Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tài liệu Sưu tầm truyện thơ của người Mường pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.78 KB, 6 trang )

Sưu tầm và tìm hiểu vấn đề địa phương hoá truyện thơ "Nàng con
côi" của người Mường ở huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình

Nguyễn Huy Bỉnh(*)
Truyện thơ Mường là một thể loại độc đáo, phức tạp nhưng vô cùng hấp dẫn. Qua
các công trình đã xuất bản, ta thấy số lượng truyện thơ Mường rất phong phú, mỗi
truyện có độ dài hàng nghìn câu, được diễn nôm bằng thơ theo tiếng Mường. Qua
quá trình điền dã, chúng tôi nhận thấy thể loại này có rất nhiều dị bản, ở mỗi một
vùng, mỗi địa bàn cư trú và thậm chí trên một địa bàn rất nhỏ đã tồn tại nhiều các
dị bản và cách kể khác nhau. Về mặt đề tài, "
Truyện thơ xoay quanh hai mảng đề
tài lớn: thứ nhất là truyện về những người nghèo khổ; thứ hai là truyện về tình
yêu, hôn nhân
"
(1)
. Truyện thơ Nàng Con Côi - một truyện thơ dân gian Mường mà
chúng tôi trình bày ở đây thuộc đề tài thứ nhất. Truyện do nghệ nhân Bùi Thị
Khỏn, 70 tuổi ở xã Liên Vũ, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình hát, kể bằng tiếng
Mường và do bà Bùi Thị Thi, 37 tuổi, Trưởng ban Văn hoá xã dịch ra tiếng Việt.
Tác phẩm được kể lại dưới dạng thơ, nhưng khi dịch nôm, chúng tôi chỉ được
nghe lại bằng văn xuôi, mặc dù vậy vẫn có thể nắm bắt được toàn bộ nội dung và
chi tiết cũng như tinh thần của truyện.
1. Tóm tắt và giới thiệu nội dung của truyện thơ Nàng Con Côi
Nội dung truyện thơ Nàng Con Côi của dân tộc Mường ở Hoà Bình kể về một
người con gái từ khi mẹ mất đi, cô sống với cha và hai mẹ con bà mẹ kế, cha đi
việc quan giao lại mọi việc cho vợ và hai con.
Một hôm, sắp đến ngày hội, người mẹ kế bảo hai đứa con đi bắt cá, đứa nào bắt
được nhiều thì sẽ được thưởng một chiếc áo mới. Trong khi cô em mải mê vui
chơi, thì nàng Con Côi cặm cụi từ sáng đến trưa và bắt được một giỏ tép đầy.
Người em gọi Con Côi về và bảo người chị bẩn, chị nên lội xuống tắm không về
mẹ mắng chết. Ở trên bờ, người em trút hết tép của Con Côi sang giỏ mình. Bà mẹ


kế thấy Con Côi không xúc được con tép nào nên quát mắng.
Hết việc quan người cha sắp trở về, người mẹ kế bảo hai đứa con, đứa nào thương
bố thì khóc nhiều nước mắt, còn không có nước mắt chứng tỏ không thương bố.
Con Côi lâu ngày không thấy bố nên rất nhớ thương, nàng khóc nước mắt xối xả,
còn em thì không được một giọt nước mắt nào. Mụ dì ghẻ thấy vậy đem đổi chậu
nước mắt của Con Côi sang cho cô em. Khi người bố về bà nói với ông, Con Côi
không hề thương nhớ ông và tìm mọi cách đuổi Con Côi vào rừng.
Người cha mang Con Côi đến đồi tranh nàng đã biết, đến đồi mít nàng đã vào, lên
đồi cao nàng đã tới, lên rừng lim, rừng sến thì chưa bao giờ nàng tới đây. Người
cha chặt gỗ dựng nhà rồi bỏ đi, trong khi Con Côi đang mải đào hố lấy nước và
không hề hay biết. Con Côi ở lại trong rừng, nàng rất sợ hãi và buồn bã, bèn đốt
lửa cho ấm và để vơi đi nỗi sợ hãi.
Hôm ấy, có một nhà Lang và toán người đi săn, họ thấy có ánh lửa giữa rừng sâu
nên tìm đến xem sao. Nhìn thấy Con Côi xinh đẹp, dịu dàng, nhà Lang cảm mến
xin vào ở nhờ, hai người quen biết rồi yêu thương nhau. Mặc dù Con Côi ăn mặc
rách rưới, địa vị thấp hèn nhưng nhà Lang luôn gọi là Nàng và cũng từ đó mà có
tên là Nàng Con Côi. Khi đã nên vợ nên chồng, Con Côi thấy trong lòng thương
cha, trong dạ nhớ nhà muốn về thăm cha mẹ và em, nhưng không biết lối nào mà
thăm, không biết đường nào mà viếng.
Nhà Lang cho nàng hạt bầu, nàng gieo xuống đất dây bầu lan ra, nó leo qua rừng
xanh, bò qua gành đất đỏ đến tận nhà cha nàng. Người cha thấy lạ quyết đến tận
gốc bầu xem thực hư ra sao, đến nơi hai cha con gặp nhau, Con Côi mời bố vào
nhà tiếp đãi những đồ quý và ngon nhất.
Bà mẹ kế nghe chồng kể về cuộc sống sung túc của Con Côi thì muốn đến xem
sao, bà giả làm người bán bồ, bán cót đi qua nhà Con Côi. Con Côi nghe tiếng rao,
nhận ra là dì đến. Nàng mời vào nhà tiếp đãi những đồ thừa thãi dành cho những
người thấp hèn. Khi dì ghẻ về, nàng làm hai gói quà, gói nhỏ cho bố là gói cơm,
gói thịt; gói to cho mẹ kế và em là sâu bọ, ong và rắn rết. Bà mẹ kế về đến nhà đưa
gói quà nhỏ cho chồng, còn mình và con gái bỏ ra ăn thì bị rắn rết và sâu bọ cắn.
Từ đó, dì ghẻ rất thù Con Côi, hơn nữa, bà rất muốn con mình được chung sống

với nhà Lang nên đã kiếm chuyện đặt lời báo tin cho Con Côi, là bố nàng ốm đỏ
như vang, vàng như nghệ để dụ nàng về thăm. Khi Con Côi về nhà dì ghẻ đặt mưu
bắt cha nàng giả nằm ốm và nói rằng bố con muốn ăn quả quýt cành cao, muốn ăn
quả đào trái vụ. Dì ghẻ lừa cho Con Côi trèo lên cành cao nhất để hái quýt rồi lấy
dao đốn gốc chặt cây. Mặc dù Con Côi van xin và vứt xuống cho dì quần áo, vàng
bạc để dì tha cho, người dì đã nhận lấy nhưng vẫn không tha. Con Côi bị rơi
xuống hố sâu, nhưng nàng không chết. Sau đó, nhờ có tiếng sáo ôi, nàng đã được
chó ngao, bầy khỉ, đàn vượn và chim muông đưa lên khỏi hố. Nàng trở về và kể lại
mọi chuyện với nhà Lang.
Dì ghẻ tưởng rằng Con Côi đã chết ở dưới hố sâu, bèn lấy quần áo của Con Côi
cho con gái mình mặc và về làm vợ nhà Lang. Khi em gái Con Côi đến nhà Lang,
nhà Lang nói bây giờ ai vào trong bếp nhà ta, ta bảo lấy thịt mà lấy được thịt, ta
bảo lấy cá mà lấy được cá thì chứng tỏ người ấy là vợ ta. Em Con Côi vào bếp lấy
thịt thì được cá, lấy cá thì được thịt. Còn Con Côi vào bếp lấy gì được ấy.
Người em hỏi Con Côi chị ăn gì mà khôn, chị uống nước gì mà trắng? Nàng trả lời
chị ăn khoai ngứa chị khôn, chị nấu nước sôi chị tắm chị trắng. Nghe vậy, người
em sai đàn vượn đi đun vạc nước sôi, đàn khỉ nấu nồi nước nóng rồi nhảy vào vạc
nước nóng và bị chết. Sau đó đàn khỉ mang người em đi nướng, đàn vượn mang đi
chua.
Dì ghẻ đến nhà thăm con gái, Con Côi lấy thức ăn trong đó có cả thịt con dì ghẻ ra
mời, thịt chua dì thích, thịt nướng nấu chuối làm canh dì khen ngon lành. Dì ghẻ ra
về, Con Côi sai người gói thịt lợn gửi về phần bố, đùm thịt chua là phần của dì. Về
nhà dì ghẻ đưa phần quà cho đứa con nhỏ. Đứa bé bỏ ra ăn và nói hình như là tay
chị, bỏ nữa ra lại nói hình như là chân chị. Có con quạ bay qua và kêu: Bà lão ơi!
Bà lão ăn thịt con, bà có thấy ngon không? Dì ghẻ nhận ra đó là thịt con gái mình
thì ăn chẳng nên ngon, uống chẳng nên uống và lăn ra chết.
Nhân vật người Con Côi trong truyện thơ Mường có một số phận, một cuộc sống
chứa đựng rất nhiều yếu tố hiện thực, nó gần gũi cuộc sống thường nhật. Thể thơ
được sử dụng thanh thoát, ngắn gọn và in đậm dấu ấn dân gian với chất liệu của
tục ngữ, ca dao, dân ca... Hiện nay, truyện thơ

Nàng Con Côi đã được ghi chép, sự
ghi chép này thông qua nhiều bản kể khác nhau nhằm tạo ra một văn bản thành
văn tương đối hoàn chỉnh. "
Nhưng dù cho được thành văn sớm hay muộn thì toàn
bộ kho tàng truyện thơ, không có ngoại lệ, đều mang rất đậm tính chất của văn
học dân gian
".(1)
2. So sánh với bản kể truyện thơ Nàng Con Côi do Minh Hiệu, Hoàng Anh
Nhân sưu tầm, xuất bản
Trên đây là tóm tắt nội dung truyện Nàng Con Côi chúng tôi đã tiến hành sưu tầm
khảo sát ở huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Để có một cái nhìn rõ hơn về cốt truyện
này, chúng tôi so sánh với truyện thơ
Nàng Con Côi đã được Minh Hiệu, Hoàng
Anh Nhân sưu tầm và xuất bản trong cuốn
Truyện thơ Mường.(1)
Về lối kể truyện, trong truyện thơ Mường nói chung và truyện
Nàng Con Côi nói
riêng bao giờ mở đầu cũng có phần dẫn dắt câu chuyện. Đối với truyện
Nàng Con
Côi
,cách dẫn dắt này ngắn gọn và đơn giản:

Du du la du
Du du la diện
Kể chuyện dì ghẻ Con Côi...
Cho dù phần dẫn dắt câu chuyện này dài hay ngắn, đơn giản hay phức tạp nhưng
chắc chắn một điều là gây được chú ý mạnh mẽ của người nghe, mặt khác cũng có
thể sẽ tạo cảm hứng cho người kể chuyện. Phần này ở hai văn bản là tương đối
thống nhất.
Phần nội dung ở cả hai văn bản đều nói về hình ảnh Con Côi xinh đẹp, nết na, chịu

khó nhưng lại bị ghét bỏ và đối xử tàn nhẫn, rồi nàng bị đưa vào rừng sâu. Khi gặp
được nhà Lang, hai người lấy nhau. Người cha tìm đến thăm Con Côi, sau đó
người mẹ kế cũng tìm đến thăm nàng và khi trở về bà nghĩ kế hãm hại Con Côi.
Con Côi thoát chết, nàng được đoàn tụ cùng chồng. Dì ghẻ và cô em gái độc ác đã
phải nhận lấy cái chết.
Xuyên suốt nội dung truyện thơ
Nàng Con Côi qua hai bản kể của người Mường ở
huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình và văn bản trong tập
Truyện thơ Mường là tương
đối giống nhau. Điều này cho thấy nội dung câu chuyện này mang tính phổ biến
và được lưu truyền ở nhiều nơi.
Song, đi sâu tìm hiểu từng chi tiết, từng đoạn chúng ta có thể nhận thấy có những
sự khác biệt. Ở phần mở đầu truyện thơ
Nàng Con Côi do Minh Hiệu, Hoàng Anh
Nhân sưu tầm có đoạn: Khi người bố đi việc quan giao cho hai mẹ con ở nhà mắc
vải và dặn lại rằng người nào dệt hay thì để, người nào dệt dở thì thay. Dì ghẻ lập
mưu bảo Con Côi chăn trâu vào trong rừng sâu, ở nhà bà dệt nên tấm vài nhiều
màu, tấm khăn ngũ sắc. Khi bố về, thấy Con Côi không dệt được tấm vải nào, đã
nghe lời dì ghẻ đưa Con Côi vào rừng sâu để cho học làm nương, làm rẫy, học
trồng dâu nuôi tằm. Đoạn này không có chi tiết kể về hai chị em Con Côi đi xúc
tép, hay là chi tiết hai chị em khóc để tỏ lòng thương nhớ cha và cũng không có
chi tiết dì ghẻ đổi hai chậu nước mắt như trong bản kể chúng tôi sưu tầm ở Hoà
Bình.
Trong bản kể của người Mường ở huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình có chi tiết hai bố
con Con Côi dừng lại trên một quả đồi, người cha chặt cây làm nhà rồi bỏ đi trong
khi Con Côi còn đang mải đào giếng nước. Hoặc đoạn kể khi Con Côi bị rơi
xuống hố sâu. Trong truyện thơ
Nàng Con Côi, bản do Minh Hiệu và Hoàng Anh
Nhân sưu tầm, xuất bản, lại kể rằng người em gái Con Côi và dì ghẻ đã đến nhà
Lang trước khi Con Côi trở về và đoạn này miêu tả rất kỹ sự sợ hãi của cô em gái,

chứ không phải là chi tiết Con Côi về đến nhà trước, hay chi tiết nhà Lang bảo hai
người vào trong bếp lấy đồ ra, ai lấy được đúng là vợ...
Ở phần kết thúc truyện, văn bản truyện thơ
Nàng Con Côi mà chúng tôi sưu tầm ở
huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình còn có đoạn ghi người mẹ kế đến thăm con gái trở
về, đứa con nữa của bà mới biết nói, mở gói quà ra bảo hình như là tay của chị,
mở tiếp gói nữa nó lại nói hình như là chân của chị. Nhưng không thấy có đoạn kể
khi mang dì ghẻ chôn trên đồi thì đồi hoá đá, chôn nương rạ thì nương rạ nước
sâu, phải đi qua suối, phải lội qua khe đem chôn vào ruộng khoai và các bản lấy
khoai về đốt lên, nồi khoai sôi thì có tiếng kêu oán trách trong đó như trong văn
bản của Minh Hiệu và Hoàng Anh Nhân sưu tầm, mà chỉ kể cái chết của dì ghẻ là
kết thúc truyện.
Như vậy, qua sự đối chiếu giữa truyện đã được văn bản hoá và đã qua sưu tầm
chỉnh lý của Minh Hiệu, Hoàng Anh Nhân với truyện
Nàng Con Côi mà chúng tôi
sưu tầm ở huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. Chúng tôi nhận thấy bản kể ở Hoà Bình
có các chi tiết phức tạp hơn, do vậy, số lượng câu thơ cũng có phần phong phú hơn.
Chính sự khác nhau của các cốt truyện cho thấy truyện vừa mang những đặc điểm
chung, đồng thời cũng thể hiện những đặc điểm riêng qua đó phản ánh tính dân tộc,
bản sắc văn hoá và điều kiện xã hội của từng vùng.
3. Tìm hiểu vấn đề địa phương hoá truyện thơ Nàng Con Côi ở vùng Lạc Sơn,
Hoà Bình
Qua quá trình điền dã, chúng tôi nhận thấy hiện nay vẫn còn một dấu tích lưu lại
việc địa phương hoá từ truyện
Nàng Con Côi. Ở gần chợ Vụ Bản, huyện Lạc Sơn,
tỉnh Hoà Bình có một quả đồi mà người ta cho rằng đó là nơi người cha đã chặt
cây làm nhà cho Con Côi ở khi bị đưa vào rừng nên vẫn thường gọi đồi đó là đồi
Con Côi, trên đó có ngôi đền thờ bà Chúa Thượng ngàn. Bên cạnh quả đồi có một
giếng nhỏ (hiện nay chỉ còn là một vũng nước), người dân địa phương cho rằng
đây là giếng mà Con Côi đào lấy nước khi ở trong rừng nên gọi là giếng Con Côi.

Ở Việt Nam, chúng ta vẫn thường bắt gặp những hiện tượng địa phương hoá kiểu
như vậy. Như những địa danh thờ cô Tấm ở Bắc Ninh và Hưng Yên theo truyện
Tấm Cám, địa danh núi Tản gắn với thần thoại về Sơn Tinh, làng Phù Đổng gắn
vớitruyện Thánh Dóng, địa danh đá vọng phu theo truyện Hòn Vọng Phu hiện có ở
nhiều nơi, như Lạng Sơn, Thanh Hoá, Bình Định. Qua đây, chúng ta có thể khẳng
định rằng, hiện tượng địa phương hoá các truyện dân gian là một hiện tượng phổ
biến, nhưng cũng rất ly kỳ và phức tạp. Đối với truyện
Nàng Con Côi,việc địa
phương hoá này có ý nghĩa rất to lớn đối với kho tàng văn hoá dân gian người
Mường ở vùng Lạc Sơn, Hoà Bình, bởi vì không phải bất kỳ truyện dân gian nào
cũng được địa phương hoá, nhất là những truyện cổ tích hoặc truyện mang dáng
dấp của truyện cổ tích như truyện thơ
Nàng Con Côi, mà chỉ có ở những truyện
thật sự nổi tiếng, được nhân dân lưu truyền rộng rãi và mang một ý nghĩa xã hội
và nhân văn sâu sắc đối với cộng đồng dân cư vùng, miền đó. Ngoài ra, tính chất
địa phương hóa còn tuỳ thuộc vào việc địa phương đó có những địa danh gần gũi,
phù hợp với nội dung của câu chuyện hay không, ở huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình
đã đáp ứng được những yêu cầu đối với với truyện thơ
Nàng Con Côi. Có một
điều là ở bất kỳ nơi nào xảy ra quá trình địa phương hoá nhân vật trong tác phẩm
thì chắc chắn nơi đó đã từng có rất nhiều dị bản và có mật độ lưu truyền rộng rãi.
Truyện
Nàng Con Côi cũng là một truyện nằm trong điều kiện đó. Chính vì vậy, ta
có thể khẳng định quá trình địa phương hoá cốt truyện
Nàng Con Côi là một minh
chứng sống động biểu hiện sự tồn tại và lưu truyền của câu chuyện, qua đó cho
chúng ta một cái nhìn đa chiều về không gian xã hội học văn học trong việc lưu
truyền và gìn giữ các tác phẩm văn học dân gian, cũng như ảnh hưởng của nó đối
với đời sống cư dân Mường tại đây.
Quá trình địa phương hoá các tác phẩm văn học dân gian là một quá trình vô cùng

phức tạp và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Nhưng theo chúng tôi nó có thể được
hình thành theo hai hướng sau:
Thứ nhất là xu hướng địa phương hoá, cụ thể hoá: Xuất phát từ một địa phương
đã có sẵn những yếu tố hiện thực để hình thành nên câu chuyện, như vậy địa
phương này là nguồn gốc ban đầu của truyện. Nhưng đối với truyện
Nàng Con
Côi
, đây là một việc rất khó xác định bởi đã có rất nhiều câu chuyện ở nhiều địa
phương khác nhau có nội dung tương tự như những địa bàn khác nhau, trong đó
một số địa phương lưu truyền từ lâu đời, trên những địa bàn khác nhau, trong đó
một số địa phương cũng có hình mẫu tồn tại trong truyện, do vậy về mặt thời gian
và không gian ra đời của truyện cũng là một yếu tố rất khó xác định. Hiện nay,
những địa phương lưu truyền truyện thơ
Nàng Con Côi đều cho rằng truyện này
được xuất phát từ địa phương mình. Nhưng để khảo sát một cách khoa học và để
tìm ra gốc tích ban đầu của truyện là một việc làm không đơn giản. Hoàng Anh
Nhân trong
Truyện thơ Mường đã nhận xét: "Truyện Nàng Con Côi có nhiều nơi
kể thành văn xuôi, có nơi kể một đoạn văn xuôi lại chen vào một đoạn văn vần,
cũng có nơi lại kể hoàn toàn thành văn vần. Đã có trường hợp trong một chòm có
hai ba truyện Con Côi, đồng bào gọi là Con Côi đi đầy, Con Côi nuôi cá, Dì ghẻ
Con Côi... cũng cốt truyện nhưng chia làm hồi một, hồi hai...
"(1). Điều này cho
thấy ở dân tộc Mường truyện
Nàng Con Côi được lưu truyền bằng nhiều dạng văn
bản khác nhau, có rất nhiều kiểu kết cấu, từ tên truyện đến cách phân bố theo
chương, hồi... bởi nó tuỳ thuộc vào vùng lưu truyền hoặc do người kể.

×