Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

Anh huong cua xuat khau lao dong den muc songcac ho gia dinh o thon Ngoc Lam xa Tan Ky huyenTu Ky tinh Hai Duong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (580.39 KB, 59 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Bài Luận Đề Tài:. Ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia đình ở thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. MỤC LỤC I. GIỚI THIỆU.................................................................................................................................3.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> 1.1. Tính cấp thiết của đề tài.........................................................................................................3 1.2. Mục tiêu nghiên cứu:.............................................................................................................4 1.3. Phương pháp nghiên cứu, chọn điểm, khung phân tích.........................................................4 II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU...........................................................................................................7 2.1. Một số lý thuyết kinh điển về di dân.....................................................................................7 2.2. Tác động của vấn đề di cư đến nông thôn.............................................................................8 2.3. Xuất khẩu lao động và kiều hối...........................................................................................10 III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:.....................................................................................................12 3.1. Thực trạng xuất khẩu lao động tại thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, Tứ Kỳ, Hải Dương..........12 3.2. Kiều hối (Tiền gửi về của các hộ gia đình):........................................................................17 3.3. Những biến đổi về mức sống của các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động...........21 Tác động tới quá trình sản xuất của các hộ gia đình:............................................................21 Tác động tới quá trình chi tiêu phúc lợi của các hộ gia đình:................................................25 3.4. Một số vấn đề xã hội nảy sinh khi người dân đi xuất khẩu lao động..................................31 Tóm tắt kết quả:..........................................................................................................................32 IV. KẾT LUẬN..............................................................................................................................33 TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................................35.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ, HỘ. Bảng 1. Tuổi và trình độ học vấn của những người đi xuất khẩu lao động:..................................13 Hộp 1. Trình độ học vấn và thời gian làm việc..............................................................................14 Bảng 2. Tình trạng kết hôn và giới tính của những người đi xuất khẩu lao động..........................14 Bảng 3. Nước đi xuất khẩu lao động..............................................................................................15 Hộp 2. Tiền lương nhận được ở từng nước là khác nhau...............................................................15 Bảng 4. Mức độ đồng ý của gia đình cho người thân đi xuất khẩu lao động.................................16 Hộp 3. Đi xuất khẩu lao động vì đời sống còn nhiều khó khăn.....................................................16 Hình 1. Tiền gửi về của hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động............................................17 Hộp 4. Gửi tiền về từ 3 – 4 lần/ năm.............................................................................................18 Hình 2. Mức độ thường xuyên gửi tiền về:....................................................................................18 Hộp 5. Gửi tiền qua người thân......................................................................................................18 Hộp 6. Mức độ đóng góp tùy thuộc vào đặc trưng của cá nhân, gia đình......................................19 Bảng 6. Đánh giá thu nhập ổn định của hộ gia đình thôn Ngọc Lâm...........................................20 Hình 3. Đánh giá thu nhập của các hộ gia đình thôn Ngọc Lâm....................................................20 Bảng 7. Nghề nghiệp của những hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động..............................22 Bảng 8. Đầu tư tái sản xuất của hộ gia đình thôn Ngọc Lâm.........................................................23 Hộp 7. Nguồn lao động địa phương thay đổi.................................................................................25 Hộp 8. Tiền gửi về chi cho giáo dục, trả nợ, kiến thiết nhà cửa, mua sắm vật dụng….................26 Bảng 9. Điều kiện nhà ở, tiện nghi sinh hoạt của các hộ gia đình.................................................26 Hình 4. Mức độ thường xuyên đi khám sức khỏe của các hộ gia đình thôn Ngọc Lâm, Tân Kỳ, Tứ Kỳ, Hải Dương...............................................................................................................................28 Bảng 10. Du lịch, giải trí của các hộ gia đình...............................................................................29 Bảng 11. Xếp hạng về sự thay đổi trong mức sống của các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động................................................................................................................................................29 Hộp 9. Thay đổi lớn về kiến thiết nhà cửa.....................................................................................30 Hộp 10. Mối quan hệ gia đình thay đổi..........................................................................................30 Bảng 12. Mức độ hài lòng của các hộ gia đình với mức sống hiện tại...........................................31.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Hộp 11. Con cái thiếu sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ.............................................................32 I. GIỚI THIỆU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Lao động di cư là một trong những vấn đề xã hội nổi cộm, thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới trong bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay. Giống như các quốc gia khác, di cư ở Việt Nam là một hiện tượng mang tính quy luật, một cấu thành tất yếu của sự phát triển. Đồng thời di cư lao động còn là một đòi hỏi khách quan trong điều kiện kinh tế thị trường, là biểu hiện rõ nét nhất trong sự phát triển không đồng đều giữa các khu vực, vùng miền lãnh thổ. Dưới tác động của toàn cầu hóa, những chênh lệch về mức sống, khác biệt trong thu nhập, cơ hội việc làm, nhu cầu dịch vụ xã hội và sức ép sinh kế đang ngày càng trở thành những áp lực cơ bản tạo nên các dòng di chuyển lao động trong và ngoài nước. Tại nhiều địa phương các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động hay ra thành thị kiếm việc làm, không phân biệt giới tính, tuổi tác. Họ không chỉ vì những nhu cầu cơ bản như ăn, mặc, ở mà còn vì nhu cầu rất quan trọng khác, đó là phát triển (tiếp cận các điều kiện giáo dục, thành tựu khoa học, giải trí, hưởng thụ văn hóa…). Tuy có nhiều lý do khác nhau, song tất cả đều mong muốn cải thiện đời sống cho bản thân và gia đình (Đặng Nguyên Anh, 2005) Một trong những hình thức di cư phổ biến là xuất khẩu lao động của Việt Nam tăng nhanh từ cuối thập niên 1990 và chủ yếu sang các nước Đông Á. Gần đây, thị trường xuất khẩu lao động mở rộng sang Trung Đông, Tây Âu và Mỹ. Từ năm 2001, bình quân mỗi năm có 70.000 lao động được đưa đi ra nước ngoài, (Trần Văn Thọ, 2006). Theo thống kê của Cục Quản lý Lao động ngoài nước, trong năm 2011 vừa qua, Việt Nam gửi khoảng 88.298 lao động tới gần 40 nước và vùng lãnh thổ (GSO,2011). Trong năm 2012, phấn đấu sẽ đưa 90.000 người đi xuất khẩu lao động. Phần đông công nhân Việt được xuất khẩu sang các thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và Malaysia. Trên thực tế, xu hướng xuất khẩu lao động đã tạo ra những ảnh hưởng lớn về kinh tế, xã hội, văn hóa, đặc biệt là đời sống khu vực nông thôn, đồng thời nó còn là một chiến lược “đa dạng hóa và làm giảm rủi ro cho kinh tế hộ gia đình” (Massey:1994). Nghiên cứu của UNDP (1998) tiến hành khảo sát tình hình xuất khẩu lao động đã cho kết quả việc xuất khẩu lao động đã giúp cho việc giảm ở nông thôn, mang lại những biến chuyển về mặt đời sống xã hội như: thu nhập, cơ hội việc làm, nhà ở y tế, sức khỏe… 90% người di cư có gia đình gửi tiền về trong năm, gần 84% hộ gia đình khẳng định thu nhập cao hơn trước khi di cư... Nhiều nghiên cứu cho thấy xuất khẩu lao động góp phần tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Vậy mức sống của các hộ gia đình khu vực nông thôn thay đổi như thế nào? Mức sống của hộ gia đình có người xuất khẩu lao động khác gì so với hộ gia đình không có người xuất khẩu lao động? Xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương có tới 70% người dân sống chủ yếu bằng nghề nông (trồng lúa và chăn nuôi), ngoài ra còn có các nghề phụ như: xay sát, cho thuê máy móc nông nghiệp, nghề mộc, nề, làm nghề phụ…nhưng nhìn chung hoạt động ngoài nông nghiệp chiếm không đáng kể. Theo báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã hội của xã qua các năm 2010,.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> 2011 thì có nhiều nguyên nhân dẫn đến đói nghèo nhưng chủ yếu là do kinh tế còn thấp kém, điều kiện sản xuất hạn chế, chất lượng cuộc sống thấp do: thiếu lao động, thiếu đất, thiếu vốn sản xuất, gia đình đông con… Một trong những biện pháp cải thiện tình trạng khó khăn hiện nay là xuất khẩu lao động. Kể từ năm 2004 cho đến nay, xu hướng người dân đi xuất khẩu lao động tăng mạnh về số lượng. Theo thống kê trong năm 2011, trong toàn xã có 131 lao động làm việc ở nước ngoài, tăng khoảng 20% so với năm 2010. Hơn thế nữa, các nghiên cứu trước đã cho thấy những đóng góp của việc xuất khẩu lao động ở nông thôn, tuy nhiên các tác giả phần nhiều đặt mối quan tâm vào nơi đến, những vấn đề xã hội như: tội phạm, dân số, môi trường…hay như xem xét thực trạng, nguyên nhân của xuất khẩu lao động (Mạnh Minh, 2011). Hiện tại chưa có nhiều nghiên cứu chỉ ra sự ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia đình mà chủ yếu chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu sự biến đổi thu nhập, việc làm của các hộ gia đình ở khu vực nông thôn. Chính từ thực tế trên, chúng tôi xin chọn đề tài nghiên cứu: “Ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia đình ở thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương”. Qua đề tài nghiên cứu này, chúng tôi muốn tìm hiểu những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia đình ở khu vực nông thôn. Từ đó đưa ra một số biện pháp nhằm hạn chế và hoá giải các tác động tiêu cực của hiện tượng xã hội này. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu: Mục tiêu chung của đề tài là nghiên cứu sự ảnh hưởng của việc xuất khẩu lao động tới mức sống các hộ gia đình tại xã Tân Kỳ - huyện Tứ Kỳ -Tỉnh Hải Dương. Thông qua đề tài chúng tôi mong muốn góp phần hệ thống hóa lý luận về tác động của xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia đình ở nông thôn; tìm hiểu và đánh giá thực trạng xuất khẩu lao động tác động tới sự biến đổi mức sống các hộ gia đình để từ đó so sánh mức sống của các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động với những hộ không có người đi xuất khẩu lao động tại xã Tân Kỳ - huyện Tứ Kỳ - tỉnh Hải Dương. Trên cơ sở đó đưa ra khuyến nghị để giảm thiểu những tác động tiêu cực của xuất khẩu lao động tới mức sống các hộ gia đình ở nông thôn. Theo đó, đề tài có các nhiệm vụ sau: 1. Hệ thống hóa những vấn đề liên quan tới xuất khẩu lao động ảnh hưởng đến mức sống hộ gia đình. 2. Mô tả thực trạng xuất khẩu lao động ảnh hưởng đến mức sống hộ gia đình. 3. Phân tích, đánh giá sự ảnh hưởng di cư lao động đến mức sống của các hộ gia đình. 1.3. Phương pháp nghiên cứu, chọn điểm, khung phân tích Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp thu thập thông tin, phương pháp quan sát, phương pháp phỏng vấn sâu… Phương pháp thu thập thông tin Thu thập thông tin thứ cấp: Xây dựng tổng quan các tài liệu liên quan đến việc ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia đình. Đồng thời tiến hành thu thập các tài liệu, số liệu thứ cấp từ Ủy ban.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> nhân dân xã Tân kỳ về tình hình đi xuất khẩu lao động như: Báo cáo tổng kết thường kỳ về số hộ có người đi xuất khẩu lao động, thu nhập và mức sống của các hộ gia đình trong thôn, báo cáo thi đua khen thưởng về xếp loại gia đình văn hóa... Thu thập thông tin sơ cấp: Chúng tôi sử dụng phương pháp quan sát nhằm thu thập thông tin sơ cấp và tiến hành quan sát mức sống các hộ gia đình qua điều kiện, trang thiết bị sinh hoạt, hoạt động lao động – sản xuất... Bên cạnh đó, quan sát thực tế về tình hình xuất khẩu lao động tại xã Tân kỳ diễn ra như thế nào, có nhiều hay không, hiệu quả đạt được ra sao và làm thay đổi mức sống của các hộ gia đình tại xã đó như thế nào? (tiếp cận các chủ hộ và qua các cán bộ thôn xã: ban tuyên truyền, cán bộ dân số, cán bộ hội phụ nữ thôn xã...). Một phương pháp quan trọng nữa là đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia (PRA) tại địa điểm nghiên cứu nhằm thu thập thông tin về mức sống gia đình nhìn từ phía người dân. Liệt kê những yếu tố/tiêu chí biến đổi trong mức sống của các hộ gia đình (có người đi xuất khẩu lao động và không có người đi). Sử dụng công cụ Ranking để xếp hạng các yếu tố thay đổi của mức sống hộ gia đình. Ngoài ra, đề tài sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi tiến hành điều tra 30 phiếu, mọi đơn vị tổng thể đều có được sự lựa chọn như nhau nhằm thu thập các thông tin mang tính định lượng và định tính. Điều tra bảng hỏi kết hợp với phương pháp chọn mẫu thì được dựa trên cơ sở một số tiêu chí như: hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động để chọn ra 20 hộ, 10 hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động tham gia vào quá trình nghiên cứu bằng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản… Sở dĩ lựa chọn phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản để đảm bảo tính chính xác, khách quan vì mọi đơn vị tổng thể đều có được sự lựa chọn như nhau. Tuy nhiên, để thu thập được thông tin qua bảng hỏi, trước hết nhóm chủ động liên hệ với cán bộ địa phương để lập danh sách và giới thiệu tới các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động (hộ gia đình có người đang đi xuất khẩu lao động) và hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động. Sau đó chọn ngẫu nhiên 30 hộ trong danh sách để tiến hành điều tra bảng hỏi (bảng hỏi chủ yếu sử dụng để thu nhập những thông tin mang tính định lượng và lượng hóa những thông tin định tính có được từ thông tin thu thập trước) và phỏng vấn sâu. Ngoài ra phương pháp phỏng vấn sâu được thực hiện nhằm thu thập các thông tin liên quan đến nguyên nhân của việc người dân địa phương đi xuất khẩu lao động, đồng thời tìm hiểu một số ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của xuất khẩu lao động tới mức sống các hộ gia đình. Chúng tôi tiến hành trong 5 hộ gia đình, 2 đại diện cơ quan: cán bộ hội phụ nữ/trưởng thôn/ cán bộ hội nông dân, 3 đại diện hộ gia đình) để nắm tình hình xuất khẩu lao động ảnh hưởng như thế nào đến mức sống của các hộ gia đình theo các chỉ tiêu cụ thể. Ngoài ra, để thu thập một số thông tin mang tính khái quát và khách quan nhóm nghiên cứu sử dụng phỏng vấn nhóm. Đặc biệt tập trung tiến hành thảo luận 2 nhóm (gồm hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động và hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động) nhằm tìm ra sự khác biệt trong việc đánh giá sự ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia đình. Các nhóm thảo luận được thiết kế từ 5-6 người để đảm bảo tính khái quát, tin cậy của thông tin..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Chọn điểm nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tập trung tìm hiểu tình hình xuất khẩu lao động ảnh hưởng đến mức sống hộ gia đình tại thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Sở dĩ chúng tôi chọn địa bàn này là trong những năm gần đây, xu hướng người dân đi xuất khẩu lao động có chiều hướng gia tăng , thêm vào đó thôn Ngọc Lâm là thôn điển hình của xã Tân Kỳ có sự chuyển biến nhanh về mức sống các hộ gia đình, luôn đạt được nhiều thành tích trong hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Đề tài được tiến hành nghiên cứu trong khoảng thời gian từ ngày 19 tháng 3 năm 2012 đến 30 tháng 4 năm 2012; giới hạn nội dung là nghiên cứu ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống hộ gia đình tại thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Từ đó làm căn cứ đánh giá đúng thực trạng về mức sống các hộ gia đình ở khu vực nông thôn. Khung phân tích: Ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống các gia đình tại thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương được phân tích thông qua việc so sánh hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động và hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động; so sánh trước và sau khi tiến hành đi xuất khẩu lao động (lấy mốc từ năm 2004 – thời điểm người dân đi xuất khẩu lao động nhiều nhất). Hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động. Ảnh hưởng của XKLĐ tới mức sống các hộ GĐ Sau khi đi xuất khẩu LĐ Trước khi đi xuất khẩu LĐ. Hộ gia đình không có người đi xuất khẩu LĐ. Để thực hiện đề tài này chúng tôi lựa chọn cách tiếp cận có sự tham gia, cụ thể như sau bao gồm: Chủ thể nghiên cứu, khách thể nghiên cứu. Chủ thể nghiên cứu là nhóm nghiên cứu trong đó có người thu thập, điều tra, phân tích và tổng hợp báo cáo kết quả. Ngoài ra, khách thể nghiên cứu là người dân xã Tân kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Thực hiện cách tiếp cận từ dưới lên thông qua phân tích vi mô: lấy hộ gia đình (vợ và chồng) là đơn vị phân tích nhằm xác định ảnh hưởng của xuất khẩu lao động tới mức sống hộ gia đình nghiên cứu tiếp cận mức sống hộ gia đình theo thời gian: Trước và sau khi đi xuất khẩu lao động, những hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động và không có người đi xuất khẩu lao động..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Một số lý thuyết kinh điển về di dân Di dân là một vấn đề không phải của riêng một nước nào mà còn xuất hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới. Vì vậy mà đã có một số quan điểm của các nhà xã hội học đề cập đến di dân. Theo luận điểm kinh điển, dân số tại các quốc gia phát triển ít có sự di động do quá trình di cư diễn ra mạnh mẽ trên nền tảng của một xã hội công nghiệp hiện đại (Zelinski, 1971). Trong nghiên cứu về “Các nguồn gốc xã hội và kinh tế của nhập cư” D-Massey đi đến kết luận rằng, di cư là một chiến lược “đa dạng hóa và giảm rủi ro cho thu nhập hộ gia đình” (Massey, 1994) Nghiên cứu của UNDP (1998) cũng cho thấy những người di cư có sự đóng góp nhất định cho kinh tế hộ gia đình. Tuy nhiên nghiên cứu này chỉ cho thấy mức độ đóng góp chủ yếu tập trung vào những hộ trung bình, những hộ nghèo, hộ khá và giàu thì hầu như thu nhập không tăng mấy. Nghiên cứu không lý giải vì sao mà chỉ dừng lại ở việc mô tả sự khác biệt của mức đóng góp giữa các nhóm hộ có người di cư. Một lý thuyết nghiên cứu nổi tiếng trong việc nghiên cứu về di cư đó là lý thuyết của Lee: Lee (1966) lập luận rằng quyết định di cư được dựa trên 4 nhóm dân tố, một là các nhân tố gắn bó với nơi ở gốc, hai là các yếu tố gắn với nơi sẽ đến, ba là các trở ngại di cư, và bốn là các nhân tố thuộc về người di cư. Mỗi một địa điểm, nơi gốc và nơi đến đều có những ưu điểm và hạn chế trên nhiều lĩnh vực như thu nhập, việc làm, nhà ở, phúc lợi xã hội, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, thậm chí là khí hậu…sẽ được người định cư cân nhắc. Thông thường, các điều kiện kinh tế khó khăn ở nơi gốc là nhân tố “đẩy” chủ yếu của việc xuất cư, trong khi cải thiện điều kiện kinh tế của nơi đến là nhân tố “hút” quan trọng nhất của việc nhập cư. Việc đưa ra quyết định định cư còn được tính toán dựa trên các chi phí vật chất và tinh thần, mà khoảng cách địa lí là một vấn đề quan trọng nhất vì điều này không chỉ tăng chi phí vận chuyển mà còn tăng các chi phí vô hình do phải đối mặt với môi trường xa lạ, khó hội nhập. Cuối cùng việc di cư phụ thuộc vào những phẩm chất cá nhân của từng người, điều này nhà nghiên cứu thường gọi là tính chọn lọc di cư (migration selectivity). Lý thuyết của Lee là rất có ích cho việc nghiên cứu nhân tố vĩ mô và cả vi mô của di cư (Lê Thanh Sang, 2008). Ngoài ra, Lee còn phân tích một số các yếu tố khác ảnh hưởng đến việc di dân. Đó là nhận thức, sự thông minh, hiểu biết của người di cư qua kinh nghiệm bản thân hay qua các kênh thông tin đại chúng, qua bạn bè, họ hàng… Đây là điều mà các lý thuyết trước đó ít đề cập tới. Lí thuyết phân tích mạng lưới xã hội (Social Network Analysis Theory) là một cách tiếp cận nhằm phân tích các vấn đề về mạng lưới xã hội. Khái niệm cơ bản trong hệ thống xã hội (social system), nếu cấu trúc xã hội (social structure) thường được xem như là cột dọc thì mạng lưới xã hội là các kèo ngang. Ronald Burt với lý thuyết lỗ hổng cấu trúc (structure holes) đã đưa ra ví dụ điển hình là trong mối quan hệ ba người (A quan hệ với B, B quan hệ với C, nhưng A không quan hệ với C). Ở mối quan hệ này, B là kẻ nắm được lỗ hổng cấu trúc giữa A và C và tạo khả năng thu lợi, tạo vốn xã hội (social capital) thông qua vai trò điều phối, kết nối cho các tác.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> nhân còn lại. Nan Lin – lí thuyết về di động xã hội, các cá nhân tìm kiếm lợi nhuận trong mạng lưới xã hội thông qua sự di động xã hội. Miller McPherson, Lynn Smith-Lovin và James M.Cook – lí thuyết đồng dạng. Các cá nhân giống nhau thường xảy ra khả năng liên kết cao hơn so với các cá nhân khác nhau. Nhà xã hội học Mỹ James Cook nhấn mạnh: “Mạng xã hội là một hình ảnh thống nhất và được đơn giản hoá trong lĩnh vực xã hội học đầy phức tạp và phân tán. Đó là sự mô tả cụ thể về cấu trúc xã hội trừu tượng, có khả năng hiện hữu hoá những nguồn lực xã hội không nhìn thấy. Mặc dù các mạng xã hội đều đơn giản chỉ được thực hiện bằng các nút và dây nối, chúng vẫn đủ linh động để mô tả các quan hệ của quyền lực và sự tương tác cung cấp một nền tảng vi mô của xã hội học”. Những lý thuyết kể trên góp phần chỉ ra hiện tượng di cư là một quy luật tất yếu của quá trình phát triển, biến đổi xã hội. Chính vì lý do trên mà nó đã tác động lớn tới đời sống của người dân tại nhiều khu vực, quốc gia khác nhau trên thế giới. Đặc biệt là người dân khu vực tại nơi đến và đi. 2.2. Tác động của vấn đề di cư đến nông thôn Ở tầm vĩ mô về di cư, theo lý thuyết của Ravenstein (1889) về qui luật di cư, ông cho rằng đa số di dân di chuyển ở phạm vi ngắn, một số sẽ di chuyển xa là di chuyển đến các thành phố lớn, thương mại, di cư diễn ra trong nhiều giai đoạn. Quá trình đô thị hóa thu hút dân số từ các vùng ngoại ô vào trung tâm. Khoảng trống vùng ngoại vi sẽ được lấp đầy cư dân vùng khác đến. Cư dân ở trung tâm nhỏ sẽ chuyển đến trung tâm lớn hơn. Cứ như vậy, quá trình di cư diễn ra theo nhiều giai đoạn kế tiếp theo hướng di chuyển về trung tâm đô thị lớn. Thông thường các trung tâm thương mại, công nghiệp lớn sẽ thu hút những vùng xung quanh và vùng xa hơn. Mỗi dòng di cư sẽ tạo ra dòng di cư ngược lại. Mức di cư nông thôn có xu hướng cao hơn mức di cư ở các đô thị. Di cư tăng lên theo trình độ phát triển kỹ thuật. Kinh tế là nhân tố quan trọng nhất di cư, mặc dù môi trường xã hội, luật lệ… có ảnh hưởng nhất định. Đây là lý thuyết vĩ mô cho cái nhìn tổng quát về các nguyên dân của di dân đến các trung tâm thương mại, công nghiệp, tạo tiền đề cho các nghiên cứu khác. Di dân góp phần vào giải quyết tình trạng thiếu việc làm và thiếu lao động, dân di cư còn là những “cầu nối”, không những đóng góp cho sự phát triển của nơi đến mà còn cho cả nơi đi thông qua việc chuyển tiền, hàng hóa, phổ biến kiến thức và công nghệ cho những người ở quê. Các kết quả phân tích 2004 VMS cũng như một số nghiên cứu khác (GSO và UNFPA, 2005: 139) đã cho thấy rõ điều này. Kết quả nghiên cứu nhóm dân di chuyển tạm thời cũng cho thấy dân di cư tham gia nhiều vào mạng lưới xã hội và nhận được sự hỗ trợ cũng như đóng góp cho mạng lưới này ở cả đầu đi và đầu đến: trong số dân di cư sinh sống tại các nhà trọ, hơn 90% có người thân sống ở quê, 32% nhận được sự giúp đỡ ở nơi đến và 40% có giúp đỡ kinh tế cho những người thân sống ở quê (Viện xã hội học và đối tác, 1998). Với di dân quốc tế, lượng lao động xuất khẩu tăng nhanh và lượng kiều hối gửi về nước càng lớn. Trong năm 1996 và 1997, số tiền gửi về mỗi năm là 350 triệu đô la Mỹ thì trong năm 1999 con số này đã tăng lên 1 tỷ đô la Mỹ và năm 2003 là 1,5 tỷ đô la Mỹ (Trần Nguyên, 2004: trang 9)..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Như vậy, các bằng chứng hiện có ở trên cho thấy di dân có tác động rất quan trọng đến sự phát triển của đất nước. Với một nước nghèo đang trong giai đoạn phát triển như Việt Nam, di dân sẽ còn tiếp tục tăng. Những khoản tiền lớn hơn gửi về từ di dân quốc tế cho phép những hộ khá giả đầu tư cho sản xuất, kinh doanh và cũng có thể đầu tư cho những thành viên khác trong hộ tiếp tục di chuyển. Trình độ học vấn cao của các thành viên của hộ gia đình có kinh tế khá giả dường như đảm bảo những lợi ích (thu nhập và tri thức) lớn hơn trong tương lai và vì vậy những hộ này sẽ lại càng khá giả thêm. Di dân đã góp phần giải quyết thất nghiệp và thiếu việc làm, nâng cao chất lượng dân số, nâng cao trình độ của đầu đi và tác động mãnh mẽ đến mức sống của hộ gia đình nhất là những hộ có người đi xuất khẩu lao động, góp phần vào quá trình xóa đói giảm nghèo của đất nước. Đồng thời, người đi được tiếp cận những dịch vụ xã hội tốt hơn, phát triển kinh tế xã hội và có thể góp phần làm giảm tốc độ gia tăng bất bình đẳng hoặc giảm bất bình đẳng giữa các di dân ở nơi đi và những hộ gia đình ở nơi đến. Khi nhận định về vai trò di dân nông thôn - đô thị, tác giả Đặng Nguyên Anh cho rằng di dân đang góp phần vào sự nghiệp xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống, cải thiện thu nhập cho các gia đình ở nông thôn hiện nay. Người lao động nông thôn từ thành phố trở về mang theo những tri thức gắn liền với nhịp sống văn minh thành phố, các thang giá trị mới trong lối sống mà trước đó chưa từng tồn tại ở làng quê. Tác giả cho rằng xu hướng di dân này ngày càng gia tăng là điều tất yếu ở Việt Nam cũng như đối với bất kì quốc gia nào đang trên con đường CNH-HĐH vì di cư là một trong những đặc trưng của quá trình phát triển. (Đặng Nguyên Anh, Về vai trò của di cư nông thôn - đô thị, Tạp chí xã hội học, số 1/1997). Một nhóm nghiên cứu gồm Nguyễn Thị Vân Anh, Trần Thị Minh Đức, Lê Ngọc Hùng, Lê Khanh, Hoàng Mộc Lan, Nguyễn Hồi Loan, Nguyễn Hữu Thụ cùng với tổ chức cứu trợ trẻ em của Thuỵ Điển (Save the Children Sweden) đã tiến hành nghiên cứu về trẻ em làm thuê, giúp việc gia đình ở Hà Nội năm 2000. Công trình nghiên cứu này đã đề cập một cách khá toàn diện về chân dung những trẻ em làm thuê giúp việc trong các gia đình ở Hà Nội, về nhu cầu, tính chất của lao động thuê mướn, quan hệ xã hội đến nhận thức, thái độ của các em… Qua bài “ Đi làm ăn xa – phương thức tăng thu nhập gia đình” nghiên cứu thực tiễn tại xã Trịnh Xá, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam của Nguyễn Ngọc Diễm và Nguyễn Thị Minh Châu. Ta thấy rằng phần lớn những người đi là ăn xa điều do điền kiện gia đình nghèo khó và trình độ tay nghề thấp vì vậy họ chọn con đường đi làm ăn xa để có thu nhập cao cho gia đình, vì những người di làm ăn xã họ vẫn là thành viên của hộ gia đình có khả năng lao động việc đi làm xa chỉ mang tính chất di cư tạm thời họ vẫn giữ liên hệ với gia đình mình chặt chẽ. Chính vì đi làm ăn xa nên có sự ảnh hưởng đến mức sống hộ gia đình rất lớn nhìn chung nam giới có xu hướng đi làm ăn xa nhiều hơn so với nữ giới. Bởi vì những người làm ăn xa nam giới có nhiều thuận lợi hơn so với nữ, chẳng hạn như việc làm, điều kiện sống xã nhà, công việc ở nhà người phụ nữ đảm đương cũng có nhiều thuận lợi hơn như việc nuôi dạy con cái quán xuyến các cộng việc nội trợ ngay cả việc làm nông. Nghiên cứu đã cho thấy thu nhập những người đi làm ăn xa gửi về góp phần tăng thu nhập hộ gia đình và góp phần xóa nghèo cho hộ gia đình đó, nhìn chung khi so sánh với các hộ gia đình không có người đi làm ăn xa thì mức sống của họ cũng khá hơn nhiều. Những đóng góp.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> của người làm ăn xa không chỉ đơn thuần giúp tăng thu nhập gia đình bằng số tiền gửi về mà từ nguồn đóng góp đó nó đồng thời tạo những điều kiện làm thay đổi diện mạo ở địa phương. Phân tích các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về làn sóng di dân quốc tế, xuất khẩu lao động tìm việc làm cho thấy vấn đề này đã được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau: nguyên nhân di cư, đặc điểm, tính chất, thu nhập của công việc, các lứa tuổi, giới tính người lao động, những ảnh hưởng tích cực và hậu quả của hiện tượng xã hội này. Tuy vậy, qua phân tích các công trình nghiên cứu cũng cho thấy các khía cạnh ảnh hưởng của di cư lao động nói chung và xuất khẩu lao động nói riêng đến mức sống của các hộ gia đình như: thu nhập, chi tiêu, mối quan hệ gia đình…còn chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm, nếu không nói là còn bỏ ngỏ. Đây là vấn đề quan trọng vì những khía cạnh này có liên quan trực tiếp tới hành vi lao động của những người đi xuất khẩu lao động… Với mục tiêu ổn định và phát triển đời sống kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn, việc nghiên cứu ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia đình là điều rất cần thiết. Nghiên cứu này có thể diễn ra trên nhiều mặt như tìm hiểu sự thay đổi thu nhập, chi tiêu, nhu cầu tìm kiếm các loại hình lao động của họ ra sao, đời sống tình cảm của người lao động trong thời gian đi xuất khẩu lao động, thái độ của họ đối với công việc của mình, tâm tư, nguyện vọng, mong muốn của gia đình. 2.3. Xuất khẩu lao động và kiều hối Vấn đề xuất khẩu lao động là một trong những vấn đề được quan tâm đặc biệt, nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới hiện nay. *Xuất khẩu lao động được hiểu là đưa người lao động (bao gồm công nhân kĩ thuật, kĩ sư, chuyên gia, những người đã có tay nghề qua đào tạo…) ra nước ngoài làm việc nhằm tăng thu nhập về ngoại tệ cho đất nước, đồng thời giải quyết việc làm cho người lao động. Xuất khẩu lao động là một hình thức di chuyển lao động từ nước có nhân lực dồi dào, chủ yếu là các nước đang phát triển sang các nước thiếu lao động, thường là các nước có nền kinh tế phát triển. Đối với một nước dân số vào khoảng 84 triệu dân, với trên một nửa là số người trong độ tuổi lao động, nhưng số người thất nghiệp ở thành thị lên đến 5,6% và số thời gian chưa được sử dụng ở nông thôn lên đến trên 20%, thì xuất khẩu lao động là một kênh giải quyết việc làm cho người lao động rất có ý nghĩa. Ngoài khái niệm về xuất khẩu lao động thì còn có một số khái niệm liên quan đến vấn đề này như: mức sống, hộ gia đình, kiều hối. Nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử dụng một số khái niệm liên quan như sau: * Kiều hối là tiền bạc được di chuyển từ những người đang trú ngụ hay là lao động ở nước ngoài đến thân nhân của họ tại quê hương. Hay kiều hối cũng được hiểu là tiền do người sống và làm việc ở nước ngoài chuyển về đất nước của họ. Theo như World Bank định nghĩa: kiều hối là bao gồm các khoản tiền chuyển từ nước ngoài có nguồn gốc là thu nhập của người lao động, dân di cư ở nước ngoài, được thể hiện trong cán cân thanh toán quốc tế là khoản tiền chuyển (ròng). Dựa trên nghiên cứu, đánh giá một số yếu tố tác động của kiều hối tới sự phát triển kinh tế Việt Nam của TS. Đỗ Kim Hảo cho thấy kiều hối giúp nâng cao nhận thức của người phụ nữ.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> trong gia đình, thực hiện kế hoạch hóa và giảm tỷ lệ sinh đẻ, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Kiều hối cũng có tác động tích cực đến dịch vụ chăm sóc y tế, tăng cường sức khỏe cho người dân, đặc biệt tại các quốc gia có hệ thống y tế kém phát triển. Nghiên cứu của WB năm 2006 tại các quốc gia Mỹ La tinh cho thấy, một trong những động cơ quan trọng để những người dân sống làm việc tại nước ngoài chuyển tiền về nước là để trang trải các chi phí chăm sóc y tế. *Khái niệm mức sống: là một khái niệm, phạm trù kinh tế - xã hội đặc trưng mức thoả mãn nhu cầu về thể chất, tinh thần và xã hội của con người. Được thể hiện bằng hệ thống các chỉ tiêu số lượng và chất lượng của các điều kiện sinh hoạt và lao động của con người. Một mặt mức sống được quyết định bởi số lượng và chất lượng của cải vật chất và văn hoá dùng để thoả mãn nhu cầu của đời sống; mặt khác, được quyết định bởi mức độ phát triển bản thân nhu cầu của con người. Mức sống không chỉ phụ thuộc vào nền sản xuất hiện tại mà còn phụ thuộc vào quy mô của cải quốc dân và của cải cá nhân đã được tích luỹ. Mức sống và các chỉ tiêu thể hiện nó là do tính chất của hình thái kinh tế - xã hội quyết định. Do vậy nói đến mức sống thì không đơn thuần chỉ là khía cạnh kinh tế vật chất mà nó bao hàm cả yếu tố về mặt tinh thần liên quan đến sự ổn định – phát triển xã hội nói chung và từng hộ gia đình nói riêng. Có rất nhiều khái niệm về mức sống tuy nhiên khái niệm trên được chúng tôi lựa chọn sử dụng trong đề tài vì nó chỉ rõ những khía cạnh liên quan tới mức sống: nhu cầu về của cải vật chất, tinh thần…Đồng thời nó chỉ ra được mức sống không đơn thuần là phạm trù kinh tế mà nó bao gồm cả khía cạnh xã hội. Vận dụng điểm này giúp chúng tôi phân tích sâu hơn về ảnh hưởng của xuất khẩu lao động tới mức sống các hộ gia đình. *Khái niệm hộ gia đình: Hộ là một nhóm cùng huyết tộc, sống chung hay không sống chung với những người khác huyết tộc trong cùng một mái nhà, ăn chung và có chung một ngân quỹ (Viện kinh tế học, 1995). Như vậy, gia đình là cơ sở của hộ nói chung. Gia đình - một loại hình hộ - chứa đựng các yếu tố để hình thành những loại hình hộ mở rộng khác. Chính ở điểm này mà người ta thường lẫn lộn giữa hộ với gia đình, nên đã nảy sinh thuật ngữ “Hộ gia đình”. Thực ra là cách nói trùng lặp những nội dung khác nhau của hộ và gia đình. Các nhà kinh tế học, xã hội học đưa ra 3 tiêu chuẩn để phân biệt hộ và gia đình: quan hệ hôn nhân, huyết thống và thân tộc; cư trú chung; có chung cơ sở kinh tế. Gia đình là khái niệm dựa trên tiêu chí thứ nhất, hai tiêu chí sau không nhất thiết phải có, bởi vì những thành viên trong gia đình khi đến tuổi trưởng thành có thể sinh sống ở nhiều địa điểm khác nhau. Họ thành lập những gia đình mới độc lập về kinh tế. tuy vậy, họ vẫn được coi là người trong một gia đình. (Vũ Tuấn Anh, Trần Thị Vân Anh, 1997). Ở Việt Nam cho tới nay chưa có một cuộc thảo luận nghiêm túc nào về khái niệm hộ và các phương pháp nghiên cứu hộ. Hầu như từ trước tới nay, người ta mặc nhiên thừa nhận “Hộ” là “gia đình”, “kinh tế hộ” là “kinh tế gia đình”. Tuy vậy theo chúng tôi, với khái niệm hộ gia đình nêu trên có thể phản ánh phần nào tính chất, đặc điểm của hộ gia đình khác với đặc điểm của gia đình nói chung và lấy đó làm căn cứ nhận diện..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU: Để tìm hiểu ảnh hưởng của xuất khẩu lao động tới mức sống người dân tại thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, Hải Dương chúng tôi khảo sát tổng số mẫu được chọn ngẫu nhiên là 30 hộ gia đình cho bảng hỏi định lượng, 5 cuộc phỏng vấn sâu và 2 cuộc thảo luận nhóm, trong đó một cuộc thảo luận nhóm thực hiện đối với hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động, một cuộc với hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động. Dựa vào kết quả nghiên cứu định tính và định lượng phục vụ đề tài: “Ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia đình ở khu vực nông thôn” (Nghiên cứu trường hợp tại xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương) được tiến hành tháng 3 năm 2012, sau đây là một số phân tích ban đầu rút ra từ cuộc điều tra. 3.1. Thực trạng xuất khẩu lao động tại thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, Tứ Kỳ, Hải Dương Quá trình khảo sát địa bàn thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ cho thấy hoạt động nông nghiệp đã phát triển trong những năm gần đây nhưng nhìn chung người nông dân chưa được tiếp cận với nhiều máy móc hiện đại. Nhiều hộ cho thuê máy để cày xới, nhưng một số hộ vẫn dùng sức trâu, bò, tận dụng phân chuồng làm phân bón… Ngoài ra, các công việc gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch đều làm thủ công, tận dụng sức người lớn; hơn nữa điều kiện khí hậu khắc nghiệt, kênh tưới tiêu chưa đảm bảo cung cấp đủ nước cho cây trồng, nhiều loại sâu bệnh phát triển…do đó hiệu quả từ sản xuất nông nghiệp còn thấp. Theo số liệu thống kê từ Ủy ban nhân dân xã Tân Kỳ cung cấp cho thấy sự phát triển kinh tế hộ gia đình nói riêng và toàn xã nói chung có xu hướng tăng lên so với trước đây nhưng chưa rõ rệt vì điều kiện sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp còn gặp nhiều hạn chế. Ví dụ như tình trạng thừa lao động nhưng thiếu việc làm mang lại thu nhập ổn định, thiếu đất, thiếu vốn sản xuất, trình độ học vấn chưa cao nên công việc không ổn định, thu nhập bấp bênh. Trong khi đó nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên luôn cần được đáp ứng mỗi ngày. Do vậy, mong muốn cải thiện mức sống đã thúc đẩy người dân nơi đây tìm kiếm việc làm để nâng cao thu nhập giúp trang trải cuộc sống gia đình. Một trong những biện pháp cải thiện tình trạng này là việc đi xuất khẩu lao động. Xuất khẩu lao động là một hình thức di chuyển lao động từ nước có nhân lực dồi dào, chủ yếu là các nước đang phát triển sang các nước thiếu lao động - các nước có nền kinh tế phát triển. Xuất khẩu lao động cũng là một kênh đem lại nguồn thu nhập cho gia đình. Hơn nữa, nó còn tạo điều kiện cho người lao động học hỏi được những kinh nghiệm làm việc trong nền công nghiệp, nâng cao tay nghề và tác phong làm việc cho người lao động... Thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, Tứ Kỳ là một minh chứng tiêu biểu cho việc người dân đi xuất khẩu lao động. Số lao động đi làm việc ở nước ngoài tăng lên rõ rệt cả về số lượng và chất lượng. Vì thế, xuất khẩu lao động tại xã Tân kỳ- huyện Tứ Kỳ- tỉnh Hải Dương trong nhiều năm trở lại đây đang có chiều hướng gia tăng và những người đi xuất khẩu lao động sẵn sàng làm bất cứ công việc ở nước ngoài nào để có nguồn thu nhập gửi về gia đình. Nhưng cũng có trường hợp thì ngược lại, một số hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động trong thôn thì đã gặp rất nhiều những khó khăn và rủi ro. Vì vậy, họ không tìm được công việc ổn định, thu.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> nhập thấp không đủ tiền gửi về gia đình để trang trải nợ nần và mức sống của cả gia đình giảm xuống. Người đi xuất khẩu lao động hầu hết nằm trong độ tuổi lao động. Số liệu điều tra hộ gia đình và kết quả thảo luận nhóm cho thấy người đi xuất khẩu lao động chủ yếu nằm trong độ tuổi từ 18 đến 41 tuổi, tiếp theo là nhóm tuổi từ 42- 46 tuổi. Thêm vào đó, hiện tượng đi xuất khẩu lao động diễn ra mạnh nhất vào khoảng những năm 2003, 2004. Qua nghiên cứu ảnh hưởng xuất khẩu lao động tại xã Tân Kỳ- huyện tứ Kỳ- tỉnh Hải Dương chúng tôi đã thống kê độ tuổi người đi xuất khẩu lao động như sau: Bảng 1. Tuổi và trình độ học vấn của những người đi xuất khẩu lao động:. Độ tuổi. Số lượng. 18 – 25. 4. 26 – 33. 8. 34 – 41. 10. 42 – 46. 3. Tổng. 25. Phần trăm 16% 32% 40% 12% 100%. Trình độ. Số lượng. Phần trăm. 5/12. 6. 24%. 9/12. 7. 28%. 11/12. 9. 36%. 12/12. 3. 12%. Tổng. 25. 100% Nguồn số liệu điều tra. Từ số liệu bảng 1 cho thấy người đi xuất khẩu lao động tập trung chủ yếu vào độ tuổi trung niên từ 34 – 41 tuổi (40%). Tuy nhiên ở độ tuổi này ít người có xu hướng quay trở về quê hương để sinh sống và tái sản xuất, mà họ muốn ở lại để kéo dài thời gian làm việc bên nước ngoài. Do tiền công cao, chế độ ưu đãi tốt, người lao động mong muốn ở lại kiếm thêm thu nhập gửi tiền về trang trải cuộc sống gia đình, làm giàu quê hương. Số lượng người đi xuất khẩu lao động ở độ tuổi 18 đến 25 và từ 26 đến 33 lần lượt chiếm 16% và 32%. Quá trình đi tìm hiểu tại địa phương đã cho thấy trình độ học vấn của người đi xuất khẩu lao động nhìn chung ở mức trung bình. Số lượng người đi xuất khẩu lao động đã qua đào tạo nghề chiếm số ít (12%). Bên cạnh đó, trình độ học vấn của người đi xuất khẩu lao động ở mức phổ thông chiếm tỷ lệ lớn nhất là 36%. Tương ứng với trình độ học vấn này thì công việc họ đảm nhận bên nước ngoài thường có tính chất nặng nhọc, cường độ làm việc cao, cần sức lao động nhiều như làm công nhân khuân vác đồ ở công ty xây dựng, công nhân mỏ, thợ sắt, thợ xây… Hơn thế nữa trình độ học vấn cũng là yếu tố quyết định tới việc họ kéo dài thời gian đi xuất khẩu lao động sang nước khác..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Những người có trình độ học vấn và tay nghề cao thường ở lại đó với thời gian lâu hơn (từ 510 năm), còn người có trình độ học vấn hết cấp 1, cấp 2 thì khi kết thúc hợp đồng lao động là quay trở về gia đình. Trong số những người đi xuất khẩu lao động rất ít người có trình độ học vấn cao trên đại học, chỉ chiếm khoảng từ 5-10%. Hơn nữa, đặc thù công việc bên đó cũng yêu cầu phải có tay nghề và trình độ nhất định mới có thể làm được. Ví dụ như lắp ráp máy móc, thiết kế mạng điện thì họ chỉ nhận những người có trình độ 12/12 trở lên. Chế độ quản lý lao động nghiêm ngặt của nước sở tại khiến họ ít có cơ hội được về thăm nhà thường xuyên, thậm chí là không có ngày nghỉ lễ…(Phỏng vấn sâu lãnh đạo, thôn Ngọc Lâm) Hộp 1: Trình độ học vấn và thời gian làm việc Xu hướng nam giới đi xuất khẩu lao động nhiều hơn nữ giới đi xuất khẩu lao động, phần lớn là những người đã kết hôn hoặc số ít là nam thanh niên chưa kết hôn sang đó làm công nhân trong các nhà máy xí nghiệp, vừa học vừa làm thêm... Bảng 2. Tình trạng kết hôn và giới tính của những người đi xuất khẩu lao động. Tình trạng kết hôn. Số lượng. Phần trăm. Giới tính. Số lượng. Phầm trăm. Kết hôn. 16. 64%. Nam. 17. 68%. Độc thân. 9. 36%. Nữ. 8. 32%. Tổng. 25. 100%. Tổng. 25. 100%. Nguồn số liệu điều tra: Trong số những người đi xuất khẩu lao động, những người đã kết hôn (64%) chiếm tỷ lệ lớn hơn những người sống độc thân (36%). Đặc biệt hơn nữa, nam giới nhìn chung có xu hướng đi xuất khẩu lao động nhiều hơn so với nữ giới. Nguyên nhân chủ yếu là do điều kiện và cơ hội việc làm thường ưu tiên cho nam nhiều hơn nữ, ví dụ như đặc thù, tính chất công việc, điều kiện sống xa nhà… Đa phần người lao động là nam giới phải làm việc ở những môi trường nặng nhọc, vất vả hơn như là nhà máy, công xưởng sản xuất, công trình xây dựng… còn lao động nữ làm giúp việc ở các gia đình, cửa hàng thẩm mỹ, bán hàng thuê… với thu nhập không cao. Điều đó thể hiện rõ qua số liệu điều tra ở bảng 2: tỷ lệ nam đi xuất khẩu lao động chiếm 68%, trong khi đó nữ chỉ chiếm 32%. Một yếu tố mà phần lớn người được hỏi đều thừa nhận đó là phụ nữ ở nhà có nhiều thuận lợi hơn so với đàn ông. Hầu hết các công việc nhà đều cần bàn tay người phụ nữ để quán xuyến, từ làm nông nghiệp cho đến chăm sóc, nuôi dạy con cái, nội trợ… Đàn ông là người đi làm ăn kinh tế, gia tăng thu nhập và nắm quyền quyết định trong gia đình. Hơn nữa, đa số những gia đình có người đi xuất khẩu lao động và các cá nhân đi xuất khẩu lao động đã quay trở về cho biết rằng ngay cả đối với việc đồng áng, trừ lúc thu hoạch là cần sức lực của người đàn ông, phần lớn các công việc như cấy, gặt, nhổ cỏ… đều phù hợp hơn với phụ nữ. Đối với trường hợp cả vợ và chồng đi xuất khẩu lao động thì những công việc này thường do người ở nhà đảm nhiệm. Công việc sản xuất, trồng trọt chuyển sang cho người thân quen trong gia đình, dòng họ..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Bảng 3. Nước đi xuất khẩu lao động. Nước. Số người. Phần trăm. Hàn Quốc. 7. 28%. Đài Loan. 6. 24%. Malaysia. 7. 28%. Indonesia. 2. 8%. Nhật Bản. 2. 8%. Nga. 1. 4%. Tổng. 25. 100%. Nguồn số liều điều tra: Trong quá trình tìm hiểu về tình hình đi xuất khẩu lao động tại địa phương, nhóm nghiên cứu còn nhận thấy người dân ở đây chủ yếu đi xuất khẩu lao động sang các nước như: Malaysia (28%), Hàn Quốc (28%), Đài Loan (24%), Nhật Bản (8%)... (xem bảng 3). Sở dĩ như vậy vì các nước này hiện đang thu hút một lượng lớn người dân tại địa phương đi xuất khẩu lao động với thu nhập và mức độ uy tín cao. Bên cạnh đó, việc người dân lựa chọn nước đi xuất khẩu lao động cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Ví dụ: công việc ổn định, thu nhập cao, có người thân ở bên nước sở tại, đảm bảo an toàn về trật tự an ninh hay không. Quan trọng hơn, tâm lý chung của hầu hết người lao động khi lựa chọn điểm đến đó là mức lương mà họ kiếm được cao hay thấp. Các quốc gia được chọn chủ yếu là thuộc khu vực Châu Á như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia… Đây là những nước có mức lương trả cho lao động tương đối cao và công việc ổn định. Hộp 2: Tiền lương nhận được ở từng nước là khác nhau “…Các cá nhân đi xuất khẩu lao động có thu nhâp dao động từ 7 triệu đồng đến 10 triệu đồng/ tháng, đó là đi Malaysia, Đài Loan, còn đi Hàn Quốc với Nhật Bản hay LiBi thì tiền lương làm phải được 15 triệu đồng đến 20 triệu đồng/ tháng, chẳng hạn như gia đình cô Thanh có con trai đi làm ở Hàn Quốc thu nhập 20 triệu đồng/ tháng…” (Thảo luận nhóm hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động) Người lao động nhận hợp đồng lao động từ 3-5 năm và hầu hết là do người quen giới thiệu, một số ít thuộc diện được gửi đi theo chính sách của địa phương. Những người đi làm ăn xa thường làm nhiều công việc khác nhau, có công việc phù hợp với nghề nghiệp sẵn có (nghề truyền thống của gia đình: mộc, nề, thêu ren..), nhưng cũng có người làm công việc mà họ chưa từng biết đến, hầu hết là việc làm tự do có thể thay đổi trong thời gian ngắn. Không chỉ vậy, điều khoản của hợp đồng lao động còn yêu cầu người lao động phải có tay nghề, chuyên môn làm việc, có khả năng giao tiếp bằng tiếng bản địa và nộp tiền đặt cọc trước khi sang bên đó. Chẳng hạn như muốn Malaysia, Đài Loan để lao động thì phải đặt cọc trước 100 – 150 triệu đồng tiền lệ phí, vé máy bay… cho công ty của nước sở tại..

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Mặt khác, việc người lao động xa nhà trong thời gian dài có ảnh hưởng không nhỏ tới công việc sinh hoạt, sản xuất của gia đình. Các thành viên ở nhà phải làm nhiều hơn những công việc mà trước đây họ từng đảm nhận. Nhưng đa phần họ đều đồng ý hoặc số ít không có ý kiến khi người thân đi xuất khẩu lao động. Bảng 4. Mức độ đồng ý của gia đình cho người thân đi xuất khẩu lao động Hộ gia đình Có người đi XKLĐ Không có người đi XKLĐ Số Phần Số Phần lượng trăm lượng trăm Rất không đồng ý 0 .0% 1 8.3% Không đồng ý 2 12.5% 5 41.7% Mức độ Không ý kiến 1 6.3% 0 .0% đồng ý Đồng ý 11 68.8% 6 50.0% Rất đồng ý 2 12.5% 0 .0% Nguồn số liệu điều tra: Khi tìm hiểu về mức độ đồng ý của gia đình khi cho các thành viên đi xuất khẩu lao động thì có 11 ý kiến đồng ý (68.8%), 2 ý kiến không đồng ý (12.5%) và 2 ý kiến rất đồng ý (12.5%). Điều này cũng chứng tỏ việc đi xuất khẩu lao động không chỉ là mong muốn của cá nhân người đi mà còn là cả gia đình với hy vọng cải thiện, thay đổi đời sống so với trước đây. Phần lớn người dân khi được hỏi tại sao lại đồng ý cho người thân của mình đi xuất khẩu lao động đều trả lời là do trình độ học vấn thấp nên đồng nghĩa với việc công việc không ổn định, thu nhập bấp bênh; trong khi đó, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, không đủ trang trải cho cuộc sống hàng ngày. Một người phụ nữ có chồng đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc chia sẻ: Hộp 3: Đi xuất khẩu lao động vì đời sống còn nhiều khó khăn “…Tôi đồng ý cho chồng đi xuất khẩu lao động cũng chỉ vì mong muốn đời sống khấm khá hơn. Gia đình tôi có ba cháu vẫn đang đi học nên chi tiêu cho giáo dục rất tốn kém…Thu nhập ở tại gia đình trông vào mấy sào ruộng thì chẳng đủ ăn, không có trình độ thì chả xin làm được ở đâu…” (phỏng vấn sâu, nữ 39 tuổi) Những khó khăn ở nông thôn là nhân tố khiến những người dân nơi đây xem việc đi xuất khẩu lao động là một cách mưu sinh. Trong các phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm, hầu hết các ý kiến đều xoay quanh những hạn chế về hoạt động sản xuất và thu nhập ở nông thôn dẫn đến việc người dân đi xuất khẩu lao động. Một cán bộ thôn cho biết: “…dựa vào tình hình chung của thôn Ngọc Lâm nói riêng và xã Tân Kỳ nói chung thì kinh tế còn thấp (…), đồng bằng chiêm trũng, cuộc sống khó khăn, người dân còn nghèo khó nên bắt buộc phải ra đi. Vì nhu cầu cuộc sống thôi. Với thời buổi bây giờ, giá cả hàng hóa leo thang, chỉ có người dân chúng tôi là thiệt thòi, phải xoay sở đủ mọi thứ: làm thế nào không mất mùa, làm sao có thu nhập trang trải cuộc sống... Ở bên đó họ có thể vừa học nghề vừa làm việc”. (Nam cán bộ, thôn Ngọc Lâm)..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Do vậy, phần lớn gia đình đều đồng ý cho người thân đi xuất khẩu lao động vì nhiều lý do như: mong muốn cải thiện kinh tế, tìm kiếm công việc ổn định, trau dồi kỹ năng, tay nghề. 3.2. Kiều hối (Tiền gửi về của các hộ gia đình): Đóng góp vào thu nhập chung của các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động là tiền gửi về từ người lao động làm việc tại nước ngoài. Thông qua số lượng tiền mà người lao động gửi về cho gia đình, xuất khẩu lao động đang góp phần điều chỉnh lại sự chênh lệch thu nhập giữa nông thôn và thành thị. Cụ thể hơn nữa, tiền gửi về ảnh hưởng rõ rệt tới thu nhập của các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động tại thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, Tứ Kỳ, Hải Dương. Hình 1. Tiền gửi về của hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động. 84.62 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0. Có gửi tiền về. 15.58. Không gửi tiền về. Hộ gia đình có người đi XKLĐ. Như vậy, theo kết quả điều tra thì đa phần hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động gửi tiền về cho gia đình (84.62%); còn 15.3 % hộ cho biết không nhận được tiền gửi về do gặp rủi ro trong lao động hoặc do bị bạn bè lôi kéo mà rơi vào tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc...Việc không nhận được đóng góp này cũng xuất phát từ nhiều lý do. Tìm hiểu nguyên nhân cho thấy, một số cá nhân chỉ mới bắt đầu đi làm ăn xa trong thời gian ngắn, chưa thể đóng góp cho gia đình; một số đi theo hợp đồng dài hạn, vì khoảng cách xa xôi nên chưa có điều kiện về thăm nhà... Hơn thế nữa việc chuyển tiền về cho gia đình cũng gặp không ít khó khăn vì đa số người lao động không nắm rõ được kênh chuyển tiền, gửi qua các tổ chức chính thức, phi chính thức của công ty hay ngân hàng. Gửi qua những tổ chức này thường mất phí cao mà thu nhập lúc mới đi không đáng kể, cộng thêm khoản phải trả lãi ngân hàng hàng tháng cũng là sức ép lớn đối với họ. Vì vậy, để gửi được tiền về cho gia đình, họ phải nhờ những người thân quen, tin cậy trong mỗi dịp có người về thăm nhà; với những trường hợp không có người quen thì phải đợi tới đợt được nghỉ phép họ mới có thể mang tiền về. Hộp 4: Gửi tiền về từ 3 – 4 lần/ năm “…Từ khi đi Nga anh và chị cũng thỉnh thoảng gửi tiền về (3- 4 lần/năm, do gửi qua ngân hàng phải mất phí nhiều nên số tiền được góp lại gửi về một lúc luôn hoặc khi có người thân về thì gửi về. Khoản tiền mà anh chị gửi về một năm khoảng 5 nghìn USD (100 triệu đồng/.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> năm). Với số tiền gửi về hàng năm đó tôi dùng vào việc trả nợ, tôn tạo nhà cửa( hiện nay là nhà 3 tầng), mua các vật dụng lâu bền trong nhà, nuôi con cháu ăn học”. (Phỏng vấn sâu nữ, 70 tuổi, nông dân). Kết quả điều tra cho thấy: Hình 2. Mức độ thường xuyên gửi tiền về: 40. Đơn vị tính % 37.5. 35 31.3 30 25. 25 20. Có người đi XKLĐ. 15 10 5 0. 6.3. Nguồn số liệu điều tra Qua biểu đồ có thể thấy tần suất gửi tiền về của người đi xuất khẩu lao động không cao. Cụ thể, đa phần người lao động thỉnh thoảng gửi tiền về cho gia đình (3 – 4 lần/ năm) chiếm 37.5%; một số ít người không gửi về (6.3%) do làm ăn thua lỗ, chưa trả hết nợ, chỉ có 4 hộ người thân thường xuyên gửi tiền về (25%); trường hợp hiếm khi gửi tiền về cho gia đình (1 – 2 lần/ năm) cũng chiếm tới 31.3 %. Hộp 5: Gửi tiền qua người thân “…Từ khi đi Nga, con tôi cũng thỉnh thoảng gửi tiền về (3- 4 lần/năm). Do gửi qua ngân hàng phải mất phí nhiều nên số tiền được góp lại gửi về cùng một lúc hoặc khi có người thân về thì nhờ mang về…. (Phỏng vấn sâu nữ, 70 tuổi, nông dân). Kết quả nghiên cứu cho thấy, có sự khác biệt về mức độ thường xuyên gửi tiền về giữa nam và nữ; lượng tiền lao động nữ gửi về là nhiều hơn nam giới. Giải thích cho điều này phỏng vấn sâu một số nam thanh niên đi xuất khẩu lao động cho biết: “…Tôi và một số người bạn là nữ cùng đi xuất khẩu lao động tại một xí nghiệp may ở Malaysia. Tôi làm tháng 9 triệu còn họ làm tháng 8 triệu đồng, mặc dù tôi làm lương cao hơn nhưng tính ra lại không bằng, bởi vì cứ đến cuối tuần lại đi gặp mặt bạn bè, thỉnh thoảng tổ chức ăn uống nên trừ chi tiêu ra tôi chỉ còn khoảng 5 triệu đồng/tháng gửi về nhà. Những người bạn đó là phụ nữ nên cũng tằn tiện, tiết kiệm hơn, trừ chi tiêu ra mỗi tháng còn được 6 triệu đồng gửi về”… Hàng tháng họ đều gửi tiền về cho ông bà ở nhà còn tôi thì trung bình 3 – 4 tháng mới gửi một lần. (Phỏng vấn bảng hỏi kết hợp phỏng vấn sâu nam đi xuất khẩu lao động đã trở về gia đình)..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> Ngoài ra, kết quả thảo luận nhóm cho thấy: Hộp 6: Mức độ đóng góp tùy thuộc vào đặc trưng của cá nhân, gia đình “…Đóng góp từ việc đi xuất khẩu lao động góp phần tăng thu nhập hộ gia đình ở quê gốc. Tuy nhiên sự đóng góp này không xảy ra đều ở các cá nhân đi xuất khẩu lao động. Điều đó còn tùy những đặc trưng, điều kiện khác nhau của từng cá nhân, tác động đến việc họ có đóng góp hay không, mức độ thường xuyên đóng góp như thế nào. Phần lớn những người đi xuất khẩu lao động đã kết hôn có đóng góp cho thu nhập gia đình và đóng góp thường xuyên hơn so với người đi xuất khẩu lao động chưa lập gia đình. Số thế hệ, số nhân khẩu trong gia đình và khoảng cách di chuyển cũng là nhưng điều kiện tác động đến việc họ đóng góp hay không và mức độ đóng góp, gửi tiền về thường xuyên như thế nào…” (tổng hợp ý kiến của người dân trong thảo luận nhóm thực hiện với những hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động). Trong phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm một số hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động cho thấy các cá nhân đi xuất khẩu lao động có thu nhập bình quân từ 15 – 20 triệu đồng một tháng. Sau khi trừ chi phí ăn ở, đi lại, thậm chí tích trữ phần nào, những người đi xuất khẩu lao động vẫn có thể đóng góp vào thu nhập chung cho gia đình. Trung bình hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động nhận tiền gửi về đóng góp vào thu nhập gia đình khoảng 8 - 9 triệu đồng một tháng. Dù sao đi chăng nữa so với mức thu nhập bình quân của cá nhân trong thôn (700 – 800 nghìn đồng/người/tháng) (theo số liệu thống kê xã) thì lượng tiền gửi về lớn hơn nhiều lần. Hơn nữa, đời sống kinh tế của người dân từ trước đến nay trông cậy chủ yếu vào nông nghiệp (chiếm khoảng 41%) tổng thu nhập gia đình thì mức thu nhập từ việc đi xuất khẩu lao động cũng chiếm tỷ trọng đáng kể. Theo báo cáo tổng kết tình hình phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 của xã Tân Kỳ thì con số này chiếm 38% trên tổng thu nhập của cả hộ gia đình có người đi. Ngoài thu nhập từ nông nghiệp và phi nông nghiệp, tiền gửi về đã góp phần tích cực vào việc ổn định thu nhập chung của hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động. Bảng 5. Đánh giá thu nhập ổn định của hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động Hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động Số lượng Phần trăm Có 13 86.67% Thu nhập ổn định Không 2 13.33% Tổng 15 100% Nguồn số liệu điều tra Kết hợp với quá trình phỏng vấn sâu và số liệu điều tra bảng hỏi cho thấy thu nhập của những hộ có người đi xuất khẩu lao động thường cao và ổn định hơn. Cụ thể trong thảo luận nhóm tập trung các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động, một số ý kiến chia sẻ: “…Nhà tôi có con trai đi xuất khẩu lao động ở Hàn Quốc, cứ hai ba tháng gửi tiền về một lần. Mỗi lần gửi từ 15 – 20 triệu đổi ra tiền Việt. So với khoản thu từ nông nghiệp thì có ổn định và cao hơn..

<span class='text_page_counter'>(21)</span> Trước đây khi chưa đi xuất khẩu lao động mà chỉ làm ruộng, thỉnh thoảng đi làm thuê thì tháng nào cao nhất mới được gần 4 triệu, trung bình thì cũng chỉ từ 2 đến 3 triệu …” (Thảo luận nhóm) Trong thực tế tìm hiểu, những hộ ở nhà chủ yếu là chăn nuôi và trồng trọt nên thu nhập bấp bênh hơn. Còn những hộ có người đi xuất khẩu lao động, số tiền hằng năm người lao động gửi về cho gia đình lên đến hàng trăm triệu đồng, góp phần làm tổng thu nhập của gia đình tăng lên so với thời điểm trước khi đi xuất khẩu lao động. Hơn thế nữa, khi so sánh mức độ ổn định của thu nhập giữa hộ gia đình có người đi xuất khẩu và hộ gia đình không có người đi cho kết quả như sau: Bảng 6. Đánh giá thu nhập ổn định của hộ gia đình thôn Ngọc Lâm Hộ gia đình Có người XKLĐ Thu nhập ổn định. Không có người XKLĐ. Số lượng. Phần trăm. Số lượng. Phần trăm. Có. 13. 43.3%. 8. 26.7%. Không. 2. 6.7%. 7. 23.3%. Nguồn số liệu điều tra Theo số liệu thống kê từ bảng hỏi (bảng 6): thu nhập của những hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động ổn định hơn (43.3%) so với hộ gia đình không có người đi (26.7%); bên cạnh đó, 6.7% hộ gia đình có người đi và 23.3% hộ gia đình không có người đi cho rằng thu nhập không ổn định. Hình 3. Đánh giá thu nhập của các hộ gia đình thôn Ngọc Lâm Không có người XKLĐ. Có người XKLĐ. Tăng lên Giảm đi. 6%. 36%. 13%. Không thay đổi. 50%. 81%. 14%. Nhóm đã tiến hành điều tra 15 hộ có người đi xuất khẩu lao động. Nhiều gia đình có từ 1 đến 2 người đang đi xuất khẩu lao động hoặc đã về nhà, như gia đình bà Phạm Thị Định có con trai và con dâu đang làm tại nước Nga, hoặc gia đình bà Phạm Thị Tuyến có đến hai cô con gái đang đi xuất khẩu tại Đài Loan. Như vậy, so với thời điểm trước đây khi chưa đi xuất khẩu lao động thì nhìn chung mức thu nhập của các hộ gia đình được phỏng vấn đều có xu hướng tăng lên, đặc biệt là những hộ có người đi xuất khẩu lao động. Chỉ có 13% số hộ có người đi xuất khẩu lao động cho rằng mức thu nhập của gia đình vẫn không có gì thay đổi và 6% cho rằng thu nhập gia.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> đình giảm đi. Tuy nhiên, bảng số liệu cũng cho thấy sự chênh lệch rất lớn về mức độ đánh giá thu nhập giữa những hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động và những hộ không có người đi xuất khẩu lao động. Có tới 36% hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động cho biết thu nhập không có gì thay đổi, con số này cao hơn gấp 3 lần so với những hộ có người đi xuất khẩu lao động. Đồng thời, đánh giá thu nhập tăng lên của những hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động chỉ bằng 2/3 so với những hộ có người đi xuất khẩu lao động (50% so với 81%). Sự khác biệt trong thu nhập giữa các hộ gia đình có nhiều nguyên nhân nhưng tiêu biểu nhất vẫn là tác động của lượng tiền gửi đối với hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động. Hay nói cách khác nó tác động trực tiếp tới nguồn thu nhập của hộ gia đình và tạo ra sự chênh lệch về mức sống giữa các hộ gia đình tại thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, Tứ Kỳ, Hải Dương. Điều này chứng tỏ tiền gửi về ổn định và thường xuyên có đóng góp tích cực tới thu nhập của các hộ gia đình. 3.3. Những biến đổi về mức sống của các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động Tác động tới quá trình sản xuất của các hộ gia đình: Phần nhiều người đi xuất khẩu lao động gửi tiền về cho gia đình xây dựng nhà cửa, hay đầu tư vào tái sản xuất hộ gia đình. Vì thế ngoài lý do đi để cải thiện kinh tế, đời sống gia đình, tìm kiếm một việc làm ổn định... họ còn mong muốn tích lũy kinh nghiệm làm việc, phát triển tay nghề để nâng cao hơn nữa thu nhập. Một số trường hợp gia đình không phải khó khăn nhưng vẫn muốn cho người nhà đi xuất khẩu lao động để cho biết đây biết đó và về làm tái sản xuất cho gia đình. Qua khảo sát tại địa bàn thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, huyện Tứ kỳ, Hải Dương nhận thấy địa bàn thôn đất nông nghiệp là chiếm đa phần (ít các khu công nghiệp), bên cạnh việc trồng lúa, hoa màu thì bà con còn chăn nuôi để tăng thêm thu nhập..

<span class='text_page_counter'>(23)</span> Bảng 7. Nghề nghiệp của những hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động. Hộ gia đình có người XKLĐ. Nghề nghiệp. Nông nghiệp HS/SV Về hưu Công nhân Công chức Buôn bán Làm thuê Khác. Số lượng 12 0 0 0 0 3 0 1. Phần trăm 75.0% .0% .0% .0% .0% 18.8% .0% 6.3% Nguồn số liệu điều tra:. Đối với hộ có người đi xuất khẩu lao động thì nghề nghiệp chủ yếu của cả gia đình vẫn là nông nghiệp (trồng lúa và chăn nuôi) chiếm tới 75%, ngoài ra còn có các nghề phụ như: xay sát, cho thuê máy móc nông nghiệp, buôn bán (18.8%)… Hoạt động ngoài nông nghiệp chiếm không đáng kể (6,3%). Nhiều hộ gia đình có con hoặc chồng đi xuất khẩu lao động, hàng tháng vẫn có khoản tiền gửi về nhưng với đức tính cần cù, muốn kiếm tạo thêm thu nhập nên họ chăn nuôi thêm lợn, gà; trồng hoa màu; làm một số nghề phụ (mộc, nề, thêu ren)… Một nông dân chia sẻ: “Dù cậu con trai đi làm ở Hàn Quốc, mỗi tháng được 20 triệu đồng, nhưng hai bác ở nhà vẫn nuôi lợn và nuôi cá để kiếm tiền tiêu vặt trong gia đình, còn tiền con trai gửi về thì góp dùng vào việc lớn như xây dựng nhà cửa hoặc mua sắm tiện nghi lâu bền trong nhà, mỗi năm trừ chi phí gia đình bác cũng thu được khoảng 20 triệu đồng từ chăn nuôi” (thảo luận nhóm, nữ, 45 tuổi). Hơn nữa, có một điều dễ nhận thấy ở đây đó là tiền gửi về góp phần không nhỏ vào việc đầu tư tái sản xuất, nó bao gồm cả lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp. Trước đây, khi việc đi xuất khẩu lao động chưa diễn ra mạnh mẽ thì nguồn thu từ lĩnh vực phi nông nghiệp như kinh doanh buôn bán hoặc sản xuất nhỏ của các hộ là không nhiều, chỉ có một vài hộ mở cửa hàng nhỏ (quán) để buôn bán tạp hóa, chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng của người dân xung quanh thôn, xóm. Nhưng sau khi có khoản tiền gửi về của người lao động thì việc đầu tư tái sản xuất của hộ gia đình đã có sự thay đổi..

<span class='text_page_counter'>(24)</span> Bảng 8. Đầu tư tái sản xuất của hộ gia đình thôn Ngọc Lâm Hộ gia đình không có người XKLĐ. Hộ gia đình có người đi XKLĐ Trước đây Số lượng. Phần trăm. Hiện tại Phần trăm. (%). Số lượng. Hiện tại Số lượng Phần trăm. (%). (%). Xây dựng. Có. 5. 16.7%. 11. 36.7%. 2. 6.7%. Không. 11. 36.7%. 5. 16.7%. 12. 40.0%. Mua. Có. 6. 20.0%. 7. 23.3%. 2. 6.7%. thiết bị. Không. 10. 33.3%. 9. 30.0%. 12. 40.0%. Thuê đất. Có. 1. 3.3%. 4. 13.3%. 0. .0%. Không. 15. 50.0%. 12. 40.0%. 14. 46.7%. Gửi. Có. 0. .0%. 9. 30.0%. 0. .0%. 16. 53.3%. 7. 23.3%. 14. 46.7%. tiết kiệm Không Cho. Có. 0. .0%. 3. 10.0%. 0. .0%. vay lãi. Không. 16. 53.3%. 13. 43.3%. 14. 46.7%. Nguồn số liệu điều tra: Số liệu trên cho thấy việc đầu tư tái sản xuất của hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động trước và sau khi đi có sự thay đổi lớn. Hộ gia đình sau khi có người đi xuất khẩu lao động thì có điều kiện hơn nên đầu tư xây dựng nhà xưởng, máy móc thiết bị, thuê đất nhiều hơn, nhiều hộ còn gửi tiết kiệm, cho vay lãi… Cụ thể như trong việc xây dựng: nhà máy, công xưởng, cửa hàng đối với các hộ trước khi đi xuất khẩu lao động chỉ chiếm 16.7% nhưng sau khi đi có tiền nhiều hơn nên xây dựng nhà cửa tăng lên đến 36.7% (chênh lệch so với trước khi đi là 20%). Mua máy móc, thiết bị trước khi đi xuất khẩu lao động chỉ chiếm 20% nhưng sau khi đi xuất khẩu lao động về tăng lên là 23.3%; thuê đất để mở rộng sản xuất cũng vậy, ban đầu chiếm 3.3% nhưng sau khi đi tăng hơn lên 13.3%. Một điều dễ nhận thấy là tiền gửi về của hộ gia đình được gửi tiết kiệm tương đối nhiều nhiều (30%), cho vay lãi chỉ chiếm 10%. Như vậy, tiền gửi về góp phần gia tăng cho đầu tư tái sản xuất của các hộ gia đình, thể hiện rõ ở tỷ lệ phần trăm các mục đều có xu hướng cao hơn so với thời điểm trước đi xuất khẩu lao động. Các hộ gia đình không còn lệ thuộc quá nhiều vào tiền gửi về mà tìm cách mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, buôn bán nhằm cải thiện nguồn thu nhập gia đình, từ đó thay đổi mức sống nói chung. Thế nhưng, đối với những hộ không có người đi xuất khẩu lao động thì ít có cơ hội để đầu tư mở rộng sản xuất hơn. Một người dân chia sẻ: “…gia đình không có người đi xuất khẩu lao động nên ngề nghiệp chính của gia đình là làm ruộng, nhà làm 8 sào ruộng, một sào thu được 2 tạ thóc, tổng thu của.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> mỗi vụ được 13 triệu, trừ chi phí là 4 triệu, tính ra là thu được 9 triệu/vụ. Gia đình có chăn nuôi thêm lợn, gà nhưng không đáng kể, cả năm mới được vài triệu đồng…cũng chưa từng có ý định mở rộng sản xuất, thuê đất làm trang trại hay đầu tư mua máy móc nông nghiệp vì vốn không có, làm thì không thu được bao nhiêu mà vay lãi ngân hàng thì không trả nổi…” (nam – 55 tuổi). Bên cạnh đó, xuất khẩu lao động cũng tạo ra sự khác biệt trong đầu tư sản xuất giữa hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động và hộ gia đình không có người. Điều này thể hiện ở số liệu bảng 8 cho thấy sự khác biệt lớn trong việc đầu tư cho xây dựng giữa các hộ có người đi xuất khẩu lao động và hộ không có người đi. Căn cứ vào nguồn số liệu điều tra đã chỉ ra đầu tư sản xuất của hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động nhiều hơn hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động. Những hộ có người đi xuất khẩu lao động về thu nhập của họ thường khá hơn nên họ thường đầu tư tiền của vào lĩnh vực xây dựng (36.7%) còn hộ không có người đi xuất khẩu lao động thì ít hơn (6,7%). Hay như việc mua thiết bị, hộ có người đi xuất khẩu mua thiết bị nhiều hơn chiếm (23.3%) so với hộ không có người đi xuất khẩu lao động chỉ (6,7%) tương tự như đối với việc thuê đất, gửi tiết kiệm hộ có người đi xuất khẩu lao động chiếm (30%) trong khi đó gửi tiết kiệm hộ không có người đi xuất khẩu lao động được hỏi thì không có khoản này... Như vậy tiền gửi về giúp cho các hộ gia đình có nguồn vốn để đầu tư, mở rộng sản xuất, mua sắm trang thiết bị, gửi tiết kiệm, cho vay lãi nhiều hơn so với hộ không có người đi xuất khẩu. Từ quá trình điều tra bảng hỏi, kết hợp với phỏng vấn sâu nhóm nghiên cứu nhận thấy những gia đình có người đi xuất khẩu lao động thì thu nhập cao hơn những gia đình không có người đi xuất khẩu lao động. Vì vậy họ có tiền đầu tư trang thiết bị, giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, máy móc nông nghiệp… nhiều hơn những gia đình không có người đi xuất khẩu lao động. Tuy nhiên, việc đi xuất khẩu lao động cũng gây ra một số khó khăn nhất định với gia đình và địa phương. Xuất hiện tình trạng thiếu hụt nguồn lao động trong sản xuất và công việc của các hộ gia đình. Chẳng hạn như khi cần có người đàn ông trong các công việc nặng nhọc của gia đình: sửa chữa thiết bị, nhà cửa hoặc giải quyết các vấn đề của họ tộc: hiếu, hỷ, xây nhà thờ họ… thì đa phần lại đi vắng. Người phụ nữ, người vợ có chồng đi xuất khẩu lao động thì một mình phải gánh vác rất nhiều việc từ đồng áng, nuôi dạy con cái, công việc nhà, cho đến công việc chung của thôn xóm: dọn nhà văn hóa, vệ sinh đường làng… Một người dân chia sẻ: “….Chồng tôi đi Đài Loan được 3 năm, tôi ở nhà tự lo liệu các công việc từ chăm sóc, giáo dục con cái cho đến công việc cày cấy, gặt hái…tuy là khó khăn vất vả nhưng vẫn phải cố vì không nhờ ai khác được, chồng đi xa phải tự mình quán xuyến hết…Ông bà thì ở xa nên cũng không giúp được, việc nào không kham hết thì cũng phải nhờ đến bà con hàng xóm sang hộ…” (phỏng vấn sâu nữ, 39 tuổi) Bên cạnh đó xuất khẩu lao động cũng ảnh hưởng tới nguồn lao động, công việc chung của địa phương. Kết quả từ phỏng vấn sâu lãnh đạo thôn cho biết:.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> Hộp 7: Nguồn lao động địa phương thay đổi “…Nguồn lao động địa phương có sự thay đổi từ khi có hiện tượng người dân đua nhau đi xuất khẩu lao động. Hàng năm những công việc chung của như cày cấy, làm kênh mương, thủy lợi, làm đường… là phải thuê người thôn khác làm, thỉnh thoảng trong thôn vào dịp lễ hội cần đến thanh niên trai làng thì cũng không có đủ, công việc chung của thôn cũng bị hạn chế nhiều…” (Phỏng vấn sâu lãnh đạo thôn Ngọc Lâm) Chính vì thế, xuất khẩu lao động có ảnh hưởng lớn tới sản xuất của các hộ gia đình. Khoản tiền gửi về góp phần cải thiện và gia tăng đầu tư sản xuất cho nông nghiệp và phi nông nghiệp nhưng đồng thời cũng làm thiếu hụt đi nguồn lao động tại gia đình và địa phương. Tác động tới quá trình chi tiêu phúc lợi của các hộ gia đình: Liên quan đến những hoạt động tạo thu nhập, tiêu dùng trong gia đình phản ánh chất lượng của cuộc sống. Việc tiêu dùng trong gia đình cũng mang tính kế hoạch cụ thể thông qua các kế hoạch chi tiêu theo tháng. Theo ý kiến của đông đảo người dân thôn Ngọc Lâm, những hoạt động chi tiêu của gia đình được lập thành kế hoạch cụ thể bao gồm chi cho sinh hoạt hàng ngày, đóng tiền học cho con, mua sắm tài sản và chi cho hoạt động ngoại giao (hiếu, hỷ, thăm nom bạn bè người thân). Dù trước hay sau khi đi xuất khẩu lao động, ngoài việc đầu tư sản xuất thì chi cho sinh hoạt hàng ngày (ăn, mặc, điện, nước…) và chi cho việc giáo dục đào tạo đều chiếm tỷ trọng nhiều nhất trong gia đình. Điều này minh chứng cho việc họ luôn coi trọng việc nâng cao mức sống của các thành viên nói riêng và gia đình nói chung. Hơn thế nữa, việc chi tiêu, tiêu dùng trong gia đình cũng có nhiều thay đổi lớn so với thời gian trước đây. Hầu hết các hộ có người đi xuất khẩu lao động đều cho rằng việc chi tiêu cho các khoản giáo dục, ăn uống, điện nước, hiếu hỷ, mua sắm trang thiết bị là thay đổi theo chiều hướng tăng lên so với thời điểm người thân chưa đi xuất khẩu lao động. Cụ thể như trong thảo luận nhóm tập trung có ý kiến cho rằng: “…Đời sống nông dân lam lũ, nhiều thiệt thòi vì không có lương, hơn nữa lại phải chi phí, giá cả đắt đỏ, mùa màng thất thu do thiên tài, dịch bệnh nhiều. Bây giờ vẫn vậy nhưng dần dần có cơ chế của nhà nước về nông giang, thủy lợi cũng đỡ hơn. Từ khi nhà có người đi xuất khẩu lao động thì đời sống có thay đổi. Gia đình tôi có con trai 31 tuổi đi làm 3 năm, năm đầu đời sống kham khổ, tiết kiệm, bước sang năm thứ 4 thì cũng thu đủ vốn, đời sống ổn định hơn những người ở nhà. Tiền gửi về tôi xây công trình phụ, mua sắm vật dụng, chăm lo sức khỏe thường xuyên hơn…” (Nam - 60 tuổi – thôn Ngọc Lâm) Không những vậy, các cá nhân cho rằng mức sống của gia đình hộ đã thay đổi đáng kể. Cụ thể như trong các việc tiêu dùng cho các khoản mục: ăn uống, điện nước, mua sắm trang thiết bị, kiến thiết nhà cửa..

<span class='text_page_counter'>(27)</span> Hộp 8: Tiền gửi về chi cho giáo dục, trả nợ, kiến thiết nhà cửa, mua sắm vật dụng… Khoản tiền mà anh chị gửi về một năm khoảng 10 nghìn USD (khoảng 200 triệu đồng/ năm). Với số tiền gửi về hàng năm đó tôi dùng vào việc trả nợ, tôn tạo nhà cửa (hiện nay là nhà 3 tầng), mua các vật dụng lâu bền trong nhà: tivi, tủ lạnh, nuôi các cháu ăn học…” (Phỏng vấn sâu nữ - 70 tuổi) Có thể nói rằng, sự thay đổi này góp phần cải thiện đời sống của các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động nói riêng và đời sống người dân địa phương nói chung. Vật dụng gia đình Bảng 9. Điều kiện nhà ở, tiện nghi sinh hoạt của các hộ gia đình Hộ không có người đi XKLĐ. Hộ gia đình có người đi XKLĐ. Hiện nay. Ti vi Tủ lạnh Xe máy Xe đạp Điện thoại Nhà ở. Hiện nay. Trước đây. Số lượng. %. Số lượng. %. Số lượng. %. Có. 12. 40.0%. 16. 53.3%. 13. 43.3%. Không. 2. 6.7%. 0. .0%. 3. 10.0%. Có. 7. 23.3%. 12. 40.0%. 1. 3.3%. Không. 7. 23.3%. 4. 13.3%. 15. 50.0%. Có. 13. 43.3%. 13. 43.3%. 8. 26.7%. Không. 1. 3.3%. 3. 10.0%. 8. 26.7%. Có. 9. 30.0%. 14. 46.7%. 15. 50.0%. Không. 5. 16.7%. 2. 6.7%. 1. 3.3%. Có. 10. 33.3%. 14. 46.7%. 7. 23.3%. Không. 4. 13.3%. 2. 6.7%. 9. 30.0%. Có. 13. 43.3%. 14. 46.7%. 0. .0%. Không. 1. 3.3%. 2. 6.7%. 9. 30.0%. Nguồn số liệu điều tra: Xuất khẩu lao động đã mang lại một diện mạo mới cho thôn Ngọc Lâm, ngoài những ngôi nhà cao tầng, khang trang mọc lên thì những vật dụng trong gia đình cũng được họ mua sắm đầy đủ so với trước khi họ chưa đi xuất khẩu lao động. Trước khi người thân chưa đi xuất khẩu lao động thì chưa có đầy đủ tiện nghi sinh hoạt; sau khi đi có khoản tiền gửi về thì tivi, tủ lạnh, xe máy, điện thoại, nhà ở…được hộ gia đình sắm sửa thêm. Từ bảng 9 về điều kiện tài sản, thiết bị, nhà ở của hộ có người đi xuất khẩu lao động trước đây và hiện nay có sự thay đổi lớn. Lấy ví dụ như ti vi trước đây chỉ chiếm 43,3% thì hiện nay chiếm tới 53.3%, trước đây hộ gia đình có tủ lạnh chiếm 3.3% thì hiện nay chiếm 40%...và đặc biệt là sự thay đổi về số lượng nhà ở được xây.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> mới hiện nay chiếm 46.7 %. Điều này là một trong những minh chứng chỉ ra mức sống của hộ gia đình có người đi xuất khẩu thay đổi nhiều so với thời gian trước đây. So sánh với những hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động thì điều này càng thấy rõ hơn. Qua bảng số liệu trên cho thấy điều kiện nhà ở của các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động và hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động cũng có sự khác biệt đáng kể. Nhìn chung các hộ có người đi xuất khẩu lao động thì điều kiện nhà ở, đồ dùng gia đình có đầy đủ hơn hộ không có người đi. Chẳng hạn như tivi là vật dụng phổ biến nhất nên tỷ lệ các hộ gia đình có tivi chiếm 100%. Tuy nhiên giá trị của tivi giữa các hộ này là có sự khác nhau. Hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động thì khác với hộ không có người đi xuất khẩu lao động cả về số lượng và chất lượng, đa phần về số lượng là nhiều hơn, ti vi hiện đại, màn hình phẳng đi kèm với đầu kỹ thuật số... Đối với các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động thì tủ lạnh có nhiều hơn (40%), còn các hộ không có người đi xuất khẩu lao động chiếm ít hơn (23,3%). Kể cả phương tiện đi lại và phương tiên liên lạc cũng đầy đủ hơn. Hầu hết các hộ gia đình đều có nhà ở tuy nhiên có sự khác biệt lớn về chất lượng nhà ở. Các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động thì thường có nhà tầng, khang trang, trong nhà có đầy đủ tiện nghi; còn đối với hộ không có người đi thì thường đa phần là ở nhà cấp 4, mái ngói, tiện nghi trong nhà chưa đầy đủ. Sức khỏe Về khía cạnh sức khỏe, kết quả phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm không cho nhiều bằng chứng về tác động của xuất khẩu lao động và tiền gửi về tới tình trạng sức khỏe của người di cư đi xuất khẩu lao động và những người ở gia đình. Tuy nhiên, có sự khác biệt về tỷ lệ phần trăm người có sức khỏe ‘rất kém’ giữa hai nhóm hộ này. Khi phỏng vấn những hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động thì họ cho rằng sức khỏe yếu hơn với những hộ có người ở nhà. Điều này là do việc các thành viên trong cùng một hộ gia đình phải sống xa nhau trong thời gian dài, xét về tâm lý chung thì họ thấy sức khỏe có sự thay đổi, ít được quan tâm hơn trước. Giải thích cho sự khác biệt này thì một số người dân đưa ra ý kiến trong cuộc thảo luận nhóm: “Nói tới sức khỏe thì chúng tôi từ trước đến nay vẫn cứ như vậy thôi, không có thay đổi nhiều. Hàng năm, hàng tháng thì cũng có đôi lần đi khám sức khỏe trên xã. Nhưng những lần này chủ yếu là khám tổng thể miễn phí, theo tùy đợt chứ người dân không phải bỏ tiền túi ra. Con cháu gửi tiền về thì chúng tôi cũng ít dùng mua thuốc men chữa bệnh, để chi tiêu vào việc khác như ăn uống, sửa chữa nhà cửa, hiếu hỷ…Người dân ở đây tâm lý chung là như vậy, xa con cái thì cũng nhớ nhiều, cảm thấy mình yếu đi khi không có người chăm sóc, với những hộ mà con cái chỉ làm ở nhà thì vẫn có điều kiện chăm sóc ông bà, cha mẹ nhiều hơn...” (Thảo luận nhóm tập trung hộ gia đình có người xuất khẩu lao động) Nói tới mức độ thường xuyên đi khám sức khỏe thì lại có nhiều điểm khác nhau và đặc biệt là sự khác biệt giữa những hộ có người đi xuất khẩu lao động và những hộ không có người đi xuất khẩu lao động như tại thôn Ngọc Lâm – xã Tân Kỳ - huyện Tứ Kỳ - tỉnh Hải Dương địa bàn mà nhóm nghiên cứu trong thời gian qua..

<span class='text_page_counter'>(29)</span> Hình 4. Mức độ thường xuyên đi khám sức khỏe của các hộ gia đình thôn Ngọc Lâm, Tân Kỳ, Tứ Kỳ, Hải Dương. 50 45 40 35 30 25 20 15 10 5 0. Có người đi XKLĐ Không có người đi XKLĐ. Không bao giờ. Chỉ khi ốm mới đi. Thỉnh thoảng. Thường xuyên. Nguồn số liệu điều tra: Đa phần người dân ở đây chưa chú trọng tới việc chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh thường xuyên định kỳ. Chủ yếu là chỉ đi khám khi ốm đau hoặc sức khỏe quá yếu. Lý giải cho tình trạng bất cập này thì có nhiều nguyên nhân khác nhau như: khó khăn về chi phí, phương tiện, thủ tục khám chữa bệnh phức tạp… khiến họ hạn chế đi khám chữa bệnh thường xuyên. Nhưng xét về khía cạnh ý thức của người dân địa phương thì hầu hết mọi người vẫn chưa nhận thức được tầm quan trọng của sức khỏe trong đời sống. Trong số những người được hỏi vể nguyên nhân tại sao lại không đi khám chữa bệnh định kỳ thì họ đều cho rằng có sức khỏe tốt, không ốm đau bệnh tật gì mặc dù không khám tổng thể thường xuyên bao giờ, hoặc nếu ốm nhẹ thì tự mua thuốc uống, nặng lắm thì mới phải lên trạm xá, bệnh viện. Và hơn nữa đó là tâm lý chung của hầu hết tất cả mọi người. Điều này cho thấy người dân vẫn còn chủ quan với sức khỏe của mình, chưa tạo thành thói quen bảo vệ sức khỏe bản thân, các thành viên gia đình trong sinh hoạt hàng ngày. Nhìn vào hình 4 cũng cho thấy mức độ thường xuyên đi khám sức khỏe giữa hộ có người đi xuất khẩu lao động và hộ không có người đi xuất khẩu lao động là khác nhau. Có sự chênh lệch như khi đo mức độ không bao đi khám thì hộ có người đi xuất khẩu lao động chiếm 17.6%, hộ không có người đi xuất khẩu lao động chiếm 25%. Tỷ lệ này cho thấy hộ có người đi xuất khẩu lao động có quan tâm tới sức khỏe của mình hơn. Điều đó cũng cho thấy hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động thu nhập của họ tăng cao hơn trước cho nên nhu cầu sức khỏe, khả năng tiếp cận cũng cao hơn so với hộ không có người đi xuất khẩu lao động. Nhưng khi nói về việc chỉ khi ốm mới đi thì tỷ lệ này lại thay đổi thành 45% đối với hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động và 50% đối với hộ không có người đi xuất khẩu lao động… Hơn nữa, mức độ thường xuyên khám sức khỏe của hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động (18.3%) cao hơn so với hộ không có người đi (8.3%). Du lịch, giải trí.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> Hoạt động du lịch, giải trí cũng là một trong những tiêu chí quan trọng trong mức sống của gia đình. Nó góp phần đánh giá sự thay đổi về mặt tinh thần cho các thành viên. Điều tra bảng hỏi cho kết quả như sau: Bảng 10. Du lịch, giải trí của các hộ gia đình Hộ gia đình Có người XKLĐ. Du lịch. Không có người XKLĐ. Số lượng. Phần trăm. Số lượng. Phần trăm. Có. 8. 28.6%. 2. 7.1%. Không. 8. 28.6%. 10. 35.7% Nguồn số liệu điều tra. Bảng 10 cho thấy có sự chênh lệch về tỷ lệ phần trăm đi du lịch, giải trí hàng năm của các hộ gia đình được điều tra. Hoạt động này diễn ra phổ biến ở hộ có người thân đi xuất khẩu lao động (28,6%) nhưng hộ không có người đi xuất khẩu lao động thì ít tham gia vào hoạt động này chiếm (7.1%) vì có sự khác biệt về điều kiện kinh tế giữa các hộ gia đình. Một người dân chia sẻ: “…Kinh tế khó khăn, chi tiêu ăn uống, điện nước, giáo dục còn chẳng đủ nói gì đến du lịch với giải trí. Nhà người ta có thu nhập cao, con cái đi xuất khẩu lao động gửi tiền về cho ông bà hàng tháng thì mới đi du lịch đây đó được chứ bình thường thì hội phụ nữ, hợp tác xã có tổ chức đi chùa, đền thì mới được đi…” (ý kiến nữ, 68 tuổi trong thảo luận nhóm hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động) Căn cứ kết quả xếp hạng về sự thay đổi trong mức sống của hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động chỉ ra phần lớn mọi người đều cho rằng đời sống gia đình có thay đổi so với thời gian trước đây. Cụ thể như thay đổi về: thu nhập, chi tiêu – mua sắm, sức khỏe, kiến thiết nhà cửa, mối quan hệ gia đình…xếp hạng những yếu tố này như sau: Bảng 11. Xếp hạng về sự thay đổi trong mức sống của các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động: Tiêu chí (1)* (2) (3) (4) Tổng Xếp thứ Thu nhập 4 7 1 5 17 Sức khỏe 3 1 3 7 14 2 Chi tiêu 2 6 5 3 16 3 Đầu tư giáo dục, sản xuất 6 2 7 2 17 Kiến thiết nhà cửa 1 3 2 1 7 1 Mối quan hệ 5 4 4 6 19 Nguồn lao động 7 5 6 4 22 Nguồn: kết quả thảo luận nhóm (điểm càng thấp thì sự thay đổi càng lớn) *: Người tham gia thảo luận nhóm.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> Rõ ràng sự thay đổi về kiến thiết nhà cửa là thể hiện rõ nét và đáng kể nhất, tiếp đến là sự thay đổi về sức khỏe xếp thứ hai, thứ ba là chi tiêu, mua sắm. Để giải thích cho điều này thì một người dân tâm sự: “Tôi có con trai đi và con dâu đi xuất khẩu lao động, anh đi làm đã 4 năm, công việc là bốc vác ngoài trời, rất vất vả và chị V thì làm việc 6 năm, công việc là điện tử, thu nhập có cao hơn, trước khi đi thì gia đình rất túng nhưng khi đi xuất khẩu lao động thì đời sống gia đình cũng thay đổi nhiều. Trả nợ xong gia đình bây giờ tập trung vào tôn tạo nhà cửa, có tiền gửi về nên cũng tập trung vào giáo dục, chi tiêu trong nhà cũng thoải mái hơn”. (Nữ nông dân – 54 tuổi) Tuy nhiên lại có sự chênh lệch mức sống của hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động và hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động. Cụ thể hơn, đối với những hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động thì các khoản chi trong tiêu dùng: giáo dục, điện nước, ăn uống, kiến thiết nhà cửa là thấp hơn so với những hộ không có người đi xuất khẩu lao động. Phần lớn ý kiến của những người thuộc hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động trong phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm đều cho rằng có sự chênh lệch về mức sống giữa hai nhóm hộ này. Hộp 9: Thay đổi lớn về kiến thiết nhà cửa “Thu nhập của gia đình bình thường chỉ từ 2-3 triệu đồng/ tháng nhưng những hộ có người đi xuất khẩu lao động thì thu nhập của họ từ tiền gửi về cũng từ 10-15 triệu/ tháng. Đi một vài năm là có thể xây nhà, sắm sửa nhiều thứ. Nhìn cũng thấy rõ, ở đây cứ gia đình nào nhà to, khang trang, đẹp là nhà ấy có người đi xuất khẩu lao động. Mức sống của họ khác nhiều so với hộ không có người đi xuất khẩu lao động cả về thu nhập, chi tiêu, giải trí, nhà cửa…” (Nữ, thôn Ngọc Lâm, 47 tuổi) Hộp 10: Mối quan hệ gia đình thay đổi “Nói chung là cái gì cũng phải có 2 mặt! Đời sống của họ có tăng lên đáng kể nhưng trái lại về mối quan hệ giữa vợ với chồng, cha mẹ với con cái..là có thay đổi hẳn so với trước kia. Ví như nhà bên cạnh có chồng đi xuất khẩu lao động, tiền gửi về để kiến thiết nhà cửa, mua sắm vật dụng, chi tiêu nhưng được vài năm thì vợ chồng ly dị, con cái thì học hành cũng không đến nơi đến chốn” (ý kiến một số người dân tại thảo luận nhóm hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động). Như vậy đóng góp từ tiền gửi về của những người đi xuất khẩu lao động đã góp phần làm tăng thu nhập hộ gia đình quê gốc của họ. Mức sống của hộ gia đình được nâng cao rõ rệt, biểu hiện thông qua việc đầu tư sản xuất và mức tiêu dùng hàng ngày. Chính vì thế họ cảm thấy hài lòng với cuộc sống hiện tại vì mức sống đảm bảo phần nào nhu cầu các thành viên trong gia đình..

<span class='text_page_counter'>(32)</span> Bảng 12. Mức độ hài lòng của các hộ gia đình với mức sống hiện tại Hộ gia đình Không có người XKLĐ. Có người XKLĐ. Mức độ hài lòng. Số lượng. Phần trăm. Số lượng. Phần trăm. Rất hài lòng. 2. 7.1%. 1. 3.6%. Hài lòng. 6. 21.4%. 4. 14.3%. Bình thường. 5. 17.9%. 6. 21.4%. Không hài lòng. 3. 10.7%. 1. 3.6%. Hoàn toàn không hài lòng. 0. 0%. 0. 0%. Nguồn số liệu điều tra: Khi tiến hành đo mức độ hài lòng với mức sống hiện tại của người dân ở thôn Ngọc Lâm – xã Tân Kỳ - huyện Tứ Kỳ - tỉnh Hải Dương, đa phần người dân ở đây hài lòng về cuộc sống hiện tại của mình. Điều đó chứng tỏ rằng cuộc sống của người dân có chiều hướng khá lên, thể hiện qua những ngôi nhà 2 tầng, 3 tầng thậm chí 4 tầng mọc lên san sát nhau, trong nhà đầy đủ tiện nghi như tivi, xe máy, điện thoại… Chi tiêu hàng ngày trong gia đình cũng có phần khác trước rất nhiều; các dịch vụ sản xuất, sinh hoạt thì cũng được quan tâm hơn. Bên cạnh đó, chỉ có 10.7% hộ gia đình không hài lòng về cuộc sống hiện tại của mình, một phần là do những gia đình đó còn gặp nhiều khó khăn về vật chất lẫn tinh thần. Những người tuy có kinh tế nhưng vì một lý do đặc biệt liên quan tới tình cảm gia đình, sức khỏe của người thân… nên mức độ hài lòng về cuộc sống của họ là không, con số này chiếm rất ít trong đa số ý kiến của người dân đánh giá về cuộc sống của mình. Trong số những hộ gia đình được hỏi về mức sống hiện tại, 7.1% trả lời là rất hài lòng và 17.9% trả lời là bình thường. Do đó, xuất khẩu lao động có ảnh hưởng lớn tới mức sống các hộ gia đình, đặc biệt trong đời sống sinh hoạt và sản xuất. Một mặt nó đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của từng thành viên. Mặt khác nó cũng làm thay đổi mức sống từng thành viên nói riêng và hộ gia đình nói chung theo chiều hướng đa dạng, phức tạp hơn trước. 3.4. Một số vấn đề xã hội nảy sinh khi người dân đi xuất khẩu lao động Hiện nay, vấn đề xuất khẩu lao động đang là mối quan tâm của toàn xã hội trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu. Xuất khẩu lao động đem lại nguồn thu nhập cao cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên, nó còn kéo theo nhiều vấn đề như nảy sinh như tệ nạn xã hội, sự thay đổi trong mối quan hệ đối với gia đình, làng xóm, cộng đồng… Trong đó sự thay đổi mối quan hệ trong gia đình là được đề cập đến nhiều hơn cả. Nó ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống và tình cảm của các thành viên trong gia đình. Tại thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương là thôn có nhiều hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động, trong đó mối quan hệ, tình cảm gia đình của.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> các họ cũng đã có sự thay đổi do hai vợ chồng ở xa nhau, con cái xa cha mẹ. Minh chứng cho điều này, cô T chia sẻ: “…Cô có chồng đi Đức nhiều năm nay, mọi gánh nặng trong gia đình đè nặng lên cô như chăm sóc con cái, mẹ già và nhiều công việc khác. Vợ chồng xa nhau lâu ngày thì tình cảm xa cách, ở nhà thì hàng xóm cũng có nhiều điều ra tiếng vào đối với cô, bảo cô đi ngoại tình rồi sau đó mọi chuyện đến tai nhà chồng. Rồi chồng cô cũng đã có người khác ở bên đó. Mối quan hệ vợ chồng ngày càng xấu đi, từ đó cô cũng ít tiếp xúc, nói chuyện với mọi người…” Bên cạnh đó, việc bố mẹ xa nhà cũng ảnh hưởng nhiều tới việc quản lý, giáo dục con cái. Sở dĩ có sự ảnh hưởng này là do không có người quan tâm sát sao, nhắc nhở, chỉ bảo nên dễ dẫn đến tình trạng hư hỏng, đua đòi theo bạn bè, học hành không đến nơi đến chốn... Hộp 11: Con cái thiếu sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ “Nhà tôi chỉ có 3 bà cháu ở nhà. Công việc thì mình tôi lo hết, kể cả đi chợ mua thức ăn đến nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa, nhắc nhở các cháu ăn uống, học hành… Nhưng khổ một nỗi là chúng nó lớn rồi khó bảo, đánh mắng thì không được… Đứa lớn thì học hết lớp 12, đứa bé thì lớp 6, hai đứa đều ham chơi, nghịch ngợm, không chịu học hành… thỉnh thoảng lại tụ tập đánh nhau, đua đòi cờ bạc… Hầu hết ở đây gia đình nào có bố mẹ đi vắng là con cái đều không học cao, chỉ học hết cấp 3 là theo bạn bè đi làm công nhân hoặc sang đó làm cùng bố mẹ, có đứa ở nhà chơi bời lêu lổng…”. (Phỏng vấn sâu nữ, 61 tuổi) Điều kiện xa xôi cách trở, ít có thời gian về thăm nhà và quan tâm chăm sóc lẫn nhau có ảnh hưởng rất tiêu cực đến tâm lý, tình cảm của các thành viên trong gia đình, dẫn tới mối quan hệ gia đình có nhiều biến đổi. Thách thức lớn nhất với họ là thiếu thốn tình cảm, dẫn đến những biến đổi về nhận thức, hành vi ứng xử trong quan hệ vợ chồng, ảnh hưởng đến tinh thần, tâm lý và học tập của con cái… Điều này là một trong những minh chứng chỉ ra sự tác động của xuất khẩu lao động đến sự bền vững của gia đình, là tác nhân gây rạn nứt trong quan hệ hôn nhân… Minh chứng cho thấy theo số liệu thống kê của ủy ban nhân dân xã Tân Kỳ thì trong những năm trở lại đây khi tình hình đi xuất khẩu lao động ngày càng tăng thì tỷ lệ các cặp vợ chồng nộp đơn ly hôn cũng đồng thời tăng lên từ 10-15% so với các năm trước đây (tính vào thời điểm năm 2004). Nguyên nhân chủ yếu là việc đi xuất khẩu lao động dẫn tới sự xa cách về mặt địa lý cũng như tình cảm khiến cả hai cảm thấy không hài lòng và có xu hướng muốn ly thân. Như vậy, xuất khẩu lao động có ảnh hưởng tích cực và tiêu cực tới gia đình và xã hội nên cần thiết phải có nghiên cứu sâu hơn để chỉ ra rõ những tác động này, từ đó đề ra những giải pháp nhằm ổn định đời sống người dân. Tóm tắt kết quả: Mặc dù số lượng người đi xuất khẩu lao động của Việt Nam tăng lên đáng kể trong những năm gần đây và hiện đang thu hút khá nhiều quan tâm từ các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà nghiên cứu, nhưng các nghiên cứu này vẫn còn thiếu thông tin, số liệu định tính và định lượng về tình hình xuất khẩu lao động và các tác động của nó tới phát triển xã hội và mức sống các hộ gia đình. Hầu hết các nhà nghiên cứu tập trung chủ yếu vào di dân trong nước và các hệ.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> quả của nó. Có rất ít chính sách được vạch ra trên cơ sở nắm rõ tác động sâu sắc của di dân quốc tế. Do đó, nghiên cứu này bước đầu tìm hiểu một số ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của xuất khẩu lao động tới đời sống các hộ gia đình khu vực nông thôn (nghiên cứu trường hợp tại thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, Hải Dương) Báo cáo trên đây góp phần xác định tầm quan trọng của xuất khẩu lao động tới sự thay đổi mức sống các hộ gia đình ở khu vực nông thôn nói chung và xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, Hải Dương nói riêng. Đồng thời nghiên cứu nhằm cung cấp các bằng chứng về các tác động khác nhau của xuất khẩu lao động tới sự phát triển kinh tế và xã hội của Việt Nam. Từ số liệu điều tra hộ gia đình và các cuộc phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động cho thấy các tác động tới bản thân người đi xuất khẩu lao động và tới gia đình họ nhìn chung là tích cực. Xuất khẩu lao động đã cải thiện đáng kể thu nhập, chi tiêu, giảm đói nghèo, cải thiện điều kiện nhà ở. Hơn thế nữa tiền gửi về của những người đi xuất khẩu lao động cũng có ảnh hưởng đến tiết kiệm, đầu tư, kinh doanh, nguồn lao động của địa phương và gia đình. Tuy nhiên sự ảnh hưởng này còn tùy thuộc vào nhiều điều kiện và hoàn cảnh khác nhau. Có hộ gia đình nhận thấy sự thay đổi rõ rệt trong mức sống nhưng điều này không chắc chắn đúng với những hộ gia đình khác. Mức độ ảnh hưởng là không giống nhau trong một số khía cạnh: thu nhập, sản suất, sức khỏe, du lịch giải trí… Bên cạnh những ảnh hưởng mang tính tích cực, vẫn còn đó những ảnh hưởng mang tính tiêu cực. Mặt trái của xuất khẩu lao động phần nào làm cho chức năng gia đình, mối quan hệ giữa các thành viên có sự thay đổi khi bản thân gia đình tập trung vào việc cải thiện kinh tế. Tuy nhiên, những tác động đó khá phức tạp và cần có các nghiên cứu sâu hơn về mức sống của các hộ gia đình có người thân đi xuất khẩu lao động để tối đa hóa những ảnh hưởng tích cực và tối hiểu hóa các tác động tiêu cực. Có như vậy thì các chính sách đối với người lao động và hộ gia đình có người đi xuất khẩu mới đem lại hiệu quả lâu dài, ổn định. IV. KẾT LUẬN Báo cáo này tập trung phân tích tác động của xuất khẩu lao động mức sống hộ gia đình, tìm hiểu cụ thể ảnh hưởng của tiền gửi về tới thu nhập hộ gia đình, đồng thời sử dụng tiền gửi về cho đầu tư sản xuất, tiêu dùng, chăm sóc sức khỏe… Bên cạnh đó đề tài chỉ ra một số yếu tố xã hội nảy sinh khi người dân đi xuất khẩu lao động để lấy đó làm căn cứ chỉ ra một số giải pháp khắc phục hạn chế của tình trạng trên. Qua quá trình tìm hiểu, khảo sát ảnh hưởng của xuất khẩu lao động tới mức sống hộ gia đình tại thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, Tứ Kỳ, Hải Dương cho thấy người dân đi xuất khẩu lao động nằm trong độ tuổi từ 18- 46 tuổi, đa phần là nam giới. Số liệu điều tra thực tế cho thấy hầu hết những người đi xuất khẩu lao động có trình độ học vấn trung bình 9/12. Các quốc gia có nhiều người tới là Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia, Nga nhưng chủ yếu vẫn là các nước trong khu vực Châu Á. Việc đi làm ăn xa đã góp phần giải quyết vấn đề thiếu việc làm ở nông thôn. Bên cạnh đó, xuất khẩu lao động cũng có đóng góp không nhỏ vào nâng cao mức sống của các hộ gia đình. Người đi xuất khẩu lao động có xu hướng gửi tiền về cho gia đình và số lượng tiền tùy thuộc vào đặc trưng (tuổi, tình trạng kết hôn, giới tính, nơi đến, tay nghề làm việc…).

<span class='text_page_counter'>(35)</span> Tiền gửi về góp phần tạo ra sự thay đổi lớn trong cơ cấu thu nhập của hộ gia đình, dẫn đến sự khác biệt lớn về thu nhập của hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động và hộ gia đình không có người đi. Hơn thế nữa lượng tiền gửi về thường xuyên và ổn định có đóng góp tích cực tới thu nhập nói riêng và mức sống nói chung của các hộ gia đình. Qua khảo sát về ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống của các hộ gia đình, chúng tôi nhận thấy mức sống của các hộ gia đình đều có sự thay đổi theo chiều hướng tích cưc, hầu hết những hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động đều có thu nhập tương đối cao và theo chiều hướng tăng lên. Khoản tiền gửi về các hộ chi tiêu tâp trung vào tái sản xuất (trả nợ, sinh hoạt hàng ngày, giáo dục, sửa chữa nhà cửa, mua tiện nghi trong nhà, và một số khoản khác như hiếu hỷ…) và sản xuất (đầu tư vào chăn nuôi lợn, cá hoặc mở cửa hang buôn bán vật liệu xây dựng, giống, phân bón…). Ngoài ra, kết quả nghiên cứu định tính, phân tích số liệu thứ cấp cho thấy hộ gia đình có người đang đi xuất khẩu lao động hoặc đã quay trở về có xu hướng ly dị, ly thân nhiều hơn hộ gia đình không có người đi. Do vậy, nhà nước cần phải có sự quan tâm hơn nữa trong lĩnh vực này để không những góp phần nâng cao mức sống cho người dân mà đảm bảo gìn giữ được giá trị, chức năng, vai trò của gia đình đối với từng thành viên, từ đó xây dựng một quốc gia giàu mạnh - ổn định. KIẾN NGHỊ Xuất khẩu lao động đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế, cải thiện đời sống không chỉ riêng mỗi hộ gia đình mà còn chung cho toàn xã hội, vậy nhưng từ thực tế cho thấy, người đi xuất khẩu lao động họ vẫn còn gặp nhiều vướng mắc và khó khăn trong quá trình đi xuất khẩu lao động, gặp khó khăn với kênh chuyển tiền về gia đình như việc lệ phí gửi tiền quá cao, không đảm bảo tin cậy…Vì vậy cần có các chính sách phù hợp và thống nhất nhằm nâng cao hiệu quả của xuất khẩu lao động, cần mở thêm các lớp đào tạo tiếng bản địa cho người lao động, giúp họ giao tiếp dễ dàng, thuận lợi hơn trong sinh hoạt và lao động. Hơn nữa cũng cần phải hỗ trợ người lao động đi xuất khẩu lao động và lao động theo hợp đồng tại nơi đến, các cơ quan địa phương và các tổ chức cộng đồng cần phải hợp tác với nhau trong việc nâng cao nhận thức về các cơ hội và rủi ro của di dân quốc tế thông qua đào tạo và truyền thông. Không chỉ vậy, về phía hộ gia đình, lãnh đạo địa phương cần lập ra những kế hoạch cụ thể khuyến khích hộ gia đình sử dụng tiền gửi về một cách hợp lý như đầu tư vào tái sản xuất, mở rộng kinh doanh sản xuất phù hợp với điều kiện cụ thể. Thành lập, củng cố quỹ tín dụng để hộ gia đình gửi tiền tiết kiệm, đơn giản hóa thủ tục, kéo dài thời gian vay và hạ lãi suất giúp người dân mở rộng đầu tư sản xuất tăng thu nhập. Ngoài ra, cơ quan giới thiệu người lao động cần thỏa thuận đề nghị với tổ chức quản lý người lao động bên nước ngoài tạo điều kiện cho người lao động được nghỉ phép, hỗ trợ kinh phí về thăm gia đình hàng năm giúp cho người lao động yên tâm làm việc, sinh sống..

<span class='text_page_counter'>(36)</span> TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đặng Nguyên Anh, 1997. Về vai trò của di cư nông thôn – đô thị trong sự nghiệp phát triển nông thôn ngày nay. Xã hội học 4, 15-19 2. Đặng Nguyên Anh, 1998. Di cư và phát triển trong bối cảnh đổi mới kinh tế - xã hội của đất nước. Xã hội học số 1, 3-12 3. Đặng Nguyên Anh, 1999. Di dân và quản lý di dân trong giai đoạn phát triển mới – Một số suy nghĩ từ góc độ nghiên cứu. Xã hội học 3, 39 – 43 4. Đặng Nguyên Anh, 2003. Migration in VietNam: A review of information on current trends and patterns, and their policy implications. In: Regional Conference on Migration, Development and Pro – Poor policy Choices in Asia. Refugee and Migratory Movements Research Unit. Bangladesh and Department for International Development, UK. Dhaka, Bangladesh 5. Đặng Nguyên Anh, 2003. Vai trò liên kết nông thôn – đô thị trong sự nghiệp giảm nghèo hiện nay. Xã hội học số 6. Đặng Nguyên Anh, 2005. Chiều cạnh giới của di dân lao động thời kỳ Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa đất nước. Xã hội học 2, 23-32. 7. Đặng Thu & Trần Nguyên, 1994. Di dân của người Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX. Trung tâm nghiên cứu dân số và phát triển. 8. Nga My, 1997. Di dân nông thôn - đô thị với nhà ở, một vấn đề xã hội. Tạp chí xã hội học, số 2. 9. Nguyễn Hữu Tân, 2009. Giáo trình thống kê xã hội học. (NXB Đại học Đà Lạt) 10. Nguyễn Ngọc Diễm và Nguyễn Thị Minh Châu, 2005. Đi làm ăn xa – phương thức tăng thu nhập gia đình. Xã hội học số 2, 74 – 85 11. Nguyễn Thanh Liêm, 2006. Di dân, phát triển và bất bình đẳng ở Việt Nam trên con đường đổi mới và hội nhập. Xã hội học số 3, 61-72. 12. Nguyễn Thị Thanh Tâm, 2003. Một số quan điểm lý thuyết về di dân và phụ nữ di cư. Tạp chí khoa học về phụ nữ số 6. 13. Lee. E.S, 1996. A general theory of migration. Demography, Vol 3, N1. 14. Lewis, 1954. Economic Development with Unlimited Suplies of Labour. 15. Mai Huy Bích, 2004. Người làm thuê việc nhà và tác động của họ đến gia đình trong thời kì đổi mới kinh tế - xã hội. Tạp chí khoa học về phụ nữ, số 4..

<span class='text_page_counter'>(37)</span> 16. Douglas Massey, 1994. Các nguồn gốc xã hội và kinh tế của nhập cư. Trong tuyển tập các công trình chọn lọc trong dân số học xã hội. (NXB khoa học xã hội). 17. Phan Diệu Ly và Trịnh Thái Quang, 2006. Một vài nhận xét về tình hình di cư đi làm ăn xa tại một xã miền núi phía Bắc. Xã hội học số 3, 73 – 77 18. Trịnh Duy Luân, 2004. Giáo trình xã hội học đô thị. (NXB khoa học xã hội) 19. GSO, 2011.

<span class='text_page_counter'>(38)</span> BÁO CÁO HIỆN TRƯỜNG TỔNG HỢP Thảo luận nhóm tập trung: hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động Thời gian: 19h ngày 23/3/2012 Địa điểm: Tại nhà văn hóa thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, Tứ Kỳ I. Thành viên nhóm thảo luận: a. Nhóm được phỏng vấn: 1: Bác Nguyễn Thị Hoa – 43 tuổi – Nông Nghiệp 2: Bác Phạm Thị Thanh – 50 tuổi – Nông Nghiệp 3: Bác Hà Thị Tín – 51 tuổi – Nông Nghiệp 4: Bà Vò – 64 tuổi – Nông Nghiệp 5. Bác Vĩnh – Nông Nghiệp 6. Bác Dinh – Nông Nghiệp – 60 tuổi b. Nhóm phỏng vấn: 7: Phạm Thị Thu Hà – Người điều hành 8: Lưu Hồng Tùng – Người điều hành 9: Thái Thị Vân – Thư ký ghi chép 10: Nguyễn Minh Huyền – Thư ký ghi chép 11: Hồ Thị Hiền – Thư ký ghi chép 12: Ngô Thị Huệ - Trợ lý kỹ thuật 13: Nguyễn Văn Điệp: Trợ lý kỹ thuật 14: Nguyễn Thị Thúy: Sắp xếp thảo luận.

<span class='text_page_counter'>(39)</span> Sơ đồ chỗ ngồi:. 3. 2. 1. 4. 11. 10. 9. 7. 6 (bỏ dở khi phỏng vấn) 8. 5. 12. 13. 14. II. Nội dung: Hà giới thiệu chủ đề và mục đích của cuộc thảo luận nhóm: ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ nông dân. Câu hỏi nghiên cứu: Mức sống các hộ gia đình thay đổi như thế nào? Đâu là những thuận lợi mà xuất khẩu lao động mang lại cho các hộ? Những bất lợi mà các hộ nông dân phải gánh chịu khi gia đình có người đi xuất khẩu lao động?. Cuộc thảo luận diễn ra hết sức vui vẻ, nhiệt tình và cởi mở. Do vậy cuộc thảo luận khuyến khích mọi người đưa ra ý kiến, trao đổi một cách sôi nổi, thẳng thắn. Người điều hành cuộc thảo luận là Phạm Thị Thu Hà, Lưu Hồng Tùng. Trước khi tiến hành các hoạt động thảo luận, Hà đã giới thiệu thành viên của nhóm nghiên cứu và mục đích của cuộc thảo luận để những người tham gia trong nhóm được phỏng vấn nắm được. Cuộc thảo luận diễn ra lần lượt theo các hoạt động sau: Hoạt động 1: Tình hình (thực trạng) đi xuất khẩu lao động ở địa phương như thế nào? Bao nhiêu hộ đi? Người đi chủ yếu là nam/nữ? Độ tuổi? Tình trạng kết hôn? Nước nào? Có đóng góp gì cho địa phương? Vâng thưa bác! Vậy là vừa rồi bác cháu mình đã cùng trao đổi để làm quen hơn về công việc cũng như gia đình có anh chị đi xuất khẩu lao động, bây giờ bác có thể cho cháu biết tình hình xuất khẩu lao động ở địa phương mình diễn ra như thế nào được không ạ? Cụ thể như Bác Vĩnh cho rằng: “Phần lớn người đi xuất khẩu lao động là những thanh niên trong độ tuổi lao động (18 tuổi đến 47 tuổi), sang đấy làm rất nhiều công việc khác nhau như: công nhân hàn xì, nghề mộc, điện máy, cơ khí v…v. Học sinh học hết cấp 3 không thi đại.

<span class='text_page_counter'>(40)</span> học, cao đẳng thì lại đi thi tiếng để sang đó làm việc, đi xuất khẩu lao động. Hơn thế nữa, việc đi xuất khẩu lao động sang nhiều nước như Đài Loan, Malasia, Nhật, Hàn Quốc diễn ra mạnh nhất vào khoảng những năm 2003, 2004. Phần lớn người đi xuất khẩu là nam giới, con trai trong gia đình hoặc người chồng trong gia đình”. Bác Tín cho cũng nói: “Thường trong độ tuổi 20 -35 tuổi, làm các công việc như đi giúp việc gia đình, làm công ty do xã tổ chức nhưng có công ty sang thì tiền mất tật mang, có công ty thì cũng gửi tiền về”. Các bác có thể cho cháu biết tại sao họ lại chọn cách đi xuất khẩu lao động mà không kiếm 1 công việc gì đó ở địa phương để làm ạ? Nếu lựa chọn giữa 2 phương án: 1. ở nhà có công việc ổn định nhưng thu nhập thấp. 2. Đi xklđ với thu nhập cao nhưng xa nhà? Thì các bác chọn phương án nào và tại sao? Theo bác Vĩnh thì lý do lớn nhất để người dân đi xuất khẩu lao động là mong muốn cải thiện kinh tế gia đình: “Chung quy lại là cũng vì mưu sinh thôi, vì kinh tế còn quá vất vả nên đành phải xa ra đình đi kiếm ăn, cải thiện kinh tế cho gia đình, không có tiền thì không thể chi phí gì cả, mọi thứ đều phải chi tiêu eo hẹp. Tất nhiên là ai cũng muốn gần gũi với gia đình, ở nhà có công việc ổn định nhưng thực tế là địa phương chỉ sống dựa vào nông nghiệp, trông cậy vào mấy sào lúa thì không thể đủ mà chi tiêu, sinh hoạt, những nghề khác thì phải bỏ ra quá nhiều vốn, yêu cầu trình độ học vấn, chuyên môn… mà người dân không đáp ứng được. Do vậy không còn cách nào hơn là đi xuất khẩu lao động để có tiền gửi về trang trải cho cuộc sống gia đình, bớt đi phần nào những khó khăn về kinh tế”. Nói tóm lại từ những chia sẻ của mọi người ta thấy được tình hình xuất khẩu lao động diễn ra phổ biến vào khoảng những năm 2004, chủ yếu là nam giới trong độ tuổi lao động, đi sang làm việc tại các nước như Hàn Quốc, Đài Loan, Malasia… Hoạt động 2: Những thay đổi trong mức sống hộ gia đình Các bác nhận thấy trong mấy năm trở lại gần đây (kể từ khi trong thôn có người đi xuất khẩu lao động) đời sống kinh tế (vật chất) của thôn thay đổi theo chiều hướng nào? Các hộ trong thôn có xu hướng khá lên không?, hay kém đi? Hay không có thay đổi gì? Tại sao? Kinh tế khá lên như vậy thì mức sống của người dân địa phương thay đổi như thế nào? Để tiếp tục cuộc trao đổi thì Hà đặt tiếp câu hỏi: Các bác và cô có thể cho chúng cháu biết đời sống của gia đình có gì thay đổi khi gia đình có người đi xuất khẩu lao động được không ạ?.

<span class='text_page_counter'>(41)</span> Chẳng hạn như thu nhập, chi tiêu, giáo dục, chăm sóc sức khỏe…? Nhóm phỏng vấn phát phiếu để mọi người tự điền vào phiếu những thay đổi mà người được phỏng vấn thấy là có sự thay đổi do ảnh hưởng của việc đi xuất khẩu lao động. Hà phát phiếu cho các bác: Các bác có thể ghi giúp chúng cháu vào phiếu này về những gì thay đổi trong đời sống gia đình mình? Gợi ý: có thể như về thu nhập, chi tiêu cho các khoản: giáo dục, ăn uống, hiếu hỷ, kiến thiết nhà cửa… Sau khi tổng hợp lại thì hầu hết mọi người liệt kê ra những tiêu chí thay đổi trong mức sống hộ gia đình như sau: -. Thu nhập. -. Sức khỏe. -. Chi tiêu, mua sắm. -. Đầu tư cho giáo dục, sản xuất. -. Kiến thiết nhà cửa. -. Mối quan hệ gia đình, hàng xóm. -. Nguồn lao động.. Hà hỏi sâu hơn về những tiêu chí này, cụ thể chúng thay đổi như thế nào liên quan đến mức sống các hộ gia đình. Chẳng hạn như đề cập tới thu nhập, tại sao nó lại thay đổi…? Mọi người tiếp tục tranh luận và trao đổi với nhau sôi nổi, Bác Tín nói rằng: “đời sống nông dân lam lũ, nhiều thiệt thòi như không có lương, cày cấy, chi phí nhiều cho thuốc trừ sâu, phân đạm, giá cả đắt, thiên tài nhiều. Nửa năm tính chi phí 100 nghìn. bây giờ vẫn vậy nhưng dần dần có cơ chế của nhà nước như nông giang. Trước kia đường xá là đường đất, nhà cấp 4... Bây giờ đời sống có thay đổi khi có con đi nước ngoài. Nhà cửa khang trang, đường làng ngõ xóm sạch đẹp hơn trước” Đồng thời bác cũng nhận thấy sự thay đổi trong chính đời sống gia đình mình. “Gia đình tôi có con trai 31 tuổi đi làm 3 năm, năm thứ nhất đời sống kham khổ, tiết kiệm, bước sang năm thứ 4 sang Tiệp Khắc, công việc không ổn định bị đuổi ra, có người nhà đưa sang làm móng chân móng tay có phần may mắn hơn nhiều nên có tiền gửi về, đủ vốn, đời sống ổn định hơn những người ở nhà, đầu tư làm công trình phụ, chăm lo sức khỏe thường xuyên hơn”. Một ý kiến khác đưa ra: “Nhà tôi có con trai đi xuất khẩu lao động ở Hàn Quốc, cứ hai ba tháng gửi tiền về một lần. Mỗi lần gửi từ 15 – 20 triệu đổi ra tiền Việt. So với khoản thu từ.

<span class='text_page_counter'>(42)</span> nông nghiệp thì có ổn định và cao hơn. Trước đây khi chưa đi xuất khẩu lao động mà chỉ làm ruộng, thỉnh thoảng đi làm thuê thì tháng nào cao nhất mới được gần 4 triệu, trung bình thì cũng chỉ từ 2 đến 3 triệu…” Khi Hà hỏi về mức độ thường xuyên về thăm gia đình của người thân đi xuất khẩu lao động thì bác cũng chia sẻ thêm: “do đi xuất khẩu lao động tự do nên cũng thường xuyên hay về nhà. Cứ nửa năm một năm nhà có công việc thì con trai tôi cũng cố gắng thu xếp về gia đình” Đối với gia đình bác Thanh thì có đặc biệt hơn so với hộ khác: “Nhà bác anh lớn 28 tuổi sang Hàn Quốc được 5 năm công việc thuận lợi, lương cao, làm điện tử, bảo đảm sức khỏe. Sang theo con đường du học thì lương cao hơn”. Hay như bác Hoa chia sẻ về việc nhà có người đi xuất khẩu lao động: “Gia đình đang lúc khó khăn nên cũng đồng ý cho đi xuất khẩu lao động, về xây được nhà cửa, thu nhập hơn nước khác như : Đài Loan, nhưng thời hạn chỉ được 5 năm là về và cần phải có trình độ ngôn ngữ”. Cuộc thảo luận tạm thời gián đoạn do có sự tham gia của bác Dinh mới đến khi bác tỏ ra băn khoăn, không rõ vì mục đích thảo luận, trao đổi của nhóm. Bác hỏi thẳng: “Thế tóm lại làm cái này để làm gì? Giải quyết vấn đề gì? Có được cái ích lợi gì không mà làm?”. Mặc dù hơi bất ngờ nhưng Hà cố gắng trả lời câu hỏi bác đặt ra: “Dạ vâng! Cháu xin phép tự giới thiệu chúng cháu là sinh viên trường Đại học Nông Nghiệp, được sự cho phép của chính quyền địa phương thì đợt này chúng cháu có dịp về đây kiến tập, tìm hiểu xem đời sống bà con mình ở đây thay đổi khi đi xuất khẩu lao động. Và chúng cháu chỉ tìm hiểu để biết thêm thôi chứ không hề mang tính chất điều tra, thống kê, báo cáo gì cả thưa bác! Bác có thể bớt chút thời gian trò chuyện và chia sẻ giúp chúng cháu 1 vài điều được không ạ?”. Cuộc thảo luận có phần trùng xuống khi bác Dinh nói thẳng: “Tôi rất bận, mà cũng không có gì để chia sẻ cả, đây có các bà các bác ở đây nói là được rồi, tôi xin phép ra ngoài kia trước đã”. Tuy nhiên, sau ít phút trò chuyện nhằm tháo gỡ rắc rối thì Hà đã dẫn dắt cuộc thảo luận diễn ra như bình thường. Mọi người lại tiếp tục trao đổi thẳng thắn, cởi mở để liệt kê 1 số sự thay đổi về mức sống các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động. Xếp hạng thứ tự quan trọng bằng việc đánh giá cho điểm các yếu tố đó: Kiến thiết nhà cửa, thu nhập, chi tiêu, sức khỏe, kiến thiết nhà cửa, đầu tư giáo dục –sản xuất, mối quan hệ.  Xếp hạng mức độ quan trọng: 1. Kiến thiết nhà cửa, 2. Sức khỏe, 3. Tiêu dùng, mua sắm. Sau một thời gian thảo luận và đánh giá vào phiếu điều tra thì kết quả như sau:.

<span class='text_page_counter'>(43)</span> Tiêu chí. Bác Hoa. Bác Thanh. Bác Tín. Bà Vò. Kết quả. Thu nhập. 4. 7. 1. 5. 17. Sức khỏe. 3. 1. 3. 7. 14. Chi tiêu. 2. 6. 5. 3. 16. Đầu tư giáo dục, sx. 6. 2. 7. 2. 17. Kiến thiết nhà cửa. 1. 3. 2. 1. 7. Mối quan hệ. 5. 4. 4. 6. 19. Nguồn lao động. 7. 5. 6. 4. 22. Qua đây cũng thấy được tiêu chí về kiến thiết nhà cửa được đánh giá là thay đổi lớn nhất mà các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động. Để hỏi kĩ hơn về lý do xếp hạng những thay đổi trong mức sống của các hộ gia đình Hà trao đổi thêm: Vậy anh chị đi xuất khẩu sang các nước, phải xa gia đình thì gia đình có đồng ý cho anh chị đi xuất khẩu lao động không ạ? Bác Thanh đưa ra quan điểm của mình: “Điều kiện gia đình khó khăn, gia đình nhất trí cho đi xuất khẩu lao động, khi đi xuất khẩu thì làm được nhà cửa vè thu nhập hiện giờ đều đều. Thời gian đi xuất khẩu lao động chỉ được 5 năm và muốn ký thêm hợp đồng cũng không được, trước khi đi phải học tiếng học nghề, tổng chi phí là hơn 100 triệu”. Để giải thích cho điều này, bà Vò tâm sự: “Tôi có con trai đi xuất khẩu lao động, anh Mến đi làm đã 4 năm, công việc là bốc vác ngoài trời, rất vất vả, chị Vân thì làm việc 6 năm, công việc là điện tử, thu nhập có cao hơn, trước khi đi thì gia đình rất túng nhưng khi đi xuất khẩu lao động thì đời sống gia đình cũng thay đổi nhiều. Trả nợ xong gia đình bây giờ tập trung vào tôn tạo nhà cửa. Khi làm nhà, anh Mến có xin phép về xem việc xây dựng nhà cửa như thế nào. Chị Vân ốm cũng về qua nhà và được gia hạn thêm 1 năm. Khi đi xuất khẩu lao động có tiền đầu tư vào sức khỏe, bản thân những người ở nhà cứ 1 quý các con lại gửi về cho 1 triệu để.

<span class='text_page_counter'>(44)</span> ăn quà. Cuộc sống của bà vất vả nhưng khi con gửi về thì đời sống có cải thiện hơn, chi tiêu thoải mái hơn, chủ yếu cho đời sống hàng ngày và mua sắm vật dụng”. Bác Tín thì lại nói rằng: “nhà tôi có 2 con đi Đài Loan, xa nhà nên rất nhớ nhà, chưa ai lập gia đình”. Hà đặt thêm câu hỏi: Hàng năm , gia đình mình có đi khám sức khỏe, nghỉ mát, du lịch không ạ? Có sự thay đổi gì từ khi anh chị đi làm bên đó? Trong lúc đánh giá các tiêu chí về sự thay đổi, bác Tín chia sẻ thẳng thắn: “ Từ khi con tôi đi thì chưa đi du lịch lần nào, sau này con cái về có dự định sẽ đi”. Bác Thanh: “nhà tôi ít khi đi du lịch mà chỉ đi theo đoàn thể vì nó rất tốn kém, chưa đủ điều kiện để tự tổ chức”. Điều này cũng tương tự như với gia đình bác Hoa: “Một năm đi một lần hoặc vài năm mới đi 1 lần, gia đình chưa có điều kiện để tổ chức đi”. Nói về sức khỏe của mình, bá Vò chia sẻ: “Nói tới sức khỏe thì chúng tôi từ trước đến nay vẫn cứ như vậy thôi, không có thay đổi nhiều. Hàng năm, hàng tháng thì cũng có đôi lần đi khám sức khỏe trên xã. Nhưng những lần này chủ yếu là khám tổng thể miễn phí, theo tùy đợt chứ người dân không phải bỏ tiền túi ra. Con cháu gửi tiền về thì chúng tôi cũng ít dùng mua thuốc men chữa bệnh, để chi tiêu vào việc khác như ăn uống, sửa chữa nhà cửa, hiếu hỷ…Người dân ở đây tâm lý chung là như vậy, xa con cái thì cũng nhớ nhiều, cảm thấy mình yếu đi khi không có người chăm sóc, với những hộ mà con cái chỉ làm ở nhà thì vẫn có điều kiện chăm sóc ông bà, cha mẹ nhiều hơn..” Ngoài ra, Hà hỏi rõ hơn về sự khác biệt về mức sống giữa hộ có người đi xuất khẩu và hộ không có người đi: Vậy thì các bác có thể cho cháu biết , giữa những hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động và những hộ không có người đi xuất khẩu lao động thì có sự chênh lệch nào về mức sống không ạ? Bác Hoa tiếp tục chia sẻ: Tất nhiên là có sự thay đổi, chênh lệch giữa những người đi xuất khẩu lao động và những người ở nhà. Những người đi thì gửi về để tôn tạo nhà cửa, có đầu tư cho giáo dục nhưng do không thích học nên cũng không biết làm cách nào cũng đành phải cho nghỉ”. Bác Tín nhận thấy: “có hơn vì chi tiêu tự do hơn, các con gửi tiền về thì chi tiêu và gìn giữ sức khỏe và có đầu tư cho giáo dục”. Bác Thanh đưa ra quan điểm của mình: “có những nhà đi xuất khẩu lao động về thì đời sống tăng lên nhiều nhưng cũng có những người về do quá trình gặp rủi ro như tai nạn hay lâm vào tệ nạn xã hội không đủ tiền trả nợ có khi còn nợ thêm và cũng tùy vào nước nào nữa”. Để hỏi về nguồn lao động có gì thay đổi Hà nói: Khi anh chị đi xuất khẩu lao động và không thể thường xuyên về nhà, lúc gia đình có công việc thì bác làm thế nào ạ? Nguồn lao động gia đình mình có gì thay đổi? Bác Tín kể về những khó khăn mà trong công việc sinh hoạt và sản.

<span class='text_page_counter'>(45)</span> xuất: “Trước đây có con ở nhà thì bác không phải thức khuya dậy sớm nhưng từ khi các con đi thì bác phải thức khuya dậy sớm để đi làm, có lúc phải tranh thủ nhổ mạ, đi cấy từ 4 -5 giờ sáng, có khi phải thuê cả lao động. Công việc phải đảm đương và vất vả nhiều hơn. Bình thường có con cái đỡ đần thì bây giờ một mình bác phải gánh vác”. Bà Vò cũng cùng quan điểm và chia sẻ với mọi người thẳng thắn: “Chẳng nói đâu xa như tôi đây, bây giờ thì cũng có tuổi rồi, các cháu lại đi vắng, mình tôi phải làm, đến mùa cấy gặt thì đành phải thuê chứ biết làm sao. Công việc trong nhà tôi cũng cứ phải chủ động mà làm, chả dựa dẫm vào ai được cả”. Bác Hoa cho rằng: “khi con đi xuất khẩu lao động như vậy, thì thiếu nguồn lao động ở nhà vì bác cấy hơn 1 mẫu ruộng”. Hơn nữa, Hà cũng đưa ra câu hỏi để tìm hiểu về sự biến đổi mối quan hệ gia đình, hàng xóm…: Các bác có thể cho cháu biết, anh chị đi xuất khẩu lao động xa gia đình như vậy thì mối quan hệ gia đình như thế nào? Anh chị có quan tâm đến công việc gia đình không thưa bác? Bác Tín nói: “Khi các anh đi như vậy thì rất hay quan tâm đến gia đình, rất hay quan tâm hỏi thăm bố mẹ, gia đình, khi nào thấy nóng ruột thì gọi điện hỏi thăm nhà có việc gì không?” Bác Hoa: “Các con cũng hay gọi điện về động viên tinh thần bố mẹ”. Bà Vò tâm sự : “1 tuần anh chị gọi về 1 lần, các con xa nhà thì tôi thấy buồn, nhưng cũng may ở nhà có 2 cháu nội nên đỡ hơn phần nào”. Hoạt động 3: Sự thay đổi về diện mạo, đời sống địa phương? Những hộ gia đình có người đi làm ăn xa như vậy thì việc tham gia vào các công việc ( họp thôn, làm thủy lợi, làm đường...) cuả xóm làng sẽ như thế nào? Những người đi xuất khẩu lao động về, họ có ủng hộ cho công việc của họ hàng, làng xóm như (công đức cho dòng họ, góp tiền xây dựng phong trào đoàn, đội bóng, làm đường thôn xóm...) một ít kinh phí nào không? Hà hỏi thêm: việc đi xuất khẩu lao động như vậy thì có làm thay đổi diện mạo của địa phương mình? Mọi người chia sẻ quan điểm của mình hết sức sôi nổi. Bác Tín chia sẻ thêm: “Con đi xuất khẩu lao động như vậy thì có đóng, góp về cho dòng họ, ai được ít năm thì phải tiết kiệm, còn ai đi được nhiều năm thì đời sống có cải thiện hơn do không có trình độ học hành thì mới phải đi xuất khẩu lao động và đóng góp vào công việc chung của làng có phần xông xênh hơn”. Mọi người trao đổi nhiệt tình, Bác Hoa đưa ra quan điểm: Có thay đổi diện mao địa phương! Tiền gửi về hầu như đầu tư vào kiến thiết nhà cửa nhưng thu nhập đi xuất khẩu lao động chỉ nhất thời còn so với những người đi học có kiến thức thì thu nhập.

<span class='text_page_counter'>(46)</span> lâu dài hơn. Khi có tiền thì việc đầu tư vào việc xây dựng nhà thờ họ sẽ nhiều hơn”. Bà Vò: Các cháu đi thì tôi vẫn đóng góp đầy đủ để xây dựng đường xá, kiến thiết đường đi lối lại, ngoài ra tôi còn đóng góp cho hội khuyến học của dòng họ địa phương. Qua đó cũng thấy được việc người dân đi xuất khẩu lao động góp phần làm thay đổi mức sống hộ gia đình. Đồng thời những điều kiện chung về cơ sở hạ tầng, văn hóa của địa phương cũng có sự thay đổi. Kết thúc cuộc thảo luận Hà gửi lời cảm ơn tới mọi người đã tham gia thảo luận. Hà: Vâng ạ! Cháu rất cảm ơn bà, bác và cô đã rất nhiệt tình chia sẻ thông tin cho chúng cháu trong suốt cuộc nói chuyện hôm nay. Vậy thì bà, bác và cô có điều gì băn khoăn, thắc mắc và không hài lòng về cuộc trò chuyện ngày hôm nay không ạ? Bà bác và cô cứ thẳng thắn chia sẻ với chúng cháu ạ! Bác Tín: nói chung là không có gì băn khoăn cả, mọi thứ thì cũng rất dễ hiểu, rõ ràng, mọi người cũng nói thật những gì chứ không giấu gì chúng cháu cả. Rất cảm ơn các cháu! Tổng kết lại cuộc thảo luận đã cho thấy tuy lúc đầu có gặp một số trục trặc trong việc giải thích mục tiêu, ý nghĩ và chủ đề của cuộc thảo luận nên mọi người chưa muốn hợp tác nhưng sau thời gian trò chuyện thì mọi người đã cởi mở hơn, chia sẻ rõ quan điểm và suy nghĩ của mình. Buổi thảo luận có gián đoạn ít phút vì sự không hợp tác và cắt ngang của bác Dinh vì bác là người đến sau, chưa được giải thích cặn kẽ về mục đích thảo luận của nhóm. Tuy nhiên các câu hỏi thảo luận được Hà và Tùng triển khai một cách hợp lý, linh hoạt đảm bảo thu thập đầy đủ thông tin và ghi chép được những ý kiến đánh giá chung của những người dân tham gia thảo luận. Thái độ mọi người hoàn toàn ủng hộ và cảm thấy thoải mái khi buổi thảo luận kết thúc. Về phía áp dụng công cụ PRA cũng đảm bảo độ tin cậy cao do người điều hành luôn khuyến khích người tham gia đưa ra ý kiến chủ quan, khách quan, ghi vào phiếu để tổng hợp và xếp hạng rõ ràng..

<span class='text_page_counter'>(47)</span> BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU 1 Sáng ngày 22/03/2012 – 9h30’ tại nhà bà Nguyễn Thị Định Thành phần nhóm tham gia nghiên cứu: Người phỏng vấn: Thái Thị Vân Thư ký: Hồ Thị Hiền Người trả lời phỏng vấn: Bà Định- trú tại thôn Ngọc Lâm xã Tân kỳ, huyện Tứ kỳ, tỉnh Hải Dương. Mục tiêu của cuộc phỏng vấn sâu là tìm hiểu ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đếm mức sống của các hộ gia đình xã Tân kỳ- huyện Tứ kỳ- Hải Dương. Cuộc phỏng vấn diễn ra vui vẻ, cởi mở. Người phỏng vấn là sinh viên Hồ Thị Hiền. Gia đình Bà Định có con trai và con dâu đều đi xuất khẩu lao động ở nước Nga vì vậy bà cũng biết và chia sẻ cởi mở về mức sống gia đình cũng như một số chia sẻ về mối quan hệ trong gia đinh bà sau khi các con của bà đi làm ăn xa. Bà cũng tâm sự thẳng thắn suy nghĩ của mình về việc đi xuất khẩu lao động giúp gia đình thay đổi mức sống như thế nào? Đồng thời chỉ ra được một số khác biệt giữa hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động và hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động tại địa phương. Gia đình Bà Định gồm có 5 nhân khẩu: 1. Bà Định:70 tuổi- Nông nghiệp 2. Chị Nguyễn Thị Tám – Xuất khẩu lao động – 35 tuổi 3. Anh Trần Văn Tuấn – Xuất khẩu lao động – 40 tuổi. 4. Cháu Trần Văn Hoàng – Học sinh – 18 tuổi 5. Cháu Trần Văn Huy – Học sinh - 13 tuổi Gia đình Bà Định là hộ làm nông nghiệp, trước khi con trai và con dâu đi xuất khẩu lao động thì gia đình bà làm 6 sào ruộng, thu nhập của gia đình chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiêp nên thu nhập bấp bênh bà nói “chi tiêu cũng phải bóp mồm bóp miệng”. Do có người thân ở Nga nên con trai bà đã đi du lịch sang đó thấy điều kiện làm ăn thuận lợi đã quyết định ở lại mở cửa hàng tạp hóa hóa buôn bán, đến nay đã đươc 10 năm (đi từ năm 2002). Sau khi mở cửa hàng anh đã về đưa vợ sang cùng làm đến nay cũng đã được 5 năm. Khi hỏi bà có đồng ý cho con đi xuất khẩu lao động không thì bà liền trả lời: “Tôi rất đồng ý cho con trai và con dâu đi xuất khẩu lao động , có gan đi làm ăn xa thì mới đổi đời được, ở đó thu nhập cao thì tội gì không đi, ở nhà sống dựa vào vài sào ruông không ngoi đầu lên được, tất cả cũng vì miếng căm manh áo cả thôi”. Từ khi đi Nga anh và chi cũng thỉnh thoảng gửi tiền về (3- 4 lần/ năm) do gửi qua ngân hàng phải.

<span class='text_page_counter'>(48)</span> mất phí nhiều nên số tiền được góp lại gửi về một lúc luôn hoặc khi có người thân về thì gửi về. Khoản tiền mà anh chị gửi về một năm khoảng 10 nghìn USD. Với số tiền gửi về hàng năm đó bà Định dùng vào việc trả nợ, tôn tạo nhà cửa (hiện nay là nhà 3 tầng, trong nhà đầy đủ tiện nghi: ti vi, tủ lạnh, máy giặt, điều hòa, tủ bếp…), mua các vật dụng lâu bền trong nhà, nuôi con cháu ăn học. Trong gia đinh bà nhìn chung đã đầy đủ các tiện nghi cơ bản, bà cho biết “trước kia hai con tôi chưa đi làm ở Nga, gia đình chỉ có hai gian nhà ngói và môt chiếc xe đạp, từ khi chúng nó đi Nga gửi tiền về nợ nần đã trả hết, sửa nhà, trong nhà hầu như đã đầy đủ; ti vi, xe máy, máy giặt, tủ lạnh đã có hết”. Khi được hỏi về các khoản chi tiêu cho ăn uống, mua sắm vật dụng, tiền học hành của con cái thì bà chia sẻ rất cởi mở, thoải mái. Theo đánh giá chung của bà thì các khoản chi tiêu cho ăn uống, sức khỏe, giáo dục cũng tăng lên, bà Định chia sẻ “ mỗi tháng chỉ có 3 bà cháu thì các khoản chi tiêu cũng phải có kế hoạch rõ ràng, đứa nhỏ đang học lớp 6, đứa lớn đã học xong lớp 12 nhưng mỗi tháng cũng phải chi tiêu hơn 2 triệu đồng/tháng(15 triệu đồng/ năm), đó là chưa kể các khoản khác như đám ma, đám hỏi nữa, bây giờ khác trước: ngày xưa đi đám cưới, đám ma vài 3 chục thì bây giờ cũng phải trăm nghìn. Cái gì cũng vậy thôi, đều phải chi tiêu tăng hơn”. Các khoản chi tiêu do giá cả thị trường tăng nên việc chi tiêu cho giáo dục, ăn uống cũng tăng lên. Hàng năm gia đình cũng thỉnh thoảng đi khám sức khỏe (2 lần/ năm) vì đã có thẻ bảo hiểm nên cũng thuận lợi hơn. Để tiếp tục cuộc nói chuyện thì Hiền đưa ra câu hỏi: “Vậy khi anh chị gửi tiền về cho bà chăm lo cho các cháu, chi tiêu các khoản chính trong gia đình thì việc giải trí, hay đi tham quan, du lịch hàng năm của gia đình thay đổi như thế nào?” Bà Định nói: “Tuy gia đình không tổ chức đi du lịch được vì con cái đang ở nước ngoài nhưng ở nhà bà Định cũng thỉnh thoảng đi lễ ở chùa Hương. Trung bình cứ 1-2 lần/năm. Còn lễ hội chùa chiền trong làng xã thì bà cũng đi thường xuyên. Nói chung là đều có phần khá hơn trước, làm gì cũng không phải lo nghĩ nhiều. Giải trí đối với gia đình thì hầu như là 2 đứa trẻ con, thi thoảng chúng cũng xin tiền để đi chơi với bạn bè, đi hát hò, liên hoan với nhau. Bà cũng không cấm chúng khoàn này. Như vậy với khoản tiền gửi về như trên, bà Định đã cảm thấy hài lòng với mức sống hiên tai, bà nói “Tôi rất hài lòng với cuộc sống hiên tại của mình, bây giờ tôi không còn mong muốn gì hơn về vật chất nữa”. Thế nhưng khi hỏi về mối quan hệ trong gia đình bà lại buồn bởi vì thiếu thốn tình cảm gia đình, mặc dù anh chị cũng thỉnh thoảng về quê ăn tết, bà Định chia sẻ “Cứ mỗi năm tết đến tôi lại chạnh lòng, tủi thân lắm vì năm hết tết đến gia đình người ta thì vui vầy bên nhau còn gia đình mình thì tết nào cũng chỉ có 3 bà cháu mà thôi. Thì đành rằng phải như vậy chứ biết làm thế nào, xa xôi như vậy về cũng tốn kém, bên đấy người ta cũng khắt khe, mở quán bán hàng mà nghỉ thì đến lúc quay lại không bán được. Chi thi thoảng 1-2 năm về 1 lần”, đồng thời bà cũng tâm sự những khó khăn mà bà gặp phải khi con cái đi xa, đó là moi công việc trong gia đình cũng như công việc dòng họ, xóm làng đều do bà đảm nhận và quyết định, bà nói “Do cả bố và mẹ nó đều ở nước ngoài, tôi phải chăm sóc 2 cháu. Vì bố mẹ ở xa không quản lí được nên 2 đứa nó ngang bướng lắm, tôi nói gì cũng không nghe, đứa nhỏ học hành sa sút, suốt ngày chơi game còn đứa lớn đã học xong lớp 12 cũng suốt ngày chơi bời lêu lổng. Nói nặng chúng nó không nghe, học hành trên trường lớp mình bà cũng chẳng thể quản lý hết được. Bố mẹ nó cũng gọi về hỏi thăm tình hình thường xuyên, dặn dò học hành nhưng không có người kèm cặp xát xao.

<span class='text_page_counter'>(49)</span> thì cũng chẳng ăn thua gì. Còn công viêc dòng họ, xóm làng già rồi nhưng có đám cưới hay đám ma nào cũng phải có mặt. Bây giờ mình bà đảm đương hết mọi việc, công việc gì cũng đến tay. Từ nhỏ đến lớn. Quanh đây thì cũng có cô dì chú bác của chúng nó nhưng ai cũng có gia đình cả rồi, đều bận bịu, không ai làm thay việc nhà mình được. Việc nhà cũng như việc ngoài. Cũng may là tôi có sức khỏe không thì cũng không thể đảm đương được hết mọi việc. Chúng nó thường xuyên gọi điện về thăm hỏi thôi (3-4 lần gọi/ tuần), động viên tôi chăm sóc các cháu, giữ gìn sức khỏe”. Những chia sẻ về thu nhâp và mức sống cũng như mối quan hệ của gia đình khi có con trai và con dâu đi xuất khẩu lao động đã được bà Định chia sẻ rất cởi mở. Bà cũng cởi mở khi có những nhận xét cũng như sự so sánh về mức sống giữa những hộ có người đi xuất khẩu lao động và những hộ không có người đi xuất khẩu lao động, đó là loại trừ một số hộ gia đình do gặp (tai nạn lao động) hoặc một số trường hợp cá biệt lâm vào tệ nạn xã hội (bài bạc, rượu chè,…) đi về trắng tay thậm chí nợ nần thêm. Còn đại đa số kinh tế của những hộ gia đình có người đi làm ăn xa đều phát triển hơn, mức sống của họ cũng thay đổi hơn trước nhiều, cụ thể là những gia đình có người đi xuất khẩu lao động đa số đều xây nhà tầng, tiện nghi sinh hoạt trong gia đình cũng đầy đủ hơn, ví dụ bà nói về gia đình cô Hoa có con trai đi xuất khẩu lao động ở Hàn Quốc “ từ khi có cậu con trai đi làm ở Hàn Quốc đời sống gia đình vượt lên hẳn: nhà 3 tầng, ti vi, xe may, tủ lạnh, điều hòa đều có hết, có vốn đầu tư vào chăn nuôi lợn và cá”. Những hộ ở nhà kinh tế cũng có chút thay đổi nhưng không rõ rệt như hộ có người đi làm ăn xa. Đa phần ở đây đi xuất khẩu lao động cũng vì mục tiêu thay đổi, cải thiện kinh tế hộ gia đình, số ít đi sang đấy học nghề…Giữa hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động và hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động có khác nhau về thu nhập, tiêu dùng, điều kiện nhà ở. Tuy nhiên về mối quan hệ gia đình thì không thể được như ở nhà, khi ốm đau, bệnh tật, công to việc lớn thì còn có người này người kia. Như gia đình bà đã ít người mà cả 2 con đều đi nên mọi thứ cũng có khó khăn trong sinh hoạt, sản xuất, chăm sóc, giáo dục con cái. Hiền tiếp tục dẫn dắt cuộc nói chuyện bằng việc đưa ra câu hỏi: “Vậy bà có đồng ý cho anh chị đi tiếp trong những năm tới không hay muốn anh chị quay trở lại gia đình?” Bà Định nói: “Điều này còn tùy chúng nó. Ai chả mong con cái sum vầy với gia đình, mỗi lúc khó khăn là có người đỡ đần, nhưng mà thu nhập để nuôi gia đình từ đâu bây giờ? Chúng nó thì có ý định vài 3 năm nữa khi công việc ổn định thì cho 2 đứa nhỏ sang đấy bán hàng với bố mẹ, một người quay về trông nom gia đình, rồi chúng nó cũng định thôi không ở bên đấy nữa, có vốn rồi về quê hương làm ăn. Bà thì cũng chỉ biết vậy thôi!” Hiền cảm ơn bà đã tận tình giúp đỡ, chia sẻ thông tin. Qua cuộc trò chuyện với bà Định về ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống của các hộ gia đình, chúng tôi nhận thấy mức sống của các hộ gia đình đều có sự thay đổi theo chiều hướng tích cưc, hầu hết những hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động đều có thu nhập tương đối cao, thu nhập đều tăng lên. Khoản tiền gửi về các hộ chi tiêu tâp trung vào tái sản xuất ( trả nợ, sinh hoạt hàng ngày, giáo dục, sửa chữa nhà cửa, mua tiện nghi trong nhà,…) và sản xuất( đầu tư vào chăn nuôi lợn, cá hoặc mở cửa hang buôn bán vật liệu xây dựng, giống, phân.

<span class='text_page_counter'>(50)</span> bón…). Đặc biệt là các hộ gia đình đều cảm thấy hài lòng với mức sống hiện tại của mình. Tuy chỉ gặp một vài khó khăn trong sinh hoạt, giáo dục, chăm sóc các cháu ở nhà nhưng theo bà thì đó là điều không thể tránh khỏi. Trước đây có cả bố mẹ ở nhà thì việc dạy bảo chúng nó không quá khó khăn, bây giờ đi sang bên đó thì ít nhiều phải ảnh hưởng..

<span class='text_page_counter'>(51)</span> BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU 2 Thời gian: 14h30 phút ngày 23/3/2012 tại nhà ông Đặng Văn Động Người phỏng vấn: Nguyễn Thị Thúy Thư ký: Nguyễn Minh Huyền Người được phỏng vấn: Đặng Văn Động – 69 tuổi – Nông nghiệp Khi được nói về gia đình của mình gồm bao nhiêu thành viên ông Động vui vẻ cho chúng tôi biết: “gia đình ông gồm 6 thành viên trong đó ông là trụ cột chính trong gia đình, vợ ông tên là Phạm Thị Duân năm nay 65 tuổi và các con của ông tên là: Đặng Thị Dương: 38 tuổi Đặng Văn Hải: 35 tuổi Đặng Thị Hiền: 33 tuổi Đặng Văn Hậu: 23 tuổi Bắt đầu cuộc thảo luận thì Bác Động chia sẻ về hoàn cảnh gia đình, công việc và mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Trong đó thì có chị Đặng Thị Dương và anh Đặng Văn Hậu là hai người đi xuất khẩu ở Đài Loan tuy nhiên chị Dương sau khi lập gia đình mới đi xuất khẩu lao động cho nên hầu như phần thu nhập của chị gửi về cho chồng còn anh Hậu thì mới đi làm từ tháng 5 năm ngoái nên phần thu nhập của anh gửi về chỉ dành cho việc trang trải nợ nần mà trước kia ông bà vay vốn cho anh đi. Anh Hải thì đang làm di tu đường sắt trong miền nam và đã có gia đình, chị Hiền đã đi lấy chồng ở làng bên cạnh. Trong khi nói chuyện về việc anh Hậu đi xuất khẩu lao động ở Đài Loan ông Động cho biết: trước khi anh đi xuất khẩu lao động thì điều kiện kinh tế nhà ông cũng không có sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học anh Hậu đã đi học nghề nhưng học xong về nhà không có công việc nên theo nguyện vọng của anh ông bà đã cho anh đi học tiếng đẻ đi xuất khẩu lao động. Cuộc sống gia đình cũng ổn định, không quá khó khăn nhưng con cái đi xa thì đôi khi cũng thiếu nguồn lao động trong sản xuất và công việc gia đình”. Để dẫn dắt cuộc nói chuyện Thúy tiếp tục đưa ra các câu hỏi nhằm tìm hiểu thêm về tác động của việc đi xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia đình: “Anh chị đi xuất khẩu lao động có gửi tiền về cho gia đình hay không? Mức độ thường xuyên như thế nào thưa bác?” Bác Động chia sẻ thẳng thắn: “Từ khi anh đi đến giờ thì anh cũng có gửi tiền về nhà, cứ nửa năm thì anh ấy gửi về một lần nhưng số tiền đó cũng chỉ giành cho việc trả nợ vì con trai ông cũng mới đi xuất khẩu lao động thôi nên cũng chưa có tiền để ra. Và khi anh gửi tiền về thì anh gửi qua người trung gian ở trên Hà Nội và họ mang về cho ông bà nhưng tiền anh gửi về thì lại bằng tiền đôla nên ông bà phải ra ngân hàng để đổi thành tiền Việt. Mỗi lần gửi tiền về gặp phải rất nhiều thủ tục, qua nhiều khâu nên cũng hơi phức tạp. Do gia đình không có người thân bên đó nên việc gửi tiền mới phải thông qua ngân hàng. Bình thường thì những hộ khác có người đi xuất khẩu lao động thì tiền gửi về thông qua một số người thân quen bên đó, mỗi lần về thì họ gửi giúp:.

<span class='text_page_counter'>(52)</span> Nói về tiêu dùng, chi tiêu trong gia đình thì gia đình ông cũng đưa ra những tiêu chí, kế hoạch cụ thể. Việc chi tiêu trong gia đình ông từ khi anh Hậu đi xuất khẩu lao động thì vẫn như trước kia nên hàng ngày ông vẫn phải đi đánh giậm, chăn nuôi lợn gà để có tiền chi tiêu trong cuộc sống hàng ngày. Nói là gia đình có người đi xuất khẩu lao động nhưng cuộc sống không có gì thay đổi lớn, hầu hết thì vẫn như xưa. Hàng ngày gia đình ông chi tiêu ăn uống cũng đơn giản, tự cung tự cấp, hai ba ngày mới đi chợ để mua thêm thịt cá chứ bình thường thì rau hái ở vườn, tôm cá đi bắt thêm. Đời sống cứ như vậy thôi!” Chi phí chiếm đa phần của gia đình là những khoản đóng góp vào công việc chung của dòng họ như giỗ chạp, hiếu hỷ,quỹ khuyến học…chứ mua sắm thì cũng hạn chế, không có nhiều. Nhìn chung so với cuộc sống của các hộ trong thôn xếp vào những hộ trung bình khá, không khấm khá là mấy. Khi được hỏi về yếu tố ý tế và sức khỏe thay đổi như thế nào khi gia đình có người đi xuất khẩu lao động thì ông nói: “Không thay đổi nhiều lắm! Hàng năm cũng đôi ba lần đi khám sức khỏe, vì bây giờ có tuổi rồi, sức khỏe cũng có yếu đi nhưng đấy cũng là điều tất yếu. Chứ nói là con cái đi xuất khẩu lao động mà thấy khỏe lên thì không hề có. Chúng nó vắng nhà những lúc đau ốm thì phải tự xoay sơ, đi mua viên thuốc về uống – đấy là chỉ cảm cúm nhức đầu chứ mà nặng thì lại nhờ bà con làng xóm sang giúp đỡ, họ hàng ở xa thì cũng ít về thăm”. Thúy hỏi tiếp: “Vậy gia đình mình ó đồng ý cho anh chị đi xuất khẩu lao động hay không ạ?” Thực ra nói muốn hay không thì chắc là không đâu nhưng cũng vì kinh tế gia đình còn khó khăn, chi tiêu eo hẹp nên đi vài ba năm cải thiện gia đình rồi về. Kể như các nhà đang ở đây vẫn còn dột nát, chưa có tiền tu sửa nhưng cứ chờ vào mấy sào ruộng, chăn nuôi vài con gà, vài con lợn thì đến bao giờ mới có tiền mà sửa chữa, xây mới. Đấy là chưa kể đến việc chi tiêu cho các hoạt động khác như thăm người ốm, chi phí cho tiền giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, vụ nào mà mất mùa thì coi như đói kém, mọi thứ trở nên quá khó khăn. Xét về điều kiện gia đình thì không có mấy, kết hợp với phỏng vấn và quan sát cho thấy điều kiện tiện nghi sinh hoạt gia đình xét vào mức trung bình, ngang với những hộ không có người đi xuất khẩu lao động ở địa phương. Nhìn vào gia cảnh nhà ông chỉ có một chiếc ti vi và một chiếc điện thoại để liên lạc với moị người đây cũng chính là cầu nối giúp ông bà có thể nắm bắt được tình hình của anh Hậu bên kia. Ông cho biết tuy anh Hậu ở xa như vậy nhưng hầu như tuần nào anh ấy cũng gọi về để hỏi thăm tình hình sức khỏe của ông bà và công việc của gia đình. Tuy là xa gia đình nhưng luôn quan tâm đến tình hình sức khỏe, sinh hoạt của gia đình. Thỉnh thoảng lại nhắc nhở ông phải chú ý giữ sức khỏe, chi tiêu không phải tiết kiệm qúa làm gì”. Tuy ông bà đều đã già nhưng lại chưa được hưởng niềm vui của người già là được nghỉ ngơi và vui vầy bên con cháu vì ông bà vẫn phải làm những việc từ công việc nhẹ đến công việc nặng các con đều đi làm xa hoặc đã lập gia đình nên không giúp gì được cho ông bà mấy, tiền cũng không có nên ông bà chi tiêu rất tiết kiệm thì mới đủ tuy điều kiện kinh tế còn vất vả nhưng ông bà vẫn thấy vui vẻ vì được các con quan tâm, đời sống hiện tại được cải thiện hơn so với trước rất nhiều, ở đây cái gì cũng có chỉ không có tiền mua thôi, việc tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng dễ dàng, đường xá thuận tiện cho việc đi lạị..

<span class='text_page_counter'>(53)</span> Ông bà là dân thuần nông nên mối quan hệ của ông bà đối với làng xóm cũng rất tốt. Khi được hỏi về những hộ có người đi làm ăn xa thay đổi như thế nào về thu nhập cũng như mối quan hệ đối với làng xóm, gia đình thì ông nói:” về kinh tế thì có tăng lên nhiều so với những gia đình không có người đi xuất khẩu lao động, nhiều người đi họ gửi tiền về xây dựng nhà cửa khang trang tiện nghi đầy đủ, mức sống tăng lên so với trước như cô Đào bên cạnh nhà ông có chồng đi xuất khẩu lao động nước ngoài dã gửi tiền về và đang xây lại nhà tuy nhiên cô ấy cũng ít khi tiếp xúc với mọi người vì nhà cô ấy có người con trai bị tàn tật, bố mẹ già yếu nên cũng bận suốt còn một số gia đình khác thì cũng tùy người có người vẫn giữ được mối quan hệ tốt với mọi người nhưng có người thì lại thay đổi do nhà họ có điều kiện hơn. Xét riêng về cảm nhận của cá nhân ông thì thấy việc đi xuất khẩu lao động có làm thay đổi lớn diện mạo của địa phương, gia đình. Nhiều hộ gia đình đi về rồi thì cũng kiến thiết được nhà cửa, đầu tư cho sản xuất, mua sắm trang thiết bị, du lịch, giải trí có khá hơn trước. Tuy nhiên một số gia đình cũng có trục trặc về mặt tình cảm, vợ chồng đi xuất khẩu lao động thì bỏ bê công việc chăm sóc con cái, thoái thác trách nhiệm cho ông bà, cô dì chú bác. Có hộ thì sau một thời gian đi xuất khẩu lao động vợ chồng mẫu thuẫn với nhau, ghen tuông rồi ly dị, con cái phải ở với ông bà. Hay nói cách khác, cái gì cũng có 2 mặt của nó, được cái này thì mất cái kia, phát triển về kinh tế thì quan hệ, công việc gia đình không được đảm bảo. Kết thúc buổi thảo luận Huyền và Thúy gửi lời cảm ơn tới ông đã nhiệt tình chia sẻ thông tin..

<span class='text_page_counter'>(54)</span> BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU Thời gian: 10h30’ ngày 24/3/2012 tại nhà bác Nguyễn Thị Tuyến Người phỏng vấn: Lưu Hồng Tùng Thư ký: Ngô Thị Huệ Người trả lời phỏng vấn: Nguyễn Thị Tuyến – 49 tuổi – Nông nghiệp Giới thiệu về bản thân, mục tiêu của cuộc phỏng vấn: Tìm hiểu ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia đình Cuộc phỏng vấn diễn ra vui vẻ, cởi mở, và dưới dạng tâm sự của cô Tuyến về hoàn cảnh gia đình mình gặp phải. Gia đình cô Tuyến là một trong những hộ có người đi xuất khẩu lao động tại xã Tân kỳ -huyện Tứ Kỳ - tỉnh Hải Dương khi chúng tôi đến nhà trò chuyện thi cô chia sẻ rất cởi mở và cho biết người con trai cả của cô anh ấy tên là Nguyễn Công Tiến, năm nay 25 tuổi và chưa lập gia đình đang đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Khi được hỏi gia đình cô có muốn cho anh Tiến đi xuất khẩu lao động không thi trên gương mặt cô thoáng chút buồn và cô trả lời là không muốn cho anh đi xuất khẩu lao động, bởi vì nhà nghèo không có tiền cho đi, tiền đi lại cao và gia đình cô chỉ có 2 người con anh Tiến là con trai duy nhất của gia đình. Nên cô không muốn cho đi vì thương và lo cho anh. Nhưng sau khi đi bộ đội về ở nhà không có công việc ổn định thu nhập thấp nên anh Tiến nhất quyết đi để làm giàu vì thế gia đình cô đành chiều theo ý anh và vay tiền cho anh đi xuất khẩu lao động Cô cho biết hiện nay anh Tiến đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan đã được 2 năm và gia hạn thêm 1 năm, tại ở nhà không có công việc ổn định và thu nhập thấp nên anh Tiến đã đi xuất khẩu lao động để tìm một công việc ổn định và thu nhập cao hơn. Chi phí tiền đi của anh là 150 triệu trong 2 năm anh mới gửi về được 60 triệu, bởi vì chi phí cho anh đi cao và trong quá trình làm việc tại Đài loan anh bị tai nạn lao động và phải chi trả tiền viện phí một nửa và thu nhập của anh ở bên Đài Loan không được ổn định nên số tiền gửi về rất ít. Trong 2 năm gia đình mới trả được 60 triệu tiền vay Ngân Hàng, nhưng gia đình còn nợ Ngân Hàng 70 triệu đông, khoản tiền anh gửi về chỉ dùng vào việc trả nợ ngân Hàng. Như cô Tuyến cho biết “anh Tiến gửi tiền về bằng cách tay đôi”, do số tiền gửi về dùng để trả nợ ngân Hàng nên gia đình cô Tuyến không thay đổi gì về mức sống mà có khi là giảm đi so với trước khi anh Tiến đi xuất khẩu lao động..

<span class='text_page_counter'>(55)</span> Từ khi anh Tiến đi xuất khẩu lao đông thu nhập gia đình cô Tuyến bị giảm đi, do còn nợ một khoản tiền 70 triệu của ngân Hàng mà trước kia vay cho anh đi vẫn chưa trả được. Trong khi đó mức chi tiêu lớn do giá cả thị trường tăng, 1 tháng gia đình cô phải trả 70 nghìn đồng cho tiền điện nước, hơn 2 triệu đồng cho tiền ăn và hơn 1 triệu tiền tiền khác ( đám cưới, đám ma,…). Hàng tháng cô phải chi trả một khoản tiền lớn cho sức khỏe do cô bị tai nạn gãy mất 4 cái xương sườn, nên thu nhập của gia đình cô không đủ để đáp ứng cho sinh hoạt của gia đình. Cô Tuyến cho biết mức độ tiếp cận các dịch vụ của gia đình cô thấp và không thường xuyên và nguồn lao động của gia đình từ khi anh Tiến đi xuất khẩu lao động bị giảm đi vì thiếu người tham gia sản xuất và các công việc khác của gia đình. Anh Tiến đi xuất khẩu lao động có sự thay đổi trong mỗi quan hệ gia đình như phải xa nhau nên thiếu thốn tình cảm chăm sóc giữa các thành viên với nhau, cô Tuyến ngày đêm buồn và lo cho anh. Anh Tiến đi xuất khẩu lao động một thời gian dài nhưng anh Tiến gừi tiền về chưa đủ để trả ngân hàng nên đến ngày phải trả lãi cho ngân Hàng vợ chồng cô Tuyến lại cãi nhau vì không có tiền. Anh Tiến chưa có vợ nên vẫn sống chung cùng bố mẹ nên trụ cột chính trong gia đình cô Tuyến là chồng cô chú Nguyễn Công Tuấn, chú Tuấn lao động kiếm tiền để chi trả các khoản sinh hoạt và lo cho 2 bên nội ngoại. Cô Tuyến đảm nhận chăm sóc gia đình, nội trợ cho gia đình so với thời điểm trước khi anh tiến đi xuất khẩu lao động và sau khi đi thì mọi công việc trong gia đình anh vẫn do bố mẹ anh đảm nhận chính. Khi gia đình, dòng họ có hiếu hỷ giỗ chạp thì anh Tiến không về được tại vì xa xôi và anh không có tiền để về. Do không có thời gian và thu nhập ít và anh Tiến gặp tai nạn lao động nên anh chỉ gọi điện về quan tâm, hỏi thăm gia đình vài tháng mới gọi về một lần. Hiện nay để duy trì liên lạc với gia đình thường xuyên anh Tiến chủ yếu là gọi điền về. Cô Tuyến cho biết trong đời sống gia đình từ xưa đến nay chủ yếu sản xuất nông nghiệp nên từ khi anh Tiến đi gia đình cô có những thay đổi rõ nét cả vật chất lẫn tinh thần như tình cảm gia đình bị chia sẻ và các mối quan hệ gia đình bị thay đổi do vợ chồng cô phải trả nợ ngân hàng thay anh Tiến, chi tiêu ăn uống cũng phải tiết kiệm hơn. Trong đời sống sản xuất anh Tiến đi xuất khẩu lao động thì thiếu một nguồn lao động làm nông nghiệp chính cho nên gia đình cô phải cho người khác làm bớt đi một phần ruộng. Từ khi anh Tiến đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan gia đình cô gặp phải rất nhiều khó khăn, do sức khỏe của cô Tuyến yếu, đau ốm nên không làm được nhiều thiếu nguồn lao động, đời sống sinh hoạt và sản xuất gặp rất nhiều khó khăn, thu nhập thấp nên không có tiền chi tiêu,.

<span class='text_page_counter'>(56)</span> mỗi quan hệ gia đình nhà cô bị mâu thuẫn không thuận hòa. Nguồn lao động chính trong gia đình trông chờ vào chồng cô là chú nguyễn công Tuấn, chú Tuấn lao động kiếm tiền để chi trả các khoản sinh hoạt và lo cho hai bên nội ngoại. Cô Tuyến cho biết “về kinh tế nhiều hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động có tăng lên nhiều so với những gia đình không có người đi xuất khẩu lao động, nhiều người đi họ gửi tiền về xây dựng nhà cửa khang trang, tiện nghi đầy đủ, mức sống của họ tăng lên so với với trước”. Ngược lại cũng có nhiều hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động thì kinh tế bị giảm đi. vd như gia đình cô Tuyến mức sống ngày càng đi xuống trong nhà không sắm sửa được gì thậm chí còn phải bán đi để có tiền trả nợ ngân Hàng.Về quan hệ làng xóm thì cũng có nhiều gia đình có chồng con đi xuất khẩu lao động kinh tế khá giả hơn nên họ không còn thân thiện với hàng xóm như trước kia, hay như gia đình cô Tuyến rất ngại tiếp xúc với hàng xóm vì hoàn cảnh gia đình cô như vậy hay bị hàng xóm hỏi thăm con trai cô có hay gửi tiền về không nên cô rất ngại khi tiếp xúc nói chuyện với mọi người trong xóm.Theo ý kiến của cô nhìn chung những hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động thì vẫn hơn so với những người không đi. Xã Tân Kỳ là một trong xã có nhiều hộ có người đi xuất khẩu tại Tỉnh Hải Dương và độ tuổi đi tầm 18- 47, nhìn chung những hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động đã có sự thay đổi rõ rệt về đời sống kinh tế của gia đình mình như: về xây dựng và kiến thiết lai nhà cửa, các phương tiện đi lại, sinh hoạt chi tiêu trong gia đình đầy đủ phục vụ cho cuộc sống của họ như xe máy , ti vi, điện thoại… cũng được mua sắm ngày càng nhiều. Nhưng qua cuộc trò chuyện cùng cô Tuyến tôi nhận thấy được một khía cạnh khác của việc đi xuất khẩu lao động, có người đi được nhưng không có tiền gửi về, có người bị công ty lừa đảo mất tiền, còn có trường hợp giống như nhà cô Tuyến. Mối quan hệ của gia đình cũng thay đổi mà có đôi khi bị dạn vỡ do kinh tế đi xuống.. BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU LÃNH ĐẠO.

<span class='text_page_counter'>(57)</span> Thời gian: 15h ngày 24/3/2012 tại nhà bác phó thôn Người phỏng vấn: Phạm Thị Thu Hà Thư ký: Nguyễn Văn Điệp Người được phỏng vấn: Bác Vĩnh – Phó thôn Ngọc Lâm Bắt đầu cuộc trao đổi Hà giới thiệu về bản thân, mục tiêu của cuộc phỏng vấn: Tìm hiểu ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia đình để bác hiểu và chia sẻ thông tin cho nhóm. Hà đã đưa ra câu hỏi: Bác có thể cho chúng cháu biết tình hình đi xuất khẩu lao động của thôn mình là như thế nào được không ạ? Bác Vĩnh nói: Tình hình đi xuất khẩu lao động của thôn Ngọc Lâm là 131 người, đa phần là nam giới, độ tuổi từ khoảng 27 tuổi đến 45 tuổi, chủ yếu là tới những nước như: Đài Loan, Hàn Quốc, Malasia, Đức… Ví dụ: công việc ổn định, thu nhập cao, có người thân ở bên nước sở tại, đảm bảo an toàn về trật tự an ninh hay không. Quan trọng hơn, tâm lý chung của hầu hết người lao động khi lựa chọn điểm đến đó là mức lương mà họ kiếm được cao hay thấp. Các quốc gia được chọn chủ yếu là thuộc khu vực Châu Á như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia… Đây là những nước có mức lương trả cho lao động tương đối cao và công việc ổn định. Người lao động nhận hợp đồng lao động từ 3-5 năm và hầu hết là do người quen giới thiệu, một số ít thuộc diện được gửi đi theo chính sách của địa phương. Những người có trình độ học vấn và tay nghề cao thường ở lại đó với thời gian lâu hơn (từ 5-10 năm), còn người có trình độ học vấn hết cấp 1, cấp 2 thì khi kết thúc hợp đồng lao động là quay trở về gia đình. Trong số những người đi xuất khẩu lao động rất ít người có trình độ học vấn cao trên đại học, chỉ chiếm khoảng từ 5-10%. Hơn nữa, đặc thù công việc bên đó cũng yêu cầu phải có tay nghề và trình độ nhất định mới có thể làm được. Ví dụ như lắp ráp máy móc, thiết kế mạng điện thì họ chỉ nhận những người có trình độ 12/12 trở lên. Chế độ quản lý lao động nghiêm ngặt của nước sở tại khiến họ ít có cơ hội được về thăm nhà thường xuyên, thậm chí là không có ngày nghỉ lễ. Người ta đi theo thời hạn, hết hạn mới về, xong lại đi tiếp, có người đi 3 đến 4 lần. Khi nói về lý do người dân đi xuất khẩu lao động thì bác Vĩnh cho rằng: Dựa vào tình hình chung của thôn Ngọc Lâm nói riêng và xã Tân Kỳ nói chung thì kinh tế còn thấp, đồng bằng chiêm trũng, cuộc sống khó khăn, người dân còn nghèo khó nên bắt buộc phải ra đi. Tất cả cũng là vì nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống thôi. Với thời buổi bây giờ, giá cả hàng hóa leo thang, chỉ có người dân chúng tôi là thiệt thòi, phải xoay sở đủ mọi thứ: làm thế nào không mất mùa, làm sao có thu nhập trang trải cuộc sống. Ở bên đó, họ có thể kết hợp vừa học nghề vừa làm.

<span class='text_page_counter'>(58)</span> việc. Âu cũng là do điều kiện kinh tế ở nhà thu nhập thấp, đi xuất khẩu lao động để cải thiện kinh tế gia đình. Thu nhập cao gửi về làm nhà cửa, mua sắm trang thiết bị, đầu tư sản xuất buôn bán. Bác cũng cho rằng từ khi người dân đi xuất khẩu lao động thì mọi mặt đều thay đổi: từ thu nhập, chi tiêu đến điều kiện nhà ở là thay đổi rõ rệt. Đời sống được nâng cao so với trước đây. Đối với công việc chung của làng xóm như làm đường, xây dựng nhà văn hóa thì có đóng góp nhưng chưa đáng kể, hầu như cũng đóng góp như đối với những hộ ở nhà. Hà hỏi thêm: Bác có thể cho cháu biết sự khác biệt giữa mức sống của hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động với hộ không có người đi xuất khẩu lao động là thế nào không ạ? Theo bác Vĩnh: Các cá nhân đi xuất khẩu lao động có thu nhâp dao động từ 7 triệu đồng đến 10 triệu đồng/ tháng, đó là đi Malaysia, Đài Loan, còn đi Hàn Quốc với Nhật Bản hay Libi thì tiền lương kiếm được phải từ 15 triệu đồng đến 20 triệu đồng/ tháng. Ví dụ như gia đình cô Thanh có con trai đi làm ở Hàn Quốc thu nhập 20 triệu đồng/ tháng. Đời sống của những hộ gia đình đi xuất khẩu lao động chủ yếu là tăng lên, qua đó cũng góp phần làm thay đổi diện mạo của nông thôn như: làm nhà cao tầng, mua đất, mua nhà, mua xe do nguồn thu nhập của họ tăng lên từ tiền gửi về. Cùng với đó là thu nhập chi tiêu cũng tăng lên, kiến thiết nhà cửa vẫn là sự thay đổi lớn nhất mà dễ nhận thấy. So sánh với những hộ không có người đi xuất khẩu lao động thì chênh lệch hoàn toàn, nhìn chung những gia đình có người đi xuất khẩu lao động thì mức sống tăng lên hẳn, mua sắm vật dụng sinh hoạt. Với những hộ không có người đi xuất khẩu lao động thì sống dựa vào nông nghiệp, ít có cơ hội tăng thêm thu nhập vì không có vốn lớn. Còn những hộ đi xuất khẩu lao động thì tiền gửi về giúp họ mua sắm vật liệu, xây dựng, gửi tiết kiệm… Nhìn chung, mối quan hệ giữa gia đình và hàng xóm không có gì thay đổi, họ vẫn giữ được tình làng nghĩa xóm, bản sắc dân tộc. Cũng có trường hợp gia đình vợ hoặc chồng đi sang đó rồi sứt mẻ tình cảm do ở nhà không có người lo việc gia đình, vợ cặp bồ rồi ly hôn. Những những trường hợp đó là hy hữu. Hà trao đổi thêm với bác về một số trường hợp không gửi tiền về gia đình thì nguyên nhân là do đâu. Bác Vĩnh nói: “Cũng có hộ đi xuất khẩu lao động nhưng làm ăn không gửi về được, không hoàn được vốn do không có việc, chơi bời, trai gái nên không có tiền gửi về cho gia đình, nhưng số này chỉ chiếm đến 5%” Bên cạnh đó, có trường hợp họ về nhà hẳn không đi xuất khẩu lao động nữa họ về chủ yếu làm nông nghiệp, đi làm thuê, mở cửa hàng kinh doanh, buôn bán khoảng 3%. Thường họ làm những công việc như buôn bán nhỏ, nhờ vào tiền gửi về họ làm được tích góp trong khi đi xuất khẩu lao động. Khi đặt ra câu hỏi về những khó khăn của hộ gia đình khi đi xuất khẩu lao động. Ví dụ như việc chăm lo hạnh phúc gia đình, giáo dục con cái, công việc gia đình (nội trợ sản xuất)?.

<span class='text_page_counter'>(59)</span> Bác Vĩnh cho rằng: “Nói chung là cái gì cũng phải có 2 mặt! Đời sống của họ có tăng lên đáng kể nhưng trái lại về mối quan hệ giữa vợ với chồng, cha mẹ với con cái..là có thay đổi hẳn so với trước kia. Ví như nhà bên cạnh có chồng đi xuất khẩu lao động, tiền gửi về để kiến thiết nhà cửa, mua sắm vật dụng, chi tiêu nhưng được vài năm thì vợ chồng ly dị, con cái thì học hành cũng không đến nơi đến chốn. Khó khăn của những hộ gia đình đi xuất khẩu lao động đó là việc nuôi dạy con cái khi đi còn nhỏ, khoảng 7%. Con cái không được giáo dục đến nơi đến chốn, vay vốn lớn, nợ nần nhiều…. Chăm sóc con cái hay bất cứ công việc gì trong gia đình đều phải nhờ ông bà, các bác hay anh chị em trực tiếp ở nhà chăm sóc. Nhưng mà phải nói thật là những đứa trẻ mà cả bố và mẹ đều đi xuất khẩu lao động thì con cái ở nhà không học hết cấp 3, không thi đại học hoặc phần lớn là học xong sẽ sang đó đi xuất khẩu lao động”. Hay nói tới nguồn lao động địa phương, bác nói rằng: “Nguồn lao động địa phương có sự thay đổi từ khi có hiện tượng người dân đua nhau đi xuất khẩu lao động. Hàng năm những công việc chung của như cày cấy, làm kênh mương, thủy lợi, làm đường… là phải thuê người thôn khác làm, thỉnh thoảng trong thôn vào dịp lễ hội cần đến thanh niên trai làng thì cũng không có đủ, công việc chung của thôn cũng bị hạn chế nhiều” Kết thúc cuộc trò chuyện, Hà gửi lời cảm ơn tới bác vì đã nhiệt tình cung cấp một số thông tin về tình hình chung đi xuất khẩu lao động ở địa phương và mức sống hộ gia đình có người đi xuất khẩu..

<span class='text_page_counter'>(60)</span>

×