Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu Nguyễn Huệ với nhân tài doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.22 KB, 5 trang )

Nguyễn Huệ với nhân tài

Trước khi tốc thắng ra Bắc phù Lê, diệt Trịnh, lịch sử ghi nhận về Nguyễn Huệ là một tài năng về
quân sự, còn những cố gắng của ông trên lĩnh vực chính trị rộng lớn, có chăng, cũng mới chỉ
biểu hiện mờ nhạt. Bởi vì ngày ấy, những chiến công quân sự lẫy lừng ở miền Gia Định không
được chuyển hóa thành thắng lợi chính trị bền vững tuy thuộc về Nguyễn Nhạc, nhưng là một
trong các lãnh tụ của phong trào Tây Sơn, Nguyễn Huệ cũng dự một phần trách nhiệm.


Song, trải qua thực tiễn, qua tháng năm xông pha trận mạc, cùng với sự lớn mạnh của phong
trào, Nguyễn Huệ đã có được tầm nhìn phổ quát hơn. Tầm nhìn đó không chỉ biểu hiện ở lĩnh
vực quân sự mà còn ở khía cạnh chính trị mà ở bài này, chúng tôi chỉ hạn chế trong việc tìm hiểu
mối quan hệ giữa Nguyễn Huệ với các thần triều cũ. Trong quan điểm "trung quân" thời phong
kiến, vấn đề này chẳng những thể hiện tầm nhìn của một lãnh tụ, sự nhạy cảm thức thời của một
số trí thức, quan lại phong kiến mà nó còn tỏ rõ được sức thu hút, bản chất tiến bộ hay không
của một phong trào.


Tượng Hoàng đế Quang Trung tại Điện thờ Tây Sơn Tam Kiệt. (Ảnh: blog.360.yahoo.com)

Mối quan hệ giữa Nguyễn Huệ với các thần triều cũ không chỉ biểu hiện sau khi ông trở
thành người anh hùng "áo vải cờ đào" áo sạm đen màu khói súng giữa kinh thành Thăng
Long ngày 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789) mà đã xác nhận qua thái độ ứng xử với
viên tham tấn Nguyễn Đăng Trường và danh sĩ Trần Văn Kỷ, những người đã chịu nhiều
ơn mưa móc của chúa Nguyễn. Với những người bên kia chiến tuyến đó, trong quan niệm
xưa mà Nguyễn Huệ đã "lấy lễ tôn kính bậc thầy và khách" hoặc chủ động tìm mời, cho
dự vào nơi "màn trướng" - dù là sách lược đi nữa, cũng đáng để chúng ta trân trọng.
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở những việc trên đây, tài năng và đức độ của Nguyễn Huệ trong
việc vời đón và trọng dụng nhân tài cũng chưa đủ sức thu phục lòng người. Chỉ từ khi đánh tan
3.000 quân Trịnh, tiến sát sông Gianh - ranh giới của hơn 200 năm cắt chia đất nước, ruổi thẳng
ra Bắc, lật nhào nền thống trị ngót 300 năm của họ Trịnh ở Thăng Long, thực hiện một kỷ luật rất


chặt chẽ trong quân đội, lập lại trật tự bởi một sự công bằng nhanh gọn, làm những gì cần thiết
để tỏ rõ danh nghĩa "phù Lê". Nguyễn Huệ mới thực sự để lại những ấn tượng tốt đẹp không dễ
phai mờ trong dân chúng Bắc Hà, gây được ảnh hưởmg nhất định đối với tầng lớp quan lại cấp
thấp triều Lê.

Nhưng, do hạn hẹp về tầm nhìn và sự đố kỵ về tài năng, Nguyễn Nhạc đã vội ra Thăng Long, ép
Nguyễn Huệ trả lại đất cho vua Lê. Việc làm đó đã gây nên sự bất đồng về quan điểm, dẫn tới
bất hòa giữa hai anh em và bùng nổ thành xung đột quân sự. Từ đây, mâu thuẫn trong nội bộ
phong trào lộ phát, dù cho đã được hòa dịu bằng một thỏa hiệp nhưng vẫn gây nên xáo động
trong quân đội Tây Sơn, mà trước tiên là trong đội ngũ tướng soái. Do đó, vấn đề vời gọi và sử
dụng nhân tài, tức là tập hợp một bộ tham mưu đồng tâm nhất trí đã trở thành một quan tâm rất
bức xúc trong suy tư và hoạt động của Bắc Bình Vương. Ông tranh luận cởi mở và nhiều lần
kiên trì thuyết phục Trần Công Xán - một danh sĩ Bắc Hà; ông tha thiết mời gọi bằng lời lẽ nhún
nhường, bằng thái độ "chiêu hiền đãi sĩ" với ẩn sĩ Nguyễn Thiếp: "15 năm tới bây giờ chưa một
phút nào quên tìm người tài giỏi... nay trông lên thành Lục Niên có người tài ở đó, ấy là trời dành
Phu tử cho Quả đức vậy", cũng không ngoài mục đích đó. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, việc Trần
Công Xán khăng khăng thà chết cho lòng trung với vua Lê, Nguyễn Thiếp nhất mực chối từ,
không nhận lời xuống núi cũng cho ta thấy rằng lực hấp đẫn của phong trào, của Nguyễn Huệ
chưa đủ mạnh đối với tri thức, quan lại triều cũ, thức tỉnh họ rũ được quan niệm "trung quân"
truyền thống.

Thế nhưng, từ cuối năm 1786, sau khi hoàn tất thoát vượt sự kiềm tỏa của Nguyễn Nhạc, trở
thành lãnh tụ chính của phong trào thì Nguyễn Huệ đã bắt tay ngay vào việc thực hiện những
nhiệm vụ to lớn, phức tạp: củng cố và tăng cường lực lượng, trấn áp những thế lực chống đối
đang ngóc dậy, thiết lập quyền kiểm soát trên lãnh thổ phía Bắc, cắt đặt quan chức, thu phục
nhân tài, yên ủy muôn dân. Đến giữa năm 1788, ông hành quân ra Bắc giết tướng Vũ Văn
Nhậm, trao binh quyền cho tướng Ngô Văn Sở. Theo một số tài liệu thì Ngô Văn Sở xuất thân từ
dòng dõi "Thạch Hà tướng phiệt", một dòng họ nhiều đời phục vụ chính quyền Lê Trịnh. Các
chức hiệp trấn và vị trí quan trọng ở các bộ do tướng soái Tây Sơn đảm lãnh. Nguyễn Huệ hạ chỉ
văn để Lê Duy Cận làm giám quốc, tập trung phủ dụ triều Lê để nêu rõ chính nghĩa của mình và

kêu gọi họ "ở lại giúp đỡ giám quốc". Với các danh sĩ ông chủ động phái người tìm mời, tiến cử.
Nhớ lại trước đây, hồi ra Thăng Long lần 1 (1786), quan lại triều cũ nói chung "thấy thần sắc của
Bắc Bình Vương nghiêm nghị, rực rỡ, ai cũng run sợ, hãi hùng". Ngay cả khi tướng tiết chế Vũ
Văn Nhậm được sai ra giết Nguyễn Hữu Chỉnh, tình hình cũng chưa sáng sủa thêm là bao. Vũ
Văn Nhậm tưởng rằng "uy vũ của mình đủ khiến người ta phải phục", thế mà, nhân danh Nguyễn
Huệ, ông lệnh "đòi các quan văn võ phải đến chầu hầu... rốt cuộc, các viên quan có thế lực cũng
chẳng ai đến".

Khác hẳn tình hình băng giá trên đây, bây giờ, bao trùm Thăng long cổ kính là bầu không khí cởi
mở và tin tưởng. Ngay từ ngày đầu nhiều người đã ra mắt Nguyễn Huệ: các tiến sĩ Ngô Thì
Nhậm, Phan Huy Ích, Nhuyễn Thế Lịch, Ninh Tôn, Nguyễn Bá Lân... Đối với những người này,
tất thảy, Nguyễn Huệ đều đối xử chân thành, không kiểu cách. Ông dành cho họ sự thù tiếp thân
mật, giản dị, tin cậy, ban cho họ tước phẩm; dùng họ vào những chức vụ quan trọng tương ứng
với tài năng của mỗi người. Mặt khác, tôn trọng quyền lựa chọn của các cựu thần, ông đã đồng ý
để những người như tiến sĩ Phan Lê Phiên, tiến sĩ nguyễn Hoàn... về lại cố hương dưỡng nhàn
như sở nguyện "cho giữ nguyên chức tước..., sai bộ Lễ cấp phát giấy tờ" cho họ. Với những ai
còn náu mình ẩn nhẫn, ông bền lòng mời gọi, do bản chất tiến bộ của phong trào, cùng với
những ứng xử thoáng đạt của Nguyễn Huệ trên đây, chẳng mấy chốc sự nghiệp của Bắc Bình
Vương đã trở nên thuận lẽ trời, hợp lòng người". Và đó là lực hấp dẫn chính để Nguyễn Huệ có
thể nhanh chóng thu phục được những nhân tài trong "nước cũ" về mình để ổn định và sắp xếp
công việc ở Bắc Hà.

Sau khi cắt đặt xong những việc căn bản ở Bắc Hà, trao phó toàn bộ quyền hành cho các tướng
soái cao cấp (như Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết, Ngô Thì Nhậm ...) với lời
dặn: "mọi việc cho tùy tiện mà làm, cùng nhau bàn bạc ổn thỏa, đừng vì mới - cũ mà xa cách
nhau, Nguyễn Huệ rời Thăng Long về lại Phú Xuân, khẩn trương tăng cường lực lượng, sẵn
sàng đối phó với những đe thách nguy hiểm ở hai đầu đất nước. Ngày 24 tháng 1 năm Mậu
Thân (1789), nhận được cấp báo quân Thanh đã tràn xuống xâm lược nước ta, ngày 25 Nguyễn
Huệ lập tức lên ngôi hoàng đế để "chính vị hiệu, giữ lòng người", thống lĩnh đại quân theo đường
thủy - bộ, tiến ra Bắc đại phá quân Thanh. Bước ngoặt đó trong lịch sử dân tộc đã làm chuyển

biến sâu sắc tâm linh của giới trí thức, quan lại triều cũ mà tiêu biểu là thái độ của Nguyễn Thiếp
khi ông tâu trình với Quang Trung Nguyễn Huệ trong một lần tiếp kiến ở đất Nghệ An: "Bây giờ
trong nước trống không, lòng người tan rã. Quân Thanh từ xa tới, không biết quân ta yếu hay
mạnh, không hiểu rõ thế đánh giữ ra sao, chúa công ra đi chuyến này, không quá mười ngày,
giặc Thanh sẽ bị dẹp tan". Rõ ràng là, tới đây, khi vươn lên làm nhiệm vụ dân tộc, củng cố hơn
nữa nền thống nhất đất nước, tiến hành chiến tranh giải phóng, bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ và chủ
quyền quốc gia, phong trào Tây Sơn đã trở thành đại biểu duy nhất cho lợi ích tối cao của dân
tộc mà Quang Trung Nguyễn Huệ là tâm điểm hợp tụ lòng người cả nước, có sức thu hút mãnh
liệt nhân tài. Lịch sử đã cho thấy, tất cả quan lại triều cũ mà Nguyễn Huệ đã tìm mời, tin trao
trọng trách, chủ động tạo ra những điều kiện rất thuận lợi với quyền hành rộng rãi cho họ thì, họ
đều tỏ rõ tài năng, sức lực và phát huy được những sở trường của mình, góp phần xứng đáng
vào thắng lợi của cả dân tộc.

Đánh bại hoàn toàn 200.000 quân Thanh cũng là khởi đầu một thời kỳ mới, trong đó nhiều vấn
đề đặt ra, đòi hỏi phải đồng thời giải quyết. Tình hình có dịu lắng mà chưa hẳn bình yên: phía
Nam "quốc thù" đang mạnh mẽ bành trướng thế lực; phía Bắc, lửa chiến tranh đã tắt nhưng
chưa nguôi, trong nước, các thế lực phản động đang lăm le ngóc dậy; đất nước sau bao phen
binh lửa và thiên tai, li loạn và đói kém cần được phục hồi và ổn định; những vấn đề xã hội nóng
bỏng đòi hỏi phải khẩn trương khắc phục.... Tất thảy những điều đó là thách đố nặng nề đối với
vua Quang Trung và vương triều mới của ông. "Chiêu cầu hiền" được ban ra trong hiện tình đất
nước lúc đó, là điều dễ hiểu: "Trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, thức ngủ mong mỏi mà có người
tài cao học rộng chưa từng thấy đến. Hay Trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? hay đang
thời đổ nát chưa thể ra phụng sự?..Trẫm nơm nớp lo nghĩ, một ngày hai ngày cũng có hàng vạn
sự việc nảy sinh Ngẫm cho kỹ: cái nhà to lớn - sức một cây không dễ gì chống đỡ, sự nghiệp thái
bình - sức một người không thể đảm đương". Sự thực, sau cuộc kháng chiến chống quân Thanh
thắng lợi, bên cạnh đội ngũ tướng soái văn, võ tiếp tục cống hiến tài sức cho Vương triều, cuộc
CANH TÂN của đất nước đang đòi hỏi rất nhiều NHÂN TÀI để gánh vác việc chung. Giờ đây,
cảm tấm lòng của vua Quang Trung và giác ngộ hơn về bao biến chuyển vừa qua, các "bậc có
tài năng đều ra giúp việc, những vị danh thần hưởng ứng chính nghĩa, những kẻ sĩ phu bỏ tối
theo sáng" mà tiêu biểu là các tiến sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn, Vũ Huy Tấn, Nguyễn Nễ, Nguyễn Huy

Lượng, Bùi Dương Lịch…. Đến như Nguyễn Thiếp bây giờ cũng nhận lời xuống núi, giúp vua
Quang Trung xây dựng nước non nhà. Đành là, mỗi người mang theo những tâm niệm không
hệt nhau nhưng rõ ràng, trong họ, hình ảnh vua Quang Trung tài năng và tấm tình xứng đáng
xứng đáng là vị vua hiền của nước: "Mênh mông vương đạo mở ra, một tấc cũng thu, một li cũng
nhấc; dùng người không phân mới - cũ, thân - sơ, khiến cho bọn lười biếng cũng thấy thanh
minh, thịnh Sự". Cho nên, không phải là vô cớ mà Ngô Trọng Khuê, một đại thần triều Lê dẫu
chối từ lời mời của Quang Trung nhưng vẫn nói về ông bằng những lời ca tụng đẹp: "Lòng nhân
hiếu cảm đến đất trời … Với các sĩ phu thì cuốn vào máy, thu vào lồng, tìm trong hang núi, hỏi
chốn thôn quê, thu hái chẳng sót loài cỏ mọn". các tài liệu trên đây đã chứng tỏ lòng mến mộ vua
Quang Trung của các nhân tài. Thực ra, việc dùng những người vốn là con đẻ của một vương
triều, một chế độ vừa bị đánh đổ không chỉ diễn ra với Nguyễn Huệ. Lịch sử còn lặp lại ở các
phong trào, ở những cuộc cách mạng thời cận, hiện đại. Có điều, để vời gọi được và sử dụng có
hiệu quả các tài năng, nhất là những tài năng lớn của đất nước, nếu tấm lòng và "sức dùng" của
cá nhân lãnh tụ là yếu tố tác động trực tiếp thì, tính tiến bộ của một phong trào chính là yếu tố
căn bản. Tuy vậy, với Quang Trung, việc sử dụng nhân tài cũng còn đôi điều hạn chế.

Trong cuộc đời cầm quân của mình, Nguyễn Huệ đã ra lệnh trừng trị hai viên tướng là Nguyễn
Hữu Chỉnh và Vũ Văn Nhậm. Ở hai trường hợp này, nhiều quan điểm xem xét và đánh giá khác
nhau. Bằng một số tư liệu, chúng tôi cho rằng: bỏ Chỉnh ở lại Thăng Long, sau đó khước từ nài
xin của Chỉnh theo về Phú Xuân mà cho ở lại Nghệ An, Nguyễn Huệ chưa thực sự nỗ lực nhằm
hạn chế tối đa phản bội cũng như chưa triệt để khai thác tài năng vốn có ở viên tướng này, nhằm
phục vụ cho lợi ích phong trào. Dựa trên những tin báo chưa được minh định vội lấy đó làm bằng
chứng, cộng với định kiến (Nhậm, cũng như Chỉnh, vốn là hàng tướng, Nhậm lại là con rể của
Nguyễn Nhạc) đã giết Vũ Văn Nhậm là việc làm mà theo chúng tôi nghĩ, là chưa đủ sức thuyết
phục. Phải chăng, việc phế bỏ Nguyễn Hữu Chỉnh và triệt bỏ Vũ Văn Nhậm là xạ ảnh của một
thời kỳ đấu tranh trong nội bộ phong trào, trong đó, Nguyễn Huệ đang nỗ lực thâu tóm quyền lực,
khẳng định quyền, uy vượt thoát ảnh hưởng của Nguyễn Nhạc để trở thành lãnh tụ chính của
phong trào Tây Sơn?

Dù vậy, nhìn chung lại, qua 21 năm hoạt động sôi nổi, đặc biệt trong 6 năm là lãnh tụ tối cao của

phong trào (1787 - 1792) trước những đòi hỏi của phức tạp và đầy rẫy khó khăn, Nguyễn Huệ đã
giải quyết tương đối thành công vấn đề sử dụng con người; sử dụng nhân tài. Chỉ riêng nhiều đại
diện ưu tú của giới quan lại văn võ triều cũ đã dứt khỏi một dĩ vãng vàng son chưa mấy xa xăm
mà bản thân, gia đình, gia đình và họ mạc hơn một lần hưởng nhiều ân trạch để tập hợp dưới cờ
đỏ Tây Sơn cũng chứng tỏ sức thu hút lớn lao của phong trào và cá nhân Nguyễn Huệ. Mẫn
cảm, xét đoán tinh và sâu, không mặc cảm nặng nề bởi hoàn cảnh xuất thân và quãng đời hôm
qua của các quan lại triều cũ, Nguyễn Huệ đã vì nghĩa cả mà vời gọi tha thiết, tin giao trọng
trách, bán cho họ quyền hành rộng rãi đủ để họ tùy tài khu xử, ứng tác. Vậy nên, dưới cờ đào
của Người anh hùng áo vải, trí tuệ, tâm lực của các nhân tài, tướng soái đã phát huy đầy đủ, góp
phần to lớn vào thắng lợi chung của toàn dân tộc.

. Theo Hồ Khang/Lịch sử quân sự (Tháng 7. 1989)
Bài 2

Vua Quang Trung chọn và trọng dụng nhân tài

Khi mới bắt đầu cuộc khởi nghĩa, nhà Tây Sơn dùng ngọn cờ đấu tranh đánh đổ thế lực phong
kiến nhà Nguyễn, đem lại công bằng cho dân lành, Nguyễn Nhạc tích cực chiêu hiền để có người
hiền tài ra giúp nước. Những người đến với Tây Sơn đều tự mình đến tham kiến, hoặc do người
khác có uy danh giúp đỡ giới thiệu để được trọng dụng. Khi khởi nghĩa thành công, giang sơn thu
về một mối, thì việc chọn nhân tài không chỉ là những người tự giác đến với mình, mà vua Quang
Trung theo các đời trước cho mở các khoa thi Võ và Văn tại kinh đô Phú Xuân, tất cả mọi người
đều được ứng thí.

Riêng về Văn, nhà vua cho 3 năm mở một khoa, gọi là khoa Minh Kinh. Khoa thi Văn đầu tiên mở
vào năm Quang Trung thứ nhì (1789). Nét đáng chú ý trong việc chọn nhân tài của vua Quang
Trung là nhà vua không phân biệt người ở vùng nào, miễn là có thực tài thì được chọn. Theo các
cứ liệu lịch sử, sau khi xưng vương vua Quang Trung quản lý phần đất từ Phú Xuân trở ra, còn từ
Quảng Nam trở vào thuộc quyền vua Thái Đức Nguyễn Nhạc; nhưng qua các khoa thi ở Phú
Xuân, Quang Trung đã tuyển chọn rất nhiều người ở miền trong. Trong số đó có nhiều nhân tài,

sau khi chọn được nhà vua sử dụng và bổ nhiệm ngay các chức vụ quan trọng trong triều đình.
Chẳng hạn như Phan Văn Biên, người Phú Yên giỏi về kinh sử, rành toán pháp, vừa thi đậu xong
được bổ ngay làm Huấn Đạo; Đinh Sĩ An người Bình Khê, cùng Ngô Diên Diệu, Phan Đình Vân,
Huỳnh Chiếu thơ văn thanh khoáng nổi danh về văn học, người đời xưng tụng là "Tây Sơn tứ tài
tử", thi xong được bổ làm việc ở Nội Các với Hàm Hàn Lâm. Hoặc Phạm Văn Trung người Phù
Mỹ, Trần Trọng Vỹ (Hoài Ân), Đặng Sĩ Nguyên, Đặng Mộng Kỳ, Lý Xuân Tá người Quảng Nam
thi đậu xong đều được bổ nhiệm ngay các chức vụ quan trọng theo thực tài từng người. Truyền
rằng, Trần Trọng Vỹ là người thơ hay, theo nhà Tây Sơn làm một chức quan nhỏ, sau khi thi đỗ
khoa Minh Kinh ông liền được bổ làm Thị Lang Bộ Lễ.

Không chỉ ở phần đất phía Nam, mà người ở đất Thuận Hóa và Bắc Hà thi đậu cũng nhiều. Nổi
tiếng nhất là Đặng Cao Phong thi đậu được bổ vào Nội Các với chức Hàn Lâm Học Sĩ, rồi thăng
lên Trung Thư Thị Lang. Nhà vua rất tin dùng, những chuyện cơ mật trong triều Phong đều được
tham dự.

Về thi Võ, người miền trong ra thi cũng nhiều. Trong đó, có hai người nổi tiếng là Phạm Cần
Chính và Lê Sĩ Hoàng. Chính người Phù Cát, học chữ giỏi mà võ nghệ cũng giỏi, sức mạnh phi
thường, một mình ông có thể cắp nách hai tảng đá nặng hàng tạ nhảy qua rào cao. Ông chuyên
dùng cây Thiết Sóc, nên được người đời gọi là Phạm Thiết Sóc, được vua Quang Trung cho đổi
sang họ Nguyễn. Còn Lê Sĩ Hoàng người Quảng Nam, lúc nhỏ nhà nghèo đi chăn trâu cho nhà
giàu, để trâu bị cọp bắt, Hoàng chạy vào núi trốn may mắn gặp dị nhân truyền võ nghệ, ông
chuyên sử dụng đại đao. Chuyện kể rằng, trong lúc Hoàng vào thi vua Quang Trung sai Trần
Quang Diệu ra tỉ thí, tài sức ngang nhau. Cao hứng nhà vua đòi đấu thử, Lê Sĩ Hoàng cung kính:
"với Trần tướng quân hạ thần còn không địch nổi, huống chi với Bệ Hạ". Vua Quang Trung đắc ý
vỗ vai nói: "Đây là Hứa Chữ của ta". Nói xong nhà vua cởi chiếc cẩm bào đang mặc ban cho
Hoàng. Sĩ Hoàng cùng Quang Diệu được mọi người tôn là "Tây Sơn song đa". Sau này Sĩ Hoàng
lập được nhiều chiến công, được liệt vào hàng lương tướng của nhà Tây Sơn.

Không chỉ sử dụng người tài, vua Quang Trung còn là người biết trọng người tài, ngay cả người
ấy là của đối phương. Đó là trường hợp Nguyễn Huỳnh Đức, một vị tướng tài của nhà Nguyễn bị

quân Tây Sơn bắt trong trận thủy chiến ở Gia Định năm Quí Mão (1783). Khi Huỳnh Đức được
giải đến trước mặt, Nguyễn Huệ trông thấy tướng mạo vị tướng này khôi ngô, kỳ vĩ, lòng sinh ái
mộ bèn tự tay cởi trói cho Đức và ôn tồn khuyến dụ. Trái lại Huỳnh Đức trừng mắt mắng lại rằng:
"Tôi trung không thờ hai chúa. Nay rủi bị bắt thì tôi chỉ đợi chết chứ không bao giờ đầu hàng".
Các tướng phẫn nộ xin đem đi chém, Nguyễn Huệ cười: "Thái độ Huỳnh Đức không có gì là quái.
Đó là bản sắc của người anh hùng và lòng trung nghĩa của kẻ trượng phu. Trước cái chết mà
không khuất, đó là trung nghĩa, há chẳng khiến cho chư tướng khâm phục sao". Sau đó, Nguyễn
Huệ sai đem Huỳnh Đức để sau bản doanh và giao cho Ngô Văn Sở và ái cơ của mình là Trần
Mỹ Tuyết thuyết phục. Huỳnh Đức ban đầu rất cứng rắn, nhưng cuối cùng cũng phải chịu theo
Nguyễn Huệ, được Nguyễn Huệ mở đường cho chọn ở hay đi đâu tùy ý. Lúc đến trấn Nghệ An,
Huỳnh Đức xin Nguyễn Huệ được ở lại giúp Nguyễn Văn Duệ trấn Nghệ An và được chấp nhận.

• HV (St)

×