Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

nhung bai van mau 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.73 KB, 11 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>TUYỂN TẬP NHỮNG MẪU BÀI VIẾT TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 8</b>


<b>Đề bài 1: Có ý kiến cho rằng: Tình mẫu tử là mạch nguồn tình cảm không bao giờ vơi trong tâm hồn mỗi con</b>
<i><b>người.</b></i>


<i>Theo em, mạch nguồn tình cảm ấy được thể hiện như thế nào qua nhân vật bé Hồng qua đoạn trích “Trong</i>
<i>lịng mẹ” (trích hồi kí “Những ngày thơ ấu - Nguyên Hồng). </i>


<b>Dàn ý bài chi tiết (bài viết bên dưới)</b>


<i><b>Mở bài: - Dẫn dắt một câu thơ nào đó để làm toát lên vẻ đẹp trong văn của nhà văn Nguyên Hồng hoặc có thể giới</b></i>
thiệu nhà văn Nguyên Hồng.


- Dẫn dắt vấn đề: Tình mẫu tử là mạch nguồn tình cảm khơng bao giờ vơi trong tâm hồn mỗi con
<i><b>người.</b></i>


<i><b>Thân bài: Chứng minh ý kiến trên là đúng thông qua tác phẩm “Trong lịng mẹ” (trích “Những ngày thơ ấu”) của</b></i>
Nguyên Hồng.


- Luận điểm 1: Đoạn chuyển.


<i>+ Giải thích thế nào là tình mẫu tử? (khẳng định đó là một thứ tình cảm thiêng liêng và khơng bao giờ có thể</i>
giải thích được - dẫn dắt nhân vật bé Hồng sau phần giải thích - có thể so sánh với các nhân vật khác ở truyện khác).


+ Tóm tắt hay nói cách khác là kể lại một cách thật ngắn gọn hoàn cảnh của bé Hồng và nhắc lại tình cảm của
bé Hồng đối với mẹ.


- Luận điểm 2: Chứng minh tình yêu thương của bé Hồng đối với mẹ thông qua cuộc đối thoại với bà cô độc ác.
+ Bà cô: Các câu hỏi của bà cô thì như muốn cắt vào từng miếng thịt cảu bé, bà ta muốn gieo rắc vào tâm trí
non nớt của bé những hình ảnh xấu xa nhất, cịm cõi nhất về người mẹ đẹp trong lòng cậu bé bây lâu nay (nêu rõ từng
cử chỉ, hành động và thái độ của bà cơ sau khi nói và trước mặt bé Hồng) - dẫn chứng cụ thể trích từ tác phẩm (các


câu hỏi - câu trả lời của bà cô).


+ Bé Hồng: Từng khung bậc cảm xúc của bé được thể hiện ngay trên khuôn mặt và bé đã nấc lên trong tiếng
khóc khi những lời nói cảu bà cơ nói ra. Bé đã sớm nhận ra những rắp tâm tanh bẩn của bà cơ và chính cái rắp tâm đó
đã giúp sợi dây mẫu tử kia càng thêm gắn kết - dẫn chứng cụ thể trích từ tác phẩm (các câu trả lời - câu hỏi của bé
Hồng và khung bậc cảm xúc nhân vật).


<i>Lưu ý: Khi chứng minh tình u thương qua cuộc đối thoại với bà cơ thì nên đan xen những câu hỏi, câu trả</i>
<i>lời và khung bậc cảm xúc của nhân vật để nghị luận. Mỗi lần chứng minh thì nên tác đoạn, khơng nên kể nhiều, cần</i>
<i>phải láy lại tình yêu thương của bé Hồng đối với mẹ và khẳng định cuối đoạn.</i>


- Luận điểm 3: Chứng minh tình yêu thương của bé Hồng đối với mẹ trong hoàn cảnh “mẫu tử đoàn viên”.


<i>Lưu ý: Trước khi sang luận điểm 3 cần phải có một đoạn chuyển từ luận điểm này sang luận điểm khác. Vì</i>
<i>trong hai luận điểm thì đều có cái chung là chứng minh tình yêu thương của bé Hồng đối với mẹ nên cần phải khẳng</i>
<i>định lại một lần nữa tình yêu thương nồng nàn, được nén lại rồi bùng lên một cách dữ dội hơn khi bé Hồng gặp mẹ</i>
<i>(cần liên kết sang luận điểm 3).</i>


+ Dường như, lúc cậu gần như là tuyệt vọng thì sợi dây tình mẫu tử lại tiếp thêm sức mạnh cho cậu - mẹ cậu
đã về trong sự tha thiết của đứa con khao khát tình mẹ bấy lâu.


+ Chứng minh tình yêu thương của bé Hồng bằng chính khung bậc cảm xúc của bé khi: 1, được gặp mẹ ; 2,
được nhìn mẹ ; 3, được ngồi trong lòng mẹ (phải đáp ứng đủ 3 điều trên thông qua các dẫn chứng cụ thể).


+ Khẳng định tình mẫu tử đẹp và tuyệt vời đã giúp bé thoát khỏi đám bùn lầy đau khổ và làm tan biến đi tất cả
những ý nghĩ cay độc mà bà cô đã gieo rắc vào đầu cậu bé.


<i>Lưu ý: Vì đây là trọng tâm của đề bài nên khi làm bài cần xoáy sâu vào luận điểm này, các luận điểm khác</i>
<i>tuy phải đầy đủ ý những không nên viết dài và đầu tư, nên tập trung vào luận điểm này vì đây mới là dịp để tình yêu</i>
<i>của bé Hồng được thể hiện. Khẳng định tình mẫu tử là tình cảm bất diệt.</i>



- Luận điểm 4: Mở rộng vấn đề (đánh giá vấn đề, phản đề, liên hệ - mở rộng).


+ Đánh giá vấn đề: Khẳng định, tình mẫu tử sẽ mãi khơng bao giờ phai trong bé Hồng và đặc biệt hơn là sẽ
không bao giờ mất đi trong những con người có trái tim bất tử.


+ Phản đề: Thường có trong văn nghị luận về tư tưởng đạo lí, đời sống, hiện tượng xã hội, nếu là học sinh
có sức viết tốt, biết cân chỉnh thời gian hợp lí thì nên cho mục phản đề này vào: khẳng định, trong xã hội hiện nay,
không có ít những trường hợp “bán rẻ” tình mẫu tử, khơng coi đó là một tình cảm chân chính và có những hành vi trái
ngược với vấn đề chứng minh. Qua đó, ta có thể lên án những hành vi đó ...


+ Liên hệ - mở rộng: bao gồm liên hệ bản thân và liên hệ với các tác phẩm khác. Khi liên hệ bản thân: ta nên
liên hệ với thực tế đời sống và với bản thana mình rồi đưa ra những việc làm tốt (những việc làm trái ngược thì đã có ở
mục phản đề, nếu khơng viết mục phản đề thì nên lướt qua). Khi liên hệ với các tác phẩm khác: liện hệ với những tác
phẩm có chung chủ đề (vd: Huệ Chi trước lễ cưới, Mợ Du, ... không nhất thiết phải cùng tác giả) và nêu nổi vật những
điểm chung của các tác phẩm rồi đánh giá, nhận xét vấn đề chứng minh.


<i>Lưu ý: Ngồi ra, ta có thể nhận xét nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, nghệ thuật kể chuyện và đánh giá</i>
<i>giọng văn của nhà văn Nguyên Hồng để khẳng định: trong văn ơng ln có tình người ...</i>


<i><b>Kết bài: Khẳng định lại vấn đề theo hướng mở rộng của bản thân.</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>Bài làm mẫu</b>


“Con suốt đời vẫn là con của mẹ
Đi suốt đời, lòng mẹ vẫn theo con”


(Tố Hữu)


Mẹ dù thế nào đi chăng nữa vẫn mãi theo ta. Chính sợi dây thiêng liêng gắn kết giữa mẹ và con mà được gọi


với cái tên thiêng liêng, cao quý - tình mẫu tử đã làm làm nền tảng vững chắc cho con chập chứng bước đi trên con
đường đời. Mẹ đã mang đến cho con tình thương da diết, mẹ đã trao cho con trái tim hi vọng, trao cho con hơi thở
nồng ấm, ru đời con khôn lớn. Nhà văn Nguyên Hồng cũng vậy, những câu chữ ông viết ra dường như rất thiêng liêng
ẩn hằn trong đó là tồn bộ suy nghĩ và cảm xúc về người mẹ bất tận của ông. Đến với đoạn trích “Trong lịng mẹ”, ta
bỗng xót xa trước nhân vật bé Hồng, mang theo cái dư vị đắng chát của một tuổi thơ khao khát tình mẹ. Cho đến tận
bây giờ, khi đọc lại những trang viết này, người đọc vẫn lây lan cái cảm giác của cậu bé sớm phải chịu cảnh thiếu thốn
tình cảm để rồi, những đồng giả chúng ta bất chợt nhận ra rằng: “Tình mẫu tử là mạch nguồn tình cảm khơng bao giờ
vơi trong tâm hồn mỗi con người”.


Nếu có người hỏi tơi: Tình mẫu tử là gì? thì có lẽ, tơi sẽ đáp lại rằng: tình mẫu tử khơng thể giải thích được vì
đó là thứ tình cảm tuyệt diệu. Nó đơn sơ, giản dị những vẫn thể hiện được cái gì đó phập phồng, thổn thức trong trái
tim. Và đặc biệt hơn, nó lại càng phập phồng hơn, thổn thức hơn khi được thể hiện qua nhân vật bé Hồng. Tình cảm
ấy như ánh sáng dịu mát, như bóng cây trên cao, như dòng sữa ngọt ngào vẫn chảy mãi trong trái tim những người con
như chúng ta. Cuộc đời thật công bằng biết bao khi mỗi người chúng ta vẫn gọi đó là “tình mẫu tử”.


Tuy đoạn trích với dung lượng không dài nhưng điều ta bắt gặp trong đó khơng phải là cảnh khốn cùng như
trong “Lão Hạc” hay cùng cột như trong “Tức nước vỡ bờ”. Tuy vẫn thể hiện được chất văn của dòng văn hiện thực
phê phán nhưng đoạn trích lại ẩn chứa sâu một thứ tình cảm thiêng liêng, mặn nồng - tình mẫu tử. Và khi đọc
những dịng văn như trút cả bao điều đóng đót vào trái tim người đọc để rồi ta mới cảm nhận được thế nào là thứ tình
cảm chân chình.


Với một hoàn cảnh đặc biệt và đáng thương, bé Hồng sinh ra và lớn lên trong một mái gia đình khơng có hạnh
phúc. Bố mất sớm, mẹ phải đành rời bỏ quê hương, rời xa đứa con mà mình đã rứt ruột đẻ ra để đi “tha hương cầu
thực” khiến bé Hồng phải cô đơn, tủi cực giữa sự ghẻ lạnh của gia đình họ nội. Và trong tâm trí cậu bé lúc nào cũng
luôn tồn đọng cái dư vị đắng cay về một người mẹ hiền hậu, luôn chở che trong q khứ. Xung quanh cậu, ln có
những rắp tâm tanh bẩn muốn reo rắc vào tâm trí cậu để cậu ruồng rẫy, khinh rẻ mẹ. Nhưng cũng chính từ cái rắp tâm
tanh bẩn, cay độc đó, bé Hồng mới có cơ hội bộc lộ rõ những tình cảm của mẹ đối với mẹ đã được ấp ủ bấy lâu.


“Gần đến giỗ đầu thấy tôi, mợ tôi ở Thanh Hóa vẫn chưa về”. Có lẽ, niềm ước mong mẹ của cậu bé đã đến
mức cực độ. Cậu sống giữa cảnh đau đớn về mặt tinh thần: mất cha - thiếu mẹ, vậy mà, ln có những mối rắp tâm


bẩn thỉu muốn dấy vào tâm trí non nớt của cậu bé. Một hình ảnh người mẹ: “bán bóng đèn và những phiên chợ chính
cịn bán cả vàng hương”. Câu chuyện đã hé lộ ra một bà cô tậm địa độc ác, bà ta cố ý nói cho cậu bé biết những cảnh
ngộ đáng thương của mẹ cậu để có thể cười nhạo, giễu cợt mẹ. Nhưng bà ta hoàn toàn khơng hề biết, càng làm như
vậy thì tình cảm của bé Hồng giành cho mẹ lại tăng lên gấp bội, tiếp thêm tình cảm và sức mạnh để cậy vượt qua cái
xã hội “hỗn mang”, tàn ác ấy.


Và rồi, cuộc đối thoại giữa Hồng và bà cô bắt đầu từ những câu hỏi đầy tanh bẩn hằn chứa một rắp tâm phá đi
sợ dây tình cảm giữa bé Hồng và mẹ. “Một hôm cô tôi gọi tôi đến và bảo: Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hóa chơi
với mẹ mày không?”. Một câu hỏi đầy “uy lực”, lay động đến thứ tình cảm thiêng liêng của bé Hồng với mẹ, gợi nên
trong chú bao buồn tủi xen lẫn sự nhớ nhung dồn nén bây lâu nay. Cậu bé “định toan trả lời có” nhưng rồi, Hồng lại
trả lời một cách chắc chắn “Không! cháu không vào. Cuối năm, thế nào mợ cháu cũng về”. Thật bất ngờ! Có lẽ, Hồng
đã sớm nhận ra trong niềm vui “hụt” một điều gì đó tanh bẩn của bà cơ. Cậu đã đốn ra được ý định cảu bà cô như
“muốn gieo rắc vào đầu óc tơi những hồi nghi để tơi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi”. Một ý định tàn bạo! Nhưng
may thay, chính cái thiêng liêng, cao q cảu tình mẫu tử đã kéo cậu lên từ “đám bùn lầy” với những rắp tâm tanh bẩn
- “nhưng đời nào lòng u thương và sự kính mến mẹ tơi lại bị những rắp tâm tanh bẩn kia xâm phạm đến”. Và những
điều đó phần nào đã làm rạng lên một tình cảm cao đẹp.


Phải chia tay với một cơ hội gặp mẹ “hiếm có”, bé Hồng muốn chạy thật nhanh, tránh đi “câu nói cay độc”
của bà cơ. Nhưng bà ta lại vẫn chưa tha cho một tâm hồn thơ dại. Bà an ủi bé Hồng bằng một câu nói chứa đầy những
ý nghĩ tanh bẩn: “Sao lại không vào? Mợ mày phát tài lắm, có như dạo trước đâu!”. Giọng nói như mỉa mai, giếu cợt,
đang “long lanh ... chằm chằm” chờ đợi phản ứng của cậu bé. Đôi mắt cậu đã “khóe cay như muốn khóc”. Dường như,
những câu nói đó như “mũi tên” bắng thẳng vào một trái tim khao khát tình mẹ. Liệu rằng, rắp tâm xấu xa, tanh bẩn
của bà cơ có thực hiện được hay khơng? Thái độ của bé Hồng ra sao? Tình cảm của bé đối với mẹ có thay đổi hay
khơng?


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Đến lúc này, tâm trạng đau đớn, uất ức của bé Hồng xen lẫn tình yêu tha thiết đã lên tới cực điểm. Từ nỗi đau
vì thương mẹ và đặc biệt hơn là sợi dây tình cảm đã khiến bé phải thốt lên từng câu chữ ngậm ngùi, xót xa: “Giá mà
những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là những thứ như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ thì tơi quyết vồ lấy mà cắn,
mà nhai, mà nghiền cho kì nát vụn mới thơi”. Qua đây, ta mới bất chợt tìm thấy được thứ tình cảm thiêng liêng trong
tâm hồn ngây dại. Và cũng có lẽ, bà cô độc ác đã thỏa được ước nguyện nên đã đổi giọng như “nghiêm nghị” và tỏ ra


ngậm ngùi, thương xót. Thì ra, nỗi đau đớn mất mát của đứa bé đã lên đến đỉnh điểm, đồng thời, sự tàn nhẫn, thâm
hiểm của bà cô đã lên đến mức tận cùng. Hỏi rằng, liệu tình mẫu tử cao quý, thiêng liêng ấy có được trọn vẹn cho đến
cuối cùng hay khơng?


Và rồi qua đó, tuy ý đồ độc ác của bà cô vẫn chưa thực hiện được nhưng nó vẫn là phần nào giúp bé Hồng
vượt lên trên tất cả để hướng đến một chân trời tình u thương đích thực. Để rồi điều đó sẽ chứng minh cho ý nghĩa
của tình mẫu tử cao quý, vẫn luôn “là mạch nguồn cảm xúc không bao giờ vơi trong tâm hồn mỗi con người”. Dù qua
bao chông gai, thử thách, vượt lên những “hố sâu tuyệt vọng”, một “vũng đầm lầy” hằn chứa những xấu xa của một xã
hội đen tối, khơng chút tình người. Chỉ qua những câu nói ngắn gọn, hàm súc được thể hiện qua sự đối thoại với bà cô,
Nguyên Hồng đã chứng minh cho ta thấy, sức mạnh của tình mẫu tử khơng bao giờ kiệt, càng trong cùng cực, cô đơn,
sức mạnh đó bị đè nén rồi lại bùng lên dữ dội, ánh lên một sức mạnh bất diệt - và đó cũng chính là triết lí nhân sinh
của nhà văn Nguyên Hồng.


Nhưng rồi, điều đó cịn đặc biệt hơn nữa khi người mẹ hiền hậu mà cậu bé mơ ước bấy lâu nay trở về. Dường
như, “cái khóa” bị trói buộc lúc trước đang dần dần mở ra. Bóng tối của những ngày qua đã tan biến, nhường chỗ cho
ánh sáng diệu kì tràn ngập trong một tâm hồn trong sáng, đi đơi với đó là tiếng gọi khao khát tình mẹ: “Mợ ơi ... mợ ơi
... mợ ơi!”. Ba tiếng gọi cứ ngân dài ra tha thiết mà đằm thắm tột cùng. Dường như, linh cảm xuất phát từ trái tim khao
khát của cậu bé hoàn toàn đúng. “Chiếc xe kéo” chỉ vừa “thoáng qua” là chú đã cảm nhận được hương vị ngọt ngào,
đằm thắm mà thiếu thốn bấy lấu.


Nhưng linh cảm đó lại khơng làm cậu lay động mà xen vào đó là “ảo ảnh của dịng nước trong suốt, chảy dưới
bóng râm ... đã hiện ra trước mắt gần rạn nứt của người bộ hành giữa sa mạc”. Có lẽ, niềm tin vững chắc lúc trước của
cậu đã cạn kiệt mà đúng hơn là gần tuyệt vọng. Phải chăng, chỉ có dịng sữa ngọt ngào cảu người mẹ mới bồi đắp được
vết rạn nứt trong trái tim non nớt ấy.


Giây phút cậu bé gần như là tuyệt vọng thì bỗng “xe chạy chầm chậm ... mẹ tơi cầm nón vẫy tơi”. Bây giờ thì
khơng cịn là những giọt lệ đau đớn nữa mà thay vào đó là những giọt nước mắt chảy dài trên khuôn mặt hạnh phúc,
thấm đẫm trong trái tim ấm nồng chứa chan bao niềm hạnh phúc, mãn nguyện. “Vài giây sau, tôi đuổi kịp”, trái tim
băng giá sắp được mẹ sưởi ấm đã “trỗi dậy” sâu một giấc ngủ dài. Bao nhiêu mệt nhọc, nỗi giận hờn, đã tan biến.
Trong phút chốc đã mở ra một thế giới tình cảm “mơn man” khắp người cậu bé. Trước đây, nước mắt của cậu bé đã


từng “chan hòa” bởi sự đau khổ, tủi nhục. Và giờ đây, những giọt nước mặt ấy vẫn tuôn nhưng lại vì một niềm sung
sướng bất tận. Đó là dịng nước mắt nhân lên vì niềm vui, nở bừng ánh sáng hạnh phúc tỏa rực tình mẫu tử thiêng
liêng, trong sáng.


Chính xuất phát từ lịng thương, từ tình cảm thiêng liêng, tha thiết, khi ngồi trong lòng mẹ, cậu đã có những
cảm hứng rung động lịng người. Và lúc này, một hình ảnh người mẹ khác hẳn lời kể của bà cô đã hiện lên với “gương
mặt mẹ tôi vẫn tươi sáng với đôi mắt trong và nước da mịn ... làm nổi bật màu hồng của gò má” - một hình ảnh đẹp
như cơ Tấm thảo hiền, hồn tồn trái ngược vời sự “còm cõi, xơ xác như lời nói của bà cơ cay độc”. Bé Hồng thấy mẹ
khơng có gì khác xưa, “vẫn tươi đẹp như thuở cịn sung túc” - đó cũng là hình ảnh người mẹ lúc nào cũng tồn đọng
trong tâm trí cậu bé dù những rắp tâm tanh bẩn vẫn bao quanh cậu.


Được ôm ấp, được chở che và đặc biệt là được nằm gọn trong lòng mẹ, trái tim cậu đã tràn ngập tình yêu
thương, trái tim băng giá đã ấm nồng: “đùi áp đùi mẹ, đầu ngả vào cánh tay mẹ ... tôi thấy những cảm giác ấm áp đã
bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt”. Từng cử chỉ, hành động của cậu cho ta thấy rõ sự hồi sinh bất diệt cảu
tình mẫu tử. Chỉ có như thế, cậu mới nhanaj thấy rõ cái hương vị thiếu thốn lâu nay: “hơi quần áo mẹ tôi và những hơi
thở ở khuôn miệng xinh xắn, nhai trầu phả vào lúc thơm tho lạ thường”. Lúc này, ắt hẳn cái ý nghĩ vẫn ln thống
qua đầu cậu bé như một cơn gió thoảng qua: “phải chăng, trên đời này khơng còn phút giây nào hạnh phúc hơn nữa?”.
Thật vậy, câu hỏi nghe ngây thơ nhưng cũng xót xa, thương cảm biết chừng nào! Có lẽ, phải bắt nguồn từ tình yêu
thương mẹ tha thiết, toát lên một thứu ánh sáng diệu kì mới giúp cậu cảm nhận được cái hương vị mất đi bấy lâu, giờ
mới có dịp bộc lộ.


Thật đẹp làm sao cái giây phút hạnh phúc của một đứa trẻ lâu nay khao khát tình mẹ và giờ đây đã thỏa được
ước nguyện: “pahir bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng cảu người mẹ, để mẹ vuốt ve từ
trán tới cằm và gãi rôm ở sống lưng cho mới thấy mẹ có một êm dịu vơ cùng”. Thật vậy, bao trùm lên tâm trí cậu bé là
một nỗi vui sướng khôn xiết. Phải thương nhớ mẹ, yêu quý mẹ, thèm khát được gần mẹ đến chừng nào thì bé Hồng
mới cảm thấy sung sướng tột đỉnh khi được ôm ấp trong vòng tay êm dịu của mẹ sau bao ngày trắc trở xa cách.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

tình mẹ. Dường như, thứ tình cảm thiêng liêng, ấm nồng đó sẽ mãi “không bao giờ vơi” trong trái tim của những con
người bất tử. Và rồi, mọi chông gai hay những câu nói đáng “nguyền rủa” kia sẽ mãi khơng bao giờ bám lên sợi dây
“trơn tuột” kia, chứa chan bao niềm tha thiết.



Qua đấy, ta mới bất chợt hiểu rằng: tình yêu thương mẹ là nét nổi bật trong tâm hồn ta - những con người
mang một trái tim thiên thần. Và bé Hồng cũng vậy, tình cảm thiêng liêng, sâu nặng đã giúp bé có những cách nhìn
xác thực hơn về con người và cuộc đời “hỗn mang”. Cho dù cảnh ngộ có éo le đến mấy, thứ tình cảm thiêng liêng
được gọi với cái tên giản dị - mẫu tử ấy sẽ không bao giờ nhạt phai trong tâm trí những con người mang tâm hồn của
một tình u đích thực.


Mỗi dịng văn, câu chữ của tác giả đã “lôi” bối cảnh qua cách kể giản dị, giàu sức sống, thấm dẫm tình người
-khác hồn tồn với “Mợ Du” hay “Huệ Chi trước lễ cưới”. Kết cục của nó hồn tồn bi thảm, như một sự giải thốt
khiến người đọc phải sửng sốt, đau đớn tột cùng. Mặc dù vẫn là những cảm giác êm đềm về mẹ nhưng “Trong lòng
mẹ” lại mang một triết li nhân sinh sâu sắc về mẹ, một kết cục tốt đẹp “mẹ con đoàn viên trong một niềm vui tột
cùng”. Dường như, đây là sự bồi đắp cho tâm hồn thánh thiện của một đứa con hiếu thảo, khao khát tình mẹ bây lâu.


Tóm lại, chỉ với những dịng văn giản dị mà thấm đẫm tình người, Nguyên Hồng đã chứng mình cho ta thấy
rõ: “Tình mẫu tử là mạch nguồn tình cảm khơng bao giờ vơi trong tâm hồn mỗi con người”. Khi bài ca về tình mẫu tử
cất lên từ tận đáy lịng thì tình cảm ấy sẽ cho ta cái cảm giác thế nào là thứ tình cảm thực sự trong trái tim thực sự.


Dẫu rằng, thời gian có ngừng trơi, Trái Đất có đổi vịng quay đi chăng nữa, nhưng trong trái tim mỗi con
người vẫn dấy lên một thứ tình cảm bất diệt - tình mẫu tử. Thật vậy, “Trong lòng mẹ” của Nguyên Hồng sẽ mãi là
một bài ca bất diệt ẩn hằn một sức mạnh kì diệu, đem ánh sáng tình yêu đến nhân loại để rồi, bất chợt, mỗi con người
chúng ta phải suy ngẫm:


“Mẹ có nghĩa là tất cả
Là cho đi khơng địi lại bao giờ”


<b>Đề bài 2.1: Có người khơng hiểu: Vì sao Nam Cao lại để cho lão Hạc tìm dến cái chết trong khi vẫn cịn ngun</b>
<i><b>nguồn sống, cịn vườn, cịn tiền. Họ lại càng khơng hiểu vì sao: một người tốt đẹp như thế lại phải tự tử bằng cách</b></i>
<i><b>ăn bả chó - một cái chết đau đớn và dữ dội?</b></i>


<i>Hãy viết một bài văn nhằm giải đáp những thắc mắc trên để mọi người cùng thấy: Đó là những sáng tạo</i>


<i><b>nghệ thuật sâu sắc có khả năng giúp người ta nhận rõ thực chất đời sống và con người nông dân trước Cách</b></i>
<i><b>Mạng.</b></i>


<b>Hoặc Đề bài 2.2: Tóm tắt văn bản “Lão Hạc” (SGK Ngữ văn 8 - tập 1) và trình bày suy nghĩ của em về cái chết đau</b>
<i>đớn, dữ dội của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao.</i>


<b>Dàn ý bài chi tiết (bài viết bên dưới)</b>


<i><b>Mở bài: - Đánh giá phong cách viết văn và cách nhìn đúng đắn về người nông dân của nhà văn Nam Cao trong trào</b></i>
lưu hiện thực phê phán 1930 - 1945.


- Dẫn dắt vấn đề (có hai vấn đề phải dẫn dắt):


1, Vì sao Nam Cao lại để cho lão Hạc tìm đến cái chết trong khi vẫn cịn ngun nguồn sống, cịn
<i><b>vườn, cịn tiền ... Vì sao một người tốt đẹp như như lão Hạc lại phải tự tử bằng cách ăn bả chó?</b></i>


2, Những sáng tạo nghệ thuật của Nam Cao có khả năng giúp người ta nhận rõ thực chất đời
<i><b>sống và con người nông dân trước Cách mạng tháng Tám (trong thời thực dân nửa phong kiến).</b></i>


<i>Lưu ý: - Ở một số đề thi HSG, các ý cần học sinh chứng minh sẽ không được in đâm hay in nghiêng hoặc tạo</i>
<i>ra một kí hiệu nào đó mà bắt học sinh phải tự nhận biết để chứng minh. Vì thế, khi đọc đề cần phải gạch chân trước</i>
<i>những từ ngữ/ý quan trong để khi làm bài khơng thừa hoặc thiếu luận điểm. Trên đó là một trong những ví dụ cụ thể,</i>
<i>nếu khơng được in đậm thì đa số sẽ khơng thế xác định được vấn đề phải chứng minh (chủ yếu là vấn đề 2). </i>


<i> - Ở đề bài 1.2 thì khơng có vấn đề nghị luận nhưng HS cũng phải nếu khái quát về nhân vật lão Hạc</i>
<i>để làm tiền đề cho phần thân bài.</i>


<i><b>Thân bài: Chứng minh ý kiến trên là đúng thông qua nhân vật lão Hạc trong tác phẩm “Lão Hạc” của Nam Cao.</b></i>
- Luận điểm 1: Đoạn chuyển.



<i>+ Đối với cách làm của HSG thì nên trích dẫn một câu nói nào đó để chứng minh vấn đề [vd: “Đối với tôi,</i>
văn chương không phải là sự thoát ly hay sự quên lãng. Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực. Nó có
thể thay đổi cả một thế giới giả dối và tàn ác, ca ngợi sự cơng bình, làm người gần người hơn” (Thạch Lam)].


<i>Lưu ý: Khi trích dẫn câu nói thì phải cho vào ngoặc kép, cuối câu nói là tên của người nói/viết (nếu đã giới</i>
<i>thiệu rồi thì khơng cần). Khi trích dẫn cần phải đầy đủ, chính xác, nếu khơng nhớ rõ câu nói thì nên phác họa lại nội</i>
<i>dung câu nói, khơng nên trích sai câu nói. Sau khi đã trích thì nên giải thích ý nghĩa câu nói để làm sao liên hệ được</i>
<i>đến với vấn đề cảu tác phẩm (trong trường hợp câu nói của Thạch Lam và đối với đề bài này thì câu nói chỉ có tác</i>
<i>dụng với vấn đề 1 - cái chết của lão Hạc).</i>


+ Tóm tắt hay nói cách khác là kể lại một cách thật ngắn gọn hoàn cảnh của Lão Hạc (vật chất và tinh thần) để
làm sao toát lên sự vất vả, khổ cực của lão qua đó đánh giá trước nghệ thuật miêu tả tâm lí hay phong cách viết văn
của nhà văn Nam Cao.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

+ Tinh thần: vợ mất sớm, sống cũng với đứa con trai ... con trai bỏ đi đồn điền cao su, lão cơ đơn một mình
với cậu Vàng (chó Vàng).


+ Hồn cảnh cùng cực sau khi lão ốm và đứa con trai ra đi:


1, Gia sản chỉ có một sào vườn nhỏ đủ để cho lão bịn mót và một con chó mà lão thường gọi là Cậu
Vàng.


2, Sức khỏe của lão càng ngày càng đuối, bão đến cuốn đi vụ hoa màu trên mảnh vườn lão, các việc
nhỏ nhẹ trong làng thì bị cướp mất.


3, Do hoàn cảnh ép buộc, lão đành phải bán cậu Vàng với giá 5đ.


4, Ép mình phải ăn củ chuối, củ sung; làng xóm giúp đỡ lão thì lão từ chối như một kẻ hách dịch, từ
chối lời mời của ông Giáo.



=> Lão đành sống một mình trong sự cô đơn và giằng buộc của bản thân và rồi lão tìm đến cái chết.


<i>Lưu ý: Khi làm luận điểm này cần phải đan xen những khó khăn về mọi mặt của lão Hạc theo một trình tự</i>
<i>nhất định để làm nổi bật lên sự khó khăn của lão và giới thiệu lão chết.</i>


- Luận điểm 3: Cái chết đau đớn của lão Hạc, ông Giáo hiểu ra và hé lộ phẩm chất tốt đẹp của lão Hạc => Giải thích
vấn đề 1.


<i>Lưu ý: Trước khi sang luận điểm 3 cần phải có một đoạn chuyển từ luận điểm này sang luận điểm khác: nên</i>
<i>đánh giá hoàn cảnh của lão Hạc.</i>


+ Sau khi bán cậu Vàng, lão đã đến tìm đến Binh tư xin một ít bả chó. Sau khi nghe Binh tư kể lại, ngay cả
ông Giáo cũng nghi ngờ lão Hạc.


+ Cái chết đau đớn, dữ dội của lão Hạc: “lão đang vật vã ... Cái chết thật dữ dội!”. Đến lúc này, ông Giáo và
Binh Tư mới hiểu ra.


+ Phẩm chất của lão Hạc: yêu thương con (muốn chết để giữ lại tiền cho con), giàu lòng tự trọng (khơng muốn
liên lụy đến hàng xóm), muốn giữ lại những phẩm chất tốt đẹp của mình, khơng muốn bị cái xấu xâm phạm đến.


+ Chứng minh luận điểm:


1, “Vì sao lão hạc phải tìm đến cái chết trong khi vẫn còn nguyên nguồn sống, còn tiền, còn vườn”:
tuy lão vẫn còn tiền, còn vườn nhưng lão ăn mãi sẽ hết, khi con trai lão về sẽ khơng có vốn làm ăn. Vì thương con, nên
lão đành chết để giữ lại tiền cho con.


2, “Vì sao lão phải chết bằng cách ăn bả chó”: có lẽ, lão muốn chứng minh mình khơng hề theo gót
Binh Tư làm bậy. Mặt khác, cái chết của lão như lời tạ tội với chó Vàng, hình ảnh cái chết của lão cũng như hồn cảnh
chết của chó Vàng.



3, Khẳng định: “Đó là những sáng tạo nghệ thuật sâu sắc của Nam Cao có khả năng giúp người ta
nhận rõ thực chất đời sống và con người nông dân trước Cách Mạng”.


- Luận điểm 4: Mở rộng vấn đề, đánh giá nghệ thuật xây dựng nhân vật của t/g.
+ Đánh giá vấn đề (có 3 vấn đề để đánh giá - như trên),


+ Phản đề: Thường có trong văn nghị luận về tư tưởng đạo lí, đời sống, hiện tượng xã hội, nếu là học sinh
có sức viết tốt, biết cân chỉnh thời gian hợp lí thì nên cho mục phản đề này vào: khẳng định, trong xã hội hiện nay,
khơng có ít những trường hợp “coi rẻ” phẩm chất của mình. Qua đó, đánh giá và phê phán những hành động đó.


+ Liên hệ - mở rộng: bao gồm liên hệ bản thân và liên hệ với các tác phẩm khác. Khi liên hệ bản thân: ta nên
liên hệ với thực tế đời sống và với bản thana mình rồi đưa ra những việc làm tốt (những việc làm trái ngược thì đã có ở
mục phản đề, nếu khơng viết mục phản đề thì nên lướt qua). Khi liên hệ với các tác phẩm khác: liện hệ với những tác
phẩm có chung chủ đề (vd: nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên ... ) và nêu nổi vật những điểm chung của
các tác phẩm rồi đánh giá, nhận xét vấn đề chứng minh.


<i>Lưu ý: Ngồi ra, ta có thể nhận xét nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, nghệ thuật kể chuyện và đánh giá</i>
<i>giọng văn của nhà văn Nam Cao để khẳng định: trong văn ơng ln có tình người và đề cao phẩm chất con người dù</i>
<i>trong bất cứ hoàn cảnh nào đi chăng nữa.</i>


<i><b>Kết bài: Khẳng định lại vấn đề theo hướng mở rộng của bản thân.</b></i>


<i><b> (trải nghiệm kiến thức bản thân)</b></i>
<b>Bài làm mẫu</b>


Nam Cao - một nhà văn nhân đạo - một trong những cây bút sáng giá đã để lại những trang viết tâm huyết về
người nông dân trước Cách mạnh tháng Tám mang đậm giá trị hiện thực trong trào lưu hiện thực phê phán 1930
-1945. Với nhân vật Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên, cách nhìn đúng đắn, sâu sắc, nhất là tình thương da diết và
niềm tin mãnh liệt vào những “người cùng khổ” của Nam Cao đã được bộc lộ rõ. Một lão Hạc với số phận bi đát, khổ
cực nhưng lại ánh lên một tâm hồn trong sáng dường như đang hiện diện lên mắt người đọc chúng ta. Truy nhiên, lão


lại phải chết một cách dữ dội và đau đớn để giữ một vẻ đẹp tâm hồn trong sáng. Có lẽ, Nam Cao rất đau đớn khi để
nhân vật của mình “ tìm đến cái chết trong khi vẫn cịn ngun nguồn sống”. Nhưng chính cái chết đau đớn đó, ta mới
cảm nhận được “những sáng tạo nghệ thuật sâu sắc” của ơng tốt lên một thứ ánh sáng diệu kì soi đường cho những
người nơng dân giữa một bầu trời đen tối.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

tác phẩm, dường như, Nam Cao đã đưa người đọc đến một xã hội bất cơng, khơng chút tình người, cho ta thấy rõ bản
chất và số phận của những người nông dân thực sự. Có lẽ, nó “chuyên chú đến con người” hơn là mang đậm ý nghĩa
văn chương. Hoàn toàn khác với “loại văn chương không đáng thờ” chỉ “chuyên chú ở văn chương” dễ nhàm chán và
không tạo được dấu ấn trong lịng người đọc. Và có lẽ, cái chết đau đớn hay bản chất của người nông dân như sự tố
cáo hay “mũi tên” bắn thẳng vào “trái tim đen tối” của một chế độ phong kiến “hỗn mang”, “thay đổi một thế giời,
làm người gần người hơn”. Và đó chính là một bài học đạo đức “tuyệt vời” cho những con người ở thế kỉ XXI hiện
nay.


Với ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật thành cơng, “Lão Hạc” đã để lại cái dư vị sâu sắc dối với bạn đọc. Và
Nam Cao - với ngòi bút bậc thầy tinh luyện, ơng đau đơn, xót xa như “nhỏ máu” khi để nhân vật tâm huyết của mình
phải “tìm đến cái chết trong khi vẫn còn nguyên nguồn sống”. Vậy tại sao lại thế?


Thì ra, lão sống suốt đời trong sự vây bủa của cái đói, cái nghèo. Đã nghèo lại góa vợ, lão lâm vào cảnh một
thân “gà trống ni con”. Khơng có ruộng cày, tồn bộ gia sản của lão chỉ có con chó - người bầu bạn sớm khuya và
ba sào vườn - đủ cho lão bịn mót đủ ăn. Mảnh vườn ấy có được là do vợ lão “cố thắt lưng buộc bụng”, “dè xẻn mãi
mới để được ra năm mươi đồng bạc tậu về”. Đó là mảnh vườn cịm cõi, hoa màu ít ỏi, chỉ đủ cho lão bịn mót nên lão
phải đi làm th, làm mướn mới có đủ cái ăn. Đó là tất cả cuộc đời của lão khiến lão phải thốt lên rằng: “cuộc đời như
thế chỉ “nhỉnh” hơn cái kiếp con chó”! Và cũng chính từ cái nghèo, cái đói mà người cha như lão đành phải chịu khuất
phục trước hạnh phúc của đứa con trai “độc đinh”. Thế rồi, con trai lão quyết chí đi đồn điền cao su để có tiền cho “bõ
tức”. Cuộc đời của lão như nhói lên một nỗi đau, một cảnh đời cùng khổ của những người nông dân trước cách mạng
Tháng Tám.


Cậu con trai duy nhất bỏ lão mà đi khiến lão trơ trọi một mình. Chỉ có con chó Vàng làm bạn sớm tối để lào
ân hận và cảm thấy mình có lỗi. Con chó trở thành “Cậu Vàng”, thành người một nhà của lão. Dường như, lão vẫn
không thể nào quên được đứa con trai. Trong kí ức của lão, cậu Vàng là một kỉ vật thiêng liêng, là tài sản của đứa con


trai. Có một sợi dây liên lạc rất lạ lùng giữa lão Hạc, cậu Vàng và cậu con trai “vắng mặt”. Cho nên có bao nhiêu tình
thương, nỗi nhớ chất chứa trong lịng, lão dồn hết vào con chó. Lão cho nó ăn trong bát sứ, chia sẻ thức ăn, chăm sóc,
trị chuyện với nó như một người bạn thâm giao, tưởng khơng thể nào có thể xa rời nó. Bởi thế, cái ý định “có lẽ bán
con chó” ấy của lão Hạc bao lần chần chừ không thực hiện rồi cuối cùng, cậu Vàng được bán đi với giá năm đồng bạc.
Cậu Vàng bán đi có vẻ là quyết định khó khăn nhất của đời lão. Năm đồng bạc kể ra cũng là “món tiền to”,
nhất là giữa thời buổi “đói deo đói dắt thế này”. Nhưng, lão Hạc bán cậu Vàng đi khơng phải vì tiền mà bởi tình cảnh
đói nghèo, khốn quẫn đã buộc lão phải chia tay với nó. “Thóc cao, gạo kém”, sức cùng, lực kiệt, lão đành phải làm
như vậy! Cái khoảnh khắc “lão cố làm ra vui vẻ” cũng không thể giấu được bộ dàng “cười như mếu và đôi mắt lúc nào
cũng ầng ậng nước”. Lão tự nhất mình là kẻ bất nhân, là tên lừa đảo với một con cho vốn “tin u của mình”. Có lẽ,
đây là giây phút đáu đớn của cuộc đời lão khiến “mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho
nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu
khóc ...!”. Cuộc đời lão như dòng nước mắt chảy dài trên những nỗi đau bất lực. Có lẽ, cậu Vàng đã là một “phần
nước mắt” nước mắt của lão. Nó tỏa rạng tâm hồn và làm ảnh lên bản chất tốt đẹp trong ông lão nơng dân đầy bất
hạnh. Vì thế, sau khi bán cậu Vàng, từ túng quấn, lão Hạc bồng chìm xuống như bị ai “vùi dập”.


Trong lúc đó, lão “ép” mình phải ăn của chuối, củ sung trong khi vẫn còn tiền. Ông Giáo mời lão ăn khoai và
uống nước chè thì lão xin khất. Mọi người giúp đỡ lão thì “lão từ chối như một kẻ hách dịch”. Có lẽ, bản chất của một
con người thực sự đã được bộc lộ rõ. Liệu những kẻ vô cảm như Thị - vợ ông Giáo hay tên ăn trộm như Binh Tư và
bao người khác nữa có hiểu được những chan chứa trong lịng lão hay khơng? Cuối cùng, vì lịng tự trọng của mình,
lão đã đi đến một hành động như tự giải thoát - cái chết - một cái chết dữ dội và đầy bí ẩn trong khi tài sản vẫn còn.


Đặc biệt hơn, trước khi lão chết, lão đã gửi lại tồn bộ tài sản của mình cho ơng Giáo, nhờ ông Giáo giữ hộ
cho đến khi “thằng con trai lão về”. Tiếp đó, lão xin Binh Tư một ít bả chó. Thành thật, Binh Tư và một số người khác
cũng chẳng hiểu lão xin để làm gì hay lão cũng theo gót Binh Tư làm chuyện xấu. Và đáng buồn hơn, hành động đó
cũng làm cho một người bạn thân của lão là ông Giáo cũng hiểu nhầm. Vài hôm sau, lão bỗng dưng chết một cách đột
ngột, đau đớn thì lúc đó, câu chuyện mới được làm sáng tỏ.


Phải chăng, chỉ có cái chết mới trọn đạo làm cha, mới giữ trọn vẹn được vẻ đẹp tâm hồn trong sáng. Và cũng
đúng hơn, nếu lão sống, lão sẻ phải đánh đổi bằng “tình phụ tử” vun đắp bây lâu, “hụt” đi phần nào số tiền lão dành
dụm cho con và đặc biệt hơn, điều đó sẽ phiền lụy đến bà con hàng xóm bởi lão biết, họ cũng chẳng hơn lão được thứ


gì, có khi cịn khổ hơn lão rất nhiều. Cho nên, chính vì lịng tự tróng, lão bắt buộc phải đi đến cái chết.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

bao giờ theo gót Binh Tư làm chuyện bậy và tình yêu thương con tha thiết. Dường như, cái chết đau đớn của lão như
sức ám ảnh ghê gớm trong mỗi đồng giả chúng ta.


Cái chết của lão lại hé lộ ra một khả năng: “Tại sao, lão lại phải chết một cách đau đớn và nghiệt ngã và đau
đớn bằng bả chó?”. Phải chăng, đó như sự chuộc lỗi với con chó Vàng. Một cái chết đau đớn về thể xác nhưng lại
thanh thản về tinh thần. Nhưng thực sự, lão rất muốn sống, muốn giữ lại toàn bộ tài sản trong niềm mong nhớ đứa con
trai trở về. Nhưng lão phải chết để trọn đạo làm cha, giữ được cái bản chất lương thiện của mình. Lão chết để bảo toàn
số tiền cưới vợ cho con và lão cũng khơng muốn phiền lụy đến làng xóm, Lão chết tượng trưng cho tình thương âm
thầm và cái chết của lão đã đưa lão đến một thế giới hoàn tốn mới, tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn, khơng chút phiền
muộn nào và cũng không bị vùi dập của chế độ thực dân phong kiến.


Có lẽ, cái chết của lão vật vã trên giường cũng gần như cảnh “thàng Mục, thàng Xiên bắt cậu Vàng”! Đó như
lời tạ tội chân thành, sâu sắc đến người bạn mà lão trân trọng nhất. Qua cái chết dữ dội đó, ta mới thấy bản chất lương
thiện và lòng tự trọng cuả con người cao biết chừng nào!


Dường như, từng câu chữ là niềm đau, niềm đồng cảm của nhà văn trước nhân vật. Và cũng qua đó, ta mới
biết, dù có chết, họ vẫn luôn giữ lại bản chất lương thiện và lịng tự trọng của mình. Đồng thời, nó cịn thể hiện một
tinh thân nhân đạo và giá trị hiện thực của tác giả trong tác phẩm. Và điều đó là những sáng tạo nghệ thuật sâu sắc có
khả năng giúp người ta nhận rõ thực chất đời sống và con người nơng dân trước Cách Mạng.


Qua từng chi tiết đó, ta mới cảm nhận được những ý nghĩa sâu sa ẩn chứa bên trong những con người gần như
“gàn dở”. Trong sự bế tắc, cùng cực của hoàn cảnh, người nông dân nghèo vẫn giữ được phẩm giá tốt đẹp. Nam Cao
đã thể hiện thái độ trân trọng và cái nhìn nhân đạo cùng với một triết lí nhân sinh cao cả: “Con người chỉ xứng đáng
với danh nghĩa con người người khi biết nâng niu, chia sẻ những điều đáng thương, đáng quý ở con người”. Và rồi, cái
chết của lão Hạc như một bản án tố cáo chế độ thực dân phong kiến bất nhân, tàn ác. Đồng thời, cũng là tiếng kêu cứu
khẩn thiết thay đổi môi trường sống phi nhân tính, cứu lấy giá trị chân chính của con người.


Kết thúc bi kịch đồng nghĩa với sự chấm dứt những dằn vặt riêng tư của lão Hạc. “Cái đẹp và cái xấu bao giờ


cũng chính là hai cánh tay của một cơ thể, Khơng vì cánh tay trái xấu xa mà đem chặt đứt cánh tay trái đi thì chính
thân thể này sẽ đau chứ khơng riêng gì mình cánh tay trái” (Hồi Thanh).


Cũng như nhân vật Chí Phèo ở làng Vũ Đại trong tác phẩm cùng tên, Nam Cao đã gây dựng lên hình ảnh
những người thuộc tầng lớp thấp cùng của xã hội phong kiến, họ phải sống trong cảnh đời bất cảnh, cùng quẫn nhưng
lại mang một vẻ đẹp phẩm chất cao thượng. Lão Hạc thương con rứt ruột những lại bất lực khi thấy con ra đi. Từng
câu nói của lão như từng tiếng nấc nghẹn ngào bật ra từ trái tim yêu thương con tha thiết, từ tận đáy lòng của người
cha không chút uất ức, cam chịu. Phải chăng , đó là giá trị nhân đạo thường gặp trong phong cách viết văn của bậc
thầy Nam Cao.


Trong xã hội hiện đại ngày nay, đất nước đang trên đà phát triển, nhu cầu của con người ngày một cao. Và đi
đôi với thực trạng như thế thì bản chất con người khơng cịn được như ơng cha ta ngày trước. Có một khối người trong
xã hội hiện nay “bán rẻ” lương tâm, phẩm chất của mình và cũng chỉ vì một chữ - “tiền”. Như đại thi hào Nguyễn Du
đã nói: “Cả xã hội vì đồng tiền” - “Truyện Kiều”. Và điều đó cần phải được thay đổi trong xã hội hiện nay


Thời gian cứ thế trôi qua, nhưng cái chết đau đớn, dữ dội của lão nơng bần hàn đó vẫn mãi khắc sâu trong mỗi
con người chúng ta. Và rồi từ đây, hình ảnh người nơng dẫn Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám sẽ vẫn luôn thấm
đượm trong lòng mỗi độc giả chúng ta về những phẩm chất cao đẹp đáng phát huy.


*Mở rộng vấn đề - kiến thức tham khảo lớp 8:


<i><b>Giá trị trong các văn bản: truyện ngắn “Lão Hạc” (Nam Cao); đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” (trích tiểu</b></i>
<i>thuyết “Tắt đèn” - Ngơ Tất Tố); đoạn trích “Trong lịng mẹ” (trích hồi kí “Những ngày thơ ấu”) - Nguyên Hồng).</i>
<b>1, Giá trị hiện thực có trong Truyện kí hiện đại Việt Nam:</b>


- Các nhà văn hướng ngịi bút của mình phản ánh số phận, cuộc sống cùng cực, đau khổ của người nông dân trước
Cách mạng (đặc biệt là phụ nữ và trẻ em).


- Đồng thời phơi bày bộ mặt xấu xa, tàn ác, bất nhân, bất nghĩa của chế độ phong kiến Việt Nam đã đẩy người nông
dân đến bước đường cùng, khơng có lối thốt.



2, Giá trị nhân đạo có trong Truyện kí hiện đại Việt Nam:


- Các nhà văn hướng ngịi bút của mình về con người bằng con mắt tình thương, sự cảm thơng, chia sẻ với nỗi bất
hạnh, đau khổ của con người. Họ đặt mình vào cuộc sống nhân vật, đau nỗi đau nhân vật, vui buồn cùng nhân vật, vui
cùng cuộc sống của những “đứa con tinh thần” do họ nhào nặn.


- Đề cao giá trị tốt đẹp của người nông dân. Đằng sau vẻ bề ngồi mộc mạc, thơ ráp của con người là thiên lương trong
sáng và phẩm chất tốt đẹp của con người lúc bấy giờ của con người.


- Họ đã hướng con người đến một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc, vượt lên trên mọi đau khổ của đời sống mà con
người đang phải chịu đựng.


- Tố cáo, lên án xã hội hiện thực mà chủ yếu là chế dộ phong kiến cường quyền, hà khắc, o ép đến tận xương tủy.
<b>3, Tư liệu tham khảo “Quan điểm của nhà văn - bậc thầy Nam Cao”:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>những lại vượt lên trên những thứ tầm thường về đạo đức” (Chu Văn Sơn). Và đó cũng chính là quan điểm, giá trị</i>
<i>nhân đạo hằn ẩn trong phong cách viết văn của bậc thầy Nam Cao.</i>


<i>Nhân vật lão Hạc qua ngòi bút của Nam Cao đã “hiện lên như một con người có tâm lí phức tạp, đầy mâu</i>
<i>thuẫn nhưng tính cách rất nhất quán” (Chu Văn Sơn) - một tính cách ngay thẳng, song số phận lão hết sức thê thảm:</i>
<i>“nghèo khổ về vật chất, thiếu thốn về tinh thần”, vừa phải vật lộn mưu sinh, vừa phải đối mặt với những thách thức,</i>
<i>giằng xé của cuộc đời.</i>


<i>Bên cạnh đó, Nam Cao còn trực tiếp phát biểu suy nghĩ của mình: “Chao ơi! Đối với những người sống</i>
<i>quanh ta, nếu ta khơng cố tìm hiểu mà hiểu họ thì ta chỉ thấy ở họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, ... tồn những</i>
<i>cớ để ta tàn nhẫn, khơng bao giờ ta thương”. Phải chăng, tác giả muốn khẳng định một thái độ, một cách ứng xử</i>
<i>mang ánh mắt nhân đạo, khơng nhìn những người xung quanh bằng cặp mắt phiến diện, lạnh lùng, vơ cảm mà cịn</i>
<i>phải thể hiện sự nhân ái xuất phát từ trái tim con người.</i>



<i>Trở lại với nhân vật lão Hạc, hoàn cảnh nghiệt ngã không thể khuất phục được lão. Cuộc đời càng đầy lên</i>
<i>những khó khăn, bất hạnh thì tâm hồn lão càng được “mài giũa”. Có lẽ, đỉnh cao của lịng nhân ái, đức hi sinh, lòng</i>
<i>tự trọng cao thương và ý thức trách nhiệm hành động con người trong hoàn cảnh ấy là cái chết. Vì sao lại thế?</i>


<i>Lão chết để trở thành một con người thực sự, từ giã mạng sống của mình để giữa lại nhân phẩm con người.</i>
<i>Bởi vậy, “cái chết dường như là đau đớn, dữ dội ấy chưa hẳn đáng buồn hay buồn theo một nghĩa lí khác”. Lão chết</i>
<i>như một sự giải thốt cho chính bản thân lão trong số phận cơ cực như vậy. Lão chết, có lẽ sẽ khơng ăn vào tiền dành</i>
<i>cho con, khơng phiền lụy đến xóm làng và đặc biệt giữ lại lịng tự trọng của mình - khơng theo gót Binh Tư làm bậy.</i>
<i>Lão từ giã cuộc đời đau buồn để sang một thế giới tốt đẹp hơn, cơng bằng hơn, khơng cịn những cảnh ngộ bất cơng,</i>
<i>cùng cực. Phải chăng, suy nghĩ và hành động của lão cũng chính là quan điểm, triết lí của Nam Cao. Dường như, ông</i>
<i>muốn tạo dựng một niềm tin sâu sắc về người nơng dân trong lịng mỗi bạn đọc.</i>


<i>Có lẽ, Nam Cao đã có một phát hiện mới về con người. Quan điểm của ơng rất hợp lí - khơng có con người</i>
<i>nào hồn tồn thánh thiện, cũng như khơng có con người nào hồn tồn xấu; con người là tổng hòa của nhiều mặt</i>
<i>đối lập, vừa đẹp đẽ, vừa xấu xa; vừa cao thượng, vừa tầm thường; vừa đáng u, vừa đáng ghét. Cũng theo triết lí đó,</i>
<i>trong những con người gần như gàn dở, xấu xa, nếu ta khơng có sự cảm thơng, chia sẻ thì sẽ mãi mãi ta khơng tìm</i>
<i>được ở họ ánh sáng lương tri, ý thức nhân phẩm - một nét đẹp nào đó của tâm hồn đáng để trân trọng. Điều đó có lẽ</i>
<i>xuất phát từ chính lịng u thương con người của Nam Cao. Phải có niềm tin sâu sắc về con người, biết đồng cảm,</i>
<i>chia sẻ thì ơng mới viết nên được những câu chữ đậm nét cảm thông như vậy.</i>


<i>Không chỉ có mình Nam Cao, ngay cả trong cuộc sống thực tại của chúng ta cũng phải học tập những điểm</i>
<i>tốt đó của những “tiền nhân” đi trước. Trong trái tim mỗi con người có cả sự xấu xa. Vì vậy, ta phải luôn cảm thông,</i>
<i>đồng cảm với mọi người xung quanh, đặc biệt là với những con người có hồn cảnh bất hạnh. Đồng thời, cũng phải</i>
<i>có ý thức lên án những kẻ sống vơ tình, lạnh lùng, vơ cảm, thờ ơ trước hiện tại.</i>


<i>Có thể nói, truyện ngắn “Lão Hạc” là một tác phẩm chứa chan bao triết lí sống cao đẹp. Đó chính là sự trăn</i>
<i>trở của một trái tim vĩ đại. Bởi thế, “Truyện ngắn “Lão Hạc” luôn sừng sững một niềm tin sâu sắc của Nam Cao về</i>
<i>con người (Lê Duy) là như thế!</i>


<b>Đề bài 4: Có ý kiến cho rằng: Văn học ln ca ngợi tình yêu thương giữa người và người.</b>



<i>Bằng những tác phẩm đã học trong chương trình Ngữ Văn 8, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.</i>
<b>Bài làm mẫu</b>


Từ xa xưa, con người đã biết phản ánh tâm tư, tình cảm của mình qua văn học truyền miệng hay trên những
tấm tre, mảnh giấy. Văn học đã trở thành người bạn thân thiết, gắn bó với con người. Nó là sợi dây liên kết vơ hình
khiến con người “xích” lại gần nhau hơn. Văn học giúp con người sống với nhau bằng tình cảm đẹp đẽ, biết sống bằng
sự chia sẻ, cảm thơng. Vì thế, ngay từ khi sinh ra, khi được truyền hơi thở ấm áp của bà, của mẹ qua những câu hát ru
thì ta đã cảm nhận được rằng: “Văn học ln ca ngợi tình u thương giữa người và người”.


Văn học là một bộ môn Nghệ thuận quan trọng trong cuộc sống tinh thần mỗi con người. Là công cụ để bày tỏ
cảm xúc hay tình cảm của mình bằng ngơn ngữ, giúp con người thể hiện rõ từng khung bậc cảm xúc của mình. Những
tác phẩm văn học được làm nên từ chất liệu cuộc sống, thể hiện rõ tình cảm của cuộc sống hiện thực. Vì thế, văn học
cịn là chiếc chìa khóa vàng mở ra lâu đài nhân ái và tình thương, hướng chúng ta đến “chân - thiện - mĩ”. Tình yêu
thương con người làm nên sự hấp dẫn của văn chương, ngược lại, văn chương có nhiệm vụ bồi đắp tình yêu thương
giữa người với người.


Nhà phê bình văn học Nguyễn Văn Siêu đã từng nói: “Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ.
Loại đáng thờ là loại chun chú đến con người. Cịn loại khơng đáng thờ chỉ chuyên chú ở văn chương”. Thật vậy,
“văn học là nhân học” (Maksim Gorky), nó dành tất cả những gì tốt đẹp nhất cho con người, “làm thay đổi cả một thế
giới giả dối và tàn ác, ca ngợi sự cơng bình, làm người gần người hơn” (Thạch Lam). Tóm lại, nó bieeuyr hiện cho tất
cả những gì gọi là tình cảm nhân loại, sự xót xa, đồng cảm hay lòng nhân ái, mang cái dư vị của cuộc sống thực tại.


Trong văn học chân chính - thứ được gọi là “loại văn chương đáng thờ” kia được chia ra làm nhiều cung bậc
cảm xúc. Nó bộc lộ sự thương cảm xót xa, sâu sắc đối với những mảnh đời, thân phận bất hạnh, vẻ đẹp nhân cách con
người, ... Nhưng nổi bật trong đó vẫn là tình cảm gia đình, làng xóm ; tình u thiên nhận, q hương, đất nước hay sự
đồng cảm, xót xa trước mảnh đời đau xót.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

sự hồn nhiên, ngây thơ của người con và tình yêu thương con hết mực của người mẹ. Và rồi hình ảnh cậu bé Hồng
trong hồi kí “Những ngày thơ ấu” (Ngun Hồng” thì sao? Hồn cảnh đáng thương của gia đình bé Hồng những xen


lẫn vào đó là niềm khao khát cháy bỏng, dữ dội. Dường như, thứ tình cảm cao quý ấy cứ “gắn chặt” với nhau, như thứ
keo rắn chắc, không thế nào gỡ bỏ được. Cũng gần như vậy, tình phụ tử thiêng liêng của lão Hạc trong tác phẩm cùng
tên cũng được thể hiện rõ. Nam Cao đã nhìn thấu rõ trái tim nồng ấm mà lão Hạc dành tặng cho con, hi sinh vì con để
giữ đạo làm cha. Hay tình cảm vợ chồng chị Dậu thì sao? Chị ln ân cần, chăm sóc chồng chu đáo, qn mình bảo vệ
chồng truuwocs bọn quan lại gian trá. Hình tượng người phụ nữ đẹp đẽ đã được thể hiện qua ngịi bút của Ngơ Tất Tố.
Tóm lại, văn học đã làm nên một thứ tình cảm thiêng liêng qua nét vẽ tài tình của các nhà văn. Nó đã làm sáng tỏ thế
nào là “thứ khí giới thangh tao” của văn chương. Nhà thơ Chế Lan Viên đã có câu thơ về tình cảm gia đình rất hay đã
phần nào khẳng định được điều đó:


“Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con”
Hay:


“Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn”


Không chỉ trong gia đình mà ngay cả giữ những con người khơng có máu mủ, những văn học vẫn đề cập đến,
đó là tình yêu thương, đùm bọc lẫn nhau giữa người với người trong xã hội. Và trong văn học truyền miệng đã có câu:


“Bầu ơi thương lấy bí cùng


Tùy rằng khác giống nhưng chung một giàn”


Dân gian đã đề cao con người, mượn đề tài “bầu - bí” để nhắc nhở chúng ta về mối quan hệ trong xã hội.
Cũng như bà lão hàng xóm cạnh gia đình chị Dậu, đã “ái ngại” mạng bát gạo sang giúp đỡ gia đình chị trong hồn
cảnh khó khăn. Hay nhân vật ơng Giáo - hàng xóm lão Hạc - là tầng lớp tri thức nghèo nhưng lại mang một trái tim
đồng cảm vô bờ bến. Chính ơng Giáo đã xoa dịu nỗi đau của Lão Hạc, giúp đỡ về mặt tinh thần trong mọi hồn cảnh.
Và chính trong những tác phẩm văn học nước ngoài, cụ Bơ-men (“Chiếc là cuối cùng” - O’Hen ri) đã cứu Giôn-xi từ
cõi chết trở về. Đâu chỉ có văn học Việt Nam mà tốn thế giới hay nói cách khác, mọi nơi, mọi thời điểm, nơi nào có
văn học là có tình thương, thắp sáng troing bóng tối, sưởi ấm trong lạnh giá. Và đó chính là phương châm tồn tại mãi
mãi của văn học chân chính.



Văn học khơng chỉ ca ngợi tình thương sâu đậm trong lịng mỗi người, khơng chỉ khêu gợi tình cảm thực tại
mà cịn khích lệ tình cảm tiềm tàng ẩn chưa trong mỗi con người, phê phán những tấm lịng vơ cảm rồi chính cái vơ
cảm đó sẽ phần nào biểu lộ ra thứ tình cảm chân chính:


“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy trí nhân để thay cường bạo”
(“Nước Đại Việt Ta” - Nguyễn Trãi)


Bên cạnh những thứ tình cảm khích lệ về mặt tinh thần đó thì tình u q hương, đất nước là thứ tình cảm
chân chính thể hiện bằng hành động thực tế. Lòng yêu quê hương, đất nước đã thể hiện sâu sắc qua “Hịch tướng sĩ”
(Trần Quốc Tuấn). Ông đã thể hiện tình yêu mãnh liệt của mình đồng thời khích lệ tướng sĩ tấm lịng u nước “mà
bản thân họ đã có sẵn”. Cũng vậy, “Nước Đại Việt ta” (Nguyễn Trãi) là “bước nhảy vọt thời gian” khẳng định những
yếu tố độc lập đề cao sức mạnh dân tộc, đề cao, ca ngợi đi đôi với lên án, phê phán. Đó là những bằng chứng phê phán
hành động sai trái nhưng trong “Cô bé bán diêm” (An-đéc-xen) lại phê phán chính trái tim được coi là “nồng ấm: của
con người. Nhà văn An-đéc-xen đã lên án gay gắt thái độ sống thờ ơ của những con người trong cùng một xã hội. Phải
chăng, sau cái chết của em bé bán diêm, những người dân nơi đây lại có cách nhìn khác về bản thân. Tóm lại, văn
chương ra đời khơng chỉ có vậy àm cịn với mục đích “khơi gợi những gì chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa ai có”
(Nam Cao), thắp sáng lên tia sáng hi vọng, sưởi ấm trái tim băng giá của những con người chưa biết vẻ đẹp nhân cách
tâm hồn tiềm tàng của mình.


Văn học trau dồi tình yêu con người, gợi cho con người cảm xúc. “Cảm xúc con người như viên kim cương”
thô thiển nhưng được mài giũa, viên kim cương thô thiển ấy sẽ trở thành dá quý “đắt giá”. Cũng như trái tim con
người vậy, hãy tự biết “tan chảy” lớp băng lạng giá kia để trở thành những con người biết đồng cảm, chia sẻ. Như văn
hào M.Gorki đã nói: “Xét đến cùng, ý nghĩa thực sự của văn học là nhân đạo hóa con người”. Thật vậy, quả là “loại
văn chương đáng thờ”, “đáng trưng bày” cho cả nhân loại chiêm ngưỡng.


Qua những tác phẩm văn học trên, ta mới cỏm nhận được rằng, văn học ln ln cả ngợi những tình u
thương cao cả, làm người gần người hơn. CHúng hòa quện vào nhau tạo nện một bức tranh tươi sáng, giúp con người
phát triển theo một định hướng chung để ngày một hồn thiện như mục đích của văn học: “ln hướng con người tới


chân - thiện - mĩ”. Và đúng như nhà thơ Tố Hữu đã viết:


“Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau”


<b>Đề bài 3: Chứng minh lòng yêu nước, thương dân của các vị vua, chủ tướng thông qua: </b><i><b>“Thiên đô chiếu” (“Chiếu</b></i>
<i><b>dời đô” - Lý Công Uẩn); “Hịch tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn); “Hịch tướng sĩ” (Nguyễn Trãi).</b></i>


<b>Bài làm mẫu</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

yêu nước, nghĩa thương dân”. Trong số đó, ta khơng thể không nhắc đến những vị anh hùng như Lý Công Uẩn trong
“Chiếu dời đô”, Trần Quốc Tuấn trong “Hịch tướng sĩ” và Nguyễn Trãi trong “Nước Đại Việt ta”.


Đọc ba áng văn chương kiệt tác này, ta mới cảm nhận được tấm lịng sâu sắc của những con người ln luôn
suy nghĩ, lo lắng cho nước, cho dân. Đối với họ, nỗi niềm đất nước là nỗi niềm trăn trở, canh cánh khơng ngi. Chính
khát vọng độc lập và khí phách Đại Việt đã làm nên vẻ đẹp “thần hiếm” trong các vị vua, chủ tướng này.


Buổi đầu, mới giành được độc lập, đất nước ta còn chưa cường thịnh. Trong mấy chục năm mà đã thay đổi trị
vì đến ba vương triều. Các triều đại Đinh, Tiền Lê số phận ngắn ngủi thực là đau xót! Có lẽ, sự suy vong của các triều
đại như “tiếng chuông cảnh báo” cho giang sơn, bờ cõi Đại Việt. Làm thế nào để Đại Việt phát triển thành một quốc
gia phồn thịnh? Đó là nguồn vọng của một vị hồng đề và cũng là ý muốn của muôn dân trăm họ. Ý nguyện của dân
chúng là đã thơi thúc hồng đế Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) dời đô từ Hoa Lư về Đại La.


Kinh đơ là trung tâm chính trị, hành chính, là điểm tụ của quốc gia. Khi dời kinh đơ đi nơi khác, người đứng
đầu cuộc “hành trình” phải có những hiểu biết sâu rộng về địa hình, có cẻ sự nhạy bén và can đảm để đi đến quyết
định cuối cùng. Qua đó, ta thấy rõ được tài năng “xuất chúng” của Lý Công Uẩn - vị vua anh minh và tài giỏi. Ơng
nắm giữ được tình hình, thời vận của đất nước, ông muốn mọi thứ dưới quyền hành của mình phải thực sự tốt đẹp
-dân ấm no, nước hưng thịnh. Chính vì vậy, Người quyết định dời đo - một quyết định khơng có gì trái với luân lí, trái
với quy luật tự nhiên cả. Muốn vậy, việc dời đơ là phải tìm một nơi “trung tâm của đất trời”, địa thế “rồng cuộn hổ
ngồi” - và ông đã chọn Đại La. “Đại La là nơi trung tâm của đất trời, mở ra bốn hướng Nam - Bắc, Đơng - Tây; có núi


lại có sơng, đất rộng mà bằng phẳng, cao mà thoáng, tránh được nạn lụt lội, cịn là kinh đơ cũ của Cao Vương, mn
vật tốt tươi, xem khắt Đại Việt cỉ có nơi đây là thắng địa”. Nhìn sâu vào khát vọng của vị vua anh minh này, chúng ta
mới thực sự cảm nhận được tình yêu mãnh liệt hằn ẩn trong con người ơng. Lý Cơng Uẩn chính là một trong những
con người bước lên và đã có cơng khiến cho “con thuyền “ Đại Việt băng băng lướt sóng trên con đường xấy dựng và
phát triển đất nươc.


Nếu lòng yêu nước, thương dân của Lý Công Uẩn đã được bộc lộ trong “Chiếu dời đô” với nguyện vọng đất
nước phồn thịnh mn đời thì với Trần Quốc Tuấn - một vị chủ tướng tài ba đã chứng minh lòng yêu nước của mình
qua lịng căm thù giặc sâu sắc và ý niệm sẵn sàng hi sinh vì đất nước qua tác phẩm “Hịch tướng sĩ”.


Là một chủ tướng có lịng u nước hào hùng, ơng khơng thể “mặt lấp tai ngơ” trước những hành động bạo
tàn của kẻ thù, ông căm thù chúng làm ông không tiếc những lời cay xé để lên án hành động như “nghênh ngang đi lại
ngồi đường” như một đất nước khơng vua, “uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình” hay “vơ vét vàng bạc, ngọc lụa
để vung đầy túi tham của chúng”. Từ lịng căm thì giặc, ta lại càng cảm thương cho vị chủ tướng khi quên ăn, mất ngủ,
đau đớn đến “tim gan thắt ruột”, “nước mắt đầu đìa” vì uất ức chưa trả được mối thù nợ nước. Từ đó, tấm lịng xả thân
vì nước, nguyện hi sinh “trăm thân” cho quê hương làm nổi bật hẳn một vị anh hùng đáng cảm phục. Có lẽ vi thế, ông
đã nghiêm khắc thức tỉnh các tướng sĩ đang sống trongc ảnh “xa hoa”, sung sướng. Ông muốn họ thực sự kiên quyết
chống giặc đồng thwoif cũng muốn đất nước, hưng thịnh đến mn đời. Qua đó, ta mới hiểu rõ tấm lòng cao cả, anh
minh, yêu nước, thương dẫn của cị tướng Hưng Đạo Vương - Trần Quốc Tuấn.


Đối với “Chiếu dời đơ” đã tốt lên niềm tự hào cao độ về bản lĩnh, khí phách của Đại Việt, còn “Hịch tướng
sĩ” lại khẳng định một nền độc lập - tự do bền vững. Còn đối với Nguyễn Trãi trong “Nước Đại Việt ta” lại khác, lòng
yêu nước, thương dân, khát vọng tự do đã được đúc kết thành chân lí ơm ấp trong trái tim người dân đất Việt.


Bài cáo của Nguyễn Trãi như bản tuyên ngôn độc lập thứ hai mang ý nghĩa lịch sử của cả một đất nước, thể
hiện ý thức tự chủ, quyền dân tộc. Tư tưởng nhân - nghĩa vốn là khái niệm đạo đức của Nho Giáo, được hiểu là “lòng
thương người chính là việc cần làm”. “Yên dân” là làm cho dân được hưởng thái bình những muốn “yên dân” thì phải
đi đơi với việc “trừ bạo”. Có bảo vệ được dân thì mới thực hiện được mục đích “n dân”. Nguyễn Trãi đã khẳng định
mạnh mẽ chủ quyền của một đất nước, đồng thời khơi gợi cho chúng ta một niềm tự hào dân tộc cao cả. Chân lí của
Nguyễn Trãi như sức mạnh trong tâm hồn yêu nước, thương dân có trong trái tim mãnh liệt của ơng. Điều đó như tiềm


thức khắc sâu trong tim mỗi độc giả chúng ta:


“... Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông, bờ cõi đã chia


Phong tục Bắc - Nam cũng khác


Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nên độc lập
....


Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch đằng giết tươi Ơ Mã ...”


Ra đời trong hào khí chiến thắng, cả dân tộc đang ca khúc khải hoàn, cả ba áng văn thiên cổ hùng văn đã
khẳng định quyền và tính độc lập dân tộc. Đồng thời, thấy rõ những phẩm chất ằn hẩn chứa trong các vị vua, vị chủ
tướng nghiêm khắc mà có trái tim nồng ấm.


Kết quả của sự lãnh đạo anh minh của các vị “tướng tài, vua giỏi” Lý Công Uẩn, Trần Quốc Tuần, Nguyễn
Trãi là niềm tin vững chắc về một tương lai tốt đẹp của nhân dân ta từ xưa đến nay. Một lần nữa, khúc khải hoàn kia
lại khẳng định cao hơn, chi tiết hơn tầm quan trọng cả họ vô cùng to lớn đến giang sơn đất nước. Những vị ấy đã cố
gắng giữ gìn và gây dựng đất nước thì con cháu chúng ta lại càng phải cùng nhau gây dựng và bảo vệ đất nước vững
mạnh hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<i><b>---Trong bài: “một khúc ca xuân” (12/1967). Tố Hữu có viết:</b></i>
“Nếu là con chim, là chiếc lá


<i>Thì chim phải hót, chiếc lá phải xanh</i>
<i>Lẽ nào vay mà khơng trả</i>


<i>Sóng là cho đâu chỉ nhận riêng mình”</i>



Hãy phát biểu ý kiến của anh (chị) qua đoạn thơ trên.
<b>Dàn ý tham khảo</b>


<b>I. Mở bài</b>


– Con người sinh ra được “vay mượn” từ tạo hoá, từ cha mẹ, từ mọi người xung quanh.
– Vì vậy, phải nhớ ơn và sống có ích để trả ơn cho đời.


<b>II. Thân bài</b>


– Tố Hữu mượn hình ảnh con chim, chiếc lá để minh hoạ cho lí tưởng “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình.
* Con chim: tạo hố ban cho giọng hót ð Hót phục vụ cho đời.


* Chiếc lá: được thừa hưởng nắng mai, dưỡng khí ð lá phải xanh tươi làm đẹp cho cuộc sống.
=> Hạnh phúc nhất là được cống hiến.


* Con người:


– Vay mượn tất cả từ cha mẹ, nhân loại và từ vũ trụ.
– Phải ghi ơn và trả ơn.


– Biểu hiện:


+ Sống lí tưởng, biết tự khẳng định mình trở thành cơng dân có ích.
+ Giúp đỡ mọi người.


+ Góp phần xây dựng quê hương đất nước.


=> Có như vậy thì mới xứng đáng là một Con Người.


<b>III. Kết bài</b>


– Phải biết sống cống hiến.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×