Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về công tác gia đình từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.98 KB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

NGUYỄN THỊ THANH HẰNG

TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT
VỀ CƠNG TÁC GIA ĐÌNH TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Hà Nội, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

NGUYỄN THỊ THANH HẰNG

TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT
VỀ CƠNG TÁC GIA ĐÌNH TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ BÍ BO



Hà Nội, năm 2021



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với hàng nghìn năm lịch sử dân tộc, gia đình Việt Nam đã hình thành
nên những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp có giá trị rất lớn đối với lịch sử dân tộc cũng
như gia đình. Các chuẩn mực đó là: lịng chung thủy, là tình u thương và trách
nhiệm, đó là sự gia giáo nề nếp, ... Những chuẩn mực đạo đức của gia đình Việt
Nam gắn chặt với những chuẩn mực đạo đức của xã hội như yêu lao động, sống tình
nghĩa, tinh thần lạc quan, sự hiếu học, anh dũng kiên cường chống ngoại xâm, tinh
thần tự lực, tự cường... và bao trùm lên hết là tinh thần yêu nước. Những giá trị đạo
đức tốt đẹp đó là tài sản tinh thần vô cùng quý báu được các thế hệ người Việt Nam
gìn giữ và phát huy. Ngày nay những giá trị đó là sức mạnh tinh thần để chúng ta
vượt qua mọi khó khăn thử thách, thích ứng với sự phát triển của nhân loại để xây
dựng gia đình hạnh phúc, tốt đẹp và rộng hơn nữa là để xây dựng đất nước đi đến
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã giành nhiều sự quan tâm đến xây
dựng cơng tác gia đình. Điều này được khẳng định là nhà nước ta đã có một hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật, văn bản chỉ đạo điều hành lĩnh vực gia đình
tương đối đa dạng, phong phú từ các văn bản Luật tới các Nghị định, Nghị quyết,
Chỉ thị, Thông tư và các chiến lược, chương trình, đề án cấp quốc gia và cấp Bộ
như: Luật Hơn nhân và gia đình, Luật Trẻ em, Luật Phịng, chống bạo lực gia đình,
Luật Bình đẳng giới, Chỉ thị 49, Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn 2030, các văn bản, đề án về cơng tác gia đình giai đoạn 2015-2020,
và các văn bản dưới luật có liên quan...
Hiện nay, tại Thành phố Hồ Chí Minh, việc triển khai kế hoạch, chiến lược
phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 và các văn bản, đề án về

công tác gia đình trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh được thực hiện theo các
nhóm nội dung trọng tâm của từng ngành, đơn vị như công tác truyền thông vận
động thay đổi hành vi; thực hiện chính sách y tế, an sinh xã hội; cơng tác hỗ trợ xây
dựng gia đình hạnh phúc bền vững với các giá trị đạo đức truyền thống của mối
quan hệ trong gia đình Việt Nam. Ngồi ra, cơng tác lãnh đạo, chỉ đạo bằng nhiều

1


giải pháp quan tâm đến việc kịp thời phát hiện, xử lý những vi phạm trong lĩnh vực
gia đình, phịng, chống bạo lực gia đình. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các
cấp ủy Đảng, chính quyền và Nhân dân Thành phố trong việc thực hiện các chỉ tiêu,
mục tiêu của Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đảm bảo xây dựng gia đình
Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc.
Sở Văn hóa và Thể thao với tư cách là cơ quan thường trực Ban chỉ đạo Công
tác gia đình Thành phố đã tham mưu nhiều văn bản triển khai Chiến lược phát triển
gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh và các văn bản, đề án về cơng tác gia đình .
Đối với các sở, ban, ngành và tổ chức đoàn thể Thành phố: Căn cứ theo chức
năng và nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị có kế hoạch triển khai trong nhiệm vụ
thường xuyên của ngành nhằm góp phần vào hồn thành các mục tiêu, chỉ tiêu của
Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam và các văn bản, đề án về cơng tác gia đình
trên địa bàn Thành phố.
Ủy ban nhân dân các quận, huyện, 100% phường, xã, thị trấn đã ban hành kế
hoạch triển khai thực hiện Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam và các văn bản,
đề án theo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm.
Nhìn chung, hệ thống văn bản quy định về gia đình phong phú và đa dạng.
Công tác xây dựng, ban hành và triển khai văn bản về gia đình được triển khai
tương đối nghiêm túc, đảm bảo đúng quy trình và yêu cầu do Trung ương đặt ra,
đồng thời phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của thành phố.

Trong thực tiễn chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy một gia đình hạnh phúc,
hồ thuận sẽ tác động tới cộng đồng, thúc đẩy xã hội vận động tạo ra sự biến đổi và
phát triển. Gia đình hạnh phúc bền vững khơng chỉ có sự "no ấm, bình đẳng, tiến
bộ" mà còn là nơi hội tụ tổng thể những nét đẹp văn hố của mỗi gia đình, cộng
đồng và xã hội. Nó được thể hiện qua thái độ, hành vi, cách cư xử trong gia đình,
trong đó phải đảm bảo các ngun tắc: Đối với người trên phải tơn kính, lễ độ,
khiêm tốn và quan tâm, chăm sóc; đối với người dưới phải biểu lộ thái độ thông
cảm, nhường nhịn, giúp đỡ, vị tha; đối với người cùng thế hệ phải hết sức tôn trọng,
chân thành, bác ái; trong quan hệ vợ chồng phải hồ thuận trên cơ sở tình u

2


thương chung thuỷ và sự hiểu biết lẫn nhau. Gia đình yên ấm hạnh phúc là điều
kiện, tiền đề quan trọng cho sự hình thành, phát triển nhân cách và bảo đảm cho lao
động sáng tạo đạt hiệu quả cao nhất. Mỗi thành viên đều có trách nhiệm vun đắp,
tham gia xây dựng tổ ấm gia đình, trong đó người vợ, người mẹ có vai trị rất quan
trọng. Trong giáo dục con cái phải kết hợp chặt chẽ giữa môi trường "gia đình - nhà
trường - xã hội" thì hiệu quả giáo dục sẽ cao hơn. Tuy nhiên, chúng ta khơng nên
"tuyệt đối hố" giáo dục trong gia đình mà xem nhẹ giáo dục ở nhà trường và xã
hội, hoặc "phó mặc" sự giáo dục con cái cho nhà trường và xã hội...
Có thể nói hiện nay chúng ta đã đạt được nhiều tiến bộ trong đường lối và
chính sách cũng như công tác thực hiện để phát triển gia đình ngày càng tiến bộ.
Tuy nhiên những năm gần đây trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh xảy ra tình
trạng ly hơn trong xã hội ngày càng gia tăng, gây bất ổn trong cuộc sống gia đình và
kéo theo sự bất ổn trong xã hội. Tình trạng bạo lực gia đình và ngược đãi trẻ em
ngày càng gia tăng, nhiều gia đình vơ trách nhiệm trong chăm sóc con cái, tình
trạng con cái ngược đãi cha mẹ ngày càng phổ biến... Số vụ ngày càng được kéo
giảm, tuy nhiên có những vụ có tính chất rất nghiêm trọng, dã man gây tàn tật vĩnh
viễn đối với nạn nhân bạo lực gia đình, thậm chí tử vong (vụ bạo lực gia đình ở

quận Gị Vấp năm 2016, vụ bạo lực gia đình ở quận Tân Bình). Theo số liệu thống
kê, tính từ 6 tháng cuối năm 2009 đến cuối năm 2020, tồn thành phố có hơn 1.877
vụ bạo lực gia đình, trong đó số vụ bạo lực gia đình ở các quận nội thành là hơn
1.402 vụ (chiếm 74.7%), riêng các huyện ngoại thành có hơn 475 vụ (chiếm
25.3%).
Phân loại theo loại hình bạo lực gia đình thấy bạo lực thân thể chiếm đa số
(1152 vụ, chiếm 61.4%), bạo lực tinh thần 578 vụ, chiếm 30.8%, bạo lực tình dục
23 vụ chiếm 1.2%, bạo lực kinh tế 124 vụ chiếm 6.6%. Trong tổng số 1877 vụ, có
282 nạn nhân nam (chiếm 13.9%) và 1743 nạn nhân nữ (chiếm 86.1%). Điều đó cho
thấy trong tổng số vụ bạo lực gia đình, hầu hết nạn nhân đều là nữ và người gây bạo
lực đa số là nam giới. Các vụ bạo lực gia đình đã được phát hiện ở các năm qua đều
có ở các tầng lớp dân cư, diễn ra ở nhiều khu vực nội thành và ngoại thành; tỷ lệ số
vụ bạo lực gia đình ở các huyện ngoại thành cao hơn so với các quận nội thành. Bạo

3


lực gia đình xảy ra dưới nhiều hình thức đa dạng và diễn biến của bạo lực cũng rất
phức tạp và khó dự báo trước, phần lớn những biện pháp can thiệp sau khi bạo lực
xảy ra và nạn nhân đã bị tổn thương.
Những hiện biểu hiện xấu đó nếu khơng kịp thời khắc phục thì nó sẽ biến
chuyển nặng nề hơn nữa, từ đó tác động tiêu cực đến toàn xã hội, cản trở sự phát
triển của xã hội. Về nguyên nhân của những hạn chế trên, sơ lược ta có thể điểm vài
nguyên nhân sau: Thứ nhất, trong những năm qua văn hóa - giáo dục khơng theo
kịp sự phát triển của kinh tế - xã hội, văn hóa – giáo dục chưa phát huy tốt nhất vai
trị của mình trong xây dựng gia đình. Thứ hai, sự tác động bởi những mặt trái của
cơ chế kinh tế thị trường như sự phân hóa giàu nghèo, động cơ lợi ích kinh tế chi
phối mọi mối quan hệ trong xã hội, xã hội tiêu dùng dẫn đến tâm lý sùng bái đồng
tiền dẫn đến coi thường các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội và gia đình. Thứ
ba, chúng ta cịn nhiều thiếu sót trong việc triển khai thực hiện đường lối của Đảng,

chính sách pháp luật của Nhà nước về cơng tác gia đình. Thứ tư, chúng ta chưa phát
huy được hết vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc phịng chống tội
phạm, tệ nạn xã hội, xây dựng gia đình văn hóa.
Từ những vấn đề nêu trên, tơi chọn đề tài “Tổ chức thực hiện chính sách pháp
luật về cơng tác gia đình từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về thực hiện chính sách pháp luật về cơng tác gia đình ở Thành
phố Hồ Chí Minh đang là một trong những đề tài được các nhà nghiên cứu, nhà
quản lý và xã hội quan tâm, đặc biệt trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
đơ thị hóa diễn ra mạnh mẽ như hiện nay tại các đô thị lớn tại Việt Nam. Chính vì
vậy mà ngày càng có nhiều cơng trình nghiên cứu về chủ đề này là một đề tài rất
mới trong hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý.
Vấn đề thực hiện chính sách pháp luật về cơng tác gia đình là chủ đề có tính
thời sự và nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu xã hội học, được đề cập
nhiều trong các cơng trình nghiên cứu, tạp chí, bài báo của Việt Nam và các nước
trên thế giới. Cơng trình nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu để

4


đánh giá thực trạng thực hiện chính sách pháp luật về cơng tác gia đình hiện nay tại
Thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó, trở thành một tiền đề quan trọng cho nghiên cứu
của tác giả.
Năm 2011, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức lớp tập huấn cơng tác gia
đình cho đội ngũ cán bộ Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Vụ Gia đình xây dựng bộ
tài liệu trong đó có chuyên đề “Quản lý nhà nước về gia đình”, mục đích của
chun đề là đề tài rà soát, hệ thống lại các nội dung quản lý nhà nước trên cơ sở
các văn bản hiện hành về cơng tác gia đình.
Năm 2012, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội tổ chức Hội thảo khoa học quốc

tế chủ đề “Thực trạng và tương lai của gia đình trong thế giới hội nhập”. Nội dung
của hội thảo xoay quanh vấn đề đào tạo chuyên ngành gia đình học tại Việt Nam,
giới thiệu kinh nghiệm và thực tiễn đào tạo chun ngành này ở nước ngồi. Bên
cạnh đó, hội thảo còn đề cập đến các nội dung khác nhau của đời sống gia đình: gia
đình đa văn hóa, bạo lực gia đình, mâu thuẫn thế hệ... là những nội dung của hoạt
động quản lý nhà nước về gia đình.
Năm 2014, tác giả Hồng Thị Tuyết – Trường Đại học Văn hóa Hà Nội thực
hiện đề tài “Tìm hiểu thực trạng công tác quản lý nhà nước về gia đình trên địa bàn
thành phố Hà Nội hiện nay”. Mục đích của nghiên cứu này nhằm cung cấp cho
người đọc những kiến thức cơ bản về gia đình (lý luận); thông tin về thực trạng
công tác quản lý nhà nước về gia đình của thành phố Hà Nội; đề ra một số giải pháp
để nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về gia đình trên địa bàn thành phố
Hà Nội; đối tượng nghiên cứu là những văn bản pháp luật, chính sách, kế hoạch, đề
án, chương trình trong thời gian từ năm 2009 đến năm 2014. Đề tài sử dụng phương
pháp thu thập thơng tin, phân tích và xử lý số liệu để đánh giá thực trạng cơng tác
quản lý nhà nước về gia đình trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Năm 2016, tác giả Đậu Thị Ánh Tuyết – Trường Đại học Văn hóa TP.HCM
hồn thành cơng trình nghiên cứu khoa học đề tài “ giải pháp nâng chất lượng đội
ngũ cán bộ thực hiện công tác gia đình hiện nay” là cơng trình nghiên cứu sâu về
cơng tác gia đình. Mục tiêu của đề tài là đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ cán
bộ thực hiện cơng tác gia đình; làm căn cứ đề xuất giải pháp nâng chất lượng đội

5


ngũ; xác định một số giải pháp căn bản nhằm nâng chất lượng đội ngũ thực hiện
cơng tác gia đình trên cả nước giai đoạn 2015 – 2020. Cơng trình nghiên cứu đã vận
dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp, tổng hợp số liệu, tổng hợp các nguồn
tài liệu, kết quả khảo sát thực tế để đánh giá, phân tích thực trạng và đề ra được dự
báo phát triển và giải pháp nhằm nâng chất lượng nguồn nhân lực thực hiện cơng

tác gia đình.
Năm 2017, Vụ Gia đình thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện
cuốn sách “Thực trạng hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực gia đình ở Việt Nam
hiện nay”. Cuốn sách này đã hệ thống hóa, làm rõ hơn cơ sở lý luận về quản lý nhà
nước về gia đình bao gồm các quan điểm, phương pháp tiếp cận, các văn bản của
Đảng và Nhà nước về lĩnh vực gia đình; đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà
nước về gia đình hiện nay, qua đó, các tác giả đã đề ra định hướng và giải pháp
trong công tác quản lý nhà nước về gia đình ở Việt Nam trong thời gian tới. Đây
chính là cơng trình nghiên cứu về lĩnh vực quản lý nhà nước về gia đình một cách
hệ thống và có quy mơ cấp quốc gia, là tài liệu mà tác giả vận dụng làm cơ sở lý
luận cho luận văn của mình.
Những nghiên cứu nêu trên có những cách nhìn khái qt khác nhau, tuy nhiên
vì đây là một đề tài mới và mỗi nghiên cứu lại tiếp cận theo một hướng khác nhau
hoặc tập trung làm rõ một vấn đề khác nhau, vì vậy việc nghiên cứu tổng quan thực
hiện chính sách pháp luật về cơng tác gia đình ở Thành phố Hồ Chí Minh trên cơ sở
tham chiếu với Nghị định, Nghị quyết, Chỉ thị, Thơng tư và các chiến lược, chương
trình, đề án … sẽ mang đến những ý nghĩa thiết thực.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu việc thực hiện chính sách pháp luật về cơng tác gia đình ở Thành
phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 đến năm 2020, qua đó đưa ra các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về cơng tác gia
đình ở Thành phố Hồ Chí Minh.

6


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ cơ
bản sau:

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách pháp luật về cơng
tác gia đình ở Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện quy định pháp luật về công tác chính
sách pháp luật về cơng tác gia đình ở Thành phố Hồ Chí Minh; chỉ rõ những kết
quả, hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế.
- Đề xuất quan điểm, định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
cơng tác chính sách pháp luật về cơng tác gia đình ở Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng thực hiện quy định pháp luật về cơng tác
thực hiện chính sách pháp luật về cơng tác gia đình ở Thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện thực trạng thực hiện
chính sách pháp luật về cơng tác gia đình ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách pháp
luật về cơng tác gia đình ở Thành phố Hồ Chí Minh (từ năm 2015 đến năm 2020).
Đây là giai đoạn mà Đảng, Nhà nước ban hành các chủ trương, chính sách,
văn bản quy phạm pháp luật và dưới luật hướng dẫn quan trọng về cơng tác gia
đình. Cũng trong giai đoạn này, Thành phố Hồ Chí Minh ban hành và triển khai các
Chiến lược, Chương trình, Đề án liên quan đến cơng tác gia đình.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận được sử dụng trong luận văn là phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm chỉ đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được các mục tiêu trên, luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương
pháp sau:

7



- Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp: Tài liệu thứ cấp được thu thập dựa
vào các tài liệu đã được cơng bố trên sách, báo, tạp chí, niêm giám thống kê, các
báo cáo tổng kết của địa phương và trên các trang thơng tin điện tử chính thức của
các cơ quan, tổ chức. Các số liệu cơ bản liên quan đến luận văn được thu thập tại Sở
Văn hóa và Thơng tin Thành phố Hồ Chí Minh. Các tài liệu thứ cấp được sắp xếp
cho từng yêu cầu về nội dung nghiên cứu và phân thành các nhóm dữ liệu theo từng
phần của đề tài, bao gồm: Những tài liệu về lý luận, những tài liệu tổng quan về
thực tiễn nói chung, những tài liệu thu thập về thực trạng cơng tác thực hiện chính
sách pháp luật về cơng tác gia đình ở Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu, loại trừ.
- Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến, áp dụng kinh nghiệm các chuyên gia
về vấn đề này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn vận dụng lý luận của hệ thống pháp luật để đánh giá việc thực hiện
chính sách pháp luật về cơng tác gia đình ở Thành phố Hồ Chí Minh.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Đề xuất được các giải pháp thiết thực, hữu hiệu góp phần nâng cao hiệu quả
thực hiện chính sách pháp luật về cơng tác gia đình ở Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của luận văn
Với cách tiếp cận và nội dung nghiên cứu trên, luận văn này gồm ba phần
chính sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật trong việc thực hiện chính sách
pháp luật về cơng tác gia đình.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách pháp luật về cơng tác gia đình ở
Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính
sách pháp luật về cơng tác gia đình ở Thành phố Hồ Chí Minh.


8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TRONG VIỆC TỔ CHỨC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT VỀ CƠNG TÁC GIA ĐÌNH
1.1. Lý luận chính sách pháp luật về cơng tác gia đình
1.1.1. Khái niệm và mối quan hệ chính sách pháp luật
Chính sách là những cách thức tác động của Nhà nước vào các lĩnh vực của
đời sống xã hội để đạt được mục tiêu định hướng. Chính sách điều chỉnh những
quan hệ ít mang tính ổn định, mềm dẻo, linh động. Chính sách có tác động nhanh và
kịp thời, mạnh mẽ, toàn diện đến cả nhận thức, thái độ và hành vi của các chủ thể bị
tác động. Đặc biệt, chính sách điều chỉnh động cơ, tạo động lực cho hành vi, hoạt
động của các cá nhân và từng nhóm đối tượng cụ thể. Chính sách có vai trò định
hướng cho các hoạt động kinh tế – xã hội; khuyến khích các hoạt động kinh tế – xã
hội theo định hướng; phát huy những mặt tốt của nền kinh tế thị trường và hạn chế
những tiêu cực của nó; tạo lập sự cân đối trong phát triển; kiểm sốt và phân phối
nguồn lực cho q trình phát triển; tạo lập mơi trường thích hợp cho các hoạt động
kinh tế – xã hội, giúp cho các thực thể vận động phát triển theo đúng quy luật; phối
hợp hoạt động giữa các cấp độ, các bộ phận để tạo nên tính hệ thống chặt chẽ trong
q trình vận động của thực thể.
Trong những năm qua, công tác xây dựng, phổ biến, giáo dục pháp luật đã
được Đảng, Nhà nước quan tâm chỉ đạo, coi đó là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm trong việc tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật. Với sự nỗ lực và cố gắng
của các cấp, các ngành, công tác xây dựng pháp luật đã có những chuyển biến tích
cực, góp phần xây dựng ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của
cán bộ và Nhân dân. Đảng và Nhà nước ta cũng xây dựng các chương trình trọng
điểm quốc gia về phổ biến, giáo dục pháp luật. Ngày 9/12/2003, Ban Bí thư Trung
ương Đảng đã ra Chỉ thị số 32-TW/CT về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của
cán bộ, Nhân dân. Trên cơ sở các Nghị quyết của Đảng, các chính sách pháp luật đã
từng bước được thể chế hố trong các văn bản pháp luật của Nhà nước, hệ thống

9


pháp luật đã được bổ sung và ngày càng hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu của phát triển
kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế.
Chính sách bao giờ cũng đi trước pháp luật, mang tính định hướng và là nền
tảng để xây dựng pháp luật: chính sách phản ánh một cách trung thực, khách quan
điều kiện kinh tế – xã hội tại thời điểm cụ thể và dự báo xu thế, khả năng phát triển
trong tương lai. Nếu chính sách khơng làm tốt vai trị này thì việc thể chế hố các
chính sách thành các quy phạm pháp luật hoặc văn bản quy phạm pháp luật sẽ
khơng có tính khả thi, hoặc kìm hãm sự phát triển của các mối quan hệ kinh tế,
chính trị, xã hội. Do đó, các nhà hoạch định chính sách phải là người có khả năng
đúc kết thực tiễn và dự báo tương lai.
Chính sách có tính ổn định tương đối để pháp luật có điều kiện đi vào thực tế
cuộc sống vì pháp luật ln hướng tới mục tiêu chung, thống nhất nên trong mỗi
giai đoạn nhất định, pháp luật có tính đồng bộ và ổn định. Điều này có nghĩa, khi
một chính sách có q nhiều thay đổi hoặc khơng có những lộ trình cụ thể sẽ gây
khó khăn, phức tạp cho việc xây dựng và thực thi pháp luật. Vì vậy, các nhà hoạch
định chính sách phải tính tốn thời gian, điều kiện áp dụng để đưa chính sách vào
cuộc sống. Đồng thời, họ phải là những người có khả năng chia việc thực thi chính
sách thành các giai đoạn khác nhau với các mục tiêu và lộ trình cụ thể, tránh những
bất lợi cho quá trình xây dựng và hồn thiện pháp luật.
Chính sách là một trong các nguồn tạo ra những thể chế pháp luật mới. Hay
nói cách khác, do chính sách là cơng cụ thể hiện thái độ chính trị của Đảng lãnh đạo
để điều chỉnh các quan hệ xã hội diễn ra theo định hướng, nên pháp luật được ban
hành cùng các quy định cụ thể cho mỗi loại quan hệ. Thông thường, sau khi Nhà

nước ban hành chính sách mới trên cơ sở định hướng chính sách của Đảng, chính
sách này được thực thi thơng qua việc cụ thể hố thành các quy phạm pháp luật.
Như vậy, một chính sách mới được ban hành đồng thời tạo nên một lĩnh vực điều
chỉnh mới của hệ thống pháp luật.
Pháp luật là căn cứ xây dựng chính sách, là cơng cụ để cụ thể hố và thực thi
chính sách. Chính sách có tính linh hoạt và thích nghi với thực tế xã hội cao hơn
pháp luật nhưng không thể tồn tại và phát huy tác dụng nếu thiếu pháp luật bởi hệ

10


thống pháp luật tạo nên khuôn khổ pháp lý quy định và điều chỉnh tất cả các quan
hệ xã hội. Chính sách do Nhà nước ban hành phải căn cứ vào hệ thống pháp luật
hiện hành và về nguyên tắc không được trái với các quy định của pháp luật. Do đó,
khơng thể xây dựng chính sách có hiệu quả và khả thi khi không nắm được tất cả
những quy định pháp luật đang điều chỉnh lĩnh vực liên quan đến chính sách đó.
Pháp luật được ban hành và đi vào cuộc sống sẽ giúp các quan hệ xã hội diễn
ra có trật tự theo định hướng thống nhất với các chính sách hiện hành. Q trình
thực thi pháp luật giúp các đối tượng có ý thức chấp hành các quy định chung, trên
cơ sở đó nêu cao tinh thần chấp hành chính sách một cách tự giác.
Từ những phân tích trên cho thấy, chính sách pháp luật có thể hiểu là chính
sách về pháp luật. Theo nghĩa này, để xây dựng pháp luật, trước hết phải có chính
sách (bao gồm quan điểm, chủ trương, định hướng và thước đo hiệu quả của pháp
luật hiện hành và trong tương lai) theo nhận thức của từng chủ thể thích ứng với
từng giai đoạn phát triển cụ thể. Ở một nghĩa khác, chính sách pháp luật khơng chỉ
là linh hồn, là căn cứ, là cơ sở để xây dựng pháp luật, xác định nội dung của pháp
luật, mà chính sách pháp luật có thể là pháp luật (Hiến pháp - đạo luật cơ bản là cơ
sở để xây dựng các đạo luật); chính sách pháp luật có thể là cơ sở để xây dựng các
chính sách khác. Chính sách pháp luật được triển khai bởi hoạt động của chủ thể có
thẩm quyền trong việc thể chế hóa đường lối lãnh đạo của Đảng thông qua hoạt

động xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật.
Chính sách pháp luật (dù hiểu dưới góc độ nào) cũng là để thể chế hóa quan
điểm, đường lối của Đảng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Văn kiện
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh: “Đảng lãnh đạo Nhà
nước bằng các chủ trương, chính sách lớn, lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm,
đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách pháp luật”. Để thể chế hóa đường
lối của Đảng, chính sách pháp luật bị chế ước bởi đường lối của Đảng, nhưng đồng
thời tác động trở lại, góp phần điều chỉnh hợp lý đường lối của Đảng trong từng giai
đoạn của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trong quá trình thể chế hóa đó, chính
sách pháp luật phản ánh và bảo vệ đường lối của Đảng. Một đường lối không thể
coi là có hiệu quả, đủ sức đi vào đời sống thực tiễn nếu thiếu chính sách pháp luật.

11


Bên cạnh đó, chính sách và pháp luật gắn bó biện chứng chặt chẽ với nhau, có mối
quan hệ nhân quả và chế ước lẫn nhau và khẳng định vai trị của chính sách đối với
việc xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật.
1.1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về gia đình
Quan điểm của Đảng và chính sách pháp luật của nhà nước về gia đình xét đến
cùng chính là xây dựng gia đình hạnh phúc. Hạnh phúc của từng cá nhân trong gia
đình đến cộng đồng, xã hội. Đặc biệt, từ khi đất nước Đổi mới đến nay, quan điểm
của Đảng, chính sách của nhà nước về gia đình và xây dựng gia đình hạnh phúc
càng đậm nét, phù hợp với nhu cầu thực tiễn đất nước.
Trước hết, cần phải khẳng định rằng: Mục tiêu cao nhất của Đảng và Nhà
nước ta là mang lại hạnh phúc cho mọi người dân; tất cả các đường lối, chính sách
phải hướng đến mục tiêu này. Gia đình là “nền tảng, là tế bào của xã hội”, “gia đình
phải là điểm xuất phát và là nơi trở về của mọi chính sách xã hội”. Tất cả các đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đều có tác động trực tiếp, liên quan quan mật
thiết đến xây dựng gia đình hạnh phúc. Tùy vào điều kiện thực tiễn cụ thể, quan

điểm và chính sách này có những thay đổi nhất định nhưng vẫn giữ nguyên những
giá trị cốt lõi. Theo kết quả điều tra của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện
năm 2018, khi hỏi về các yếu tố cần có để gia đình hạnh phúc, phần lớn các ý kiến
của người dân đều cho rằng cần phải có các yếu tố như kinh tế gia đình khơng khó
khăn q so với mặt bằng chung; có nhà ở kiên cố, có trang thiết bị cơ bản; gia đình
sống ở nơi có mơi trường sạch đẹp, hàng xóm thân thiện, giúp đỡ nhau khi tối lửa
tắt đèn, thuận tiện khi đi học, đi khám chữa bệnh; đặc biệt là các thành viên gia đình
phải khỏe mạnh, u thương hịa thuận, con cái ngoan ngỗn, thành đạt trong cơng
việc… Như vậy một gia đình muốn có được hạnh phúc, cần phải đảm bảo những
điều kiện cơ bản về đời sống vật chất, tinh thần, sức khỏe, y tế, giáo dục, vui chơi,
giải trí, các thành viên gia đình mạnh khỏe, thương yêu, chia sẻ với nhau, ông bà
cha mẹ gương mẫu, con cháu thảo hiền, lễ phép... Dù cho tới nay, chưa có một văn
bản nào quy định rõ nội dung về gia đình hạnh phúc nhưng qua thực tiễn và rà soát
hệ thống văn bản của Đảng và Nhà nước, có thể khái quát các nhóm quan điểm và
chính sách chính trong xây dựng gia đình hạnh phúc ở các khía cạnh cốt lõi như:

12


Xây dựng gia đình hạnh phúc, bình đẳng, tiến bộ; Gia đình với phát triển kinh tế đất
nước, kinh tế hộ gia đình; Gia đình với vấn đề xây dựng văn hóa, giáo dục đạo đức
lối sống …
1.1.2.1. Quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về vấn đề
gia đình giai đoạn từ năm 1986 đến 2007
Đây là giai đoạn Đảng và nhà nước ta tập trung phát triển kinh tế - văn hóa xã hội, bắt đầu thời kỳ Đổi mới toàn diện đất nước. Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ VI khẳng định: “Gia đình là tế bào của xã hội, có vai trị rất quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, con người mới. Đảng, Nhà nước và
các đồn thể quần chúng cần đề ra phương hướng, chính sách và có biện pháp tổ
chức thực hiện về xây dựng gia đình văn hóa mới, bảo đảm hạnh phúc gia đình.
Nâng cao trình độ tự giác xây dựng những quan hệ tình cảm, đạo đức trong từng gia

đình, bảo đảm sinh đẻ có kế hoạch và ni dạy con ngoan, tổ chức tốt cuộc sống vật
chất, văn hóa của gia đình” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2005:773-774). Gia đình
được nhìn nhận là yếu tố cấu thành nên xã hội, có vai trị quan trọng, quyết định đến
sự thành cơng của cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước.
Nghị quyết Đại hội VI Đảng ta đã khẳng định xây dựng gia đình hạnh phúc là
việc rộng lớn, cần đồng bộ với hệ thống các chính sách khác có liên quan. Do đó
cần đưa ra các phương hướng, chính sách và biện pháp, các yếu tố để bảo đảm hạnh
phúc gia đình: tình cảm, đạo đức trong gia đình, sinh đẻ có kế hoạch, đời sống vật
chất, văn hóa ứng xử của mỗi gia đình. Để đảm bảo về đời sống vật chất cho gia
đình, bên cạnh những chính sách vĩ mơ, Đảng đã chủ trương “khuyến khích phát
triển kinh tế gia đình”. Điều này cho thấy nhận thức của Đảng về chức năng kinh tế
của gia đình đã có sự thay đổi tích cực, muốn bảo đảm gia đình hạnh phúc thì phải
có nền tảng kinh tế, vật chất nhất định.
Tiếp nối tư tưởng Đổi mới được đặt ra từ Đại hội lần VI, Đại hội VII vào
tháng 6 năm 1991 đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã đưa ra khái niệm về Con người mới - đó là con
người phát triển tồn diện cả về trí tuệ, năng lực, phẩm chất, đạo đức… Có những
con người mới như vậy, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mới thành công.

13


Muốn có con người mới đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn khách quan phải có sự
“tổng hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, các đồn thể, nhà trường, gia
đình…” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2007).
Như vậy, Cương lĩnh 1991 đã chỉ rõ mối quan hệ mật thiết giữa các yếu tố của
tam giác: gia đình - nhà trường - xã hội trong việc giáo dục, hình thành nhân cách
con người. Trong đó, “gia đình là tế bào xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả
đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”.
Có thể nói, lần đầu tiên trong một văn kiện của Đảng, vai trị của gia đình trong mối

quan hệ với nhà trường và xã hội đã được khẳng định như là yếu tố đầu tiên, liên
tục và quan trọng nhất đối với sự phát triển của mỗi con người. Cương lĩnh cũng chỉ
ra những định hướng các chính sách của Nhà nước với gia đình là “phải chú ý tới
xây dựng gia đình no ấm, hồ thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình
đối với mọi lớp người”. Cương lĩnh 1991 đã ẩn chứa tiêu chí đảm bảo gia đình hạnh
phúc là “no ấm, hịa thuận, tiến bộ”.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII, 1996 khẳng định “Xây dựng gia đình
no ấm, bình đẳng tiến bộ và hạnh phúc, làm cho gia đình thực sự là tế bào lành
mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi người”. Từ việc nhận thức chung chung về vai
trò quan trọng của gia đình, Đại hội VIII đã chỉ rõ vị thế của gia đình trong từng
lĩnh vực cụ thể và thể hiện qua chủ trương hành động thực tế để xây dựng gia đình
hạnh phúc. Về xã hội, “Thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hố gia
đình, các chính sách ưu đãi xã hội”. Về giáo dục và đào tạo là “Đề cao trách nhiệm
của gia đình, nhà trường và xã hội”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) 1998 về xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đã xác định, phải: “Gìn giữ và phát huy
đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai trò gương mẫu của các bậc cha
mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình văn hóa. Xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa
gia đình, nhà trường và xã hội…” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2015a). Có thể thấy,
Đảng ta đã xác định gia đình chính là nơi lưu truyền những giá trị văn hóa tốt đẹp
của dân tộc, là thành trì vững chắc ngăn chặn những tệ nạn, những nọc độc văn hóa
xâm nhập vào nước ta. Ơng bà, cha mẹ chính là tấm gương để các con cháu noi

14


theo. Xây dựng văn hố trong gia đình, ứng xử văn hoá của từng thành viên trong
gia là một nội dung quan trọng, quyết định đến những kết quả đạt được của xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Bước sang những năm đầu của thế kỷ 21, đất nước đổi mới đã đạt được những

thành tích đáng ghi nhận về kinh tế, xã hội, điều kiện sống của người dân. Tuy
nhiên bên cạnh đó, những tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự xuống cấp
của một số mối quan hệ ứng xử văn hố trong gia đình, đạo đức gia đình, đạo đức
xã hội ngày càng trở nên nghiêm trọng.
Đại hội IX năm 2001 của Đảng tiếp tục nhấn mạnh đến vai trị của gia đình
với sự phát triển kinh tế xã hội, sự hình thành nhân cách, lối sống của mỗi người:
“Nêu cao trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên
của mình có lối sống văn hóa, làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người và là
tế bào lành mạnh của xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016). Như vậy, trước yêu
cầu cấp thiết của thực tiễn, bên cạnh những chính sách là điều kiện để xây dựng gia
đình hạnh phúc thì Đảng đã khẳng định chính mỗi gia đình phải là chủ thể quan
trọng nhất, quyết định đến việc xây dựng gia đình hạnh phúc, để gia đình khơng chỉ
là tế bào của xã hội mà phải là những tế bào lành mạnh, là tổ ấm thực sự của mỗi
người. Để thực hiện điều đó, trước hết chính mỗi gia đình phải nêu cao trách nhiệm
của mình trong việc xây dựng và bồi dưỡng nhân cách của từng thành viên.
Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, qn triệt sâu sắc vai trị, vị trí của
gia đình đối với sự phát triển bền vững của đất nước, nhà nước ta ngày một hoàn
thiện hơn hệ thống văn bản quản lý về cơng tác gia đình, cơ quan quản lý nhà nước
về gia đình các cấp. Ngày 4/5/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
72/2001/QĐ-TTg lấy ngày 28 tháng 6 hằng năm là Ngày Gia đình Việt Nam. Đây là
dịp đề cao trách nhiệm của lãnh đạo các ngành, các cấp, các đoàn thể và tổ chức xã
hội cùng các gia đình thường xuyên quan tâm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng,
tiến bộ và hạnh phúc, đẩy mạnh công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, góp
phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Sau gần 20 năm triển khai, những
hoạt động kỷ niệm Ngày Gia đình Việt Nam (28 tháng 6) đã được tổ chức trên toàn

15


quốc, thu hút được sự tham gia của các cấp chính quyền và đơng đảo người dân với

sức lan tỏa rộng lớn.
1.1.2.2. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề gia đình
giai đoạn từ năm 2007 đến nay
Cùng với sự thay đổi về cơ quan quản lý nhà nước, sau 20 năm đổi mới, tình
hình kinh tế- xã hội có nhiều biến đổi tạo nên thời cơ và thách thức mới đối với
từng gia đình Việt Nam. Khi sáp nhập lĩnh vực gia đình về Bộ VHTTDL, Đảng và
nhà nước ta nhấn mạnh đến vai trò của gia đình trong việc gìn giữ, phát huy truyền
thống văn hóa gia đình nói riêng, văn hóa dân tộc nói chung; coi văn hóa gia đình là
một bộ phận khăng khít của văn hóa dân tộc và khơng ai khác ngồi gia đình và các
thành viên gia đình là nơi lưu giữ, bảo tồn, nuôi dưỡng các giá trị văn hóa của dân
tộc Việt Nam, xây dựng mối quan hệ, văn hoá ứng xử từ các thành viên trong gia
đình nhằm mục tiêu xây dựng gia đình hạnh phúc.
Quan điểm và chính sách pháp luật của Đảng và nhà nước ta về gia đình giai
đoạn này đã có những biến đổi rõ nét dựa trên nền tảng tư tưởng từ giai đoạn trước.
Trong đó nhấn mạnh hơn vai trị của gia đình với văn hố của dân tộc và trong việc
giáo dục, đạo đức, lối sống, hình thành nhân cách con người Việt Nam bắt đầu từ
gia đình.
Tại Đại hội XI, Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh: “Xây dựng gia đình no ấm,
tiến bộ, hạnh phúc thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội” (Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bổ sung, phát triển năm 2011). Quan
điểm của Đảng cho thấy, muốn có một xã hội phát triển lành mạnh thì trước hết
từng “tế bào” phải phát triển bền vững. Gia đình khơng chỉ là “tế bào” tự nhiên mà
còn là một đơn vị kinh tế của xã hội. Khơng có gia đình tạo ra con người để xây
dựng xã hội thì xã hội cũng khơng thể tồn tại và phát triển được. Gia đình khơng chỉ
giữ vai trò nền tảng, tế bào của xã hội, mà cịn là mơi trường quan trọng, trực tiếp
giáo dục đạo đức, lối sống, nơi hình thành nhân cách con người đầu tiên. Gia đình
giữ vai trị đặc biệt quan trọng tới số lượng, chất lượng dân số và cơ cấu dân cư của
quốc gia. Gia đình khơng chỉ dừng lại ở việc duy trì nịi giống, mà quan trọng hơn,

16



gia đình phải trở thành mơi trường tốt nhất, trước tiên để giáo dục cách ứng xử văn
hố, hình thành tính cách, đạo đức, nếp sống con người.
Thơng báo kết luận số 26 của Ban Bí thư đã “Khẳng định xây dựng gia đình là
vấn đề lớn, hết sức hệ trọng của dân tộc và của cả thời đại”. Tăng cường công tác
truyền thông, nâng cao nhận thức của các cấp uỷ đảng, chính quyền, các ban,
ngành, đồn thể và cộng đồng về tầm quan trọng, vị trí và vai trị của gia đình và
cơng tác xây dựng gia đình trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” (Ban Bí
thư, 2011).
So với thời kỳ trước, thời kỳ này, vai trị của gia đình trong việc giáo dục đạo
đức, lối sống hình thành nhân cách người Việt Nam và việc gìn giữ phát huy văn
hóa gia đình được nhấn mạnh hơn; gia đình phải tập trung thực hiện vai trị, chức
năng này, cũng chính là để xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội phát triển bền
vững.
Cụ thể hóa đường lối chủ trương của Đảng về gia đình, nhà nước ta ban hành
các chính sách, văn bản cụ thể về gia đình, tập trung vào mục tiêu xây dựng “gia
đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững” đã quy định trong Nghị
định số 02/2013/NĐ-CP (Bộ VHTTDL, 2013). Các văn bản được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt như Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm
nhìn 2030, Nghị quyết Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Thơng báo
kết luận số 26 của Ban Bí thư, Đề án tổ chức các hoạt động hưởng ứng Ngày Quốc
tế Hạnh phúc 20/3 hằng năm, Chương trình hành động quốc gia về phịng chống
bạo lực gia đình, Quy chế phối hợp liên ngành về phịng, chống bạo lực gia đình,
Quyết định lấy tháng 6 hàng năm là Tháng hành động quốc gia về phòng, chống
bạo lực gia đình, Đề án về phát huy mối quan hệ tốt đẹp trong gia đình, Chương
trình giáo dục đời sống gia đình đến năm 2020, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về
tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình… Điều này một mặt hồn
thiện hơn chính sách về gia đình của nhà nước ta, mặt khác thể hiện rõ quyết tâm
của Đảng và nhà nước về tập trung nguồn lực xây dựng gia đình hạnh phúc.

1.1.3. Hệ thống văn bản chính sách pháp luật về cơng tác gia đình

17


Bản thân chính sách được cụ thể hóa bằng nhiều loại văn bản. Chính sách là
cơng cụ giải quyết vấn đề xã hội đặt ra mà nhà nước tồn tại dưới nhiều hình thức
như chủ trương, kế hoạch, … mang tính khuyến khích, khơng bắt buộc. Tuy nhiên
cũng có những chính sách đã được thể chế hóa bằng luật, như vậy chính sách sẽ
mang tính bắt buộc. Vì vậy với một chính sách đưa ra, có thể có nhiều văn bản về
quy định, hướng dẫn, bổ sung, …. Các văn bản quy định là cơ sở cho việc thực thi.
Do đó, việc đánh giá hệ thống văn bản của chính sách góp phần bổ sung, nâng cao
hiệu quả của việc thực thi chính sách, cụ thể: Luật Hơn nhân và gia đình, Luật Bình
đẳng giới, Luật Trẻ em, Luật phịng, chống bạo lực gia đình, Chỉ thị 49-CT/TW
ngày 21/2/2005 của Ban Bí thư về xây dựng gia đình thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Quyết định số 215/QĐ-TTg ngày 06 tháng 02 năm 2014 của Thủ
tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về phịng, chống
bạo lực gia đình đến năm 2020; Quyết định 2084/QĐ-TTg ngày 05 tháng 5 năm
2015 của Ủy ban nhân dân Thành phố ban hành Chương trình hành động quốc gia
phịng, chống bạo lực gia đình đến năm 2020 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh;
Quyết định số 2586/QĐ-UBND ngày 01/6/2015 ban hành Kế hoạch tổ chức thực
hiện Đề án phát huy giá trị tốt đẹp các mối quan hệ trong gia đình và hỗ trợ xây
dựng gia đình hạnh phúc, bền vững đến năm 2020 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh; Quyết định số 4843/QĐ-BVHTTDL ngày 08/12/2017 của Bộ trưởng Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch về ban hành Bộ tiêu chí ứng xử gia đình; Thơng tư
07/2017/TT-BVHTTDL ngày 19 tháng 12 năm 2017 của Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch quy định thu thập, xử lý thơng tin về gia đình và phịng, chống bạo lực gia
đình…
1.2. Đặc điểm, vị trí, vai trị tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về cơng tác
gia đình

Với tư cách chủ thể quản lý, nhà nước đã sử dụng chính sách pháp luật làm
phương tiện quan trọng nhất để tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. khi ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật nhà nước mong muốn các văn bản đó phải
được tơn trọng và thực thi có hiệu quả trong thực tế.

18


Tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về cơng tác gia đình bao giờ cũng
thơng qua những hành vi cụ thể của con người. Đời sống xã hội của con người bao
giờ cũng được bộc lộ thông qua các hành vi cụ thể trong các mối quan hệ xã hội.
Hành vi cũng chính là các phương thức tồn tại của con người, chính vì lẽ đó, việc
thực hiện chính sách pháp luật về cơng tác gia đình thường tồn tại là những dạng
hành động tích cực là chủ yếu và phổ biến của các cá nhân hoặc cơ quan trong bộ
máy nhà nước.
Tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về cơng tác gia đình là hành vi phù
hợp với pháp luật về cơng tác gia đình. Đó là những hành vi cụ thể của con người
song thực hiện chính sách pháp luật về cơng tác gia đình có đặc điểm là phải phù
hợp với các quy định hiện hành liên quan tới cơng tác gia đình.
Nói đến việc tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về cơng tác gia đình bao
giờ các chủ thể cũng quan tâm tới việc thực hiện cái gì? Nói cách khác là thực hiện
nội dung gì liên quan tới cơng tác gia đình và cách thức, hình thức thực hiện bằng
hình thức nào? Như vậy, tính hợp pháp trong q trình thực hiện chính sách pháp
luật về cơng tác gia đình bao gồm thực hiện cả những quy phạm về nội dung và
những quy phạm về hình thức, quy trình và thủ tục. Chỉ có sự đảm bảo và phù hợp
cả về nội dung và hình thức thì quá trình thực hiện chính sách pháp luật về cơng tác
gia đình mới làm cho các hành vi và quan hệ pháp luật phát sinh trong thực tế hợp
pháp và tích cực bảo vệ việc thực hiện chính sách pháp luật về cơng tác gia đình.
Tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về cơng tác gia đình là một q trình
có mục đích, nó bao gồm nhiều hoạt động kế tiếp nhau. Các hoạt động cụ thể đó

bao gồm: Chủ thể tìm hiểu các quy định của chính sách pháp luật có nội dung cụ thể
như thế nào? Xem xét vị trí, chức năng vai trò của bản thân, ra các quyết định về
cách thức, thời gian hoạt động cụ thể. Tất cả các hoạt động đó phải cần thiết xác
định mục tiêu cụ thể là xây dựng gia đình thơng qua việc thực hiện các quy phạm cụ
thể.
Tính mục đích có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong q trình tổ chức thực
hiện chính sách pháp luật về cơng tác gia đình nói chung. Đối với q trình thực
hiện chính sách pháp luật về cơng tác gia đình có ý nghĩa vơ cùng quan trọng bởi

19


cơng tác gia đình là nhiêm vụ cần thiết trong thời gian qua. Như vậy, địi hỏi tính
mục tiêu, mục đích khơng chỉ có ý nghĩa trong việc thiết lập, xây dựng các quy
phạm pháp luật cụ thể mà còn là đòi hỏi đối với các chủ thể trong quá trình thực
hiện chính sách pháp luật về cơng tác gia đình.
Để chính sách pháp luật thật sự đi vào đời sống xã hội thì q trình thực hiện
chính sách pháp luật cần thiết phải được bảo đảm từ phía nhà nước. Đối với nước ta
chính sách pháp luật về cơng tác gia đình thể hiện ý chí của nhà nước nhằm xây
dựng gia đình do vậy thực hiện chính sách pháp luật về cơng tác gia đình khơng chỉ
là mong muốn của quản lý hành chính nhà nước mà cịn là nguyện vọng chung của
đa số nhân dân lao động.
Tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về cơng tác gia đình vừa mang tính
thực hiện quyền lực nhà nước, vừa mang tính xã hội rộng rãi. Tổ chức thực hiện
chính sách pháp luật về cơng tác gia đình thơng qua các hình thức riêng có của mình
làm cho những quy phạm pháp luật, các chủ trương chính sách về cơng tác gia đình
đi vào cuộc sống. Những chính sách, quy phạm này chính là hệ thống quy tắc xử sự
chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh
các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực cơng tác gia đình. Vì lẽ đó, để thực hiện chính
sách pháp luật về cơng tác gia đình có hiệu quả cần phải phát huy sức mạnh tối đa

của các chủ thể, các cá nhân, tổ chức và toàn xã hội trong chấp hành, tuân thủ, sử
dụng và áp dụng chính sach pháp luật về cơng tác gia đình. Do đó, tổ chức thực
hiện chính sách pháp luật về cơng tác gia đình có tính xã hội rộng lớn.
1.3. Nội dung của việc tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về cơng tác
gia đình
Ngày 03 tháng 1 năm 2013, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số
02/2013/NĐ-CP quy định về cơng tác gia đình, nghị định này xác định cơng tác gia
đình gồm 10 nội dung như sau:
(1) Xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về cơng tác gia đình
cụ thể: Xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về gia đình; bình đẳng
trong gia đình; phịng, chống bạo lực gia đình và các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia
đình.

20


(2) Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm cơng tác gia đình: xây
dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình các cấp;
Dào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình;
biên soạn tài liệu về cơng tác gia đình;
(3) Tuyên truyền, vận động, phổ biến kiến thức về công tác gia đình: Tuyên
truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nươc về
gia đình, thực hiện bình đẳng trong gia đình, phịng, chống bạo lực gia đình và
phịng ngừa, ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình; Xây dựng tài liệu
và phổ biến kiến thức về gia đình, vận động nhân dân xóa bỏ phong tục, tập quán
lạc hậu về hơn nhân và gia đình; kế thừa, giữ gìn và phát huy những giá trị truyền
thống văn hóa tốt đẹp của gia đình, dịng họ gắn với xây dựng những giá trị tiên tiến
của gia đình trong xã hội phát triển.
(4) Tổ chức, cơ quan cung ứng dịch vụ công thuộc lĩnh vực gia đình: Việc
cung ứng dịch vụ cơng thuộc lĩnh vực gia đình do đơn vị sự nghiệp cơng lập và

doanh nghiệp thực hiện; Điều kiện, trình tự, thủ tục, thẩm quyền thành lập, tổ chức
lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp cung ứng dịch vụ cơng
thuộc lĩnh vực gia đình thực hiện theo quy định của Chính phủ;
(5) Hoạt động hỗ trợ xây dựng gia đình: Tư vấn, giáo dục trước hơn nhân;
cung cấp kiến thức, kỹ năng xây dựng và tổ chức cuộc sống gia đình; lồng ghép phù
hợp giáo dục đời sống gia đình vào chương trình các cấp học; hỗ trợ việc duy trì,
bảo tồn các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình; Hịa giải mâu thuẫn, tranh chấp
trong gia đình và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình;
Xây dựng và hướng dẫn nhân rộng các mơ hình gia đình hạnh phúc, phát triển bền
vững.
(6) Tổ chức kỷ niệm Ngày Gia đình Việt Nam: Hằng năm, tổ chức kỷ niệm
Ngày Gia đình Việt Nam (ngày 28 tháng 6) nhằm đề cao trách nhiệm của lãnh đạo
các ngành, các cấp, các đồn thể, tổ chức xã hội và gia đình quan tâm xây dựng gia
đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững; động viên, khen thưởng kịp
thời tổ chức, cá nhân, gia đình có thành tích tiêu biểu, xuất sắc trong cơng tác gia
đình.

21


(7) Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về cơng tác gia đình: Tổ chức
các hoat động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về cơng tác gia đình theo
quy định của pháp luật.
(8) Nghiên cứu khoa học, xây dựng cơ sở dữ liệu về gia đình và cơng tác gia
đình: Tổ chức các hoạt động điều tra, khảo sát và nghiên cứu khoa học phục vụ việc
xây dựng chính sách pháp luật về cơng tác gia đình; Xây dựng cơ sở dữ liệu về gia
đình và cơng tac gia đình.
(9) Hợp tác quốc tế: Hợp tác vớc các quốc gia, các tổ chức quốc tế, các tổ
chức phi chính phủ trong việc xây dựng chính sách, kinh nghiệm quản lý, nghiên
cứu khoa học, trao đổi chuyên gia, hỗ trợ kỹ thuật và tài chính về lĩnh vực gia đình

theo quy định của pháp luật.
(10) Sơ kết, tổng kết, chế độ thông tin báo cáo.
1.4. Phương thức tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về cơng tác gia
đình
Căn cứ Chỉ thị số 08/CT-TTg ngày 04 tháng 02 năm 2020 của Thủ tướng
Chính phủ về đẩy mạnh cơng tác gia đình và phịng, chống bạo lực gia đình; Ủy ban
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh u cầu Sở Văn hóa và Thể thao chủ động phối
hợp với các sở, ban, ngành, đoàn thể thành phố tiếp tục thực hiện Chiến lược phát
triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030; Chương trình hành động
quốc gia về phịng, chống bạo lực gia đình.
Chủ trì phối hợp với các sở, ban, ngành, đồn thể thành phố, Ủy ban nhân dân
quận, huyện tham mưu xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện các chủ trương,
chính sách, pháp luật về cơng tác gia đình và phịng, chống bạo lực gia đình; tun
truyền, giáo dục đạo đức, lối sống, bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình Việt Nam, tổ
chức hướng dẫn việc thực hiện các biện pháp phòng, chống, ngăn chặn các hành vi
vi phạm pháp luật về gia đình.
Đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức tun truyền, nâng cao nhận thức
của các cấp, các ngành, gia đình và cộng đồng về vị trí, vai trị của gia đình, giáo
dục đạo đức lối sống trong gia đình, bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình. Phối hợp với
cơ quan có liên quan và cơ quan truyền thơng, báo chí tăng cường tun truyền

22


×