Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

VAI TRÒ CỦA LÃNH TỤ NGUYỄN ÁI QUỐC VỚI QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

ĐỀ TÀI : VAI TRÒ CỦA LÃNH TỤ NGUYỄN ÁI QUỐC VỚI QUÁ
TRÌNH THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN

Học phần: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã phách:

Hà Nội – 2021


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………….….……1
NỘI DUNG………………………………………………….………..………2
I. MỘT VÀI NÉT VỀ NGUYỄN ÁI QUỐC……………….………..………2

II. BỐI CẢNH LỊCH SỬ TRƯỚC KHI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA
ĐỜI:………………………………………………………………….…..…3
2.1. Tình hình thế giới ………………………………………….……..…3
2.2. Tình hình Việt Nam và các phong trào yêu nước trước khi có Đảng……3

III. VAI TRỊ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC THÀNH LẬP
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM:……………………………………….….5
3.1. Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt
Nam - Giai đoạn 1911-1920….………………………………………….6
3.2. Nguyễn Ái Quốc truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lenin và chuẩn bị cho sự ra
đời của Đảng - Giai đoạn 1921-1929..……………………………...……7
3.3. Nguyễn Ái Quốc chủ động triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Năm 1930……………….………….…………………………………11


3.4. Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và thông qua cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng:………………..………………….…………………………13
IV. Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG…………..…..16

KẾT LUẬN :……………………..…………………………..…….………17
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………20
PHỤ LỤC……………………………………………………………..…….21


LỜI MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng của cách
mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối chính trị, về con đường cứu
nước, cứu dân, thống nhất đất nước, thoát khỏi ách áp bức của thực dân, phong kiến,
thoát khỏi bần cùng, lạc hậu. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương
hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 75 năm qua.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã mở ra
thời kì mới cho cách mạng Việt Nam: thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Đó là kết quả của sự vận động phát triển và thống nhất của
phong trào cách mạng cả nước, sự chuẩn bị tích cực sáng tạo, bản lĩnh của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc.Và cũng chính Người đã dày cơng chăm lo, vun đắp cho cách
mạng. Người chuẩn bị về nhiều mặt từ tư tưởng đến tổ chức, từ mối đoàn kết toàn
dân đến đoàn kết quốc tế, chuẩn bị từ lực lượng chính trị đến lực lượng vũ trang,
đến căn cứ địa; chuẩn bị cho cả tương lai của đất nước từ nhiệm vụ trước mắt cũng
như định hướng lâu dài.
Qua khảo nghiệm của lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất
nước quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta từ khi Đảng ra đời và đến nay
Đảng vẫn là ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta trong công cuộc đổi mới theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Là sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội em luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo
của Đảng, luôn tự hào và biết ơn công lao to lớn của người lãnh tụ vĩ đại Nguyễn Ái

Quốc. Do đó em đã chọn “ Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với quá trình thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam” để làm đề tài cho bài tập lớn kết thúc học phần của
mình. Để một lần nữa em được tìm hiểu sâu hơn về quá trình thànhn lập Đảng và
cuộc hành trình gian khổ của Bác để có được đất nước, có được Đảng vứng mạnh
như ngày hơm nay. Và từ đó em ý thức hơn, nâng cao trách nhiệm của bản thân góp

1


phần làm nên sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững
bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đối tượng mà em nghiên cứu trong đề tài này là vai trị của Nguyễn Ái Quốc
trong q trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các tư tưởng, hoạt động mà
người đã làm để thành lập nên Đảng. Tìm hiểu về thời gian, điều kiện và hồn cảnh
Đảng ra đời. Phạm vi nghiên cứu là trong giai đoạn từ năm 1911 đến năm 1930: Từ
khi Bác ra đi tìm đường cứu nước đến khi thành lập Đảng.

NỘI DUNG
I. MỘT VÀI NÉT VỀ NGUYỄN ÁI QUỐC:
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19/05/1890 tại làng Hoàng Trù, xã Chung Cự, tổng
Lâm Thịnh nay là xã Kim Liên , huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An ( Phụ lục 1, phụ lục
2). Người có tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học là Nguyễn Tất Thành,
trong nhiều năm hoạt động cách mạng Người lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và nhiều bí
danh, bút danh khác.
Người sinh ra trong gia đình nhà nho yêu nước, thân phụ là Nguyễn Sinh Sắc,
thân mẫu là Hoàng Thị Loan. Từ lúc sinh ra Người sống trong sự chăm sóc đầy tình
thương u của gia đình, đặc biệt là ông bà ngoại. Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung
theo gia đình vào sống ở Huế. Đầu năm 1901, sau khi thân mẫu qua đời, Người theo
cha trở về Nghệ An, rồi lấy tên là Nguyễn Tất Thành, tích cực học chữ Hán và còn
theo cha đi một số nơi, học thêm nhiều điều. Năm 1906, Nguyễn Tất Thành theo cha

vào Huế, thời gian đầu học trường Pháp - Việt, sau học trường Quốc học Huế.
Tháng 6/1909, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Bình Định, tháng 8/1910 vào Phan
Thiết, Bình Thuận làm giáo viên trường Dục Thanh. Tháng 02/1911, Nguyễn Tất
Thành vào Sài Gòn.
Chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, Người đã sớm hun đúc ý chí và khát vọng
cháy bỏng giành độc lập tự do dân tộc. Ngày 5/6/1911 Người đã lên tàu Amiran

2


Latusơ Tơrêvin, rời bến cảng Nhà Rồng đi Mác Xây (Pháp) bắt đầu hành trình tìm
đường cứu nước với tên mới là Văn Ba.
II. BỐI CẢNH LỊCH SỬ TRƯỚC KHI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA
ĐỜI:
2.1. Tình hình Thế giới:
Từ nửa sau thế kỉ XIX, các nước tư bản Âu - Mỹ có những chuyển biến mạnh
mẽ trong đời sống kinh tế - xã hội. Chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển từ giai
đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền, đẩy mạnh quá trình xâm chiếm
thuộc địa ở Châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ - Latinh. Trước bối cảnh này nhân dân
các dân tộc đã đứng lên đấu tranh giải phóng khỏi ách thực dân, đế quốc tạo thành
làn sóng đấu tranh mạnh mẽ, rộng khắp nhất là Châu Á. Điều này cũng có tắc động
mạnh mẽ đến phong trào yêu nước ở Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã
làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới. Sự kiện này khơng chỉ có ý nghĩa to lớn đối
với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản mà cịn có tắc động sâu sắc đến phong trào
giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản do V.I.Leenin
đứng đầu được thành lập, trở thành bộ tham mưu chiến đấu, tổ chức lãnh đạo phong
trào cách mạng vô sản thế giới. Cách mạng Tháng Mười và các hoạt động của Quốc
tế Cộng Sản đã ảnh hưởng mạnh mẽ và thức tỉnh phong trào giải phóng dân tộc ở
các thuộc địa, trong đó có Việt nam và Đơng Dương.

2.2. Tình hình Việt Nam và các phong trào yêu nước trước khi có Đảng.
Ngày 1-9-1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại Đà Nẵng và
từng bước thơn tính Việt Nam. Khi đó Việt Nam đang trong thời điểm chế độ phong
kiến dưỡi triều nhà Nguyễn đã lâm vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng. Trước
hành động xâm lược của Pháp, nhà Nguyễn từng bước thỏa hiệp và đến ngày 6-61884 Hiệp ước Patơnốt đã đầu hàng hoàn toàn thực dân Pháp, Việt Nam trở thành
“ một xứ thuộc địa ”.

3


Tuy triều đình đã đầu hàng nhưng nhân dân ta vẫn không chịu khuất phục, một
bộ phận phong kiến yêu nước đã cùng nhân dân vẫn tiếp tục đấu tranh vũ trang
chống Pháp. Điền hình như:
- Phong trào Cần Vương ( 1885-1896 ) do vua Hàn Nghi và Tôn Thất Thuyết
khởi xướng. Hưởng ứng lời kêu gọi Cần Vương cứu nước, các cuộc khởi
nghĩa diễn ra sôi nổi thể hiện tinh thần chống ngoại xâm của các tầng lớp
nhân dân. Tuy nhiên ngọn cờ phong kiến lúc này khơng cịn là ngọn cờ tiêu
biểu để tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân, khơng có khả năng liên kết
trung tâm kháng chiến chống Pháp trên toàn quốc nữa.
- Cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng thất bại năm 1896 cũng là mốc chấm dứt
vai trò lãnh đạo của giai cấp phong kiến với phong trào yêu nước chống thực
dân Pháp.
- Vào những năm cuối thế kỉ XIX đàu thế kỉ XX phong trào nông dân Yên
Thế dưới sự lãnh đạo của Hoàng Hoa Thám, nghĩa quân đã xây dựng lực
lượng chiến đấu, lập căn cứ và đấu tranh kiên cường nhưng vẫn mang nặng
“ cốt cách phong kiến” khơng có khả năng mở rộng hợp tác và thống nhất tạo
thành một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cuối cùng cũng bị thực dân
đàn áp.
Từ những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước chịu ảnh hưởng của trào
lưu dân chủ tư sản, tiêu biểu là:

- Xu hướng bạo động do Phan Bội Châu tổ chức, lãnh đạo. Với chủ trương
tập hợp lực lượng với phương pháp bạo động chống Pháp, tổ chức đưa thanh
niên Việt Nam sang Nhật Bản học tập ( gọi là phong trào Đông Du) . Cụ
Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp ta đuổi Pháp chẳng khác gì “đưa hổ cửa
trước, rước beo cửa sau” [ 5, tr 1] .Đến năm 1908, Nhật Bản câu kết với thực
dân Pháp trục xuất lưu học sinh Việt Nam . Sau khi phong trào Đông du thất
bại Phan Bội Châu lập tổ chức Việt Nam Quang phục hội với tôn chỉ là vũ

4


trang đánh đuổi thực dân Pháp. Nhưng chương trình kế hoạch này lại thiếu rõ
ràng. Cuối năm 1913 Phan Bội Châu bị bắt ảnh hưởng xu hướng bạo động
đối với phong trào yêu nước đến đây kết thúc.
- Xu hướng cải cách của Phân Châu Trinh với chủ trương đấu tranh ơn hịa,
bằng những biện pháp cải cách như nâng cao dân trí dân quyền, dựa vào
Pháp để đánh đổ vua quan phong kiến hủ bại, xem đó là điều kiện tiên quyết
để giành độc lập. Cụ Phan Chu Trinh yêu cầu thực dân Pháp thực hiện cải
lương, việc này “chẳng khác nào xin giặc rủ lòng thương” [5, tr 1]. Năm
1906, ơng cùng một nhóm sĩ phu đất Quảng như Huỳnh Thúc Kháng, Trần
Quý Cáp, Ngô Đức Kế mở cuộc vận động Duy tân ở Trung kỳ. Tư tưởng
Duy tân khi đi vào quần chúng đã vượt qua khuôn khổ ơn hịa, biến thành
cuộc đấu tranh quyết liệt, điển hình là phong trào chống Thuế ở Trung kì
(1908). Năm 1908, sau phong trào chống thuế ở Trung kì, Pháp đàn áp dữ
dội, Phan Châu Trinh bị án tù 3 năm ở Côn Đảo. Tháng 12-1907 thực dân
pháp ra lệnh đóng cửa trường Đơng Kinh Nghĩa Thục phản ánh sự kết thúc
xu hướng cải cách trong phong trào cứu nước của Việt nam.
- Phong trào của tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học
lãnh đạo với phương pháp đấu tranh vũ trang nhưng theo lối mạnh động ám
sát cá nhân. Lực lượng chủ yếu là binh lính, sinh viên. Cuộc khởi nghĩa nổ ra

ở một số tỉnh, tuy oanh liệt nhưng nhanh chóng thất bại. Sự thất bại của tố
chức Việt Nam Quốc dân đảng thể hiệ là “… một cuộc bạo đông bất đắc dĩ,
một cuộc bạo động non, để rồi chết luôn không bao giờ ngóc đầu lên nổi.
Khấu hiệu “ khơng thành cơng thì thành cơng” biểu lộ tính hấp tấp tiểu tư sản,
tính chất hăng hái nhất thời cũng biểu lộ tính chất không vững chắc, non yếu
của phong trào tư sản” [ 3, tr 41]
III. VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM:

5


3.1. Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt
Nam - Giai đoạn 1911-1920
Trước yêu cầu cấp thiết của giải phóng dân tộc, với nhiệt huyết và lòng yêu
nước ngày 5/6/1911 Nguyễn Tất thành đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước.
Giữa tháng 12/1912, Nguyễn Tất Thành tới nước Mỹ, Người dành một phần
thời gian để lao động kiếm sống, còn phần lớn thời gian dành cho học tập, nghiên
cứu Cách mạng tư sản Mỹ năm 1776. Khi thăm pho tượng Thần Tự Do, Bác không
để ý đến ánh hào quang trên đầu tượng mà chỉ xúc động trước cảnh những nô lệ đen
dưới chân tượng. Người đã nhận thức được rằng “ dù màu da có khác nhau, trên đời
này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột” [ 2, t.1, tr
287 ] từ đó xác định rõ kẻ thù và lực lượng đồng minh của nhân dân các dân tộc bị
áp bức.
Năm 1917, thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga đã tác động mạnh mẽ tới
nhận thức của Nguyễn Ái Quốc. Người từ nước Anh trở lại Pháp và tham gia các
hoạt động chính trị và tìm hiểu về cách mạng Tháng Mười Nga và về V.I.Leenin.
Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đảng Xã hội Pháp. Tháng 6 - 1919,
Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt Hội những người An Nam yêu nước tại Pháp gửi Bản
yêu sách của nhân dân An Nam ( gồm 8 điểm đòi quyền tự do cho nhân dân Việt

Nam) đến Hội nghị Vécxai, nhằm tố cáo chính sách của Pháp và địi Chính phủ
Pháp thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
Mặc dù không được chấp nhận, nhưng “ Bản yêu sách” đã gây tiếng vang lớn đối
với nhân dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa của Pháp. Tên tuổi Nguyễn Ái
Quốc từ đó được nhiều người biết đến.
Tháng 7-1920 : Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ khảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin. Người vô cùng phấn khởi và
tin tưởng, vì Luận cương đã chỉ rõ cho Người thấy con đường để giải phóng dân tộc
mình.

6


Tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp tại Tua vào cuối tháng 121920,Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ III, tham gia
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên ( Phụ
lục 3) . Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt trong tư tưởng chính trị của Nguyễn
Ái Quốc,từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lenin và theo còn đường Cách
mạng vô sản. Giải quyết được cuộc khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc.
Người đã tìm ra con đường giải phóng dân tộc. Đó là con đường cách mạng vô sản ,
đi theo con đường của cách mạng Nga vĩ đại. Đây là sự chuẩn bị về đường lối chính
trị cho việc thành lập Đảng ta.
3.2. Nguyễn Ái Quốc truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lenin và chuẩn bị cho sự ra
đời của Đảng - Giai đoạn 1921-1929.
Khi xác định con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản
theo cách mạng Tháng Mười Nga, theo Quốc tế Cộng sản thì Nguyễn Ái Quốc bằng
hoạt động thực tiễn tích cực của mình ở nước ngồi đã tiến hành truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam.
+ Về tư tưởng: Từ giữa năm 1921, tại Pháp Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà cách
mạng các nước thuộc địa khác tham gia thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, sau đó
sáng lập tờ báo Người cùng khổ ( Le Paria ). Người viết nhiều bài trên các báo Nhân

đạo, Đời sống cơng nhân, Tạp chí cộng sản,…
Năm 1922, Nguyễn Ái Quốc được cử làm Trưởng Tiểu ban Ngiên cứu về Đông
Dương của Đảng Cộng sản Pháp. Vừa nghiên cứu lý luận vừa tham gia thực tiễn
trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Nguyễn Ái Quốc đã dùng ngịi bút
của mình tích cực tố cáo, lên án bản chất bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với
nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải
phóng. Người đã góp phần quan trọng vào việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân
Pháp ở các thuộc địa. Chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa
thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động trên thế giới. Đồng thời tiến hành tuyên truyền tư tưởng Mác - Lênin,

7


xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động
Pháp với các nước thuộc địa và phục thuộc.
Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc khẳng định : “ Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm
cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy” [ 2, t.2 , tr 289].
Đảng mà khơng có chủ nghĩa giống như người khơng có trí khơn. Phải truyền bá tu
tưởng vơ sản, lý luận Mác - Leenin vào phong trào cong nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam.
+ Về chính trị: Xuất phát từ thực tiễn cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã hình thành
một hệ thống luận điểm chính trị về con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức;
xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản thế
giới; xác định lực lượng cách mạng; xác định vai trò lãnh đạo của Đảng; cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Những luận điểm ấy sau này phát triển thành
những nội dung cơ bản trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
- Người khẳng định rằng, con đường cách mạng của dân tộc bị áp bức là giải
phịng giai cấp giải phóng dân tộc. Đường lối chính trị của Đảng phải hướng
tới giành độc lập cho dân tộc, tự do, hướng tới xây dựng nhà nước mang lại

quyền và lợi ích cho nhân dân.
- Nguyễn Ái Quốc xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuoc
địa là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Giữa cách mạng giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địavới cách mạng vơ sản ở “ chính quốc” có
mối quan hệ chặt chẽ. Nhưng cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa
không phụ thuộc vào cách mạng vô sản “chính quốc” mà có thể thành cơng
trước, và góp phần thúc đảy cách mạng vơ sản ở “chính quốc”.
- Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc,
phong kiến, áp bức bóc lột nặng nề vì vậy phải thu phục và lơi cuốn nông dân,
xây dựng khối liên minh công nông làm động lữ cách mạng. Người xác định

8


rằng cách mạng “ là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của
một hai người” [2, t.2 , tr 283]
- Về vai trò của Đảng Cộng sản, Người khẳng định: cách mạng trước hết phải
có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì
liên lạc với dân mọi nơi.Đảng như người cầm lái có vững thì thuyền mới
chạy.
- Phong trào Vơ sản hóa do Kỳ bơ Bắc Kỳ Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên phát động từ ngày 29-9-1928 đã góp phần truyền bá tư tưởng vơ sản, rèn
luyện cán bộ, xây dựng phát triển tổ chức của công nhân.
+ Về tổ chức: Sau một thời gian hoạt động ở Liên Xơ để tìm hiểu, khảo sát thực tế
cách mạng vô sản, tháng 11-1924 Người đến Quảng Châu - Trung Quốc nơi có
đơng người Việt Nam u nước hoạt động để xúc tiến công tác tổ chức thành lập
đảng. Tháng 2-1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã
để lập ra nhóm Cộng sản đồn.
Tháng 6-1925 từ nịng cốt là Cộng sản đồn Nguyễn Ái Quốc thành lập hội
Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng Châu- Trung Quốc. Hệ thống tổ chức

của Hội gồ 5 cấp: trung ương bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ, huyện bộ và chi bộ
Hội đã xuất bản tờ báo Thanh niên ( do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và chỉ đạo ),
tun truyền tơn chỉ, mục đích của Hội, tun truyền chủ nghĩa Mác-Lenin và
phương hướng của cuộc vận động giải phóng Việt Nam. Báo ra hằng tuần in bằng
tiếng Việt, mỗi số in khoảng 100 bản. Ngày 21-6-1925 ra số đầu tiên và đến tháng
4-1927 báo đã ra được 88 số. Sau khi Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu đi Liên Xơ
vào tháng 4-1927 những đồng chí khác trong tổng bộ vẫn tiếp tục xuất bản đến
tháng 2-1930 với 202 số. Báo thanh niên đánh dấu sự ra dời của báo chí cách mạng
Việt Nam.
Sau khi thành lập Hội đã tổ chức các lớp hấn luyện do Nguyễn Ái Quốc trực
tiếp phụ trách. Phái người về nước vận động, lựa chọn các thanh niên tích cực và

9


đưa họ sang Quảng Châu để đào tạo, bồi dưỡng về chính trị. Giữa năm 1925 đến 41927 Hội đã tổ chức được trên 10 lớp huấn luyện. Sau khi được đào tạo các hội viên
được cử về nước xây dựng và phát triển phong trào cách mạng. Có nhiều đồng chí
thì lại được cử đi học trường Đại học Cộng sản phương Đơng ở Liên Xơ và trường
Qn chính Hoàng Phố ở Trung Quốc.
Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp đào tạo bồi dưỡng sau đó đã
được xuất bản thành cuốn Đường cách mệnh . Đây là cuốn sách chính trị đầu tiên
của cách mạng Việt Nam. Tác phẩm thể hiện tư tưởng nổi bật của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc dựa trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lenin vào đặc điểm Việt
Nam.
Từ năm 1928 : Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã xây dựng được cơ sở
của mình ở khắp nơi. Hoạt động của Hội góp phần truyền bá tư tưởng Mác- Lênin,
thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam theo xu thế cách mạng vô sản. Sự ra đời
và hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng là bước chuẩn bị chu đáo về chính trị ,
tổ chức và đội ngũ cán bộ cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
Giữa năm 1927-1930 : Nguyễn Ái Quốc đã từ Xiêm (Thái Lan ) về Trung Quốc, với

danh nghĩa đại diện Quốc tế Cộng sản triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng
sản, thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Như vậy trong giai đoạn này Người đã truyền bá tư tưởng Mac-Lenin vào Việt
Nam và chuẩn bị tư tưởng cà chính trị cho việc thành lập Đảng. Người sáng lập và
trực tiếp huấn luyện Thanh niên cách mạng đồng chí hội, Người tham gia sáng lập
Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, sáng lập và viết bài cho báo Thanh
Niên, mặt khác tổ chức đào tạo bồi dưỡng cán bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về mặt
tư tưởng từ nhận thức cách mạng vô sản, Đảng Cộng sản lãnh đạo nền tảng là chủ
nghĩa Mác – Lênin, truyền bá tư tưởng Mác – Lênin trong tổ chức, giai cấp công
nhân và tổ chức cho việc thành lập Đảng. Chủ nghĩa Mác – Lênin và các tài liệu
tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam
đón nhận . Nó lơi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách

10


mạng vô sản làm dấy lên cao trào đấu tranh mạnh mẽ, sơi nổi khắp cả nước, trong
đó giai cấp cơng nhân trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân, nhiều tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, phong
trào công nhân đại diện công nhân đấu tranh từ tự phát lên tự giác địi hỏi phải có tổ
chức Đảng chính trị lãnh đạo.
3.3. Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng - Năm
1930.
Các tổ chức cộng sản ra đời:
Sự nỗ lực cố gắng truyền bá chủ nghĩa Mác-Lenin vào phong trào công nhân
và phong trào yêu nước Việt Nam trên cả nước đã có tác dụng thúc đẩy phong trào
yêu nước Việt Nam theo khuyanh hướng cách mạng vô sản, nâng cao ý thức tự giác
và lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Những cuộc đấu tranh khắp ba kỳ
với quy mô, nhịp độ ngày càng lớn. Số lượng các cuộc đấu tranh của công nhân
những năm 1928-1929 tăng gấp 2.5 lần so với những năm 1926-1927.

Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt Nam, đến năm
1929 tổ chứ Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên khơng cịn thích hợp và đủ sức
lãnh đạo phong trào. Trước tình hình đó tháng 3-1929 những người lãnh đạo Kỳ bộ
Bắc Kỳ họp tại số nhà 5D, phố Hàm Long, Hà Nội quyết định lập Chi bộ Cộng sản
đầu tiên ở Việt Nam. Ngày 17-6-1929, các đại biểu của tổ chức cộng sản ở Bắc Kỳ
quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ:
Lấy cờ đỏ búa liềm là Đảng kỳ và quyết định xuất bản báo Búa liềm làm cơ quan
ngôn luận.
Tháng 11-1929, trên cơ sở các chi bộ cộng sản ở Nam Kỳ, An Nam Cộng sản
Đảng được thành lập tại Khánh Hội, Sài Gịn, cơng bố Điều lệ, quyếtđịnh xuất bản
Tạp chí Bơnsơvích.
Tại Trung Kỳ vào tháng 2-1929, những người tiên tiến trong Tân Việt Cách
mạng đảng họp bàn việc thành lập Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Đến cuối

11


tháng 12-1929, khi đang đại hội sợ bị lộ các đại biểu di chuyển đến địa điểm mới thì
bị địch bắt vào sáng ngày 1-1-1930.
Sự ra đời ba tổ chức cộng sản trên cả nước đã khẳng định bước phát triển về
chất của phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản. Tuy nhiên sự ra đời ba tổ
chức cộng sản ở ba miền đều tuyên bố và kêu gọi Quốc tế cộng sản thừa nhận tổ
chức của mình và điều tự nhận là đảng cách mạng chân chính. Điều này không tránh
khỏi việc phân tán về lực lượng và thiếu thông nhất về tổ chức trên cả nước.
Như vậy nhu cầu thành lập một chính Đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp
lực lượng toàn dân, đảm nhiệm vai trị lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc ngày
càng cao.
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, ngày 23-121929 với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã đến Hồng
Koongtrieeuj tập đại biểu Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng

đến họp tại Cửu Long (Hồng Kông) tiến hành hội nghị hợp nhất các tổ chức này
thành một chính đảng duy nhất của Việt Nam.
Thời gian hội nghị từ ngày 6-1 đến 7-2-1930. Trong báo cáo gửi Quốc tế Cộng
sản ngày 18-2-1930, Nguyễn Ái Quốc viết “ Chúng tôi họp vào ngày mồng 6-1. Với
tư cách là phái viên Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên
quan đến phong trào cách mạng ở Đơng Dương, tơi nói cho họ biết những sai lầm
và họ phải làm gì. Họ đồng ý thống nhất vào một đảng. Chúng tôi cùng nhau xác
định cương lĩnh và chiến lược theo đường lối của Quốc tếCộng sản… Các đại biểu
trở về An Nam ngày 8-2” [4, t.2, tr 19-20]
Thành phần Hội nghị hợp nhất gồm: 1 đại biểu của Quốc tế Cộng sản; 2 đại
biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng; 2 đại biểu An Nam Cộng sản Đảng. Hội nghị
thảo luận đề nghị của Nguyễn Ái Quốc gồm Năm điểm lớn, với nội dung:

12


“1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm
cộng sản ở Đơng Dương;
2. Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam;
3. Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược của Đảng;
4. Định kế hoạnh thực hiện việc thống nhất trong nước;
5. Cử một Ban Trung Ương lâm thời…”
Hội nghị đã thảo luận và tán thành ý kiến lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc,
thơng qua các văn kiện do Nguyễn Áí Quốc soạn thảo: Chánh cương vắn tắt của
Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình vắt tắt của Đảng, Điều lệ vắn
tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam
Hội nghị xác định rõ tơn chỉ mục đích của Đảng: “Đảng cộng sản Việt Nam
tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư
bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”. Quy định điều kiện
vào Đảng: là những người “tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và

Quốc tế Cộng sản, hăng hái tranh đấu dám hy sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và
đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận đảng.”[4, t.2 , tr 7-8] Hội nghị
chủ trương các đại biểu về nước phải tổ chức một Trung ương lâm thời để lãnh
đạo cách mạng Việt Nam. Hệ thống tổ chức Đảng từ chi bộ, huyện bộ thị bộ hay
khu bộ, tỉnh bộ thành bộ hay đặc biệt bộ và Trung ương.
Ngoài ra , Hội nghị còn quyế định chủ trương xây dựng các tổ chức công
hội , nông hội, cứu tế, tổ chức phản đế và xuất bản một tạp chí lý luận và ba tờ
báo tuyên truyền của Đảng.
Đến ngày 24-2-1930 việc tổ chức các tổ chức cộng sản thành chính đảng
duy nhất được hoàn thành. Với Quyết nghị của Lâm thời chấp ủy Đảng Cộng
sản Việt Nam, chấp nhận Đông Dương cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng
sản Việt Nam.

13


Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự chủ trì của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc có giá trị như một Đại hội Đảng. Sau hội nghị, Nguyễn Ái
Quốc ra Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng. Mở đàu Lời kêu gọi, Người viết
“ Nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản giải quyết vấn đề cách mạng nước ta, tơi đã
hồn thành nhiệm vụ”.
3.4. Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và thơng qua cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng:
Trong các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại
Hội nghị thành lập Đảng, có hai văn kiện là Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn
tắt của Đảng (Phụ lục 4) đã phản ánh về đường hướng phát triển và những vấn đề
cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Vì vậy hai văn kiện
này là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định:
+ Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Tư sản dân quyền

cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”
+ Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam “ Đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, “ làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập.
Cương lĩnh đã xác định được: Chống đế và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ
bản để giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống
đế quốc giành độc lập được đặt lên hàng đầu.
+ Lực lượng cách mạng: phải đồn kết cơng nhân , nơng dân - đây là lực
lượng cơ bản, trong đó giai cấp cơng nhân lãnh đạo: đồng thời chủ trương
đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước tập trung chống
đế quốc và tay sai. Vì vậy đảng phải thu phục cho được đại bộ pận dân mình,
phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày,… hết sức liên lạc với tiểu tư
sản, trí thức, trung nơng… để kéo họ đi vào phe vơ sản giai cấp. Cịn đối với
phú nông, trung, tiểu địa chủ chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng .

14


Đây là cơ sở của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết
rộng rãi trên cơ sở đánh giá đúng đắn thái độ các giai cấp phù hợp với đặc
điểm cách mạng Việt Nam
+ Phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc: Cương lĩnh khẳng
định phải bằng con đường bạo lực cách mạng, trong bất cứ hồn cảnh nào
cũng khơng được thỏa hiệp. Có sách lược đấu tranh cách mạng thích hợp để
lơi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nơng về phía giai cấp vô sản nhưng kiên
quyết “ bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ”
+ Về lãnh đạo cách mạng: giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo Việt Nam.
Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ
phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng,
trong khi liên lạc với các giai cấp phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ
một chút lợi ích gì của cơng nơng mà đi vào con đường thỏa hiệp.

+ Về phương diện xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền;
phổ thơng giáo dục theo cơng nơng hóa.
+ Về phương diện kinh tế: thủ tiêu hết các thứ Quốc trái; tịch thu tồn bộ sản
nghiệp lớn (như cơng nghiệp, vận tải, ngân hàng,…) của tư bản đế quốc chủ
nghĩa Pháp để giao cho chính phủ cơng nơng binh quản lý; tịch thu toàn bộ
ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo;
bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi
hành luật ngày làm 8 giờ.
Những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam về phương diện xã hội và kinh tế
nêu trên vừa phản ánh đúng tình hình kinh té xã hội cần được giải quyết ở
Việt Nam , vừa thể hiện tính cách mạng tồn diện, triệt để là xóa bỏ tận gốc
ách thống trị, bóc lột hà khắc của ngoại bang nhằm giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, xã hội đặc biệt là giải phóng cho giai cấp cơng nhân và nơng
dân.

15


+ Về tinh thần đoàn kết quốc tế: Cương lĩnh chỉ rõ, trong khi thực hiện nhiệm
vụ giải phóng dân tộc, đồng thời phải tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các
dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản trên thế giới, nhất là vô sản Pháp. Như
vậy ngay khi mới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu cao chủ nghĩa
quốc tế và mang bản chất quốc tế của giai cấp cơng nhân.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách xúc tích các luận
điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong đó thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập,
sáng tạo trong việc đánh giá đặc điểm tính chất xã hội, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ
bản và chủ yếu của dân tộc Việt Nam khi đó, nhất là việc đánh giá đúng đắn thái độ
các tầng lớp xã hội. Những văn kiện được thông qua trong hội nghị dù “ vắn tắt” ,
nhưng đã phản ánh những vấn đề trước mắt và lâu dài cho cách mạng Việt Nam,
đưa cách mạng Việt Nam sang một trang sử mới.

Thực tiễn quá trình vận động của cách mạng Việt Nam trong gần 80 năm qua
đã chứng minh rõ tính khoa học và tính cách mạng, tính đúng đắn và tiến bộ của
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Qua đó thể hiện cái nhìn thấu suốt, tư duy
khoa học của Nguyễn Ái Quốc.
IV. Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG:
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt thời ký khủng hoảng bế tắc về
đường lối cứu nước, đưa cách mạng Việt Nam sang một bước ngoặt lịch sử vĩ đại.
Đó là kết quả của sự vận động phát triển và thống nhất của phong trào cách mạng cả
nước, sự chuẩn bị tích cực sáng tạo, bản lĩnh của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập khẳng định dứt khoát con đường đi lên của
dân tộc Việt Nam từ 1930 là con đường cách mạng vơ sản. Đó là sự lựa chọn của
chính nhân dân Việt Nam, chính lịch sử dân tộc Việt Nam trong q trình tìm con
đường giải phóng dân tộc.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào cơng nhân và phong trào yêu

16


nước của Nhân dân Việt Nam. Ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị
xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng
cách mạng vơ sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm
được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam, mở ra con đường và
phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam suốt 90 năm qua. Công lao to
lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam
Sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh được thông qua ở Hội nghị
thành lập Đảng, từ năm 1930 cách mạng Việt Nam có được đường lối chính trị toàn
diện đề ra mục tiêu và phương pháp đấu tranh thích hợp, giải quyết triệt để những
mâu thuẫn cơ bản của xã hội, đồng thời có được tổ chức Đảng cách mạng để lãnh

đạo và tổ chức phong trào cách mạng. Sự ra đời của Đảng đã tạo những tiền đề và
điều kiện để đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trên
con đường giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dựng đất nước .
Sự đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã được khẳng định bởi quá trình
khảo nghiệm của lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước quá độ
đi lên CNXH của dân tộc ta từ khi Đảng ra đời và đến nay vẫn là ngọn cờ dẫn dắt
nhân dân ta trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu
"dân giàu nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ văn minh".

KẾT LUẬN
Với tấm lòng yêu nước thương dân,đau xót trước cảnh ngưịi dân mất nước
người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cúu nước.Sau
nhiều năm bơn ba nước ngồi cuối cùng Người cũng tìm được chân lí cách mạng
đún đắn. Đó là chủ nghĩa Mác-Lenin.

17


Và cũng chính người thanh niên yêu nước năm ấy đã dày công nghiên cứu chủ
nghĩa Mác-Lenin truyền bá vào nước ta tạo nên một bước chuyển biến mạnh mẽ cho
dân tộc Việt Nam dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Kinh nghiệm thực tế và lịch sử cho thấy muốn cách mạng thành cơng thì điều
kiện khơng thể thiếu là phải có một chính đảng vững mạnh lãnh đạo. Hiểu được sự
bức thiết phải thành lập một chính đảng để phục vụ việc giải phóng dân tộc. Nguyễn
ái Quốc và các đồng chí của mình đã chuẩn bị rất chu đáo về mọi mặt từ tư tưởng
đến tổ chức, từ mối đoàn kết toàn dân đến đồn kết quốc tế, chuẩn bị từ lực lượng
chính trị đến lực lượng vũ trang, đến căn cứ địa.
Và đến ngày 3-2-1930, Người đã chủ động triệu tập và chủ trị Hội nghị thành
lập Đảng. Đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp chống thực dân
Pháp của nhân dân ta đó là việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, mở ra một trang

sử mới đầy vẻ vang của dân tộc Việt Nam.
Chính Người đã có vai trị là đầu tàu trong suốt quá trình chuẩn bị và thành lập
của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đường lối mà Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã là kim chỉ nam soi đường cho cách mạng Việt Nam
đi hết từ thành công này đến thành cơng khác.
Như vậy Nguyễn Ái Quốc bằng trí tuệ thiên bẩm của mình đã sớm nắm bắt
được xu thế của thời đại và nhu cầu của cách mạng Việt Nam , đã tìm thấy ở chủ
nghĩa Mác- Lenin con đường cách mạng giải phóng dân tộc, mạng lại tự do, hạnh
phúc cho nhân dân, đó là đường lối cách mạng theo con đường cách mạng vô sản.
Trên cơ sở nhiệm vụ cách mạng của Đảng và thực tiễn công tác Đoàn và phong
trào thanh niên hiện nay, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XI đã xác định nhiệm vụ
chính trị của thanh niên Việt Nam là: "Rèn luyện về lý tưởng, đạo đức cách mạng,
về trình độ học vấn, chun mơn, nghề nghiệp, về thể chất, xung kích đi đầu tham
gia phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc; xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh vững mạnh, mở rộng mặt

18


trận đồn kết, tập hợp thanh niên, góp phần xây dựng Tổ quốc Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Là sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội, đang được học tập, làm việc, được
trong đất nước Việt Nam thanh bình em sẽ mãi mãi ghi nhớ công ơn của Người, của
Đảng và của lớp lớp thế hệ cha anh đã hi sinh quên mình cho nền độc lập tự do của
đất nước. Tư tưởng của Người, đường lối của Đảng sẽ mãi được học tập, noi theo.
Em xin hứa sẽ nỗ lực hết mình trong học tập, trong làm việc để góp phần nhỏ bé của
mình cho tổ quốc Việt Nam ngày càng giàu đẹp, văn minh.

19



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Hà Nội 2019.
2. Hồ Chí Minh tồn tập, tập 1-tập 2 , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011.
3. Lê Duẩn, Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam, Hà Nội 1959.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 1- tập 2, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội 1999.
5. ThS. Nguyễn Anh Tuấn, Bác Hồ với hành trình lựa chọn con đường dân chủ, Tạp
chí xây dưng Đảng
/>ue , 29/6/2011.

20


PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Ảnh chân dung Nguyễn Ái Quốc năm 1923

Phụ lục 2: Quê nội của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại xã Kim Liên huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An

21


Phụ lục 3: Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp.

Phụ lục 4: Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng

22




×