Kiến thức cần biết về thuốc:
Không phải thuốc nào cũng dùng ngày 2 lần
Hiện nay, việc dùng thuốc nhiều khi thực hiện không theo đúng quy định về
khoảng cách giữa các lần đưa thuốc. Cách dùng thuốc như thế đưa đến kết quả là
có những khoảng thời gian trong cơ thể người bệnh nồng độ thuốc không còn đủ
tác dụng điều trị hoặc ngược lại có những thuốc lại vượt quá ngưỡng cho phép.
Nếu nồng độ thuốc không đủ hiệu lực điều trị thì đối với các bệnh nhiễm khuẩn,
lúc đó là thời gian vi khuẩn có cơ hội hồi phục hoặc bùng phát trở lại. Với các
triệu chứng lâm sàng khác như sốt, đau, viêm... cũng không thuyên giảm với
người bệnh khi nồng độ thuốc không nằm trong khoảng điều trị. Nếu nồng độ
thuốc vượt quá giới hạn điều trị thì bệnh nhân dễ bị các tai biến như ngộ độc
thuốc, ảnh hưởng đến chức năng gan, thận. Chính thói quen dùng thuốc 2 lần/ngày
nhiều khi đã làm cho bệnh điều trị lâu hơn, số lượng thuốc phải dùng nhiều hơn.
Tất cả nhân viên y tế và mọi người trong cộng đồng cần biết rằng số lần
đưa thuốc vào cơ thể phải đảm bảo sao cho nồng độ thuốc trong máu được duy trì
gần như không đổi, tức là khi lượng thuốc đã qua 4 quá trình chuyển hoá dược
động học và được đào thải ra ngoài hoặc không còn tác dụng điều trị thì lại phải có
lượng thuốc khác bổ sung ngay vào cơ thể. Vì vậy công tác dược lâm sàng trong
bệnh viện hiện nay nhấn mạnh việc dùng thuốc tuỳ theo thông số dược động học
của từng loại mà đưa thuốc vào cơ thể với số lần cách nhau một số giờ nhất định.
Chẳng hạn đối với thuốc giảm đau, hạ sốt paracetamol dùng cho trẻ em cứ cách
mỗi 6 giờ nên dùng thuốc một lần với liều lượng tuỳ theo tuổi. Như vậy là mỗi
ngày phải dùng thuốc 4 lần. Một số loại thuốc kháng sinh cần đưa thuốc cách 8 giờ
1 lần, như vậy mỗi ngày phải dùng 3 lần cách đều nhau chứ không phải là sáng và
chiều. Đối với một số thuốc kháng sinh lại chỉ tiêm thuốc mỗi ngày 1 liều duy
nhất, chứ không nên chia ra 2 lần sáng và chiều như thuốc gentamycin. Cũng có
loại thuốc có thời gian bán thải dài (thời gian bán thải là thời gian cần thiết để
lượng thuốc đã đưa vào cơ thể chỉ còn lại 1/2 so với liều lúc đầu) thì số lần đưa
thuốc còn thưa hơn. Nếu cứ đưa thuốc vào cơ thể theo kiểu ngày 2 lần thì sẽ có
nguy cơ bị quá liều hoặc thuốc tích tụ lại gây độc cho gan, thận.
Thuốc trị thiểu năng tuần hoàn não
Thiểu năng tuần hoàn não thường có các biểu hiện sau: Người bệnh thấy tê
mỏi tay ở một bên. Có trường hợp thấy tê mỏi bại nửa người thậm chí không cử
động được nửa bên người. Sau một thời gian ngắn (dưới 1 ngày) người bệnh lại
thấy tay châm bên bại đó hoạt động trở lại bình thường.
Người bệnh có thể có khó nói hoặc khó phát âm- rối loạn vận ngôn trong
vài phút, vài giờ.
Một số trường hợp người bệnh có các rối loạn tâm lý như hiện tượng quên,
rối loạn cảm xúc.
Thường gặp ở người bệnh có biểu hiện của tăng huyết áp, lượng mỡ, lượng
đường trong máu cao hoặc thị lực giảm trong khi đáy mắt vẫn bình thường.
Để phòng cơn thiểu năng tuần hoàn não không chuyển sang giai đoạn mất
bù, phát triển thành rối loạn tuần hoàn não cấp tính (tai biến mạch máu não), cần
phát hiện sớm và điều trị kịp thời chứng suy nhược thần kinh do mạch máu, huyết
áp, bệnh tim, bệnh thận hay đái tháo đường... Cần chú ý tới huyết áp (ở người cao
tuổi) và bệnh tim mạch (ở người trẻ tuổi).
Hiện nay thuốc điều trị cho bệnh này bao gồm: thuốc điều trị hỗ trợ cho
tuần hoàn não (cavinton, piracetam, praxilen...), thuốc tăng cường xung động thần
kinh (các vitamin nhóm B như vitamin B1, B6, B12) kết hợp với việc ăn uống,
nghỉ ngơi hợp lý.
Phục hồi chức năng tâm lý cho người bệnh là rất quan trọng, giúp người
bệnh yên tâm, tin tưởng, quyết tâm chữa bệnh và tự tập luyện một cách bền bỉ,
kiên trì. Các hoạt động: tập thở, luyện trí nhớ, tĩnh tâm, tham gia hoạt động các
câu lạc bộ... rất tốt cho người bệnh.
Trả lời thắc mắc về thuốc – Kỳ 2:
Chốc - Dùng thuốc gì?
Năm nay tôi 23 tuổi. Tuần trước, trên mặt tôi có những mụn nhỏ, rất
ngứa. Thỉnh thoảng có những nốt mọng nước... Tôi nên dùng thuốc gì để điều
trị?
Trịnh Bích Vân (Vĩnh Hồ-Hà Nội)
Theo như chị tả trong thư thì chị đã bị chốc. Chốc là tình trạng nhiễm trùng
ở rất nông trên bề mặt da với sự xuất hiện của các mụn mủ nhỏ và có khả năng lây
lan mạnh. Chốc có 2 thể lâm sàng chính là thể có phỏng nước và thể không có
phỏng nước. Vị trí thường gặp là ở mặt (đặc biệt quanh lỗ mũi) và chân tay (khi có
vết rách hoặc xước da). Chốc có phỏng nước thường gặp ở trẻ sơ sinh và trẻ lớn,
chủ yếu gây ra do tụ cầu vàng, đặc trưng bởi sự tiến triển nhanh của các mụn nước
hoặc mụn mủ thành bọng nước lớn. Chốc có thể lây lan rất mạnh và nếu không
được điều trị, thường diễn biến dai dẳng nhưng cũng có thể tự khỏi. Các biến
chứng nặng nề nhất của chốc là gây nhiễm trùng huyết và viêm cầu thận cấp (với
các trường hợp chốc do liên cầu).
Trong điều trị, hầu hết các trường hợp phải dùng các kháng sinh đường
uống có tác dụng tốt với liên cầu nhóm A và tụ cầu vàng như dicloxacillin,
erythromycin hoặc azithromycin. Thời gian điều trị với nhiễm tụ cầu là 5 - 7 ngày