẹp – đây là câu tục ngữ nói về thời tiết, kinh nghiệm thời tiết)


Về chức năng:

Thành ngữ chỉ là cụm từ, tương đương với từ, nó đóng vai trị là một
thành phần của câu nên thường làm thành phần cấu tạo câu. Vi vậy, thành ngữ
có chức năng cấu tạo câu. Còn tục ngữ là một câu độc lập, một phán đốn, thực
hiện chức năng thơng báo. Vì vậy, tục ngữ có chức năng cấu tạo đoạn văn.


Về ngữ nghĩa:

Thành ngữ thường thể hiện những hình ảnh liên tưởng sinh động, biểu
cảm, giàu tính hình tượng. Ngoài ra, thành ngữ thường dùng nghệ thuật tu từ,
ẩn dụ, hốn dụ, thậm xưng. Ví dụ như là:
“Chân cứng đá mềm” (biện pháp hoán dụ)
“Chuột sa chĩnh gạo” (biện pháp ẩn dụ)
“Hơ phong hốn vũ” (thậm xưng)
Trong tiếng Hàn: “견견견 견견” (Ăn mỳ - hàm ý muốn hỏi ai đó khi

nào thì tổ chức lễ cưới và mời mọi người ăn cưới).
Nghĩa của thành ngữ là nghĩa biểu trưng, khái qt, cơ đọng và hình
tượng bóng bẩy. Điều đó tạo cho thành ngữ những ấn tượng mạnh mẽ đối với
người nghe, người đọc, tạo hiệu quả diễn đạt và sức biểu đạt cao.
Ngược lại, tục ngữ thường diễn đạt một ý trọn vẹn, một phán đoán.
Nghĩa của tục ngữ thường nêu lên những đúc rút kinh nghiệm của con người
lao động, sản xuất, đấu tranh sinh tồn trong tự nhiên và xã hội. Ví dụ: “Đêm
14


tháng năm chưa nằm đã sáng; Ngày tháng mười chưa cười đã tối”. Trong tiếng
Hàn: “견 견 견견 견견 견견견견” (Sau khi mưa đất trở nên cứng hơn – câu
tục ngữ này khơng chỉ đơn thuần nói về thời tiết mà còn hàm ý là: trong cuộc
sống, sau khi trải qua những khó khăn thì con người ta sẽ trưởng thành hơn).
Tục ngữ thường là những câu nói có vần điệu, cân đối, dễ nhớ, phản
ánh những bài học, kinh nghiệm sống, nhận định về mối quan hệ giữa con
người với nhau, quan hệ giữa con người với tự nhiện và xã hội.
Trên cơ sở cách phân loại trên chúng ta có thể tìm thấy điểm tương
đồng và khác biệt giữa thành ngữ và tục ngữ trong bảng sau:
Thành ngữ
Giống nhau

Tục ngữ

Cả hai đều được sử dụng rất phổ biến, phong phú và đa
dạng trong ngôn ngữ, đặc biệt đời sống hàng ngày của nhân
dân

Về số lượng âm Thành ngữ thường chủ yếu Tục ngữ thường cấu tạo 6
tiết


cấu tạo 4 âm tiết

âm tiết trở lên

Về cấu tạo (ngữ Thành ngữ có cấu tạo là một Tục ngữ là câu hoàn chỉnh,
pháp)

cụm từ cố định, đơn vị định đưa ra trọn vẹn một nhận
danh, nó là một bộ phận của định, phán đoán và quan hệ
câu

giữa các thành tố trong tục
ngữ là quan hệ tự do, cú
pháp

Về chức năng

Thành ngữ là cụm từ, tương Tục ngữ là câu độc lập, một
đương với từ, là thành phần phán đoán, thực hiện chức
cấu tạo nên câu nên có chức năng thơng báo nên có chức
năng cấu tạo câu

năng cấu tạo đoạn văn

15


Về ngữ nghĩa


Thành ngữ thường thể hiện Tục ngữ thường diễn đạt một
những hình ảnh liên tưởng ý trọn vẹn, một phán đoán,
sinh động, biểu cảm, giàu nêu lên những đúc kết kinh
tính hình tượng, bóng bẩy

nghiệm của con người lao
động, sản xuất, tự nhiên và
xã hội

Tất cả những phân định, phân biệt giữa thành ngữ và tục ngữ dựa vào
các tiêu chí trên chỉ mang tính tương đối vì trong thực tế vẫn có những đơn vị
“lưỡng khả”, có thể quan niệm là thành ngữ hay tục ngữ đều được.
1.4. Một số biện pháp tạo nghĩa biểu trƣng của thành ngữ, tục ngữ.
Có nhiều biện pháp, hình thức để tạo nên nghĩa biểu trưng đối với
thành ngữ, tục ngữ.
Thứ nhất là biểu trưng dựa vào mối quan hệ liên tưởng như: so sánh, ẩn
dụ, hoán dụ.
Thứ hai là biểu trưng dựa vào quan hệ kết hợp như: điệp ngữ, tương
phản, khoa trương… Tuy nhiên trong luận văn này chúng tôi chủ yếu tập
trung vào ba biện pháp thứ nhất đó là: So sánh, ẩn dụ và hốn dụ.
Biện pháp so sánh: So sánh là lối đối chiếu hai hay nhiều đối tượng có
một hay nhiều dấu hiệu giống nhau về hình thức bên ngồi, hoặc tính chất bên
trong nhằm mục đích giải thích, miêu tả, đánh giá hay bộc lộ tình cảm về đối
tượng được nói đến.
Biện pháp này được sử dụng rất phổ biến trong lời ăn tiếng nói hàng
ngày, nó giúp người nghe có thể hiểu điều mà mình muốn nói, muốn biểu đạt
nhanh chóng hơn.
Tác dụng của biện pháp so sánh là dùng để miêu tả đối tượng bằng
những hình ảnh cụ thể, gồm cả giải thích, đánh giá và biểu lộ tình cảm. Có thể


16


nói so sánh chính là biện pháp cơ bản được sử dụng nhiều trong tục ngữ,
thành ngữ.
Chúng ta có thể kể đến một số thành ngữ, tục ngữ như là: Nhanh như
cắt, hiền như Bụt, gầy như mắm, cứng như đá, đẹp như tiên, chậm như rùa;
Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống (So sánh phân hạng); Có mười thì tốt,
có một thì xấu (So sánh tương phản); Vợ chồng như đũa có đơi; Tiền vào nhà
khó như gió vào nhà trống; Người đẹp về lụa, lúa tốt về phân; Miếng ngon
nhớ lâu, đòn đau nhớ đời…v.v.
Chúng ta cùng phân tích một số câu thành ngữ, tục ngữ dưới đây để
cùng rõ ý nghĩa và biện pháp so sánh được sử dụng trong những câu đó.
Thành ngữ “Gầy như mắm” hay “Gầy như cá mắm” là thành ngữ để
nói những người có thân hình mảnh mai, gầy guộc. Thành ngữ đó đã dùng
hình ảnh con cá mắm (là loại cá phơi khơ khơng cịn nước) để so sánh với
người rất gầy, khơ khơng có sức sống. “Hiền như Bụt” hàm ý những người
hiền lành vì chúng ta biết Bụt thường xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích,
xuất hiện để cứu giúp những người có khó khăn, nỗi khổ, bế tắc. Hay “Ngang
như cua” dùng để ám chỉ những người nói hay có hành động ngang ngược,
hay bàn ngang, bàn lùi. Những người đó được so sánh với con cua vì con cua
bị ngang. Thành ngữ“Cứng như đá” là để chỉ những vật rất cứng khơng dễ
có thể làm vỡ nó ra được. Dùng hình đá để so sánh, đá rất cứng nên muốn thể
hiện những vật cứng, rắn. Câu tục ngữ “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ
giống” là tục ngữ nói về một kinh nghiệm của nghề làm nơng nghiệp: “nước,
phân, sự chăm sóc, giống” là những yếu tố quyết định đến sản lượng của đồng
ruộng. Câu “Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống” (trống: nghĩa là trống
trải) ý nói những nhà đã nghèo thì bao nhiêu vào cũng vẫn trống, vẫn không
đủ. Câu “Miếng ngon nhớ lâu, lời đau nhớ đời” hàm ý khi nói năng thì hãy
cẩn thận, cẩn trọng với lời nói của mình. Nói những lời cay độc khiến người

khác đau đớn rằn vặt cả đời.

17


Trong tiếng Hàn khi muốn nói những việc dễ dàng thực hiện thì dùng
biểu hiện: “견견 견 견견” (Ăn cháo nguội – việc gì đó q dễ dàng và được
người Hàn Quốc ví với việc ăn cháo nguội) hay “견 견견 견견견견” (Chống
tay xuống đất bơi trên mặt đất). Còn khi muốn diễn tả những cơng việc rất
khó, gần như khơng thể làm được thì dùng biểu hiện: “견견견 견 견견” (Hái
sao trên trời – hàm ý những việc khó khăn nhưng cho dù có có gắng nhưng
cũng khó đạt được).
Hay thành ngữ như:
“견견견견” (Như cá gặp nước)
“견견견 견견견견견” (Như chó chạy sấm/ Chạy như chó phải pháo)
Biện pháp ẩn dụ: là hình thức chuyển nghĩa dựa trên cơ sở liên tưởng
nét giống nhau của hình dáng, màu sắc, tính chất, phầm chất hoặc chức năng
của đối tượng khác loại. Ẩn dụ khác so sánh ở chỗ chỉ giữ lại vế được so sánh.
Xét về mặt cấu trúc, ẩn dụ có các dạng: Ẩn dụ bằng danh từ; Ẩn dụ
bằng tính từ; Ẩn dụ bằng động từ; Ẩn dụ cả câu.
Xét về mặt liên tưởng thì ẩn dụ cũng có nhiều loại, có thể chia làm bốn
loại là: Lấy cái cụ thể biểu thị cái trừu tượng; Lấy cái cụ thể biểu thị cái cụ
thể; Lấy cái trừu tượng biểu thị cái trừu tượng; Lấy cái trừu tượng biểu thị cái
cụ thể
Ngồi ra, trong cách nói ẩn dụ thì “Ví” cũng được coi là một cách nói
ẩn, ví von, khơng nêu rõ đối tượng nên ẩn dụ thường có tính phiếm chỉ hoặc
ám chỉ. Cách nói ẩn dụ có phần bóng gió, xa xơi, chính vì thế mà ẩn dụ có thể
đặt trong nhiều hồn cảnh khác nhau mà vẫn phù hợp.
Chúng ta cùng tìm hiểu biện pháp ẩn dụ qua những thành ngữ, tục ngữ
ví dụ như là: Ếch ngồi đáy giếng, đầu trâu mặt ngựa, đầu voi đuôi chuột; Gần


18


×