Tải bản đầy đủ (.pdf) (2 trang)

Tài liệu Khởi nghĩa Ba Đình pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94 KB, 2 trang )

Khởi nghĩa Ba Đình

Trong lịch sử cận đại Việt Nam, ngay từ khi quân Pháp đặt chân
xâm lược lên đất nước ta, hưởng ứng phong trào Cần Vương
(1885-1895) đã xuất hiện những cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta
nổi lên khắp nơi chống Pháp. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Ba
Đình.
Năm 1886, Đinh Công Tráng, Phạm Bành, Hoàng Bật Đạt, Hà
Văn Mao, Trần Xuân Soạn... cùng nhau lãnh đạo nghĩa quân
chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp ở Thanh Hóa. Trung tâm cuộc khởi nghĩa kháng
chiến thành lập ở Ba Đình. Căn cứ Ba Đình cách huyện lỵ Nga Sơn 4km, tây bắc giáp
huyện Hà Trung, được xây dựng trên địa bàn ba làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh và Mỹ
Khê. Vào mùa mưa, căn cứ này trông như một hòn đảo nổi giữa cánh đồng nước mênh
mông, tách biệt với các làng khác. Gọi là Ba Đình vì mỗi làng có một ngôi đình, từ làng
này có thể nhìn thấy đình hai làng kia. Bao bọc xung quanh căn cứ là lũy tre dày đặc và
một hệ thống hào rộng thành đất cao 3m, chân rộng từ 8m đến 10m, mặt thành có thể vận
động, đi lại. Trên mặt thành, nghĩa quân đặt các rọ tre đựng bùn trộn rơm. Phía trong
thành có hệ thống giao thông hào dùng để vận chuyển lương thực và vận động khi chiến
đấu. Ở những nơi xung yếu đều có công sự vững chắc. Các hầm chiến đấu được xây dựng
theo hình chữ “chi”, nhằm hạn chế thương vong. Ở mỗi làng, tại vị trí ngôi đình được xây
dựng một đồn đóng quân. Ở Thượng Thọ có đồn Thượng, ở Mậu Thịnh có đồn Trung và
ở Mỹ Khê có đồn Hạ. Ba đồn này có thể hỗ trợ tác chiến cho nhau khi bị tấn công, đồng
thời cũng có thể chiến đấu độc lập. Có thể nói rằng căn cứ Ba Đình có vị trí tiêu biểu
nhất, là một chiến tuyến phòng ngự quy mô nhất thời kỳ Cần Vương cuối thế kỷ 19.
Ngoài Ba Đình, còn có các căn cứ hỗ trợ: căn cứ Phi Lai của Cao Điển, căn cứ Quảng
Hóa của Trần Xuân Soạn, căn cứ Mã Cao của Hà Văn Mao.

Về tổ chức biên chế, lực lượng nghĩa quân Ba Đình gồm khoảng 300 người, tuyển từ ba
làng và các vùng Thanh Hóa, bao gồm cả người Kinh, Thái, Mường. Nghĩa quân có 10
toán, mỗi toán có một hiệp quản chỉ huy. Về vũ khí, nghĩa quân tự trang bị bằng súng hỏa
mai, giáo mác, cung nỏ.



Năm 1886, nghĩa quân liên tiếp tiến công các phủ, thành, huyện lỵ, chặn đánh các đoàn
xe, các toán quân lẻ, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại.

Đinh Công Tráng quê ở Hà Nam, nguyên là một chánh tổng. Ông đã từng chiến đấu trong
quân đội của Hoàng Tá Viêm và phối hợp với Lưu Vĩnh Phúc đánh Pháp khi chúng kéo
ra Bắc Kỳ lần thứ hai (1882) nên rất có kinh nghiệm chỉ huy. Phạm Bành là một viên
quan chủ chiến, đã treo ấn từ quan về quê vận động sĩ phu và nhân dân khởi nghĩa. Các
thủ lĩnh khác cũng một lòng cùng quân sĩ chiến đấu ngày đêm...

Đến tháng 12-1886 quân Pháp bắt đầu tập trung lực lượng, với 500 quân, có đại bác yểm
trợ, tấn công vào căn cứ Ba Đình nhưng thất bại.

Tháng 1-1887, Pháp cử đại tá Bơ-rít-xô sang trực tiếp đảm nhiệm việc đánh phá căn cứ

Nghĩa quân trong cuộc
khởi nghĩa Ba Đình
Ba Đình. Ngày 6-1-1887, Bơ-rít-xô đã huy động khoảng 2.500 quân chia làm 3 mũi đánh
vào căn cứ có pháo binh yểm trợ. Nhưng quân Pháp vẫn bị chặn lại trước sự kháng cự
quyết liệt của nghĩa quân. Sau đó, Bơ-rít-xô phải thay đổi cách đánh, bao vây, lấn chiếm
từng bước, nhằm cô lập căn cứ, cắt đứt các nguồn viện trợ, tiếp tế cho nghĩa quân. Đến
ngày 15-1-1887, quân Pháp phải dùng dầu phun lửa, đốt cháy lũy tre, tập trung đại bác
dồn dập bắn vào căn cứ, tổng tấn công làm hao tổn quân ta.

Trước sức tấn công của quân Pháp, thủ lĩnh Đinh Công Tráng, Phạm Bành, Hoàng Bật
Đạt, Nguyễn Khế, Lê Toại... đã tổ chức cho nghĩa quân rút về Mã Cao vào đêm 21-1-
1887. Hôm sau quân Pháp chiếm được căn cứ Ba Đình, chúng tiến hành triệt hạ ba làng,
tiếp tục cho quân truy kích nghĩa quân ở Mã Cao, rồi tiếp tục đến Thung Voi, Thung
Khoai và cuối cùng là tận miền tây Thanh Hóa, nơi đóng quân của Cầm Bá Thước. Các
thủ lĩnh Nguyễn Khế, Hoàng Bật Đạt hy sinh. Phạm Bành, Hà Văn Mao, Lê Toại tự sát...

chỉ còn Đinh Công Tráng tiếp tục xây dựng lại lực lượng, phát động phong trào tiếp tục
kháng chiến. Nhưng mùa hè 1887, ông bị quân Pháp bắt và giết hại.

Cuộc khởi nghĩa Ba Đình thất bại nhưng lịch sử dân tộc, nhân dân Thanh Hóa và trong
lòng mỗi người con quê hương vùng Ba Đình hiện nay không bao giờ quên hình ảnh
nghĩa quân quả cảm do Đinh Công Tráng, Phạm Bành... chỉ huy đã tổ chức được những
trận đánh lớn vào quân Pháp. Chính người Pháp đã phải thừa nhận “1886-1887, cuộc
công hãm Ba Đình là quan trọng nhất, cuộc chiến đấu này thu hút nhiều quân lực nhất và
làm cho các cấp chỉ huy lo ngại nhiều nhất”.

×