Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Lich su Viet Nam Co Dai Tom tat

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.51 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Thời cổ đại</b>


<b>Thời đại Đá cũ và dấu vết Người Vượn ở Việt Nam</b>


Trong buổi bình minh của lịch sử, Việt Nam là một trong những quê hương của loài người. Người ta đã
phát hiện thấy người vượn ở Bình-Gia (Lạng Sơn), nhiều cơng cụ thuộc buổi đầu thời kỳ đồ đá cũ ở núi Đọ,
núi Quan n (Thanh Hố). Đó là dấu vết xưa nhất hiện nay ta biết về giai đoạn bầy người nguyên thủy trên
đất nước ta.Thời ấy cách ngày nay hàng mấy chục vạn năm.


Bấy giờ, mực nước biển Đông thấp gần trăm mét so với ngày nay. Vì vậy, đất nước ta khi ấy qua bán
đảo Ma-lai-xi-a còn nối liền với các đảo Gia-va, Xu-ma-tơ-ra, Ca-li-man-tan của In-đô-nê-xi-a. Các kết quả
nghiên cứu địa chất và khí hậu học còn cho biết trong thời kỳ này xen kẽ những kỳ khơ hạn là những kỳ
mưa nhiều khiến khí hậu Việt Nam ẩm và mát hơn bây giờ một chút. Trong rừng rậm, trên thảo nguyên, có
nhiều đàn voi răng kiếm, gấu mèo, tê ngưu, lợn lòi, hổ, báo, hươu, nai, đười ươi, vượn, khỉ, cầy, chồn...sinh
sống. Những bầy người nguyên thuỷ sống dựa vào hang đá, lùm cây, đi dọc bờ suối, bờ sơng tìm kiếm thức
ăn bằng hái lượm và săn bắt.


Người ta đã phát hiện được ở núi Đọ hàng vạn công cụ đồ đá cũ; người Việt cổ khai thác đá gốc
(ba-dan) ở sườn núi, ghè đẽo thô sơ, tạo nên những cơng cụ chặt, rìu tay, nạo...bỏ lại nơi chế tác những mảnh
đá vỡ, thuật ngữ khảo cổ gọi là mảnh tước. Với những đồ đá đó, người nguyên thủy có thể chặt cây, vót gậy
tre, lao gỗ, xẻ thịt, đập vỡ xương thú săn bắt được... Loại hình cơng cụ nghèo nàn, kỹ thuật ghè đẽo thô sơ
là đặc điểm của thời kỳ đồ đá cũ. Di tích núi Đọ là bằng chứng về sự có mặt của những chủ nhân sớm nhất
trên lãnh thổ Việt Nam vào thời kỳ tổ chức xã hội loài người đang hình thành.


Cách ngày nay khoảng ba, bốn vạn năm, vào thời kỳ bộ tộc nguyên thuỷ, cư dân bản địa đã đông đúc
hơn. Người ta đã phát hiện được dấu tích con người cùng với những hóa thạch động vật cổ ở hang Hùm
(Yên Bái), hàng Thung Lân (Ninh Bình). Đó là những thị tộc, bộ lạc sống trong hang động miền núi đá vôi.
Tuy nhiên, cũng đã có những thị tộc, bộ lạc tiến ra sinh sống ở miền đồi trung du vốn là miền phù sa cổ của
sông Hồng với rừng rậm phủ dày. Những hiện vật đá cuội ghè đẽo thô sơ thuộc cuối thời đại đồ đá cũ hoặc
đầu thời đại đồ đá giữa tìm thấy ở di chỉ Sơn Vi (Phú Thọ) là những minh chứng chắc chắn cho giả thuyết
này.



Văn hóa đá cuội ghè được tiếp nối với hai nền văn hóa Hịa Bình (thuộc thời đại đồ đá giữa) và văn hóa
Bắc Sơn (thuộc buổi đầu thời đại đồ đá mới) cách ngày nay khoảng một vạn năm. Ở các nền văn hoá này,
bên cạnh kỹ thuật chẻ đẽo, người nguyên thủy đã phát minh kỹ thuật mài, tạo nên những chiếc rìu Bắc Sơn
(rìu tứ giác mài lưỡi) nổi tiếng. Văn hóa Bắc Sơn là một trong những di chỉ văn hóa có rìu mài sớm trên thế
giới. Cũng trong thời kỳ này người ta còn phát hiện được những đồ gốm đầu tiên được nặn bằng tay.


Việt Nam là đất nước của hàng trăm loại tre, nứa. Tre, nứa đóng vai trị rất quan trọng trong nền văn
hóa nguyên thủy cũng như trong đời sống người Việt Nam sau này. Chúng được dùng làm gậy, lao, cung
tên, đồ đan lát, thừng bện... Do bị thời gian huỷ hoại nên đến nay khơng cịn chứng tích cơng cụ tre, nứa
của người Việt cổ; tuy nhiên ta vẫn có thể tìm thấy dấu vết của tre, nứa trên các hoa văn đồ gốm sơ kỳ.


Cùng những thị tộc, bộ lạc ở miền núi, trung du trên đất nước Việt Nam khi ấy, cịn có những tập đồn
người ngun thủy sinh sống ở miền ven biển Đông. Họ là chủ nhân của các nền văn hóa Quỳnh Văn (Nghệ
An), Sa Huỳnh (Quảng Ngãi). Trải qua mấy nghìn năm, đống vỏ sị điệp do họ vứt ra sau những bữa ăn đã
chất cao thành gị, rộng hàng trăm mét vng. Người nguyên thủy sinh sống ở ven bờ biển còn khai thác đá
gốc (thạch anh) làm công cụ. Họ chôn người chết trong những mộ huyệt tròn đào giữa đống sò điệp và chôn
theo người chết một vài công cụ đá, đồ trang sức bằng vỏ ốc xuyên lỗ...


Với đồ đá, đồ tre gỗ, đồ đựng bằng đất nung, các thị tộc nguyên thủy đi săn và hái lượm có hiệu quả
hơn. Ngồi việc mị cua, bắt ốc, chủ nhân các nền văn hóa Hịa Bình, Bắc Sơn cịn săn được nhiều thú như
lợn rừng, hươu nai, trâu bò rừng, tê ngưu, voi... Chủ nhân các nền văn hóa Hịa Bình, Bắc Sơn, Quỳnh Văn
đã biết ni chó, trồng một số cây ăn quả, cây cỏ củ, rau đậu, dưa... . Từ cuộc sống hái lượm những sản vật
sẵn có của tự nhiên, người nguyên thủy Việt Nam sớm bước vào cuộc sống sản xuất nông nghiệp. Bên
cạnh nghề săn, nghề đánh cá phát đạt, nghề nông đã ra đời cùng với việc chăn nuôi gia súc nhất là trên các
vùng châu thổ của các con sông lớn.


Nhiều nhà nông học khẳng định bán đảo Đông Dương là quê hương của cây lúa. Ở đây có nhiều loại
lúa hoang hiện còn tồn tại ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, bà con trong vùng thường gọi là lúa ma hoặc
lúa trời. Dấu vết con người thời kỳ ngun thủy có thể tìm thấy ở mọi miền trên đất nước Việt Nam từ vùng


cực Bắc đến cực Nam. Họ để lại những di tích hang động và di tích ngồi trời ở miền núi, đồng bằng kể cả
ở những vùng đất thấp sình lầy Nam Bộ trước khi hình thành nhà nước Việt Nam đầu tiên. Như vậy là vào
thời đại đồ đá, trên nhiều vùng ở nước ta đã xuất hiện những nền văn hóa nguyên thủy đặc sắc, trong đó
bên cạnh nền kinh tế hái lượm đã bắt đầu phát triển nền kinh tế sản xuất nông nghiệp lúa nước.


Con người đã xuất hiện khá sớm trên đất Việt Nam. Cho đến nay, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy dấu
vết của người vượn Homo erectus trong một số hang động ở Lạng Sơn và Nghệ An. Ðặc biệt là ở hậu kỳ
thời đá cũ (văn hoá Sơn Vi cách ngày nay 10.000 - 23.000 năm), con người đã phân bố khá rộng và khá
đông trên đất Việt Nam.


<b>Văn hoá Sơn Vi</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

biết đến kĩ thuật mài công cụ đá và làm gốm, hoạt động kinh tế chủ yếu là săn bắn và hái lượm, chưa biết
trồng trọt và chăn ni. VHSV có niên đại cuối Cánh Tân (Late Pleistocene), tồn tại trong khoảng từ 23.000
đến 11.000 năm cách ngày nay. VHSV khác văn hố Hồ Bình, có trước văn hố Hồ Bình và phát triển
sang văn hố Hồ Bình, thuộc hậu kì thời đại đá cũ.(Xem hình) .


<b>Thời đại Đá mới</b>
<b>Thời đại Đá mới</b>


Ðến văn hố Hồ Bình - Bắc Sơn (khoảng 6.000 - 10.000 năm), con người đã biết dùng công cụ cuội
được ghè đẽo một mặt, bắt đầu biết mài rìu đá, làm đồ gốm và có khả năng đã biết đến trồng trọt sơ khai.


Trong giai đoạn này trên đất Việt Nam, đã xuất hiện những nhóm cư dân tiền sử có đặc trưng văn hố
là thuộc thời đại Đá mới... Con người trong giai đoạn này đã biết dùng những chiếc rìu đá được mài nhẵn
hồn tồn, những chiếc vịng tay đá được khoan rất khéo, và những đồ gốm có hoa văn rất đẹp.


<b>Văn Hố Hồ Bình:</b>


Văn hóa khảo cổ mang tên tỉnh Hồ Bình, nơi nhà khảo cổ người Pháp Cơlani (M. Colani) phát hiện và


khai quật di tích đầu tiên vào năm 1927. Thuật ngữ VHHB được các nhà tiền sử học Viễn Đông họp tại Hà
Nội thông qua năm 1932. Các di tích VHHB phân bố ở hầu khắp các nước Đông Nam Á lục địa, nhưng tập
trung nhất là Việt Nam với trên 120 di chỉ. Cư dân VHHB chủ yếu sống trong các hang động đá vôi, săn bắt
hái lượm là hoạt động kinh tế chính, có thể đã biết đến nơng nghiệp sơ khai. Người Hồ Bình chế tác cơng
cụ lao động từ đá cuội sơng suối, loại hình tiêu biểu nhất là rìu hình hạnh nhân, nạo hình đĩa, rìu ngắn, rìu
mài lưỡi; ít chế tác và sử dụng cơng cụ từ xương và vỏ trai, có thể đã sử dụng đồ gốm trong sinh hoạt.
Người Hồ Bình chôn người chết tại nơi cư trú, chủ yếu theo tư thế nằm co, có rải đá, vỏ ốc hoặc than tro
dưới thi hài, di cốt được bôi thổ hồng. Người Hồ Bình có nghệ thuật dung dị, mang tính ước lệ, phản ánh
quan hệ của con người với mơi trường và tín ngưỡng tâm linh. VHHB có niên đại tuyệt đối sớm nhất là
18.000 năm và muộn nhất 7.500 năm cách ngày nay, thuộc thời đại đá mới; phát triển qua 3 giai đoạn: Hồ
Bình sớm (18.000 - 12.000 năm), Hồ Bình điển hình (12.000 - 9.000 năm) và Hồ Bình phát triển (9.000 -
7.500 năm). VHHB có nguồn gốc từ văn hố Sơn Vi và đóng góp vào sự hình thành một số văn hoá đá mới
ở Việt Nam như: Đa Bút, Cái Bèo, Quỳnh Văn; đồng thời đóng góp vào việc tạo dựng sắc thái văn hố Đơng
Nam Á thống nhất trong đa dạng.


<b>Văn Hoá Bắc Sơn</b>


Văn hoá Bắc Sơn là văn hố sơ kì đá mới. Cư dân VHBS sống trong hang động hoặc mái đá trong
vùng núi đá vôi Bắc Sơn. Kinh tế: săn bắt, hái lượm và làm gốm. Cơng cụ tiêu biểu: rìu cuội ghè đẽo mài
lưỡi, thường được gọi là "rìu Bắc Sơn" và thỏi đá phiến có dấu hai rãnh song song, gọi là "dấu Bắc Sơn".
VHBS phát triển tiếp sau văn hố Hồ Bình, tồn tại cách ngày nay khoảng từ 7 - 10 nghìn năm.


<b>Văn Hố Đa Bút</b>


Văn hố khảo cổ được gọi theo tên địa điểm Đa Bút ở Thanh Hoá, Việt Nam, do Patơ (E. Patte) khai
quật năm 1932 và các nhà khảo cổ định danh. Đến nay, đã phát hiện được 8 địa điểm VHĐB, phân bố ở
đồng bằng Thanh Hố và Ninh Bình, niên đại từ trên 4.000 đến 6.000 năm cách ngày nay. Phát triển qua
các giai đoạn: Đa Bút, Cồn Cổ Ngựa (lớp trên) và Gò Trũng. Đặc trưng nổi bật là đồ gốm pha nhiều sạn sỏi
to, đáy trịn, khơng chân đế, miệng đứng thẳng hơi loe, thành miệng cao, bụng hình cầu, văn đập hình nan
đan.



Đồ đá có sự biến đổi nhanh từ kĩ thuật mài lan thân sang rìu mài tồn thân, kích thước nhỏ, cùng với
đục, cưa, cối, chày, dùi, vịng đá hình bánh xe và đặc biệt là chì lưới đánh cá làm từ đá phiến và đất nung
hình quả nhót có khía rãnh để buộc dây. Cư dân VHĐB từng khai phá đồng bằng châu thổ Sông Mã, trồng
trọt một số loại cây rau, củ; phát triển nghề đánh cá trên sông biển, là một trong những trung tâm sản xuất
gốm thời đại đá mới ở Việt Nam. VHĐB có nguồn gốc từ văn hố Hồ Bình và đóng góp vào sự hình thành
các văn sơ kì kim khí ở khu vực.


<b>Văn Hố Hạ Long</b>


Văn hố khảo cổ mang tên vịnh biển nổi tiếng ở Quảng Ninh, do các nhà khảo cổ học Việt Nam định
danh. Đến nay đã phát hiện được 27 địa điểm. VHHL, phân bố trên cồn cát, eo đất hoặc hang động hải
đảo... ven biển Quảng Ninh và Hải Phịng. Cơng cụ đá gồm rìu bơn kích thước nhỏ, mài tồn thân; chày,
hịn kê, bàn mài có các rãnh cắt ngang hình chữ U.


Đồ gốm có gốm cứng, mỏng, gốm xốp, trang trí hoa văn đắp thêm, khắc vạch kết hợp trổ lỗ. Bơn có vai
có nấc, gốm xốp và bàn mài rãnh là di vật tiêu biểu đặc trưng cho VHHL. VHHL phát triển từ văn hoá Cái
Bèo, giao lưu, trao đổi với các nền văn hoá đồng đại khác như Phùng Nguyên, Hà Giang, Mai Pha, Hoa Lộc
(Bắc Việt Nam) và các đảo ven biển Nam Trung Quốc; đóng góp vào sự hình thành văn hố Đơng Sơn vùng
ven biển Việt Nam. Cư dân VHHL có niên đại 4.000 năm cách ngày nay, thạo nghề biển, đạt tới đỉnh cao kĩ
thuật nghề gốm, biết trồng trọt, xe sợi đan lưới, làm dây câu, đóng bè và đi biển.


<b>Văn Hố Bàu Tró:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Văn và có quan hệ giao lưu trao đổi với cư dân văn hố Hoa Lộc, Hạ Long ở phía bắc, với cư dân văn hố
Xóm Cồn ở phía nam, với các bộ lạc miền núi Trung Bộ và Tây Nguyên. VHBT là một thành tố đóng góp vào
sự ra đời của văn hoá Sa Huỳnh ở Miền Trung Việt Nam.


<b>Sơ kỳ thời đại đồ đồng</b>
<b>Sơ kỳ thời đại đồ đồng</b>



Con người đã biết đúc các cơng cụ, vũ khí và đồ trang sức bằng đồng thau. Họ đã biết trồng lúa và
chăn nuôi một số gia súc như trâu, bị, lợn, gà. Có ba nhóm văn hố phân bố ở ba khu vực. Nhóm thứ nhất
(văn hố Tiền Ðông Sơn) phân bố trong các lưu vực sông Hồng, sơng Mã và sơng Cả. Nhóm thứ hai (văn
hoá Tiền Sa Huỳnh) phân bố ở vùng Nam Trung Bộ. Và nhóm thứ ba, phân bố trong lưu vực sông Ðồng Nai
ở miền Ðông Nam Bộ.


Ở miền Bắc Việt Nam, các văn hố Tiền Ðơng Sơn tương ứng với giai đoạn đầu của thời kỳ Hùng
Vương.


Các nhóm văn hố Tiền Ðơng Sơn ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã hội tụ lại thành một văn hoá thống
nhất, đó là văn hố Ðơng Sơn, thuộc thời đại sắt sớm vì một số cơng cụ bằng sắt đã xuất hiện. Nhưng các
chế phẩm bằng đồng thau tinh mĩ là đặc trưng của văn hoá này. Hiện vật tiêu biểu là những chiếc trống
đồng lớn có hoa văn trang trí đẹp.


<b>Văn Hố Phùng Ngun</b>


Văn hố mở đầu cho các văn hố Tiền Đơng Sơn trên lưu vực Sông Hồng, Việt Nam; phân bố chủ yếu
trên vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ thuộc sơ kì thời đại đồ đồng, niên đại trong khoảng 3.500 - 4.000
năm cách ngày nay. Cho đến nay đã phát hiện được hàng mấy chục di tích cư trú, cơng xưởng chế tác đồ
đá và mộ táng, trong đó có những di tích tiêu biểu như Phùng Ngun, Xóm Rền, Gị Bơng, An Đạo, Nghĩa
Lập, Đồng Đậu (lớp văn hố dưới), Lũng Hồ, Chùa Gio, Văn Điển, Bãi Tự, vv.


Đồ đá VHPN đạt đến đỉnh cao của đồ đá nguyên thuỷ, được chế tác bằng các phương pháp cưa,
khoan, mài, tiện rất tinh xảo, có kích thước tương đối nhỏ, được làm từ đá bazan và các loại đá nephrit,
spilit có màu sắc đẹp; gồm có các loại rìu, bơn, đục, bàn mài, mũi tên, mũi giáo, qua, nha chương và các loại
vòng tay, khuyên tai, nhẫn, ống chuỗi, hạt chuỗi với đủ loại kích cỡ và kiểu dáng khác nhau. Hầu hết rìu, bơn
ở đây đều có hình tứ giác, rất hiếm rìu, bơn có vai và có nấc. Đồ gốm VHPN phần lớn được làm bằng bàn
xoay, thành gốm mỏng đều, độ nung tương đối cao, chất liệu gốm thô pha cát hạt nhỏ, ngồi có lớp áo gốm
mỏng màu hồng nhạt, cịn một ít gốm mịn, mặt ngồi được miết láng rất đẹp. Hoa văn trang trí cực kì phong


phú gồm văn thừng mịn, văn chải, văn in kiểu cuống rạ, văn đắp nổi, tiêu biểu hơn cả là văn khắc vạch
chấm giải với những mơ típ hình chữ S, chữ V, hình tam giác, tạo thành những đồ án đối xứng phong phú
đẹp mắt. Về loại hình có các loại nồi, vị, bình, bát, chạc gốm, dọi xe sợi, bi gốm, v..v. Tiêu biểu hơn cả có
loại nồi vị thành miệng dày, bình bát có chân đế tương đối cao, bát kiểu mâm bồng, bình miệng vng đáy
trịn. Đã phát hiện ra một số tượng động vật bằng đất nung như tượng bò, tượng gà vừa hiện thực vừa sinh
động, có thể xem là những tác phẩm nghệ thuật tạo hình sớm nhất được phát hiện ở Việt Nam. Đồ đồng rất
hiếm, chỉ mới phát hiện được ở một vài di tích và cũng chỉ ở dạng xỉ đồng. Người Phùng Nguyên chôn
người chết trong mộ địa, các mộ có phương hướng gần giống nhau, tử thi được chôn theo tư thế nằm ngửa
chân tay duỗi thẳng. Huyệt mộ hình chữ nhật, trong đó một số mộ được đào thành bậc cấp. Đồ tuỳ táng
thường là nồi, bình, bát, chạc gốm, rìu, đục cùng một số đồ trang sức bằng đá, đôi khi chôn theo hàm lợn.
Người Phùng Nguyên sống chủ yếu bằng nơng nghiệp.


<b>Văn Hố Hoa Lộc</b>


Văn hố khảo cổ sơ kì thời đại đồng, được gọi theo tên xã Hoa Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá,
Việt Nam, nơi phát hiện di chỉ đầu tiên và điển hình cho nền văn hố này (vào cuối 1973). Các di chỉ VHHL
phân bố trên các đồi cát cao chạy dài ven biển bắc Thanh Hoá, thuộc địa phận huyện Hậu Lộc và Nga Sơn.
Đồ đá phong phú, đa dạng, gồm chủ yếu là công cụ lao động: cuốc có vai (nhiều), cuốc tứ giác (ít); rìu bơn
tứ giác (nhiều), rìu bơn có vai (ít), đặc biệt có loại rìu xéo giống hình rìu xéo bằng đồng trong văn hố Đơng
Sơn; bàn mài các loại số lượng rất nhiều; công cụ ghè đập; công cụ đá lưỡi rất tù, thân có những đường
rãnh chưa rõ chức năng. Đồ trang sức ít, vịng tay gồm mặt cắt hình tam giác, bầu dục. Kĩ thuật mài chiếm
vị trí chủ đạo trong chế tác đồ đá nhưng không thật tinh tế, trau chuốt. Đồ gốm nhiều về số lượng, đa dạng
về loại hình. Ngồi các đồ gia dụng như nồi, bình, bát, chậu, vật hình hộp, đồ gốm có chân nhọn... cịn có
các đồ trang sức như vòng, hạt chuỗi, khuyên tai bằng đất nung, những con dấu in hoa văn đặc trưng cho
văn hố này. Đồ gốm được trang trí văn thừng, khắc vạch, in dấu lưng và miệng sò, ấn vũm, trổ lỗ. Các
cách tạo hoa văn này được phối hợp với nhau, tạo nên phong cách rất riêng cho đồ gốm VHHL. Đồ đồng
hiếm, mới tìm thấy mảnh vịng, rìu, mảnh đồng. Chủ nhân VHHL sống bằng nghề nơng (đã tìm thấy dấu tích
hạt lúa), chăn ni (tìm thấy xương thú thuần dưỡng), săn bắn (tìm thấy nhiều xương thú rừng), đánh cá
(tìm thấy nhiều xương cá). VHHL nằm cùng bình tuyến và có mối quan hệ giao lưu văn hoá rõ ràng với các
văn hoá sơ kì đồ đồng khác ở vùng Trung Bộ và Bắc Bộ Việt Nam là văn hoá Phùng Nguyên, văn hoá Hạ


Long, nhóm di tích văn hố Cồn Chân Tiên, Mả Đống. Thời gian tồn tại của VHHL vào khoảng trên dưới
4.000 năm cách ngày nay.


<b>Những chuyển biến về kinh tế - xã hội</b>
<b>Những chuyển biến về kinh tế - xã hội</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Nguyên mới bước đầu có dấu hiệu tan rã và nó tiếp tục tan ra cùng với các bước phát triển của văn hóa
đồng thau trong các giai đoạn tiếp theo.


<b>Văn Hoá Đồng Đậu</b>


Văn hoá tiếp nối văn hoá Phùng Nguyên trong hệ thống văn hố Tiền Đơng Sơn của Việt Nam. Phân bố
chủ yếu ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ, song có phần rộng hơn văn hố Phùng Ngun chút ít. Ngồi di
tích Đồng Đậu, văn hố này cịn có một số di tích tiêu biểu như Gị Diễn, Mã Lao, Nội Gan, Thành Dền,
Đồng Dền, Bãi Mèn, Đình Tràng (lớp dưới), Tiên Hội, Đông Lâm (lớp dưới), vv. Đồ đá có rìu bơn hình tứ
giác, phổ biến loại dài mỏng. Đồ trang sức phổ biến loại vòng lớn, mặt cắt ngang hình tam giác và hình chữ
D, được xem là loại vòng đặc trưng của VHĐĐ, hoa tai gần trịn 4 mấu, ống chuỗi hình gối quạ, vv.


Đồ gốm Đồng Đậu thường có thành dày được nung ở độ nung khá cao nên gốm cứng, phần lớn có
màu xám. Hoa văn trang trí trên gốm tiêu biểu là loại chải kiểu khuông nhạc thành các đồ án làn sóng, hình
chữ S nối đi nhau, hình sâu đo, hình số 8, văn thừng bện, v..v. Về loại hình chủ yếu vẫn là nồi, vị, bình,
bát, chạc gốm, dọi xe sợi, bi gốm, v..v. Chân đế bình, bát cũng như chân chạc gốm thường thấp. Đồ đồng
đã khá phát triển và có đặc trưng riêng, xuất hiện loại rìu x cân lưỡi trịn, mũi lao thường, mũi lao có
ngạnh, mũi tên hình cánh én, lưỡi câu có ngạnh, dũa 4 góc nhọn cạnh thẳng hoặc lõm vào, dũa 2 góc vng
2 góc trịn, vv. Bên cạnh đồ đồng còn phát hiện được khá nhiều khn đúc đồng bằng đá và bằng gốm có
đủ đậu rót, đậu ngót cẩn thận, cho thấy kĩ thuật luyện đúc đồng của cư dân Đồng Đậu đã đạt đến trình độ
khá cao. Sự phong phú đa dạng của đồ xương là một đặc trưng nổi bật của VHĐĐ. Đồ xương ở đây gồm có
các loại mũi nhọn, mũi tên, mũi lao thường, mũi lao có ngạnh, vịng tay và vật hình tù và, vật hình chân
ngựa, vv. Hầu hết đều được mài nhẵn bóng rất đẹp.



Đã có hàng chục niên đại 14C cho VHĐĐ, xác định tuổi vào khoảng 3500 đến 3000 năm trước đây,
thuộc giai đoạn phát triển của thời đại đồ đồng. Người Đồng Đậu sống bằng nghề nông trồng lúa nước là
chủ yếu, ngồi ra cịn chăn ni gia súc, săn bắn, đánh cá, các nghề thủ công khá phát đạt, đặc biệt là nghề
đúc đồng.


<b>Văn Hố Đơng Sơn</b>


Văn hố khảo cổ học thời đại kim khí Việt Nam, gọi theo tên di tích Đơng Sơn trên bờ Sơng Mã tỉnh
Thanh Hoá. Các địa điểm VHĐS bao gồm những khu cư trú, những khu mộ, trong đó có mộ huyệt đất, mộ
vị hay mộ có quan tài thân cây khoét rỗng (còn gọi là mộ thuyền); phân bố rất rộng ở Bắc Bộ và Bắc Trung
Bộ, từ biên giới Việt - Trung đến bờ Sông Gianh. VHĐS được đặc trưng bằng bộ đồ đồng đa dạng và độc
đáo, gồm rìu nhiều kiểu (như rìu lưỡi xéo, rìu hình hia), giáo, dao găm (đẹp nhất là loại có cán hình người
hay động vật), các đồ đựng như thố, bình, thạp, và các nhạc cụ như chng, trống. Trống đồng loại sớm
(loại I Hêgơ) với hoa văn đẹp là tiêu biểu cho VHĐS. Hợp kim chủ yếu mà cư dân Đông Sơn đã dùng phổ
biến là đồng - thiếc - chì. Trước đây, người ta thường coi VHĐS thuộc thời đại đồ đồng, nhưng nay, do đã
tìm thấy nhiều di vật sắt cũng như lò nấu sắt, các nhà nghiên cứu cho VHĐS thuộc thời đại sắt sớm. Cư dân
Đông Sơn là cư dân nông nghiệp, chủ yếu trồng lúa, đã chăn nuôi trâu, bị, lợn, gà, biết nhiều nghề làm thủ
cơng như làm mộc sơn, làm gốm, đặc biệt là luyện kim và chế tác kim loại phát triển. Nhiều học giả ngồi
nước trước đây cho rằng VHĐS có nguồn gốc từ Trung Quốc, Trung Á và thậm chí từ Đơng Âu hay Biển
Đen. Nhưng hiện nay, với việc phát hiện các văn hố Tiền Đơng Sơn (Văn hố Tiền Đông Sơn), các nhà
khảo cổ học Việt Nam đã chứng minh được nguồn gốc bản địa của VHĐS. VHĐS tồn tại trong khoảng từ thế
kỉ 7 TCN, cho đến vài thế kỉ SCN., khi Việt Nam đã ở trong thời kì thuộc Hán. VHĐS là cơ sở cho sự ra đời
của nhà nước sơ khai ở Miền Bắc Việt Nam, mà theo truyền thuyết là nước Văn Lang thời đại các vua
Hùng.


<b>Kinh Dương Vương</b>


<i>Tổ thứ nhất của dân tộc Việt Nam, họ Hồng Bàng dựng nước. Tất cả truyền được 18 đời xưng họ Hùng</i>
Vương (theo Hùng triều ngọc phả và Thiên Nam bảo lục diễn ca).



Ngài là đời thứ nhất gọi là Kinh Dương Vương Lộc Tục, tôn dâng miếu là Hùng Vương, thứ hai là Lạc
Long Quân Sùng Lãm, thứ ba là Hùng Lân…


Quốc hiệu ta lúc ấy là Văn Lang đóng đơ ở Phong Châu (thuộc huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Phú ngày
nay). Ơng làm vua nước Xích Quỉ vào khoảng năm Nhâm Tuất (2879 tr. Tây lịch) lấy con gái Động Đinh
quan là Long nữ sinh ra Sùng Lãm, nối ngơi làm vua. Tồn lãnh thổ chia ra 15 bộ: Văn Lang, Phúc Lộc, Tân
Hưng, Võ Định, Võ Ninh, Lục Khái, Ninh Hải, Dương Tuyền, Giao Chỉ, Cửu Chân, Hoài Nam, Cửu Đức, Việt
Thường và Binh Văn. Và truyền nhau đến đời thứ 18 là Hùng Duệ.


Đến nay di tích hãy cịn trên đỉnh Hùng Sơn (Núi Hùng) cách Hà Nội 97km, cũng gọi là Núi Đền, Nghĩa
<i>Lĩnh, hay Nghĩa Cương. Bia 4 chữ lớn Cao Sơn cảnh Hùng. /</i>


<b>Lạc Long Quân</b>


<i>Nhân vật giã sử cổ Việt Nam. Vua Lạc Long Quân húy là Sùng Lãm, con vua Kinh Dương </i>


Vương họ Hồng Bàng.



Vua lấy bà Âu Cơ, sinh ra một trăm người con trai. Một hơm nói với hồng hậu: “Ta thuộc


giống rồng, nàng thuộc giống tiên, nếp sinh hoạt khác nhau, không sống chung được lâu” rồi chia


50 con theo mẹ lên miền núi, 50 con theo cha xuống miền biển. Người con trưởng nối ngôi lấy hiệu


là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu.



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>Long Quân Nam Việt gặp nàng Âu Cơ.</i>


<i>Dạo chơi sơn thủy dật dờ,</i>



<i> Đạp nhằm dấu thỏ một giờ thọ thai.</i>


<i>Nở ra nửa gái nửa trai sẵn sàng</i>


<i>Nửa thì qui phụng rồng loan</i>



<i>Nửa theo quê mẹ cho nhàn tấm thân</i>



<i>Thiếp hỏi chàng chàng nói từng câu</i>


<i>Hỏi thăm thiếp lại Tí Mẹo Dần ai sanh?</i>



<b>Hùng Vương</b>


Theo truyền thuyết, là con trai của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Truyền thuyết được ghi lại trong "Lĩnh
Nam chích quái" thời Trần kể rằng Âu Cơ kết hôn với Lạc Long Quân, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra một
trăm người con trai. Về sau, Lạc Long Quân chia tay với Âu Cơ; 50 người con theo cha xuống biển, 50
người con theo mẹ lên núi. Người con cả được tôn làm vua, gọi là Hùng Vương. Hùng Vương đặt quốc hiệu
là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (Phú Thọ), truyền ngôi được 18 đời, đều gọi là Hùng Vương. Về sau,
một số biên niên sử Việt Nam đã chép thời đại huyền thoại này vào chính sử như "Đại Việt sử lược"(thời
Trần), "Đại Việt sử kí tồn thư" (thời Lê). "Đại Việt sử lược" xếp Hùng Vương ngang với Trang Vương của
triều Chu của Trung Quốc, tức khoảng 696 - 682 Tr.CN. "Đại Việt sử kí tồn thư" thì chép từ Kinh Dương
Vương đến hết đời Hùng Vương cuối cùng vào Kỉ Hồng Bàng thị, tổng số là 2.622 năm, từ năm Nhâm Tuất
đến năm Quý Mão. Năm Quý Mão được ghi rõ là tương ứng với năm thứ 27 đời Chu Noãn Vương của
Trung Quốc, tức năm 258 tcn. Từ đó, có thể tính ra năm Nhâm Tuất là năm 2879 Tr.CN. Cũng từ cách ghi
chép của "Đại Việt sử kí tồn thư" mà người ta nói là thời đại Hùng Vương cách chúng ta 4.000 năm. Chúng
ta chưa có cứ liệu để biết các sách biên niên sử nói trên đã dựa vào căn cứ nào để ghi chép như vậy.


Ngày nay, nhiều người cho rằng thời đại Hùng Vương với quan niệm thời gian tồn tại như trên, là tương
ứng với thời kì Tiền Đông Sơn và Đông Sơn mà các nhà khảo cổ học đã đưa ra. Thời kì Tiền Đơng Sơn,
thuộc thời đại đồng thanh (ngành khảo cổ quen gọi là đồng thau), bắt đầu bằng văn hoá Phùng Nguyên,
cũng có niên đại cách ngày nay khoảng 4.000 năm. Có thể coi đó là thời kì hình thành cái lõi đầu tiên của
người Việt cổ. Nhưng các nhà sử học và khảo cổ học cho rằng chỉ đến thời kì văn hố Đơng Sơn mới có thể
nói đến sự hình thành nhà nước. Văn hố Đơng Sơn hiện nay được coi là thuộc thời đại sắt và tồn tại trong
khoảng thế kỉ 7 Tr.CN. đến thế kỉ 2 SCN. Vì vậy, nếu coi nước Văn Lang của Hùng Vương như một nhà
nước thực sự thì có thể bắt đầu vào khoảng thế kỉ 7 Tr.CN, và điều đó phù hợp với sự ghi chép của sách
"Đại Việt sử lược".


<b>Sự hình thành Nhà nước đầu tiên – Nhà nước Văn Lang</b>


<b>1. Những biến chuyển về kinh tế xã hội</b>


Từ thời kỳ Phùng Nguyên trải qua giai đoạn Đồng Đậu, Gị Mun đến Đơng Sơn, do kỹ thuật luyện kim
ngày càng phát triển đến hoàn hảo, nên công cụ bằng đồng thau dần dần thay thế hẳn công cụ bằng đá.


Ở giai đoạn đầu, giai đoạn Phùng Ngun, cơng cụ bằng đá cịn chiếm ưu thế, nền kinh tế cịn mang
tính chất ngun thuỷ. Đến giai đoạn Đồng Đậu, Gị Mun và nhất là Đơng Sơn, nhiều loại hình cơng cụ bằng
đồng ra đời và ngày càng phong phú, đa dạng như lưỡi cuốc, lưỡi cày, lưỡi thuổng, xẻng, rìu, v.v.. Mỗi loại
cơng cụ sản xuất cũng có các kiểu dáng khác nhau. Trong khoảng 200 chiếc lưỡi cày bằng đồng có tới 4
kiểu dáng, đó là lưỡi cày hình tam giác có họng tra cán to khoẻ được phân bố ở dọc sơng Thao, lưỡi cày
hình thoi, hình bầu dục được phân bố ờ vùng đồng bằng Bắc Bộ, vùng sông Mã, lưỡi cày hình xẻng vai
ngang được phân bố ở vùng làng Vạc. Cuốc cũng bao gồm nhiều kiểu như lưỡi cuốc có lỗ tra cán, cuốc
hình tam giác, cuốc có vai, cuốc hình chữ U, cuốc hình quạt, lưỡi rìu gồm có rìu hình chữ nhật, hình tứ diện
lưỡi xoè, hình lưỡi xéo, hình bàn chân, hình lưỡi lệch, ngồi ra cịn có lưỡi liềm đồng, công cụ lao động
bằng sắt.


Sự tiến bộ của công cụ sản xuất bằng đồng đã có vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế
ngày càng phát triển, đạt đến một trình độ khá cao. Nền kinh tế bao gồm nhiều ngành, nghề, trong đó nơng
nghiệp trồng lúa nước chiếm địa vị chủ đạo, phổ biến rộng rãi khắp lãnh thổ từ trung du, đồng bằng đến ven
biển.


Với việc chế tạo ra lưỡi cày, nông nghiệp dùng cày đã thay thế nông nghiệp dùng cuốc, đánh dấu bước
phát triển mới, mạnh mẽ trong nền kinh tế thời Hùng Vương. Việc nhiều loại hình cơng cụ sản xuất bằng
đồng ra đời cịn chứng tỏ bước tiến về kỹ thuật canh tác của cư dân bấy giờ. Nông nghiệp dùng cày là
nguồn cung cấp lương thực chính ni sống xã hội, trở thành cơ sở chủ yếu của mọi hoạt động khác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước địi hỏi cơng tác trị thuỷ, thuỷ lợi, khai khẩn
đất đai, mở rộng diện tích canh tác. Đã có một số tài liệu cho thấy cư dân bấy giờ đã biết sử dụng biện pháp
tưới, tiêu, "tưới ruộng theo nước triều lên xuống".



Với những công cụ bằng kim khí, cư dân Đơng Sơn đã mở rộng địa bàn cư trú, đẩy mạnh công cuộc
khai khẩn đất đai, chinh phục vùng đồng bằng, ven biển Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Cư dân đương thời đã
trồng lúa trên các loại ruộng nước,bãi và nương rẫy với những hình thức canh tác phù hợp với địa hình và
đất đai từng vùng. Lúa gồm có lúa tẻ và lúa nếp.Ngoài trồng lúa nước là chủ yếu, người đương thời còn
phát triển nghề làm vườn, trồng rau củ, cây ăn quả để làm phong phú nguồn lương thực. Khảo cổ học đã
tìm thấy dấu vết của các loại bầu bí, đậu, khoai, sắn. Thu hoạch trong nơng nghiệp ngày càng cao. Sự tích
"bánh dày bánh chưng" đã nói lên bước phát triển của nền nơng nghiệp trồng lúa thời đó. Sử cũ của Trung
Quốc cho biết vào năm 111 trước CN, sứ giả nhà Triệu đã cống cho tướng Hán là Lộ Bác Đức 1000 hũ
rượu,100 con bị. Sự kiện đó cũng chứng tỏ sự phát triển nói trên.


Cùng với nơng nghiệp, chăn nuôi, đánh cá và thủ công nghiệp cũng rất phát triển. Để phục vụ nông
nghiệp, cư dân bấy giờ đã đẩy mạnh việc chăn ni trâu, bị. Nhiều di tích văn hố Đơng Sơn có nhiều
xương trâu, bị. Các lồi gia súc, gia cầm cũng được nhân dân chăn ni rộng rãi, như lợn, gà, chó, v. v...
Nghề thủ công đạt được bước tiến rất quan trọng từ khi cư dân Phùng Nguyên phát minh ra nghề luyện kim,
nghề đúc đồng, tiến đến nghề luyện sắt ở giai đoạn Đông Sơn. Việc phát hiện được những khuôn đúc đồng
và xỉ đồng đã khẳng định nghề luyện kim do cư dân Hùng Vương sáng tạo ra. Kỹ thuật luyện đồng của
người Việt cổ thời Đông Sơn đã đạt đến trình độ điêu luyện khiến cho các học giả nước ngoài kinh ngạc và
đi đến phủ nhận tính chất bản địa của nó. Trống đồng, thạp đồng là những hiện vật tiêu biểu nhất cho trí tuệ
và tài năng, thẩm mỹ của người thợ thủ công đúc đồng bấy giờ. Thực tế cho thấy từ Phùng Ngun, Đồng
Đậu, Gị Mun đến Đơng Sơn không những số lượng các công cụ bằng đồng ngày càng tăng nhanh chóng
mà cịn phong phú, đa dạng của các loại hình và sự tiến triển về trình độ kỹ thuật, nghệ thuật.


Việc nghiên cứu và nấu luyện hợp kim đồng phù hợp với các loại hình cơng cụ khác nhau là một thành
tựu lớn của người thợ thủ công đúc đồng bấy giờ. Việc cấu tạo hợp kim để chế tạo công cụ bằng đồng thời
Hùng Vương đã trải qua 2 giai đoạn. Ở giai đoạn đầu, hợp kim gồm có đồng - thiếc, giai đoạn sau, hợp kim
gồm có đồng - chì - thiếc với tỷ lệ đồng 80-90%, cịn thiếc, chì chiếm từ 10-20%. Để làm nóng chảy hợp kim
nói trên, các thợ đúc đồng đã tạo nên một nhiệt độ trong lò luyện là từ 12000c-12500c Và bản thân lò phải
chịu được nhiệt độ 14000c. Để làm được điều đó khơng phải dễ đối với người Việt Cổ cách đây mấy ngàn
năm lịch sử.



Từ kỹ thuật luyện đồng, cư dân bấy giờ đã tiến lên một bước cao hơn có ý nghĩa rất quan trọng, tạo
nên bước ngoặt, loại trừ hẳn đồ đá. Trong một số di tích thời Hùng Vương như Tiên Hội, Gị Chiền, Đường
Mây, Gị Chiền Vậy, Đồng Mõm, Vinh Quang tìm thấy các di vật bằng sắt. Tại khu Cổ Loa tìm thấy dấu tích
chế tạo đồ sắt. Người Đơng Sơn. Chế tạo đồ sắt bằng nhiều phương pháp, từ cách luyện ra sắt xốp, rèn sạt
đến phương pháp đúc.


Sự phát triển của trình độ kỹ thuật luyện kim nói riêng và nghề luyện kim nói chung thời Hùng Vương
khơng những đã làm thay đổi về chất và nâng cao hiệu quả của công cụ sản xuất, thúc đẩy sự phát triển
mạnh mẽ của nền kinh tế mà còn tạo nên bước chuyển biến quan trọng trong quan hệ sản xuất - xã hội, đưa
đến sự phân công lao động trong xã hội. Một số thợ thủ công tách khỏi nông nghiệp.


Nghề làm gốm cũng phát triển lên một bước. Nghệ thuật nặn gốm bằng bàn xoay được cải tiến. Người
thợ gốm bấy giờ còn biết dùng phương pháp tạo hình bằng cách đổ khn vào nung trong lị kín chun
dụng. Gốm ngày càng cứng và ít thấm nước hơn, độ mịn ngày càng tăng. Trình độ tạo hình cũng ngày càng
cao hơn (các bình gốm ở phần miệng, rìa miệng, đoạn eo thắt ở cổ đều đặn, các đường song song chạy
quanh thân gốm, loại hình sản phẩm gốm phong phú, đa dạng). Tuy nhiên, nghề làm gốm bấy giờ vẫn chưa
vượt qua được giới hạn của gốm thô. Vào cuối thời Hùng Vương, đồ gốm trở nên đơn điệu và ít được chú ý
gia cơng trang trí.


Các nghề thủ cơng khác như mộc, đan lát, kéo tơ, dệt vải, dệt lụa, đóng thuyền vẫn tiếp tục phát triển.
Nghề sơn đã xuất hiện và đạt trình độ kỹ thuật khá cao vào thời Đơng Sơn (sơn có nhiều màu và trang trí
đẹp).


Sự phát triển của nền kinh tế là cơ sở cho sự mở rộng trao đổi hàng hố với nước ngồi. Hiện tượng
một số trống đồng loại I Hê gơ của nước Văn Lang ở Thái Lan, Malaixia...cũng như sự có mặt của những
lưỡi qua đồng Chiến quốc ở nhiều di tích văn hố Đơng Sơn đã chứng tỏ việc buôn bán giữa người Việt Cổ
đương thời với các quốc gia quanh vùng. Một số đồ trang sức, trâu, bị cũng đã trở thành hàng hố trong
việc buôn bán giữa Văn Lang - Âu Lạc với các nước lân bang. Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, sự
phân công lao động xã hội giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp, sự traođổi sản phẩm và các nguyên liệu
giữa các địa phương ngày càng mở rộng dưới thời Hùng Vương đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng


thêm nguồn của cải xã hội. Sản phẩm dư ngày càng nhiều dẫn đến sự phân hoá xã hội. Những của cải
chung của xã hội (do lao động cơng ích, do thu nhập từ ruộng đất công của chiềng, chạ) dần dần bị một số
người tìm cách chiếm đoạt, biến thành của riêng. Chế độ tư hữu tài sản ra đời và ngày càng phát triển theo
sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cũng dẫn đến một chuyển biến xã hội quan trọng, đó là sự phân hố
thành kẻ giàu người nghèo.


<b>2. Sự phân hóa xã hội</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

dùng bằng đá, gốm. Như vậy là, ở giai đoạn đầu thời Hùng Vương, quan hệ cộng đồng nguyên thuỷ mới
bước vào quá trình tan rã.


Từ giai đoạn Đồng Đậu, Gị Mun đến Đơng Sơn, mức độ phân hoá xã hội ngày càng rõ nét hơn. Ở khu
mộ táng Làng Cải (Việt Trì, Phú Thọ) thuộc giai đoạn Đơng Sơn có 307 mộ táng thì số mộ nghèo khơng có
hiện vật tuỳ táng chiếm tới 84,1%. Số mộ có từ 1 đến 2 hiện vật chiếm 10,1%. Số mộ có từ 11 đến 15 hiện
vật chiếm 11,8%. Số mộ có từ 16 hiện vật trở lên chiếm 1%. Ngơi mộ có số hiện vật nhiều nhất là 23 trong
đó có 15 giáo, 1 dao găm, 2 rìu, 1 thuổng, 1 thạp, 1 vị gốm, 1 bộ khố thắt lưng có tượng rùa. Di tích mộ
táng Làng Cả cho thấy sự phân hóa xã hội ở đây khá rõ rệt. Người nghèo chiếm đa số trong xã hội. Tại khu
mộ Thiệu Dương (Thanh Hố) có 115 mộ thuộc giai đoạn Đơng Sơn thì 2 mộ khơng có hiện vật chơn theo,
53 mộ chỉ có đồ gốm, 20 mộ có từ 5 đến 20 hiện vật 4 mộ có trên 20 hiện vật, đặc biệt ở một mộ, số hiện vật
lên tới 36. Trong số 5 mộ hình thuyền ở Việt Khê (Hải Phịng) có 4 mộ khơng có hiện vật, 1 mộ có 107 hiện
vật trong đó có 93 hiện vật bằng đồng (bao gồm cơng cụ sản xuất, nhạc khí,đồ đùng q giá, vũ khí). Cũng
có một số khu mộ lại khơng thấy có hiện tượng khác nhau về hiện vật. Theo một số tài liệu thống kê 714 mộ
thuộc niên đại Đông Sơn của 5 khu mộ táng nổi tiếng là Đông Sơn (102 mộ), Vinh Quang (51), LàngVạc
(226), Làng Cả (219), Thiệu Dương (116 mộ) thì số ngơi mộ nghèo (khơng có hay chỉ có một ít đồ gốm và
đồ trang sức bằng đá đơn giản) chiếm phần lớn (51,9%). Những ngôi mộ ở mức trung bình, có một số đồ
gốm, có thêm một ít cơng cụ và vũ khí bằng đồng, hoặc có thêm cơng cụ sắt chiếm 41,4%. Những ngơi mộ
giàu có, chơn theo nhiều đồ đồng, đồ sắt, những đồ sang trọng chỉ phiếm một tỷ lệ nhỏ (6,5%).


Từ sự phân tích các hiện vật trong các khu mộ táng thời Hùng Vương cho thấy xã hội bấy giờ đã có
hiện tượng phân hố thành các tầng lớp giàu, nghèo khác nhau. Sự phân hố đó diễn ra từ từ, ngày càng rõ


nét hơn qua một quá trình lâu dài từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn. Tuy nhiên, sự phân hoá xã hội bấy giờ
chưa sâu sắc.


Sự phân hoá tài sản là biểu hiện của sự phân hoá xã hội. Gắn liền với hiện tượng này là sự ra đời của
nô lệ, gia trưởng, dẫn tới sự hình thành các tầng lớp xã hội khác nhau:


- Quý tộc: gồm có các tộc trưởng, tù trưởng bộ lạc, thủ lĩnh liên minh bộ lạc và những người giàu có
khác.Tầng lớp bình dân tự do: là tầng lớp đơng đảo nhất trong xã hội, giữ vai trị là lực lượng sản xuất chủ
yếu.


- Nô tỳ: tầng lớp thấp nhất, phải phục vụ quý tộc.


Như vậy, đã hình thành tầng lớp trên của xã hội ngày càng giàu có và nắm giữ các cương vị quản lý
công việc công cộng của chiềng, chạ (làng xã về sau). Những tiền đề đầu tiên, cần thiết cho sự hình thành
nhà nước thời HùngVương vào giai đoạn Đơng Sơn đã xuất hiện. Sự ra đời của công xã nông thôn do yêu
cầu tự vệ chống các mối đe doạ từ bên ngoài, yêu cầu thuỷ lợi của nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước
đã thúc đẩy nhanh và mạnh quá trình hình thành nhà nước, đưa đến sự ra đời của nhà nước Văn Lang thời
Hùng Vương vào giai đoạn Đông Sơn (thế kỷ VII-VI trước CN).


Các công xã thị tộc tan rã, làng xóm định cư (cơng xã nơng thơn) xuất hiện. Dựa vào các di tích khảo cổ
từ Phùng Ngun đến Đơng Sơn, ta thấy địa bàn cư trú của cư dân bấy giờ đã mở rộng dần từ vùng rừng
núi xuống đồng bằng,ven biển, tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng, ven các con sông lớn ở Bắc Bộ, bắc
Trung Bộ. Các khu vực cư trú thường khá rộng, từ hàng ngàn mét vuông đến một vài vạn mét vng. Tầng
văn hố cũng khá dày, nhất là giai đoạn Đơng Sơn. Những khu vực cư trú đó là những xóm làng định cư,
trong đó có nhiều dịng họ khác nhau chung sống và có một dịng họ chính, thường gọi là kẻ, chiềng, chạ.
Mỗi xóm làng có một số gia đình theo chế độ gia đình phụ hệ, nhưng người phụ nữ vẫn có vị trí quan trọng
trong gia đình và ngồi xã hội, được mọi người coi trọng. Trong xóm làng, quan hệ huyết thống vẫn được
bảo tồn bên cạnh quan hệ láng giềng (địa lý).


<b>3. Nhà nước Văn Lang ra đời</b>



Vào thời kỳ Đông Sơn, do những yêu cầu về thuỷ lợi và tự vệ chống ngoại xâm, các bộ lạc sống rải rác
ở vùng Bắc Bộ và Trung Bộ đã tự nguyện liên minh với nhau. Bộ lạc Lạc Việt là hạt nhân của liên minh đó.
Phạm vi phân bố của văn hố Đơng Sơn cũng phù hợp với cương vực của nước Văn Lang thời Hùng
Vương. Trong phạm vi cương vực đó có 15 bộ lạc có mối quan hệ chặt chẽ do q trình cùng chung sống,
có chung một số phận lịch sử, một nhu cầu để tồn tại và phát triển, đã dần dần tạo nên cho cả cộng đồng cư
dân một lối sống, phong hoá chung. Và như vậy, từ các đơn vị cộng cư của một xã hội nguyên thuỷ bộ lạc
đã hình thành các đơn vị (bộ) của một quốc gia sơ khai cùng với sự hình thành lãnh thổ chung và một tổ
chức chung để quản lý và điều hành xã hội.


<i>- Nhà nước Văn Lang</i>


Thư tịch cổ chép lại các truyền thuyết về nước Văn Lang là nhà nước sơ khai ở nước ta, đứng đầu là
vua, gọi là Hùng Vương. Hùng Vương là người chỉ huy quân sự đồng thời chủ trì các nghi lễ tơn giáo. Dưới
Hùng Vương có các lạc hầu, lạc tướng. Lạc tướng cịn trực tiếp cai quản cơng việc của các"bộ". Nước Văn
Lang có 15 bộ (trước là 15 bộ lạc). Lạc tướng (trước đó là tù trưởng) còn gọi là phụ đạo, bộ tướng. Dưới bộ
là các cơng xã nơng thơn (bấy giờ có tên gọi là kẻ, chiềng, chạ). Đứng đầu kẻ, chạ, chiềng là các bồ chính.
Bên cạnh bồ chính có lẽ cịn có một nhóm người hình thành một tổ chức có chức năng như một hội đồng
cơng xã để tham gia điều hành công việc của công xã nông thơn, mỗi cơng xã có nơi trung tâm hội họp, sinh
hoạt cộng đồng, thường là một ngôi nhà công cộng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

thư ghi theo lời tâu của Mã Viện là một thứ luật tục (tập quán pháp chứ chưa phải là luật pháp thành văn).
Sách thường ghi cư dân nước ta bấy giờ là người Lạc Việt và quốc hiệu là Văn Lang do vua Hùng đặt.


Sách Đại Việt Sử lược ghi rằng: "Đời Trang Vương nhà Chu (696-682 trước CN) ở bộ Gia Ninh có
người lạ, dùng ảo thuật thu phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đơ ở Văn Lang, hiệu nước
là Văn Lang. Việt Vương Câu Tiễn (505-462 trước CN) cho người đến dụ hàng nhưng Hùng Vương không
theo. Dựa vào các tài liệu và những thành tựu nghiên cứu về thời đại Hùng Vương hiện nay, có thể nói thời
điểm ra đời của nước Văn Lang với tính chất là một nhà nước sơ khai là vào khoảng thế kỷ VII-VI trước CN
(vào giai đoạn đầu Đơng Sơn, là kết quả của một q trình hình thành, chuẩn bị các điều kiện ra đời của nhà


nước về các mặt).


Sự ra đời của nước Văn Lang dù cịn ở hình thức sơ khai và có phần sớm với sự phân hoá xã hội chưa
sâu sắc nhưng đã đánh dấu một bước phát triển có ý nghĩa thời đại của lịch sử Việt Nam - mở đầu thời đại
dựng nước và giữ nước của dân tộc.


<b>Nước Văn Lang - Họ Hồng Bàng</b>


Đây là giai đoạn mang tính chất nửa lịch sử nửa thần thoại khi con người Việt cổ cịn chưa có


chữ viết. Lịch sử chỉ được ghi nhớ lại qua truyền khẩu mà thôi.



Dựa vào truyền thuyết, sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên viết rằng Lộc Tục lên


làm vua vùng đất phía Nam núi Ngũ Linh (Quảng Đơng) vào năm 2879 trước Công Nguyên. Lộc


Tục lấy hiệu là Kinh Dương Vương, đặt quốc hiệu là Xích Quỷ. Cương vực Xích Quỷ khá rộng lớn,


phía Bắc là núi Ngũ Linh, phía Nam giáp nước Hồ Tơn (sau này là vương quốc Champa), phía Tây


giáp Ba Thục (Tứ Xun) và phía Đơng là biển Nam Hải.



Kinh Dương Vương lấy nàng Thần Long, con gái của chúa hồ Động Đình sinh được một người


con là Sùng Lãm. Sùng Lãm lên làm vua thay Kinh Dương Vương lấy hiệu là Lạc Long Quân.


Tương truyền rằng Lạc Long Quân có gốc rồng từ dịng họ của mẹ nên thường ở dưới động nước.


Khi người dân có việc cần giải quyết, thường đến trước động nước kêu to lên: "Bố ơi, ở đâu? Hãy


đến với ta". Thế là Lạc Long Quân liền lên cạn giải quyết mọi việc khó khăn cho dân chúng.



Lạc Long Quân gặp được Âu Cơ và lấy nàng làm vợ. Họ sinh ra một trăm người con trai (hoặc


100 trứng).



Một hôm, khi các người con trai đã trưởng thành Lạc Long Quân nói với nàng Âu Cơ: "Ta là


giống rồng, sống dưới nước, nàng là tiên, sống trên cạn. Thủy hỏa khắc nhau, không sống lâu bền


với nhau được".




Thế là hai người chia tay. Năm mươi người con ở lại với cha dưới động nước. Năm mươi người


con kia theo mẹ lên cạn. Họ đến sống ở đất Phong Châu (Vĩnh Phú), tôn người con cả lên làm vua


và cùng nhau xây dựng cơ đồ. Cũng từ truyền thuyết này mà người Việt vẫn cho rằng tổ tiên của


mình là tiên rồng.



Người con cả lên làm thủ lĩnh vùng đất mới. Đó là Hùng Vương thứ nhất. Bắt đầu một thời đại


mà sử sách gọi là thời đại Hùng Vương. Hùng Vương đặt tên nước là Văn Lang, đóng đơ ở Bạch


Hạc (Việt Trì, Vĩnh Phú). Vua chia nước ra làm 15 bộ. Đa số các em của vua cai trị các bộ này. Họ


được gọi là Lạc tướng và có quyền cha truyền con nối.



1. Văn Lang (Bạch Hạc, Phú Thọ)
2. Châu Diên (Sơn Tây)


3. Phúc Lộc (Sơn Tây)


4. Tân Hưng (Hưng Hóa - Tuyên Quang)
5. Vũ Định (Thái Nguyên - Cao Bằng)
6. Vũ Ninh (Bắc Ninh)


7. Lục Hải (Lạng Sơn)
8. Ninh Hải (Quảng Yên)
9. Dương Tuyền (Hải Dương)


10. Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình)
11. Cửu Chân (Thanh Hóa)


12. Hồi Hoan (Nghệ An)
13. Cửu Đức (Hà Tĩnh)


14. Việt Thường (Quảng Bình - Quảng Trị)


15. Bình Văn (?)


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng là nhà nước phôi thai đầu tiên của Việt Nam, còn rất đơn giản, mặc dù mới
hình thành nhưng đã cố kết được lịng người. Từ tình cảm cộng đồng dẫn đến ý thức cộng đồng, thể hiện rõ tình đồng
bào ruột thịt. Họ bước đầu hiểu được mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người, thấy được sức mạnh của cộng đồng
trong việc làm thủy lợi, trao đổi sản phẩm và đấu tranh giữ gìn bản làng, đất nước.


Thời đại Hùng Vương có hai truyền thuyết được loan truyền mãi trong dân gian thể hiện rõ tinh


thần đoàn kết của cộng đồng các dân tộc Việt. Đó là truyền thuyết về Phù Đổng Thiên Vương và


truyền thuyết về Sơn Tinh - Thuỷ Tinh.



<b>Phù Đổng Thiên Vương</b>



Vào đời Vua Hùng Vương thứ 6 có giặc Ân rất mạnh, đã thơn tính nhiều nước xung quanh.


Chúng kéo sang xâm lược nước ta. Thế giặc rất mạnh, quan quân không sao chống cự nổi. Nhà Vua


cho sứ giả đi rao tìm người tài giỏi ra giúp nước.



Lúc bấy giờ ở làng Phù Đổng, bộ Vũ Ninh có một nhà giàu đã 62 tuổi mới sinh được một con


trai, lên ba mà vẫn chưa biết nói. Cậu bé suốt ba năm chỉ nằm ngửa không tự ngồi hay đứng được.


Khi sứ giả đến làng rao cầu hiền, cậu bé thốt nhiên nói được và xin với cha cho mời sứ giả nhà


Vua vào hỏi chuyện. Khi sứ giả đến, cậu bé xin sứ giả về tâu Vua đúc cho cậu một con ngựa sắt,


một thanh kiếm, một cái nón sắt rồi cậu sẽ ra quân diệt giặc.



Từ khi sứ nhà Vua về làng, cậu bé mỗi ngày một lớn, ăn khoẻ lạ thường. Ngày tháng trôi qua,


cậu lớn phổng lên thành người khổng lồ.



Khi giặc Ân kéo đến chân núi Châu Sơn (thuộc Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) thì sứ giả đem ngựa,


kiếm và nón sắt dâng cho cậu. Cậu vươn vai đứng dậy rồi nhảy lên ngựa. Ngựa chạy đến đâu,


miệng phun ra lửa đến đó. Cậu xơng vào đội ngũ giặc, sải kiếm chém giặc như chém chuối. Kiếm


gẫy, cậu nhổ cả các cụm tre mà đánh giặc. Không đương nổi sức mạnh thần diệu của chàng trai Phù



Đổng, tàn quân giặc quỳ gối xin hàng.



Phá xong giặc Ân, người Anh hùng làng Phù Đổng đi lên đỉnh núi Sóc Sơn, cả người lẫn ngựa


bay lên trời. Vua nhớ ơn, truyền lập đền thờ ở làng Phù Đổng và sắc phong là Phù Đổng Thiên


Vương.



<b>Sơn Tinh - Thủy Tinh</b>



Vua Hùng Vương thứ 18 kén chồng cho con gái là Mỵ Nương. Sơn Tinh (Thần Núi) và Thủy


Tinh (Thần Nước) cùng đến cầu hôn. Hùng vương hứa gả con gái cho người nào ngày mai mang lễ


vật đến trước. Sơn Tinh đem lễ vật đến sớm hơn và được đưa Mỵ Nương về núi. Thủy Tinh đến sau


nổi giận dâng nước sông lên đánh Sơn Tinh. Nước dâng lên đến đâu Sơn Tinh làm cho núi đồi cao


lên đến đó. Cuối cùng Thủy Tinh thua trận phải rút nước. Hằng năm, cuộc chiến thường diễn lại.



Truyền thuyết này phản ánh các trận lụt ở lưu vực sông Hồng và việc đắp đê trị thủy của tổ tiên


ta có từ xa xưa.



<b>Ngồi ra cịn có các truyền thuyết tiêu biểu sau:</b>



Thời đại Hùng Vương có nhiều truyền thuyết được loan truyền mãi trong dân gian thể hiện rõ


tinh thần đoàn kết của cộng đồng các dân tộc Việt. Ngoài các truyền thuyết về Phù Đổng Thiên


Vương - Thánh Gióng và Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, cịn có các truyền thuyết về Bọc trăm trứng, về


Bánh Dày - Bánh Chưng, về Dưa hấu, về Chứ Đồng Tử, về Cột đá thề...



<b>Bọc trăm trứng</b>



Vua đầu nước ta - Kinh Dương Vương là cháu bốn đời Viêm Đế Thần Nông - vị thần trông coi


nghề nông ở trên trời). Kinh Dương Vương lấy Thần Long nữ sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long


Quân đi tuần thú gặp Âu Cơ ở động Lăng Xương kết làm vợ chồng, đưa về núi Nghĩa Lĩnh. Âu Cơ


sinh ra một bọc trăm trứng nở thành trăm con trai. Khi các con khơn lớn, Lạc Long Qn nói: "Ta là



giống Rồng, nàng là giống Tiên, không thể ở lâu với nhau được". Bèn chia 50 con cho Âu Cơ đem


lên núi, còn Lạc Long Quân dẫn 49 người con xuống biển, để lại người con cả nối ngôi hiệu là


Hùng Vương đặt tên nước Văn Lang đóng đơ ở thành Phong Châu, truyền được 18 đời đều gọi là


Hùng Vương.



<b>Bánh Giày - Bánh Chưng</b>



Vua Hùng thứ 6 muốn chọn con hiền cho nối ngôi, mới ban lệnh thi cỗ. Các hồng tử ra sức tìm


kiếm sơn hào hải vị bày biện. Riêng Lang Liêu chỉ dùng gạo nếp thơm chế ra bánh giày, bánh


chưng. Vua thấy Lang Liêu hiếu thảo siêng năng, sáng chế ra hai bánh quý bèn truyền ngôi cho làm


Hùng Vương thứ 7



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

An Tiêm là con ni Vua Hùng, nói năng kiêu ngạo, bị đày ra đảo hoang. Vợ chồng An Tiêm


chỉ được mang theo một ít lương thực và con dao phát. Chàng thấy đàn quạ đến đảo ăn thứ quả da


xanh lòng đỏ, dây bò trên mặt đất. An Tiêm lấy một quả ăn thử thấy ngon ngọt khỏe người, bèn trỉa


đất rắc hạt trồng khắp đảo. Đến vụ thu hoạch chàng gọi thuyền buôn vào bán. Vua biết tin liền cho


đón về.



<b>Chử Đồng Tử</b>



Cơng chúa Tiên Dung con Vua Hùng 18 thích du chơi phóng khống. Nàng cưỡi thuyền xi


sơng Cái, đến bãi Tự Nhiên sai căng màn tắm. Không ngờ dội lớp cát trôi lộ ta chàng đánh cá ở trần


vùi mình trong hố, tên là Chử Đồng Tử. Tiên Dung cho rằng duyên trời xe, bèn lấy chàng làm


chồng. Vua cha biết tin giận sai quân đến bắt, thì cả vùng đất cùng Chử Đồng Tử và Tiên Dung bay


lên trời.



<b>Cột đá thề</b>



</div>

<!--links-->

Bang su kien lich su Viet Nam hien dai
  • 3
  • 834
  • 7
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×