Tải bản đầy đủ (.pdf) (153 trang)

Đặc điểm tri nhận của động từ tri giác tiếng việt đối chiếu với tiếng anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 153 trang )

1

DẪN NHẬP
0.1. Lí do chọn đề tài
Ngơn ngữ học tri nhận (Cognitive Linguistics) là một khuynh hướng của ngôn
ngữ học hiện đại ra đời vào nửa sau của thế kỉ XX. Nó có đối tượng nghiên cứu
đặc thù là mối quan hệ giữa ngơn ngữ và các q trình tư duy của con người như trí
tuệ, sự hiểu biết, sự thơng hiểu, trí nhớ, ý niệm hóa thế giới … trên cơ sở kinh
nghiệm, suy luận logic, sự cảm thụ của con người về thế giới khách quan cũng như
cách thức mà con người tri giác và ý niệm hóa các sự vật và sự tình của thế giới
khách quan đó. Trong đó, NNHTN liên kết với những ngành khoa học kế cận như
tâm lí học, văn hóa học, nhân học, triết học, tin học… nghiên cứu bao quát tất cả
những đối tượng có thể quan sát trực tiếp được (thế giới vật chất) và những đối
tượng không thể quan sát trực tiếp được (thế giới tinh thần, tâm linh), ngữ nghĩa hóa
chúng dẫn tới xóa nhịa ranh giới giữa kiến thức ngôn ngữ và kiến thức bách khoa.
Bên cạnh đó chúng ta phải “đứng trên địa hạt của ngơn ngữ và lấy nó làm chuẩn
cho các biểu hiện khác của hoạt động ngơn ngữ” [31, 43]. Từ đó, chúng ta có thể
nhìn thấy khơng chỉ cấu trúc nội tại của ngơn ngữ và những qui luật vận động của
nó tác động vào q trình biến ngơn ngữ thành phương tiện giao tiếp quan trọng
nhất của con người mà còn cả cấu trúc của suy nghĩ gắn chặt vào ngôn ngữ với tư
cách là cơng cụ của tư duy. Vì thế, NNHTN nghiên cứu mối quan hệ tác động qua
lại giữa năng lực ngôn ngữ và năng lực tri nhận của con người như năng lực cấu tạo
hình ảnh, suy luận logic, thu nhận kiến thức mới. Nó nghiên cứu dựa trên mối liên
hệ chiều sâu giữa ngôn ngữ và tư duy. Nhiệm vụ trọng tâm của NNHTN là miêu tả
và thuyết giải cấu trúc tri nhận nội tại và động lực của người nói và người nghe. Họ
được xem như một hệ thống chế biến thông tin bao gồm một số lượng hữu hạn
những thành tố độc lập và phân bố thông tin ngôn ngữ trên những cấp độ khác nhau.
Mục đích của NNHTN nhằm nghiên cứu hệ thống đó và thiết lập những ngun lí
quan trọng nhất của nó. NNHTN chỉ ra bản chất của biểu tượng tinh thần của tri
thức ngơn ngữ và q trình chế biến tri thức này. [5, 52-53]. Hay nói một cách khác,
NNHTN có mục đích nghiên cứu một cách bao qt và toàn diện chức năng tri nhận




2

(nhận thức) của ngôn ngữ thông qua các hoạt động tri nhận.
HĐTN (cognitive activity) là một quá trình thiết định giá trị (nghĩa) của biểu
thức ngơn ngữ, nghĩa là tính thơng tin của nó. HĐTN tạo cho con người khả năng đi
đến một quyết định, một sự hiểu biết nhất định. Đó là hoạt động tư duy dẫn đến chỗ
thơng hiểu, thuyết giải một cái gì đó. Kết quả của HĐTN là sự tạo ra một hệ thống
những ý niệm giúp con người hiểu biết, giả định, suy nghĩ, tưởng tượng về các đối
tượng của thế giới hiện thực và các thế giới có thể có khác. Nó thuộc về hệ thống ý
niệm của con người. HĐTN (hay quá trình tri nhận) không đồng nhất với hoạt động
nhận thức (quá trình nhận thức). Nếu quá trình nhận thức trải qua hai giai đoạn: cảm
tính (cảm giác, tri giác) và lí tính (biểu tượng, khái niệm) thì HĐTN với tư cách là
q trình xử lí và chế biến thơng tin có nhiệm vụ thu thập mọi dữ kiện do hoạt động
nhận thức cung cấp để biến chúng thành tri thức.
Do HĐTN của con người có quan hệ trực tiếp với mơi trường sống của con
người là cộng đồng dân tộc và văn hóa của cộng đồng ấy, nên HĐTN mang đặc thù
văn hóa - dân tộc. Nếu hoạt động nhận thức cho ra thành phẩm cuối cùng là khái
niệm mang tính phổ qt chung cho tồn nhân loại thì HĐTN cho ra thành phẩm
cuối cùng là ý niệm vừa mang tính phổ qt vừa mang tính đặc thù văn hóa - dân
tộc. [4, 103]
Khác với những dạng khác của HĐTN, ngôn ngữ có thuộc tính hai mặt. Với tư
cách cơng cụ tri nhận thì ngơn ngữ là một hệ thống kí hiệu đóng vai trị quan trọng
trong sự biểu hiện (mã hóa) và trong sự cải biến thơng tin. Đó là mặt bên trong của
ngơn ngữ. Ở mặt bên ngồi, ngơn ngữ là một đối tượng độc lập đối với con người.
Chức năng biểu hiện của nó về mặt lịch sử không tách rời khỏi chức năng giao tiếp.
[5, 20-21]
NNHTN lấy con người làm trung tâm (dĩ nhân vi trung). Đó là một khuynh
hướng mới để giải quyết những nhiệm vụ của tri nhận: xử lí thơng tin và chuyển

hóa nó thành tri thức của con người nhờ vào ngôn ngữ tự nhiên được con người sử
dụng trong đời thường. Đó là toàn bộ các HĐTN của con người đối với thế giới
khách quan mà trước hết là phải thông qua các cơ quan cảm giác (các giác quan)


3

hay cũng có thể gọi là các cơ quan tri giác. Do đó, tri nhận phải dựa vào những cứ
liệu kinh nghiệm do tri giác cảm tính cung cấp, mặt khác, có cơ sở trong nhận thức
lí tính, đặc biệt thơng qua khái niệm với thuộc tính khái qt, trừu tượng hóa của nó.
Đồng thời NNHTN cũng thiết lập mối liên hệ đặc biệt với tri giác bởi chính qua
lăng kính tri giác nhờ khả năng vật thể hóa của nó. Nghĩa là nhờ khả năng của nó
biến những sự kiện không quan sát trực tiếp được thành những sự kiện có thể quan
sát trực tiếp được con người mới nhận được đầy đủ những thông tin cần thiết về thế
giới để xử lí, chế biến và chuyển thành tri thức, ý thức trong bộ não con người.
Vậy sự tri nhận thế giới khách quan của con người thông qua các cơ quan tri
giác được thể hiện trên bình diện ngơn ngữ như thế nào? Chúng có vai trị, ảnh
hưởng gì? Từ góc độ NNHTN chúng ta có thể lý giải được những gì cho các vấn đề
ngơn ngữ có liên quan đến các cơ quan tri giác? Không gian tri nhận (khơng gian
tâm thức) của các ĐTTG có đặc điểm như thế nào, có những yếu tố nào? Cơ chế tri
nhận, mơ hình tri nhận, khung tri nhận của các chất liệu ngôn ngữ chỉ sự tri giác ra
sao? Cách thức chúng ta tri nhận thế giới rồi phản ánh lên ngơn ngữ là gì? Ngữ
nghĩa tri nhận của ĐTTG có gì nổi bật? Sự chuyển dịch NNTN của chúng qua lại
giữa tiếng Việt và tiếng Anh có những tương đồng và khác biệt gì? Đó thực sự là
những vấn đề mà chúng tôi rất quan tâm, băn khoăn và rất muốn góp phần làm sáng
tỏ.
Bên cạnh đó, khi một người Việt học tiếng Anh hay một người nói tiếng Anh
học tiếng Việt, ở đây cụ thể là khi học các khái niệm, các cấu trúc cú pháp, ngữ
pháp trong việc sử dụng tiếng Anh ở phần các ĐTTG, chắc chắn sẽ vấp phải những
vấn đề tri nhận không hẳn lúc nào cũng sẽ tương đồng hoàn toàn như trong tiếng

Việt. Vấn đề đặt ra ở đây là làm sao để người học có thể diễn đạt cũng như thấu
hiểu ý nghĩa một cách lưu lốt, chính xác trong q trình tương tác qua lại giữa hai
ngơn ngữ. Đó cũng chính là lí do và mục tiêu mà chúng tơi mong muốn đạt được
thơng qua cơng trình nghiên cứu của luận án này nhằm góp phần hỗ trợ người Việt
học tiếng Anh và người nói tiếng Anh học tiếng Việt ở phần các ĐTTG.


4

0.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
0.2.1. Ngôn ngữ học tri nhận trên thế giới
Khoa học tri nhận bắt đầu phát triển ở Mỹ vào khoảng những năm 60 của thế kỷ
XX, song song với một khuynh hướng rất mới của NNH thế giới lúc đó là ngữ pháp
cải biến (sau đó là ngữ pháp tạo sinh) của nhà NNH nổi tiếng Chomsky. Hai xu thế
này có ảnh hưởng lẫn nhau và vì thế khơng phải ngẫu nhiên mà trong những người
được coi là sáng lập ra khoa học tri nhận có tên Chomsky và nhà tâm lí học nổi
tiếng Miller. NNHTN và lí thuyết tạo sinh-cải biến là hai học thuyết tồn tại song
song với nhau, tuy NNHTN ra đời hơi muộn hơn một chút . Hai hình hệ NNH này
không chống đối, loại trừ nhau, mà là hai mặt mâu thuẫn của một sự thống nhất. Đại
biểu của cả hai trào lưu NNH này đều lấy mục đích cuối cùng là nhận thức bản chất
của ngôn ngữ con người, song hướng đi của họ nhằm tìm bản chất của ngôn ngữ là
khác nhau. Nếu thuyết tạo sinh-cải biến chủ trương đi vào chiều sâu của cấu trúc
ngôn ngữ (những "cấu trúc sâu") trên cơ sở những dữ kiện ngơn ngữ quan sát trực
tiếp được và hình thức hố chúng đến độ lí tưởng gần giống như những cơng thức
tốn học, thì các nhà NNHTN đi theo một hướng hồn tồn khác. Đối tượng nghiên
cứu của họ là ngơn ngữ thường nhật của con người ở dạng tự nhiên nhất với cả
những dữ kiện ngơn ngữ có thể quan sát trực tiếp được và cả những dữ kiện không
thể quan sát trực tiếp được như trí tuệ, tri thức, ý niệm, ý thức... Có thể hình dung
các hướng nghiên cứu của hai học thuyết này - tạo sinh-cải biến và tri nhận - giống
như những hướng nghiên cứu của vật lí học: một hướng đi sâu vào thế giới vi mô nguyên tử và các hạt cơ bản, một hướng khác đi vào thế giới vĩ mô - vũ trụ và các

tinh cầu. Hai hướng ngược nhau, nhưng cùng nhằm một mục đích - nghiên cứu cấu
trúc và sự vận động của vật chất. Với quyển "Syntactic Structures" N. Chomsky
không những đã tạo ra một cuộc cách mạng thật sự trong NNH, mà còn gây ảnh
hưởng cơ bản đến sự phát triển của những lĩnh vực khoa học khác như tâm lí học,
triết học, giáo dục học, xã hội học, nhân học, lí thuyết trí tuệ nhân tạo và làm một
"cú hích" cho sự xuất hiện khoa học tri nhận (cognitive science). Chúng ta có cơ sở
khoa học rằng NNHTN và thuyết tạo sinh-cải biến cuối cùng sẽ gặp nhau ở một


5

điểm nào đó mà ở đó sẽ phát hiện ra những quy luật chi phối hoạt động của con
người, hướng tới khơng chỉ "giải thích thế giới" mà cịn "cải tạo thế giới". Bản thân
Chomsky từng thừa nhận rằng lí thuyết ngữ pháp tạo sinh của ông được thực hiện
trong khuôn khổ của cuộc cách mạng tri nhận vốn đưa lại một cách hiểu mới về bản
chất và hành vi của con người. Trong quan niệm của Chomsky tâm lí học có vai trị
rất lớn. Và quả thực, tâm lí học tri nhận đã có một vai trị địn bẩy như thế đối với
NNHTN sau này.
Cuối những năm 70, chịu ảnh hưởng của tâm lý học tri nhận, trong NNH bắt đầu
xuất hiện những nghiên cứu đầu tiên mang hơi hướng tri nhận luận và được khơi
nguồn cảm hứng từ sự chia li và tranh đấu với hệ tư tưởng của ngữ pháp tạo sinh.
Bước đột phá trên con đường hình thành của NNHTN là việc các nhà nghiên cứu
thấy rằng nhất thiết phải tách ra khảo sát trong số các khả năng tri nhận của con
người cái khả năng ngơn ngữ, cái khả năng nói và hiểu (những điều nghe thấy) và
miêu tả các tri thức ngôn ngữ được lưu trữ trong đầu óc con người dưới dạng các
biểu tượng tinh thần đặc biệt. Các nội dung này đều trực tiếp liên quan đến những
vấn đề cốt lõi của tất cả các khoa học tri nhận. Vì thế, việc NNH nghiên cứu chúng
từ góc độ của mình đã khiến cho NNH cùng với tâm lí học trở thành ngành học
trung tâm của khoa học tri nhận. Hai ngành học này cùng với lí thuyết thơng tin, trí
tuệ nhân tạo, tin học và gần đây là cả nhân học tri nhận, xã hội học tri nhận, triết

học tập hợp lại trong một thiên hướng lí thuyết chung liên ngành tri nhận luận có
mục đích nghiên cứu các hệ thống biểu hiện tri thức, các q trình xử lí thơng tin
cũng như nghiên cứu những nguyên lí tổ chức chung các khả năng tri nhận của con
người trong một cơ chế thống nhất và xác lập các mối quan hệ, sự tác động qua lại
giữa chúng. [35, 12-14]
Thuật ngữ “ngữ pháp tri nhận” lần đầu tiên xuất hiện năm 1975 trong bài báo
của G. Lakoff và G. Thompson: “Giới thiệu ngữ pháp tri nhận”.
Năm 1980, G. Lakoff và M. Johnson cho xuất bản quyển “Metaphor we live by”.
Quyển sách đã được đánh giá cao và ngay lập tức hai ông trở thành nổi tiếng như
những người đi tiên phong trong lĩnh vực NNHTN.


6

Sau đó năm 1985 ra đời xuất bản phẩm bằng tiếng Anh đầu tiên của G.
Fauconier: “Mental Spaces”.
Năm 1987, công bố quyển I “Foundations of Cognitive Grammar” của R.
Langacker (quyển II- năm 1991). Cũng trong năm 1987, ra đời các quyển sách của
G. Lakoff: “Women, Fire and Dangerous”, của M. Johnson: “The Body in the Mind”
và nhiều cơng trình khác.
Ngồi những cơng trình nghiên cứu trực tiếp nói đến NNHTN, nghĩa là có dùng
thuật ngữ và phương pháp NNHTN cịn có vơ số những cơng trình khác trong đó
khơng dùng thuật ngữ này nhưng nội dung lại gắn kết với NNHTN. Chẳng hạn như
những nghiên cứu của T. van Dijk, T. Givón, G. Harman, Yu. Apresian …
Thời điểm ra đời của NNHTN thường được tính là năm 1989, là năm mà tại
Daisbürg (Đức) các nhà khoa học tham dự Hội thảo đã thông qua quyết nghị thành
lập Hội NNHTN và sau đó bắt đầu ra tạp chí “Cognitive Linguistics”. Tuy nhiên, từ
trước năm 1989 đã có những cơng trình mà ngày nay được coi là mẫu mực, là “kinh
điển” trong việc áp dụng quan điểm tri nhận luận vào nghiên cứu các hiện tượng
ngôn ngữ, chẳng hạn ngữ pháp tri nhận của Langacker, khung ngữ nghĩa (Frame

Semantics) của Fillmore, ngữ nghĩa học tạo sinh của Lakoff, ngữ nghĩa học ý niệm
(Conceptual Semantics) của Jackendoff, và các nghiên cứu của Talmy, Kay,
Johnson–Laird, Fauconier… Thậm chí có ý kiến cho rằng “thời đại của tri nhận”
trong NNH phải tính từ cuốn Các cấu trúc cú pháp của Chomsky (in năm 1957) bởi
vì Chomsky đã kêu gọi NNH phải trở thành một bộ phận của tâm lý học tri nhận,
phải coi ngôn ngữ là một hệ thống tri nhận, mục tiêu tối thượng của NNH là tìm
hiểu cái cơ chế phổ quát của ngơn ngữ tiềm ẩn trong trí não con người.
Từ lúc ra đời, mặc dù còn những bất đồng nhất định, NNHTN đã dần dần xác
định được đối tượng và phạm vi nghiên cứu của mình, các tư tưởng và các khái
niệm then chốt, các nguyên lí và các phương pháp chủ đạo.
Tuy nhiên, NNHTN cịn rất non trẻ và nó chỉ là một trường phái (như ngữ pháp
tạo sinh) chứ không phải là một phân ngành của NNH (như NNH xã hội, NNH tâm
lí, NNH nhân học …).


7

Và trên thực tế đã hình thành hai cách nhìn nhận về phạm vi nghiên cứu của
NNHTN.
Theo nghĩa hẹp thì NNHTN chủ yếu là ngữ nghĩa học tri nhận Mỹ (của Lakoff
và Johnson) và ngữ pháp học tri nhận Mỹ (của Langacker) cộng với một số nghiên
cứu khác của các học giả châu Âu như Rudzka-Ostyn, Taylor, Geeraerts, Haiman…
Theo nghĩa rộng, NNHTN bao gồm rất nhiều đường hướng nghiên cứu khác
nhau: từ khung ngữ nghĩa học và ngữ pháp kết cấu của Fillmore đến loại hình học
tri nhận của Talmy, Hawkins, Croft… đến lí thuyết ngữ nghĩa của Wierzbicka, lí
luận không gian tinh thần của Fauconnier và những vấn đề như ngữ pháp hóa
(grammaticalization), tính phỏng hình (iconicity)…
Các phạm vi rộng hẹp này trong quan niệm về NNHTN đều có liên quan đến
xuất thân của các nhà nghiên cứu từ ba nguồn nhân lực chủ yếu khác nhau. Thứ
nhất là các học giả vốn xuất thân từ ngữ pháp và ngữ nghĩa tạo sinh (nhưng đã li

khai hoặc đối lập lại) như Fillmore và Lakoff… Thứ hai là các nhà NNH chức năng
nghiên cứu về các phổ niệm và loại hình ngơn ngữ như Givón, Talmy, Haiman,
Croft… Thứ ba là các nhà triết học và tâm lí học quan tâm nghiên cứu về tri nhận
như Rosch, Johnson, Gibbs, Putnam…
0.2.2. Ngôn ngữ học tri nhận ở Việt Nam
NNHTN ở Việt Nam có thể kể đến một số nghiên cứu như dưới đây.
Năm 2005 Lý Toàn Thắng xuất bản quyển NNHTN -từ lý thuyết đại cương đến
thực tiễn tiếng Việt [35] trong đó trực tiếp bàn về NNHTN. Lý Tồn Thắng đã đặt
vấn đề nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy (1983), giữa ngôn ngữ và
sự tri nhận không gian (1994) trong tinh thần của NNHTN.
Đăng trong Tạp chí ngơn ngữ số 9/2002 là bài báo của Lê Vân Thanh, Lý Toàn
Thắng, “Ba giới từ tiếng Anh “at”, “on”, “in” (thử nhìn từ góc độ cơ chế tri nhận
không gian trong sự so sánh đối chiếu với tiếng Việt)”. [33]
Trên Tạp chí ngơn ngữ số 8/2005 có bài báo của Trần Trương Mỹ Dung, “Tìm
hiểu ý niệm “buồn” trong tiếng Nga và tiếng Anh” [11] nghiên cứu về “ý niệm” như
một trong những phạm trù cơ bản của NNHTN.


8

Ngồi ra có một số cơng trình nghiên cứu khác tuy không nhắc đến NNHTN
nhưng tinh thần và thực chất nằm trong phạm vi trung tâm chú ý của NNHTN.
Chẳng hạn, Nguyễn Đức Tồn, Tìm hiểu đặc trưng văn hố- dân tộc của ngôn ngữ
và tư duy của người Việt (trong sự so sánh với những dân tộc khác) [40] trong đó
tác giả nghiên cứu “Sự phạm trù hố hiện thực và bức tranh ngôn ngữ về thế giới”,
“Ngữ nghĩa các từ chỉ bộ phận cơ thể người”.
Trong cơng trình của Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hố Việt Nam [36]
(x. chương Hai – Văn hoá nhận thức), tác giả nghiên cứu những ý niệm “không
gian”, “thời gian” và “con người” trong những mối quan hệ đặc thù với văn hố
Việt Nam [36, 122 – 172].

Cũng có thể kể đến cơng trình của Hồ Lê, Quy luật ngơn ngữ, quyển 5, “Bản thể
ngơn ngữ” [27].
Ngồi ra cịn có nhiều cơng trình khác nữa của các tác giả Việt Nam, đặc biệt là
những nghiên cứu về từ vựng học, về ẩn dụ, hoán dụ, về thành ngữ tiếng Việt, …
0.2.3. Liên quan đến đề tài luận án
0.2.3.1. Trên thế giới
Khi định nghĩa ĐTTG, các nhà NNH trên thế giới có sự nhất quán cao ở việc
cho rằng chúng là các động từ diễn đạt các hoạt động của năm giác quan: thị giác,
thính giác, khứu giác, vị giác và xúc giác. [77], [93], [109]…
Rogers [93] chia động từ tri giác thành ba nhóm: động từ tri nhận (cognitive)
(Vd: John saw the bird.), động từ hoạt động (active) (Vd: John looked at the bird.)
và động từ miêu tả (flip) (Vd: The bird looked healthy.).
Động từ tri nhận (cognitive perception verbs) cũng được coi là ĐTTG thụ động
(passive perception verbs) [89, 99], ĐTTG tĩnh tại (inert perception verbs) [82, 23],
động từ trải nghiệm (experience verbs) [109, 123], động từ không chủ ý (nonintentional, non-deliberate) [48, 2]. Vì thế những động từ này không được dùng ở
dạng đang diễn tiến hay thức mệnh lệnh.
Tương phản với động từ tri nhận (cognitive perception verbs) là động từ hoạt
động (active perception verbs). Viberg [109, 123] cho rằng các động từ này diễn tả


9

hoạt động hay “q trình khơng hạn định được kiểm sốt có ý thức của tác thể
người” (unbound process that is consciously controlled by a human agent).
Nhóm ĐTTG thứ ba được gọi là nhóm ĐTTG miêu tả (descriptive, flip) [93],
động từ kết quả (resultative) [96, 83], hay hệ từ (copulative) [109, 124]. Tom
Scovel [96, 83] dùng thuật ngữ kết quả (resultative) bởi vì theo ơng những động từ
này miêu tả kết quả của việc sử dụng một giác quan nào đó.
Trong khi nghiên cứu ĐTTG tập trung chủ yếu mặt loại hình học hơn 53 ngơn
ngữ khác nhau, Viberg [109] cũng đã khẳng định rằng có tồn tại một hệ thống cấp

bậc tơn ti giữa các ĐTTG. Trong đó thị giác có thứ bậc cao nhất, tiếp theo đến thính
giác và sau đó mới đến các giác quan cịn lại.
Viberg [109, 136-137] cũng đưa ra một đúc kết liên quan đến hệ thống cấp bậc
là “một động từ có nghĩa cơ sở thuộc một giác quan có thứ bậc cao hơn trong hệ
thống sẽ có thể có nghĩa mở rộng bao hàm một số (hoặc tất cả) nghĩa của các động
từ thuộc các giác quan có thứ bậc thấp hơn” (a verb having a basic meaning
belonging to a sense modality higher in the hierarchy can get an extended meaning
that covers some (or all) of the sense modalities lower in the hierarchy). Điều này
có nghĩa là ĐTTG có cấp bậc càng cao thì tính đa nghĩa của nó càng lớn.
Những dẫn chứng trên đây cho thấy ĐTTG đã được các nhà NNH trên thế giới
nghiên cứu rất kỹ và rất sớm. Gruber [71, 943] đã nghiên cứu hai động từ look và
see và cho rằng chúng là các động từ chuyển động (verbs of motion of some sort).
Khi so sánh các kết cấu của động từ thị giác và động từ chuyển động, Gruber thấy
chúng có nhiều điểm chung. Chằng hạn, động từ look hay động từ chuyển động đều
sử dụng giới từ to hay towards để chỉ hướng. Quan điểm này của Gruber đã gây
tranh cãi dữ dội giữa các nhà NNH. Van Develde [53] đã chỉ trích quan niệm của
Gruber và đưa ra các chứng cứ về cú pháp và ngữ nghĩa để chứng minh ĐTTG
không phải là động từ chuyển động.
Khi ở trong câu, ĐTTG trở thành bộ phận của q trình tri giác, có liên quan đến
sự hiện hữu của các thực thể quan trọng khác. Với quan điểm này, Kryk [77, 118]
chỉ ra các yếu tố trong q trình tri giác gồm có: hoạt động tri giác (perception), đối


10

tượng tri giác (percipient) và chủ thể tri giác (percept) theo chức năng hoạt động
trong câu. Ông cho rằng các thực thể này là phổ quát và rất cần được phân tích,
nghiên cứu. Fillmore [62, 42] thì gọi những thực thể đó là nghiệm thể (experiencer)
và đối thể (patient) hay đối tượng (objective).
Usoniene [107] thì nghiên cứu ĐTTG trực tiếp và gián tiếp trong tiếng Lithuana

và tiếng Anh. Bà cho rằng tri giác trực tiếp hay gián tiếp chủ yếu là do sự chọn lựa
bổ tố. Chẳng hạn mệnh đề that và mệnh đề nguyên mẫu là dấu hiệu của tri giác gián
tiếp. Nghiên cứu của bà cũng đưa ra nhiều dữ liệu thống kê chứng minh sự ảnh
hưởng của thì và thể trong việc lựa chọn bổ tố.
Thật ra việc nghiên cứu bổ tố của ĐTTG đã được nhiều nhà NNH thực hiện rất
kỹ lưỡng. Dik và Hengeveld [54] nghiên cứu loại hình bổ tố của ĐTTG đã chỉ ra
bốn loại bổ tố là tri giác tức thời một đối tượng (immediate perception of an
individual) (Vd: I saw your brother last night.), tri giác tức thời một sự tình
(immediate perception of a state of affairs) (Vd: I saw him walk down the street.),
tri nhận nội dung một tiền đề (mental perception of a propositional content) (Vd: I
saw that Mary had been crying.) và tri nhận nội dung tiền đề của một hành động
ngôn từ (reception of the propositional content of a speech act) (Vd: I hear you will
probably sing in the Royal Albert Hall next week.). Nghiên cứu bổ tố của ĐTTG
cịn có nhiều cơng trình khác như Cinque [51], Van der Meer [85], Borgonovo [49]
so sánh tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha, Felser [61], Miller và Lowrey [86] so sánh
tiếng Anh và tiếng Pháp…
Rojo và Valenzuela [94] nghiên cứu cách thức quá trình tri giác được cấu trúc
trong tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha. Họ lấy Khung ngữ nghĩa làm cơ sở phân
tích và nêu ra các yếu tố trong khung gồm có chủ thể chủ động (perceptor-active),
chủ thể thụ động (perceptor-passive), cái được tri giác (perceived), cách thức
(manner), cơ quan (organ), vị trí (location), con đường (path) và nguồn (source).
Whitt [111] nghiên cứu ĐTTG trong tiếng Anh và tiếng Đức, chia ĐTTG thành
hai nhóm là thiên chủ thể (subject – oriented) và thiên đối thể (object – oriented).
Một số nhà ngơn ngữ khác thì so sánh đối chiếu ĐTTG trên bình diện ngữ nghĩa và


11

tương đương dịch trong các ngôn ngữ khác nhau. Rojo và Valenzuela [94] nghiên
cứu tương đương dịch và mức độ tương đương của các ĐTTG khi chuyển dịch qua

lại giữa tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha. Stamenkovic [97] thì so sánh đối chiếu
tiếng Serbi và tiếng Anh về mặt ngữ nghĩa và tương đương dịch, chú ý đặc biệt đến
sự chuyển đổi ẩn dụ của các động từ và sự dịch chuyển ngữ nghĩa cơ sở của chúng.
0.2.3.2. Ở Việt Nam
Như đã nói ở trên, NNHTN ở Việt Nam cịn chưa có được nhiều nghiên cứu sâu
rộng trên tất cả các khía cạnh, các vấn đề vốn dĩ đã vô cùng phong phú và đa dạng
của tiếng Việt.
Liên quan đến đề tài nghiên cứu chúng tôi thấy trong quyển NNHTN (ghi chép
và suy nghĩ) [4, 91-97] tác giả có nói đến ngữ nghĩa của nhìn thấy, nghe thấy, nếm
thấy, ngửi thấy, sờ thấy. Tác giả cũng có phân tích ngữ nghĩa của nhìn thấy. Tuy
nhiên, tác giả cũng chỉ mới giới thiệu đến hay chỉ mới sơ lược phân tích chứ chưa
nghiên cứu sâu và cũng chưa xây dựng MHTN cho các động từ nói trên.
Nguyễn Vân Phổ (Tạp chí ngơn ngữ số 8 / 2009) với bài báo “Vị từ tri giác
Tiếng Việt” [30] đã phân tích vị từ tri giác dưới góc độ ngữ nghĩa - cú pháp, theo
quan điểm của ngữ pháp chức năng. Theo Nguyễn Vân Phổ: “vị từ tri giác” chỉ có ý
nghĩa quy ước, trong đó có thể kể đến hai tiểu nhóm phân biệt nhau:
(1) vị từ biểu thị hành động nhằm tri giác đối tượng
(2) vị từ biểu thị tri giác
Nguyễn Kim Thản nhìn dưới góc độ từ vựng, xếp vị từ tri giác vào nhóm “động
từ cảm nghĩ – nói năng” vì “những động từ này biểu thị sự hoạt động của trí não,
của các cơ quan cảm giác và ngơn ngữ”
Cao Xn Hạo thì nhắc đến vị từ tri giác khi bàn về hành động vô tác, và cho
rằng một vị từ tri giác, chẳng hạn như nhìn, biểu thị một q trình ứng xử, có hai
diễn tố (hành thể và mục tiêu).
Nguyễn Tất Thắng [34, 1-7] thì phân tích vai trị của thị giác trong ngơn ngữ
theo cách nhìn tri nhận luận, tuy nhiên, trong đó cũng khơng phân tích các động từ
thị giác.


12


Đỗ Minh Hùng [23, 40-45] thì so sánh đối chiếu nhóm động từ chỉ hoạt động thị
giác trong tiếng Anh và tiếng Việt dưới góc độ từ vựng - ngữ nghĩa.
Hồng Thị Hịa thì có nhiều bài nghiên cứu các động từ tri giác, trong đó khơng
liên quan đến NNHTN có các bài “Hiện tượng chuyển nghĩa bằng con đường ngữ
pháp hóa của một số động từ chỉ hoạt động của các giác quan trong tiếng Việt và
tiếng Anh” [16, 6-11]; “Các động từ chỉ hoạt động của các giác quan có khả năng
đánh dấu chứng cứ sự tình trong tiếng Anh và tiếng Việt” [17, 389-393]; “Động từ
chỉ hoạt động của thị giác trong tiếng Anh và tiếng Việt” [18, 97-106]; “Tính chủ ý
và khơng chủ ý ở các vị từ chỉ hoạt động của các giác quan trong tiếng Anh và tiếng
Việt” [19, 14-19]; “Thử áp dụng khung lý thuyết của Dik, S.C (1989) vào phân loại
các ĐTTG tiếng Anh” [21, 11-17].
Có một bài viết của Hồng Thị Hòa liên quan đến NNHTN là “Hiện tượng đa
nghĩa của động từ “see” trong tiếng Anh nhìn từ góc độ NNHTN” [20, 11-17].
Ngay ở bài viết này hay trong Luận án Tiến sĩ của mình (12/ 2013) thì tuy đề tài là
Nghiên cứu lớp ĐTTG tiếng Anh (liên hệ với tiếng Việt) thuộc chuyên ngành NNH
so sánh đối chiếu nhưng Hồng Thị Hịa lấy đối tượng nghiên cứu là tồn bộ các
ĐTTG và phân tích theo nhiều quan điểm NNH khác nhau một cách dàn trải, khơng
có trọng tâm nghiêng về một quan điểm nào sâu sắc và cũng hoàn tồn khơng dành
nhiều đất nghiên cứu theo quan điểm NNHTN.
Tháng 12 năm 2014 có bài báo “Thử khảo sát các ĐTTG bằng thị giác trong
tiếng Việt và tiếng Anh” đăng trên tạp chí Tạp chí Ngơn ngữ số 12. [12, 10-20] Tuy
nhiên, bài báo này không mang lại giá trị gì nhiều về mặt khoa học. Các tác giả đã
xác định khơng chính xác đối tượng nghiên cứu, có sự lẫn lộn giữa động từ và cụm
động từ, giữa ĐTTG và không phải ĐTTG. Chẳng hạn như look for, look out là các
cụm động từ chứ không phải động từ [12, 14] ; các động từ như trông coi, trông giữ,
[12, 13] liếc, chớp mắt, lườm…[12, 16 - 19] cả trong tiếng Việt và tiếng Anh đều
không phải là ĐTTG.
Bên cạnh các trích dẫn ở trên chúng tơi cũng đã cố gắng tìm kiếm từ nhiều
nguồn tư liệu khác nhau để lấy làm tài liệu tham khảo khi viết đề tài này nhưng



13

ngồi một số tác giả nói trên chúng tơi chưa tìm được bất cứ cơng trình hay bài viết
nào về vấn đề có liên quan. Ngay cả các tác giả nêu trên cũng chưa ai thực sự
nghiên cứu đến các ĐTTG một cách sâu sắc theo quan điểm của NNHTN. Có lẽ đây
là một vấn đề cịn mới, nằm trong phạm vi nghiên cứu của một NNHTN cũng còn
mới và trẻ nên chưa được nghiên cứu một cách sâu sắc và có hệ thống.
0.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong phạm vi của luận án này, chúng tơi xin giới hạn phạm vi nghiên cứu của
mình ở nhóm các ĐTTG đại diện cho các giác quan trong tiếng Việt là nhìn, nghe,
ngửi, nếm, sờ và thấy cùng với những động từ đối chiếu tương ứng trong tiếng Anh
theo bảng như sau:
Chưa có yếu tố thấy

Có yếu tố thấy

Tiếng Việt

Tiếng Anh

Tiếng Việt

Tiếng Anh

Nhìn

Look


Thấy, Nhìn thấy

See

Nghe

Listen

Nghe thấy

Hear

Ngửi

Smell

Ngửi thấy

Smell

Nếm

Taste

Nếm thấy

Taste

Sờ


Touch

Sờ thấy

Feel

Bảng 0.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng khảo sát chủ yếu của luận án là các câu có chứa các ĐTTG ở bảng
trên trong các bộ tác phẩm đối dịch Việt – Anh và Anh – Việt.
0.4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
0.4.1. Phương pháp nghiên cứu
0.4.1.1. Phương pháp tổng hợp, thống kê
Dựa vào các kết quả thu thập được chúng tôi tiến hành tổng hợp, thống kê để
làm cơ sở giải quyết các vấn đề ngôn ngữ có liên quan đến đề tài nghiên cứu.


14

0.4.1.2. Phương pháp miêu tả, phân tích
Cùng lúc đó chúng tơi tiến hành miêu tả và phân tích để từ đó giải quyết các vấn
đề NNHTN có liên quan.
0.4.1.3. Phương pháp so sánh đối chiếu
Trong khi tiến hành nghiên cứu đề tài chúng tôi cũng song song thực hiện thủ
pháp so sánh đối chiếu các cặp động từ với nhau và với tiếng Anh tương ứng.
0.4.2. Nguồn ngữ liệu
Chúng tôi thu thập các tư liệu liên quan đến đề tài luận án từ nhiều nguồn khác
nhau như sau:
-Nguồn ngữ liệu khảo sát tương đương tiếng Việt và tiếng Anh.
Chúng tôi đã khảo sát ngữ liệu lấy từ hai bộ tác phẩm Tình yêu sau chiến tranh –
Love after war (47 truyện) và Những cuộc phiêu lưu của Sherlock Holmes – The

adventures of Sherlock Holmes (12 truyện). Tổng số đơn vị khảo sát tìm thấy trong
ngữ liệu tiếng Việt là 1951 đơn vị và trong tiếng Anh là 1997 đơn vị theo bảng
thống kê như sau:
Ngữ liệu tiếng Việt

Số đơn vị

Ngữ liệu tiếng Anh

Số đơn vị

Nhìn

553

Look

590

Nhìn thấy

163
See

900

Thấy

740


Nghe

421

Listen

90

Nghe thấy

56

Hear

355

Ngửi

2
Smell

10

Ngửi thấy

3

Nếm

1

Taste

5

Nếm thấy

1


15

Sờ

10

Touch

40

Sờ thấy

1

Feel

7

Tổng cộng

1951


Tổng cộng

1997

Bảng 0.2 Ngữ liệu nghiên cứu
-Các công trình đã nghiên cứu về NNHTN, đặc biệt là các cơng trình đã
nghiên cứu có liên quan đến đề tài được viết bằng tiếng Việt và tiếng Anh của các
tác giả trong và ngồi nước.
-Sách, giáo trình về NNHTN.
-Các tài liệu tham khảo trên mạng có liên quan đến đề tài của luận án.
0.5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
0.5.1. Về lí luận
Góp phần vào việc nghiên cứu một phân nhóm của động từ tiếng Việt, làm sáng
tỏ chúng trên phương diện NNHTN cũng như góp phần bổ sung chứng minh thêm
sự giàu đẹp và trong sáng của tiếng Việt.
Khảo sát và so sánh đối chiếu đặc điểm tri nhận của ĐTTG trong tiếng Anh và
tiếng Việt nhằm làm sáng tỏ những tương đồng và dị biệt giữa hai ngơn ngữ. Đồng
thời cũng nhằm mục đích giúp người học tiếng hiểu rõ hơn, sâu sắc hơn về hai ngơn
ngữ và nhờ đó có thể ứng dụng vào việc nghiên cứu cũng như sử dụng tiếng của
mình một cách chính xác hơn, sáng đẹp hơn và tinh tế hơn.
Là cơng trình nghiên cứu chun sâu về ĐTTG trên cơ sở lí luận NNHTN vận
dụng, kế thừa, kết hợp nhuần nhuyễn các lí thuyết NNH tri nhận cũ và mới, các
quan điểm khoa học tri nhận hiện đại, cập nhật. Các đặc điểm tri nhận của ĐTTG sẽ
được soi sáng một cách đầy đủ qua lăng kính của NNHTN với những phương pháp
nghiên cứu tri nhận nổi bật trên thế giới từ Khung ngữ nghĩa của Fillmore đến Mơ
hình lí tưởng của Jackendoff đến Khơng gian tri nhận của Fauconnier, từ Ngữ pháp
truyền thống cho đến MIP của Pragglejaz rồi đến MIPVU của Gerard Steen.
Thêm nữa, dựa trên những đặc điểm tri nhận rút ra từ nghiên cứu này, chúng ta
có thể góp thêm ý kiến lí giải cho nhiều vấn đề ngơn ngữ như ẩn dụ, hốn dụ, ý



16

niệm hóa, cách thức ngơn ngữ được hình thành trong tâm thức chúng ta và được
hiểu giữa người nghe và người nói, cách chúng ta tạo ra và tri nhận ngôn ngữ… Các
kết quả nghiên cứu này một lần nữa củng cố thêm, giải thích và chứng minh thêm
ngơn ngữ là sản phẩm chứa đựng tri thức đa lĩnh vực trong cuộc sống. Vì vậy, nó
địi hỏi phải có sự phân tích liên ngành khi nghiên cứu ngơn ngữ để thấu hiểu ngôn
ngữ và sử dụng ngôn ngữ một cách hoàn hảo.
0.5.2. Về thực tiễn
Khảo sát được sự khác biệt về lượng thông tin trong khi phiên dịch Anh - Việt,
Việt – Anh cũng như những khác biệt trong việc cấu trúc hóa các hoạt động tri giác
vào trong ngơn ngữ của tiếng Việt và tiếng Anh. Điều này sẽ hỗ trợ tích cực cho
cơng tác dịch thuật giữa hai ngôn ngữ, giúp cho việc chuyển dịch ý niệm giữa hai
ngơn ngữ được thẩm mỹ, chính xác và tinh tế hơn.
Vận dụng các đặc điểm tri nhận khảo sát được có thể giúp ích rất nhiều trong
dạy học và sử dụng ngôn ngữ. Chẳng hạn như giúp người học đưa ra phát ngôn
đúng cấu trúc chủ thể, động từ, thực thể. Sau đó, người học có thể mở rộng phát
ngơn bằng cách thêm các bổ tố cách thức, vị trí, chiều, nguồn phát, khoảng cách…
một cách chính xác và phong phú. Người học và sử dụng ngôn ngữ cũng sẽ thấu
hiểu, sản sinh hay chuyển dịch ngôn ngữ tốt hơn nếu nắm vững cơ chế nhận – phát,
điểm nhìn, tính gián tiếp và khả năng tri giác có chi phối như thế nào lên ý nghĩa
của phát ngôn.
Qua nghiên cứu đặc điểm tri nhận của ĐTTG chúng ta sẽ có cơ sở để đi sâu vào
nghiên cứu các cơ chế ẩn dụ của ĐTTG cũng như có thể ứng dụng vào việc nghiên
cứu giảng dạy tiếng một cách đúng nhất, hiệu quả nhất tránh được các sai lầm cũng
như các khập khiễng về tri nhận ngôn ngữ và đánh giá chính xác tri năng ngơn ngữ
của người học, tạo cơ sở để xây dựng phương pháp giảng dạy tiếng một cách khoa
học nhất, phù hợp nhất và có hiệu quả nhất đối với người học, người lĩnh hội ngôn

ngữ mới một cách tự nhiên nhất.
0.6. Bố cục luận án
Bố cục của luận án gồm có 3 chương. Nội dung của các chương cụ thể như sau:


17

-Chương 1: Cơ sở lí luận
Trong chương này chúng tơi khảo sát các quan điểm và nguyên lí cơ bản của
NNHTN trong việc nghiên cứu ngơn ngữ. Từ đó xác định các khái niệm và các lí
luận cơ sở để xây dựng nội dung của luận án và làm rõ các đặc điểm tri nhận của
ĐTTG, so sánh đối chiếu chúng giữa tiếng Việt và tiếng Anh. Bộ máy các khái
niệm và lí luận cơ sở đó gồm có: tri giác, tri nhận, mối liên hệ giữa tri giác và tri
nhận, ĐTTG, và đặc điểm tri nhận. Trong các đặc điểm tri nhận chúng tôi sẽ làm rõ
các vấn đề: KGTN, CCTN, MHTN, Khung tri nhận, NNTN, Logic tri nhận, Tiêu
điểm tri nhận và Ẩn dụ ý niệm.
-Chương 2: Không gian tri nhận của động từ tri giác
Trong chương này chúng tôi tập trung khảo sát, so sánh đối chiếu các yếu tố có
mặt và chi phối KGTN của ĐTTG.
Trước tiên là khảo sát CCTN, MHTN của các ĐTTG tiếng Việt và tiếng Anh.
Sau đó nghiên cứu các đặc điểm KGTN của ĐTTG.
Các yếu tố trong KGTN của ĐTTG gồm có nhóm chính là các yếu tố vật thể và
các yếu tố phi vật thể. Các yếu tố vật thể gồm có CTTN, thực thể được tri nhận, cơ
quan tri giác, nguồn. Các yếu tố phi vật thể gồm có các yếu tố không gian, các yếu
tố bản thể và các yếu tố thông tin. Các yếu tố không gian gồm có vị trí tri nhận của
chủ thể và đối thể, khoảng cách tri nhận, đường dẫn tri nhận, chiều tri nhận, độ nét,
phân lớp, qui hoạch. Các yếu tố bản thể gồm có cách thức tri nhận, tính chủ ý, tính
tri giác, tính trực tiếp-gián tiếp, văn hóa, trí tuệ, dân tộc, địa lí, chính trị, tư duy. Các
yếu tố thơng tin gồm có cơ chế nhận-phát, điểm nhìn và tiêu điểm tri nhận.
-Chương 3: Ngữ nghĩa tri nhận của động từ tri giác

Trong chương này chúng tôi tập trung khảo sát, so sánh đối chiếu các đặc điểm
nổi bật về NNTN của ĐTTG. Trước hết, chúng tôi nêu các đặc điểm thú vị về logic
tri nhận của ĐTTG trong đó nhấn mạnh ở chỗ ý nghĩa phủ định và tính chân ngụy.
Ý nghĩa phủ định của ĐTTG ngồi các yếu tố logic hình thức chi phối ra cịn phụ
thuộc vào năng lực tri giác của chủ thể. Tính chân ngụy trong các phát ngơn có
chứa ĐTTG thì phụ thuộc cả logic hình thức và logic phi hình thức. Nó cũng bị chi


18

phối mạnh mẽ bởi năng lực tri giác. Tiếp theo chúng tôi áp dụng cách phân loại ngữ
nghĩa của ĐTTG theo quan điểm của các nhà NNH trên thế giới đối với tiếng Anh
để phân loại ngữ nghĩa của ĐTTG tiếng Việt. Sau đó chúng tơi khảo sát các kiểu
chuyển dịch NNTN của ĐTTG từ tiếng Việt sang tiếng Anh và ngược lại, so sánh
đối chiếu những điểm tương đồng và dị biệt giữa hai ngôn ngữ. Cuối cùng chúng tơi
khảo sát ẩn dụ tri nhận của ĐTTG trong đó làm rõ cơ chế ẩn dụ và các phương thức
ẩn dụ tri nhận của ĐTTG tiếng Việt và tiếng Anh.


19

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
Trước hết, đây là một luận án đặt mục tiêu nghiên cứu dựa trên hệ thống cơ sở lí
luận của NNHTN, vì thế đầu tiên chúng tôi nghiên cứu, kế thừa và vận dụng có
chọn lọc các quan điểm và ngun lí cơ bản của NNHTN trong việc nghiên cứu
ngôn ngữ như sau.
1.1. Một số quan điểm và nguyên lí cơ bản của ngôn ngữ học tri nhận trong
việc nghiên cứu ngôn ngữ

Mặc dù có nhiều cách nhìn nhận về phạm vi nghiên cứu của NNHTN, theo
nhiều nhà nghiên cứu trong NNHTN có một số quan điểm và nguyên lí cơ bản đáng
chú ý trong việc nghiên cứu ngôn ngữ như sau.
Trước hết, ngôn ngữ không phải là một khả năng tri nhận tự trị (autonomous).
Nguyên lí này đối lập với giả thuyết nổi tiếng của ngữ pháp tạo sinh cho rằng ngôn
ngữ là một khả năng tri nhận tự trị hay là một module biệt lập với các khả năng tri
nhận phi ngơn ngữ. Nó thừa nhận sự biểu hiện của tri thức ngôn ngữ về cơ bản
giống y như sự biểu hiện của các cấu trúc ý niệm khác, rằng các q trình trong đó
tri thức được sử dụng khơng khác về cơ bản với các khả năng tri nhận mà con người
sử dụng ngồi lĩnh vực ngơn ngữ. Nói cách khác, không nên coi ngôn ngữ là bộ
phận thiên bẩm hoàn toàn độc lập với khả năng tri nhận, cơ chế ngôn ngữ chỉ là một
phần của cơ chế tri nhận phổ quát. Nguyên lí này dẫn đến hai hệ luận quan trọng.
Thứ nhất, tri thức ngôn ngữ (tri thức về ý nghĩa và hình thức) về cơ bản là cấu
trúc ý niệm và biểu hiện ngữ nghĩa về cơ bản là biểu hiện ý niệm. Theo các nhà
NNHTN các biểu hiện về cú pháp, từ pháp và âm vị học về cơ bản cũng mang tính
ý niệm bởi vì các âm thanh và các phát ngôn phải được tạo sinh ở đầu ra và nhận
hiểu ở đầu vào của các quá trình tri nhận chi phối các hoạt động nói – viết, nghe –
đọc vốn là hai q trình đều liên quan tới trí não.
Thứ hai là các quá trình tri nhận, vốn chi phối sự sử dụng ngơn ngữ (đặc biệt là
sự tạo thành và chuyển tải ý nghĩa bằng ngơn ngữ) về ngun lí là giống như các


20

khả năng tri nhận khác. Điều này có nghĩa là sự tổ chức và trừu xuất tri thức ngôn
ngữ không khác gì nhiều sự tổ chức và trừu xuất các tri thức khác trong trí não và
những khả năng tri nhận mà chúng ta ứng dụng khi nói và hiểu cũng khơng khác gì
nhiều những khả năng tri nhận mà chúng ta ứng dụng cho những nhiệm vụ tri nhận
khác như tri giác bằng mắt, hoạt động suy luận hay vận động. Do đó, ngơn ngữ là
một khả năng tri nhận của con người và theo quan điểm tri nhận thì ngơn ngữ là sự

tri giác thời gian thực (real-time perception) và sự tạo sinh theo thời gian các chuỗi
đơn vị biểu trưng phân lập, được cấu trúc hóa.
Nói như vậy khơng có nghĩa là các nhà NNHTN phủ định khả năng ngôn ngữ
bẩm sinh của con người. Họ chỉ từ chối cách nhìn tự trị về nó. Họ cơng nhận có một
thành tố thiên phú quan trọng thuộc về những khả năng tri nhận chung của con
người và một số thuộc tính bẩm sinh đó đã tạo nên cái khả năng ngơn ngữ mà chỉ
lồi người mới có. Tuy nhiên cần thấy rằng tính thiên bẩm của các khả năng tri
nhận không phải là điều quan tâm chủ yếu của NNHTN. Điều nó quan tâm trước
hết là vai trị của các khả năng tri nhận chung trong ngôn ngữ. Vì thế nhiều nghiên
cứu của NNHTN có mục đích là làm sáng tỏ các cấu trúc ý niệm và các khả năng tri
nhận được ứng dụng cho ngôn ngữ và nhằm chỉ ra rằng ngơn ngữ có thể được mơ
hình hóa một cách hợp lí bằng cách sử dụng chính những cấu trúc ý niệm và những
khả năng tri nhận chung này.
Chẳng hạn như tâm lí học tri nhận. NNHTN đã ứng dụng các mơ hình của tâm lí
học tri nhận như:
Các mơ hình về kí ức (để nghiên cứu về sự tổ chức các tri thức ngôn ngữ trong
các khung / miền (frames / domains) và sự tổ chức các tri thức ngữ pháp trong
mạng lưới các quan hệ phân loại và các quan hệ khác).
Các mơ hình về chú ý và tri giác (nhất là của tâm lí học Gestalt để nghiên cứu
các q trình ý niệm hóa trong ngữ nghĩa học).
Các mơ hình về phạm trù hóa (đặc biệt là các điển dạng – prototypes), tính trung
tâm có phân hạng và mơ hình về cấu trúc phạm trù để nghiên cứu các phạm trù ngữ
nghĩa và ngữ pháp.


21

Nguyên lí tiếp theo của NNHTN là ngữ nghĩa và ngữ pháp là sự ý niệm hóa
(conceptualization). Ngun lí này nói lên cách tiếp cận của NNHTN đối lập lại với
ngữ nghĩa điều kiện chân ngụy (truth – conditional semantics) vốn cũng thống trị

trong NNH đương thời như ngữ pháp tạo sinh. NNHTN cho rằng không thể quy cấu
trúc ý niệm vào sự tương ứng đơn giản về điều kiện chân ngụy với thế giới, rằng
một phương diện chủ yếu của khả năng tri nhận của con người là sự ý niệm hóa
kinh nghiệm để giao tiếp và sự ý niệm hóa các tri thức ngơn ngữ mà chúng ta có
được. Cho nên cần phải nghiên cứu tất cả các phương diện của cấu trúc ý niệm như
cấu trúc của các phạm trù, tổ chức của các tri thức và đặc biệt là vai trò chủ đạo của
các biến tố và các kết cấu ngữ pháp trong việc cấu trúc kinh nghiệm theo những
cách riêng biệt; cũng như quá trình ý niệm hóa ở các hiện tượng ngữ nghĩa từ vựng
như đa nghĩa và ẩn dụ và một số quan hệ từ vựng ngữ nghĩa khác.
Nguyên lí thứ ba là tri thức ngôn ngữ nảy sinh ra từ sự sử dụng ngơn ngữ.
Ngun lí này đối lập với cả ngữ pháp tạo sinh lẫn ngữ nghĩa điều kiện chân ngụy
vốn cho rằng các sơ đồ và các phạm trù chung, trừu tượng (đôi khi được coi như
bẩm sinh) là cái chi phối sự tổ chức các tri thức ngôn ngữ và quy cho nhiều hiện
tượng ngữ pháp và ngữ nghĩa chỉ có tư cách “ngoại biên”.
Các nhà NNHTN cho rằng các phạm trù và các cấu trúc trong ngữ nghĩa, ngữ
pháp, từ pháp và âm vị học đều được xây dựng trên cơ sở tri nhận của chúng ta về
các phát ngôn riêng biệt trong khi sử dụng chúng. Quá trình này của sự trừu tượng
và sơ đồ hóa khơng làm mất đi sự khác biệt tinh tế (được quy ước hóa) thậm chí
giữa những kết cấu ngữ pháp và những ý nghĩa từ vựng hết sức riêng biệt.
Việc phân tích chi tiết những biến đổi tinh tế trong hành vi cú pháp và giải
thuyết ngữ nghĩa sẽ tạo ra một mơ hình biểu hiện ngữ pháp chứa đựng cả những
khuôn mẫu chuyên biệt (vốn hay bị coi là ngoại vi) lẫn những khuôn mẫu rất chung
của hành vi ngôn ngữ. Có thể thấy điều đó qua các mơ hình được áp dụng như trong
nghĩa học về sự thông hiểu của Fillmore, trong quan điểm kết cấu động về sự phạm
trù hóa của Cruse, trong lí thuyết mới về ngữ pháp kết cấu, trong mơ hình dựa trên
sử dụng (usage-based model) về từ pháp và âm vị học…


22


Tuy cùng xuất phát từ một số quan điểm, tư tưởng chung nhưng trong NNHTN
phân ra ba xu hướng chính, với những trọng tâm trọng điểm khác nhau trong cách
tiếp cận nghiên cứu vấn đề.
Trong cách tiếp cận thứ nhất, thường được coi là có tính kinh nghiệm
(experiential), người ta chủ yếu tìm hiểu xem khi người nói tạo sinh (và nghe hiểu)
các từ và câu thì cái gì xảy ra trong trí óc anh ta, anh ta sẽ miêu tả ra sao các thuộc
tính của sự vật và những liên tưởng, những ấn tượng của anh ta về sự vật ấy. Người
ta nhận thấy rằng những thuộc tính được người nói miêu tả dường như có phản ánh
cái cách thức mà anh ta tri nhận về thế giới xung quanh và tương tác với thế giới ấy;
những kinh nghiệm tích lũy được của chúng ta về thế giới cũng được tàng trữ trong
ngôn ngữ hàng ngày và do vậy những kinh nghiệm ấy có thể thu lượm được từ cái
cách thức mà chúng ta diễn đạt các tư tưởng của mình.
Với cách tiếp cận này, nhà NNHTN sẽ khảo sát những vấn đề như các phạm trù
tri nhận, các sơ đồ hình ảnh, các mơ hình điển dạng khi phạm trù hóa các sự vật,
trong đó có một vấn đề rất thú vị là nội dung và cấu trúc tri nhận của các ẩn dụ vốn
rất khác với cách quan niệm lâu nay của từ vụng học truyền thống.
Cách tiếp cận thứ hai chủ yếu quan tâm đến mức độ “nổi trội” (prominence) của
các cấu trúc ngôn ngữ, cụ thể là việc các thông tin được lựa chọn và sắp xếp trong
câu như thế nào. Trong một câu yếu tố nổi trội hơn sẽ được chọn làm hình (figure),
đối lập với yếu tố còn lại được chọn làm nền (ground). Ví dụ, trong câu: “Chiếc xe
đâm vào cột điện ven đường.” thì “chiếc xe” là hình, cịn “cột điện” sẽ là nền.
Ngun lí tách biệt hình và nền đã được nói đến từ lâu trong những nghiên cứu
về cảm thụ thị giác của trường phái tâm lí học Gestalt nổi tiếng và có liên quan chặt
chẽ với những quá trình tri nhận khơng gian của con người. Chẳng hạn, khi chúng
ta ngắm nhìn một đối tượng nào đó của thế giới xung quanh, xu hướng chung là
chúng ta sẽ tách riêng nó ra, ý niệm hóa nó như một hình nổi bật hơn hẳn về
phương diện tri giác so với nền.
Có một số nguyên tắc gestalt về sự cảm nhận thị giác chi phối việc lựa chọn
hình như nguyên tắc đóng kín (các đường viền của hình thường là khép kín),



23

ngun tắc tiếp nối (hình thường là một tồn thể khơng bị đứt qng), ngun tắc có
khả năng di chuyển …
Cách tiếp cận thứ ba chủ yếu quan tâm đến mức độ thu hút sự chú ý (attentional)
của các yếu tố và các bình diện khác nhau của các sự tình. Ví dụ, trong câu: “Chiếc
xe đâm vào cột điện ven đường.” người nói chỉ tập trung miêu tả khúc đoạn nhỏ
cuối cùng của sự tình diễn ra, cịn những giai đoạn trước khi xảy ra tai nạn thì
khơng hề được người nói chú ý đến (chẳng hạn chiếc xe bắt đầu ngoặt gấp ra sao,
nó lao lên vỉa hè như thế nào…).
Với cách tiếp cận này, nhà NNHTN tập trung khảo sát khái niệm “khung” tức là
một tập hợp tri thức mà người nói có được về một sự tình nào đó; khảo sát việc
người nói lựa chọn và nhấn mạnh những phương diện nhất định của các “khung”
này và ứng với nó là những biểu đạt ngơn ngữ khác nhau trong một ngôn ngữ (và
không giống nhau giữa các ngôn ngữ, mặc dù các kiểu “khung” cơ bản về ngun
tắc là có tính phổ qt)… [35, 17-24]
Tuy nhiên dù tiếp cận ngơn ngữ theo cách nào thì chúng ta khơng thể khơng chú
ý đến một ngun lí hết sức cơ bản rằng NNHTN nghiên cứu ngôn ngữ trong mối
quan hệ với con người – con người suy nghĩ, con người hành động (dĩ nhân vi
trung). Đối tượng của NNHTN là ngôn ngữ tự nhiên của con người với tư cách là
một bộ phận cấu thành của nhận thức. Ngôn ngữ phản ánh mối tương tác giữa các
nhân tố tâm lí, giao tiếp, văn hóa và xã hội. Với tư cách là thành quả của trí tuệ con
người, ngơn ngữ và cấu trúc của nó chỉ rõ trí tuệ làm việc như thế nào. Cấu trúc của
ngôn ngữ phản ánh những tiêu chí chức năng dựa trên sự sử dụng ngôn ngữ như
một công cụ giao tiếp. Mặc dù các quan hệ giữa nhiều hình thái ngơn ngữ với ý
nghĩa của chúng mang tính võ đốn nhưng chúng thường mang tính biểu trưng. Với
tư cách là phương tiện giao tiếp giữa các thành viên của xã hội thì ngơn ngữ phản
ánh nhiều bình diện của một nền văn hóa nhất định. Cấu trúc của ngôn ngữ được
cấu tạo bởi hai nhân tố quan trọng: nhân tố bên trong, nghĩa là trí tuệ của cá thể

người nói và nhân tố bên ngồi, nghĩa là nền văn hóa chung cho nhiều người nói
cùng một thứ tiếng. NNHTN là một bộ phận của khoa học tri nhận và có mối liên hệ


24

trực tiếp với tâm lí học, văn hóa học và thần kinh học cũng như với nhân chủng học
và triết học. [5, 41]
Trong luận án này chúng tôi nghiên cứu các đặc điểm tri nhận của động từ tri
giác tiếng Việt và có đối chiếu với tiếng Anh. Vì vậy, sau khi xem xét các quan
điểm nghiên cứu ở trên chúng tôi quyết định sẽ làm rõ và xây dựng nội dung luận
án dựa trên các khái niệm, các lí luận cơ sở như sau.
1.2. Khái niệm tri giác
Trước hết chúng ta cần làm rõ khái niệm tri giác là gì, nó có tính chất gì, có vai
trị gì và được thể hiện như thế nào trong ngôn ngữ.
Theo quan điểm triết học thì tri giác là hình ảnh tương đối tồn vẹn về sự vật khi
sự vật đó đang trực tiếp tác động vào các giác quan. Tri giác nảy sinh dựa trên cơ sở
của cảm giác, là sự tổng hợp của nhiều cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình
thức nhận thức cao hơn, đầy đủ hơn và phong phú hơn về sự vật. Cảm giác, tri giác
và biểu tượng là những giai đoạn kế tiếp nhau của hình thức nhận thức cảm tính.
Sau giai đoạn nhận thức cảm tính là đến giai đoạn nhận thức lý tính được thể hiện
với ba hình thức: khái niệm, phán đoán và suy lý. Hai giai đoạn nhận thức này cịn
được gọi là q trình đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. [1, 267-269]
Theo quan điểm của NNHTN thì tri giác có những đặc điểm như sau. [4, 91-95]
Tri giác luôn luôn cụ thể. Nó cung cấp những thuộc tính cụ thể của sự vật cụ thể.
Nó khơng phân biệt những thuộc tính cơ bản và không cơ bản của sự vật. Chẳng
hạn như khi ta nhìn một cái bàn cụ thể thì tri giác sẽ cung cấp cho ta tất cả những
thuộc tính đang có của cái bàn đó như mặt phẳng trên, chất liệu, màu sắc, hình dáng,
số chân bàn, vị trí… nghĩa là tất cả những gì mà các cơ quan cảm giác của chúng ta
có thể thu nhận được.

Tri giác khơng tồn tại riêng lẻ, mà chúng có thể kết hợp hay tương tác với nhau.
Trong những trường hợp cụ thể chúng có thể thay thế cho nhau. Chẳng hạn, nghe
thấy mùi thơm – sự hợp tác giữa thính giác và khứu giác (thay vì ngửi thấy mùi
thơm), nếm trải mùi đời – sự hợp tác giữa vị giác và khứu giác (thay vì ngửi thấy
mùi đời), nhìn thấy một vật nặng – sự hợp tác giữa thị giác và xúc giác, bát phở


25

nom ngon quá – hợp tác giữa thị giác và vị giác…
Tri giác có khả năng “vật thể hố” những sự kiện trừu tượng, không quan sát
trực tiếp được, biến chúng thành những vật thể có thể tri giác được.
Vd: Cái nhìn êm ái, câu trả lời lạnh nhạt …
Tri giác là một đối tượng được bàn đến rất nhiều trong tâm lí học và triết học.
Tuy nhiên, trong NNH tiền tri nhận chẳng mấy ai chú ý tới do NNH lúc đó q
quan tâm đến hình thái của ngơn ngữ.
Nhưng khi NNH bắt đầu lấy ý nghĩa (ngữ nghĩa) làm trọng tâm nghiên cứu, thì
như một quy luật tất yếu, vấn đề tri giác lại được giới NNH quan tâm đến.
Sở dĩ như vậy là do những vấn đề liên quan đến tri giác mà các nhà triết học
từng khảo sát ở mức độ đáng kể cũng là những vấn đề của NNH: chúng hoặc là
đang hình thành, hoặc có thể được hình thành như những vấn đề về ý nghĩa do chỗ
các nhà triết học khi viết về tri giác họ đặc biệt lưu tâm đến việc xác định những từ
như trông thấy, nghe thấy, hoặc cảm thấy có bao nhiêu ý nghĩa, đó là những ý nghĩa
gì và chúng có liên hệ với nhau như thế nào.
Thế nhưng để có thể xác định một biểu thức ngơn ngữ có bao nhiêu nghĩa và đó
là những nghĩa gì thì cần phải có ngơn ngữ, phải có sự ghi chép ngữ nghĩa.
Xác định nghĩa của biểu thức là chuyển biểu thức đã cho sang ngôn ngữ của
biểu tượng ngữ nghĩa. Việc xây dựng một ngôn ngữ như vậy và chứng minh tính
hữu hiệu của nó trên cứ liệu tri giác là nhiệm vụ của NNH chứ không phải của triết
học.

Điều này có thể biểu diễn qua ngữ nghĩa của những động từ nhìn thấy, nghe thấy,
nếm thấy, ngửi thấy, sờ thấy. Ngữ nghĩa của những từ này có một thành tố (thuộc
tính) chung – đó chính là “tri giác”. Mỗi động từ, ngồi thuộc tính chung đó cịn có
thuộc tính riêng đặc trưng cho một kiểu tri giác.
Cụ thể là:
Nhìn thấy

=

tri giác + bằng mắt

=>

thị giác

Nghe thấy

=

tri giác + bằng tai

=>

thính giác

Ngửi thấy

=

tri giác + bằng mũi


=>

khứu giác


×